Đề tài Thực trạng chống lạm phát của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 1.1 Khái niệm lạm phát Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. 1.2 Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm: - Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung). - Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra). - Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ. - Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI. - Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. - Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình. - Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".

pdf33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2661 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chống lạm phát của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều tới sản xuất, tới đời sống nhân dân nói chung, nhất là nhân dân vùng bị thiên tai, dịch bệnh nói riêng, theo tính toán thiệt hại này vào khoảng 1% GDP (1% này là tính chưa đủ, vì 1% là thiệt hại làm giảm cung khoảng 1% GDP, nhưng những thiệt hại ấy lại gắn liền tới đời sống và sản xuất của nhân dân, cần sớm được khôi phục, cần bù đắp như trước khi bị thiên tai, do vậy, cầu cũng tăng lên 1%) – đây là điều các nhà hoạch định không tính đến. 10 * Về tiền tệ, năm 2007 ở Việt Nam có một vài đặc điểm cần chú ý đã làm tăng khối lượng tiền tệ trong dân và tự nó đã làm tăng cầu: - FDI đạt khoảng 20,3 tỷ USD (gồm trên 17,8 tỷ USD là số vốn đăng ký cho các dự án mới được cấp giấy phép trong năm 2007 và gần 2,5 tỷ USD là vốn đăng ký bổ sung các dự án được cấp phép từ các năm trước), tăng 69,3 % so với năm 2006, vượt kế hoạch 56,3% và đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện khoảng 4,6 tỷ USD, tăng 600 triệu USD. - Đầu tư gián tiếp năm 2007 cũng là năm đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam tăng vọt, thông qua việc mua các cổ phiếu (năm 2007 ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 4,3 tỷ USD). - ODA cũng là năm đạt mức khá cao: tính chung hai năm 2006-2007, tổng vốn ODA dành cho Việt Nam đạt khoảng 8,19 tỷ USD, tuy giải ngân còn chậm, nhưng cũng đạt hơn 2 tỷ USD, tăng hơn 200 triệu USD. - Kiều hối (định cư ở nước ngoài, xuất khẩu lao động làm việc ở nước ngoài,...) cũng mang về hơn 5 tỷ USD, số tiền này chủ yếu được thân nhân của kiều bào sử dụng để tiêu dùng. Chưa kể khoảng 3,3 tỷ USD là phần chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam. Một nguyên nhân nữa là do lãi suất tiền gửi ngọai tệ hiện nay ở Việt Nam là 6%/tháng, trong khi ở Mỹ là 2.5%/tháng, do sự chênh lệch đó mà có nhiều kiều bào đã gửi một số lượng kiều hối tương đối lớn về để đầu tư, nhưng lại khó thu hồi được vì chính sách ngọai hối của Việt Nam quy định khá chặt chẽ về việc đem lượng kiều hối lớn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. - Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 khỏang 461,9 nghìn tỷ đồng, tăng +15,8%; riêng, khu vực Nhà nước chiếm 43,3% tổng vốn đầu tư, tăng: + 8,1%, cũng các chỉ tiêu trên lần lượt với Khu vực ngoài Nhà nước: 40,7% và + 24,8%, với khu vực có FDI là : 16% và +17,1%. Điều này đã làm tăng một khối lượng tiền tệ trong dân. - Nhà nước tăng nhanh dự trữ ngoại tệ bằng cách bỏ ra một khối lượng nội tệ để mua khoảng 9 tỷ USD. Thu nhập bình quân của người dân nói chung ở Việt Nam tăng khoảng 6% (tất nhiên có khoảng chênh lệch lớn giữa các nhóm dân cư). 11 2.2.3 Nguyên nhân khác: * Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm nay (và tiếp tục tăng trong năm sau). Mặc dù có nhiều khả năng giá điện sản xuất sẽ không tăng nhưng việc điều chỉnh này vẫn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng giá chung. * Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám sát tình hình dao động giá thế giới. Năm ngoái, giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6 lần, và sẽ nhạy cảm hơn trong năm nay. * Tình hình thời tiết bất thường (rét đậm, rét hại kéo dài 35 ngày ở miền Bắc), hạn hán, lũ lụt, bão lớn... và nguy cơ trở lại của dịch cúm gia cầm, dịch heo tai xanh... sẽ là những nhân tố tiềm ẩn có thể gây nên cơn sốc giá, đặc biệt là mặt hàng lương thực, thực phẩm (hiện chiếm hơn một nửa giá hàng hoá dùng để tính CPI). * Bên cạnh đó, sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế Việt Nam trong 2-3 năm trở lại đây đã thu hút sự quan tâm của người dân đến nhiều lĩnh vực đầu tư mới : chứng khóan, bất động sản, vàng...Khác với việc sản xuất ra một lọai sản phẩm có thể kiếm được lợi nhuận do giá trị của nó tạo ra; bản chất của các lọai đầu tư trên vốn dĩ chỉ là hình thức chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác, mà không nảy sinh bất kỳ sự gia tăng giá trị nào. Và do vậy, khi người dân vay tiền ngân hàng để đi đầu tư, kết quả sau một thời gian không sinh lợi nhuận, họ lại đem cầm cố, thế chấp. Hệ quả là tính thanh khỏan ở các ngân hàng thấp, nên hàng lọat các ngân hàng đã gia tăng tiền gửi tiết kiệm bằng cách tăng lãi suất tiền gửi, và để có đủ khả năng trả tiền cho người gửi khi đến hạn thì buộc lòng các ngân hàng phải tăng tiền lãi cho vay, điều đó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp nhiều trở ngại; một là nhà đầu tư dù muốn đầu tư nhưng cũng không thể kham nổi lãi suất đó, từ đó sẽ làm đó thị trường tài chính bị đóng băng; hai là nhà đầu tư sẵn sàng vay với lãi suất đó để sản xuất, như vậy chi phí tăng, buộc lòng các nhà đầu tư phải tăng giá thành sản phẩm, và vô hình chung sẽ càng làm cho giá cả hàng hóa tăng cao hơn. * Hiện nay, hàng lọat các ngân hàng được thành lập, đặc biệt là các ngân hàng thuộc sự quản lý của các tập đòan lớn, chúng sẽ là một ngòi nổ có thể khiến cho việc giải quyết tình trạng lạm phát hiện nay gặp nhiều trở ngại hơn. Nguyên nhân là khi các tập đòan này mở các ngân hàng của riêng mình thì việc cho chính bản thân họ vay sẽ không 12 gặp nhiều trở ngại như khi đi vay tại các ngân hàng khác, khiến cho tình trạng họat động của ngân hàng đó gặp rủi ro cao. Và khi ngân hàng đó rơi vào tình trạng phá sản thì sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác, kết quả sẽ làm cho hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn, từ đó có thể làm cho nền kinh tế bị suy thóai trầm trọng. 2.3 Tác động của lạm phát đến các mặt đời sống xã hội 2.3.1 Thị trường tài chính Kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành ngay một lúc tới 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, không được vay tái cấp vốn, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã có phản ứng tức thì, nhạy cảm tới biện pháp mạnh tay và cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, đó là thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ hết sức nóng. Thị trướng chứng khoán hiện đang giảm liên tục, các phiên giao dịch cũng ít dần, làm cho tình hình ngày càng xấu đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ tăng lên, thặng dư tài khoản thanh toán giảm, thặng dư cán cân thanh toán giảm. Từ đầu năm đến nay, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan. Do Việt Nam muốn giữ được một tỉ giá tương đối cạnh tranh, vì vậy Ngân Hàng Nhà nước đã phải mua tiền vào, làm tăng dự trữ ngoại tệ, nhưng mặt khác cũng làm cho lượng cung ứng tiền về lớn, dẫn đến cân đối cung - cầu ngoại tệ thay đổi, gây áp lực lạm phát. Để giải quyết vấn đề ấy, Ngân Hàng Nhà nước đã hút tiền về bằng cách áp dụng chính sách thị trường mở, bán tín phiếu, tăng dự trữ bắt buộc của các Ngân Hàng Thương Mại. Nhưng biện pháp này có tổn phí khá cao và khiến cho lãi suất bị đẩy lên. Vì vậy, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng do lãi suất cao. Bên cạnh đó, nếu có sự can thiệp của chính sách tiền tệ bằng cách mua tiền vào thì phải tăng cường được hiệu lực của các công cụ tiền tệ và vai trò độc lập hơn của NHTƯ 13 trong quyết định các chính sách của mình để vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của tỉ giá, đồng thời giảm tổn phí cho các biện pháp trung hoà hoá tiền tệ... Hơn nữa, sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã làm giảm sự cạnh tranh của hàng xuất khẩu, do đó làm giảm cầu xuất khẩu làm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất hàng xuất khẩu, làm ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai. Theo ADB, các chỉ số của thị trường tài chính được tính toán và được dự báo qua các năm: MỘT SỐ CHỈ SỐ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM, 2006 - 2009 2006 2007 2008 2008 Lạm phát giá tiêu dùng (%) Chỉ số lạm phát bình quân kỳ Chỉ số lạm phát cuối kỳ 7.5 6.6 8.3 12.6 18.3 15.6 10.2 7.6 Tăng trưởng thực GDP (%) 8.2 8.5 7.0 8.1 Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 23.0 21.3 18.7 23.5 Cán cân vãng lai (% của GDP) -0.3 -8.0 -10.3 -9.4 (Nguồn: Tổng cục thống kê, Ước tính và dự báo của cán bộ ADB) Theo dự báo của ADB thì cán cân vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt cao trong năm 2008, và có xu hướng giảm vào năm 2009. Điều này cũng có thể được lý giải bằng việc sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã ngày càng làm cho việc xuất khẩu của Việt Nam ngày càng khó khăn hơn, do đó làm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Báo cáo của Goldman Sachs dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể giảm trong năm 2008 và 2009 lần lượt là 7,3% và 7,8%, so với mức tăng trưởng 8,5% trong năm ngoái. Chỉ số CPI cũng được dự báo ở mức 19% và 10% cho cả năm nay và năm sau, so với mức 8,3% của năm 2007. Các chuyên gia của Goldman Sachs cũng nhận định, tình trạng kinh tế tăng trưởng quá nóng tại Việt nam là điều hiển nhiên do nhiều yếu tố. 14 Giải thích về tình trạng lạm phát tăng cao tại Việt Nam, báo cáo của Goldman Sachs cho rằng, lượng cung tiền tăng mạnh chính là nguyên nhân chủ đạo gây ra tình trạng này. Tình trạng này bắt đầu hiện từ năm 2006 và tăng tốc vào đầu năm 2007. Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng từ mức 29% lên 54%. Goldman Sachs đưa ra hai lý do chính khiến gây ra việc tín dụng tăng trưởng mạnh đó là: luồng vốn chảy vào Việt Nam tăng đột biến và sự mở rộng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng thương mại và ngân hàng nước ngoài. Để giữ VND không bị trượt giá, Ngân hàng Nhà nước đã mua USD về và như thế bơm thêm VND vào hệ thống tiền tệ. Để tránh thừa VND, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành tín phiếu bắt buộc và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng, nhưng vẫn còn một lượng tiền dư thừa lớn trong nền kinh tế. Ngoài việc đẩy mạnh cho vay để chiếm thị phần, các ngân hàng cũng tìm mọi cách để tăng dư nợ nhằm đảm bảo tỷ lệ bắt buộc 3% đối với cho vay cầm cố chứng khoán vào thời điểm cuối năm 2007. Theo các chuyên gia của Goldma Sachs, chính sách tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Kể từ tháng 6 năm ngoái, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều công cụ chính sách tiền tệ để chặn lạm phát như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sử dụng nghiệp vụ repo, phát hành tín phiếu, tăng lãi suất, nới biên độ tỷ giá VND/USD… Tuy nhiên, từ nay trở đi, Ngân hàng Nhà nước sẽ không còn nhiều công cụ chính sách để áp dụng. Và báo cáo cho rằng, hai công cụ sẽ có nhiều khả năng được sử dụng nhất là tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng. Việc Ngân hàng Nhà nước dỡ bỏ trần lãi suất huy động, ấn định lãi suất tối đa 18%/năm của ngày 17/5 được Goldman Sachs đánh giá là một bước đi tích cực trong việc chống lạm phát và giảm nhẹ áp lực tiền tệ. Tuy nhiên, với tình trạng thắt chặt thanh khoản trong các ngân hàng hiện nay kể từ khi Ngân hàng Nhà nước phát hành 20.000 tỷ tín phiếu bắt buộc trong tháng 3 khiến xuất hiện một nhân tố rủi ro trong hệ thống. 15 Bản báo cáo cho rằng, đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước nên tính đến chuyện cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng, thay vì tiếp tục tìm cách hút bớt thanh khoản trong ngắn hạn. Báo cáo cũng dự đoán VND sẽ tiếp tục mất giá so với USD trong thời gian tới. Ngân hàng Nhà nước sẽ không sử dụng sử công cụ tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Thứ nhất, VND chưa bị định giá quá thấp so với USD. Thứ hai, Chính phủ tiếp tục muốn đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn FDI. 2.3.2 Doanh nghiệp Để bù đắp quỹ lương tăng do lạm phát, các công ty phải tăng cường cắt giảm chi phí từ hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, sa thải những nhân viên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lạm phát thúc đẩy các doanh nghiệp để giảm chi phí, quản lý tốt hơn quá trình hoạt động kinh doanh. Một vài dẫn chứng điển hình của các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông “chống chọi“ với lạm phát: * Các công ty viễn thông: Giá hàng hóa leo thang, chỉ số CPI cả năm dự báo đạt con số 20%, khiến các hãng viễn thông cũng lo ngại, việc cắt giảm chi tiêu của người dân có thể ảnh hưởng tới nhu cầu xài di động. Mấy tháng gần đây, chương trình khuyến mãi, giảm giá của các hãng di động Việt Nam không còn rầm rộ như trước, mức tiền mà doanh nghiệp tặng vào tài khoản cho mỗi thuê bao cũng không còn hấp dẫn như hồi năm ngoái. Chi phí đầu vào tăng, cùng với tốc độ trượt giá chung của nhiều nhóm hàng dịch vụ, các nhà khai thác viễn thông bắt đầu cảm nhận lạm phát đã lan đến cửa nhà mình. Điều khiến các hãng viễn thông lo lắng nhất hiện nay đó là nhu cầu xài di động của khách hàng có thể thay đổi do họ phải cắt giảm chi tiêu, hạn chế những cuộc gọi không cần thiết. Theo đó, lưu lượng cuộc gọi và tốc độ phát triển thuê bao cũng có khả năng giảm theo. VinaPhone nhẩm tính, từ đầu tháng 5 đến nay, lượng thuê bao phát triển mới của hãng bắt đầu giảm nhẹ dù công ty vẫn duy trì chương trình khuyến mãi tặng tiền vào tài khoản cho khách hàng và nhân đôi số tiền cho các chủ nạp. Hiện nay mỗi ngày 16 VinaPhone phải cố gắng tối đa mới phát triển được 30.000-35.000 thuê bao, trong khi con số của tháng 1 và 3 vào khoảng 50.000-55.000. Các chuyên gia kinh tế nhìn nhận, đối với 3 doanh nghiệp lớn như VinaPhone, MobiFone và Viettel có thể bị ảnh hưởng ít nhiều từ yếu tố lạm phát song không nhiều. Nặng nề nhất có thể kể đến đó là mạng di động HT Mobile khi nhà khai thác này vừa bước vào giai đoạn chuyển đổi công nghệ. Giá vật tư leo thang, thiết bị, nhân công đắt đỏ... sẽ khiến cho chi phí đầu tư của họ sẽ bị đội lên. * Công ty công nghệ thông tin: Trong bối cảnh cơn bão giá đang hoành hành, các công ty phần mềm một mặt tăng lương, một mặt thì “thắt lưng buộc bụng” chống chọi với lạm phát. Theo phản ánh của các DN phần mềm như công ty Misa, Past, Tinh Vân và FPT, từ đầu năm tới nay, lương cho nhân viên tăng khoảng 15-20% so với năm 2007 Tập đoàn FPT từ đầu năm đã ra hẳn một quyết sách gọi là “C10” với mục tiêu cắt giảm 10% chi phí hoạt động nhằm chống chọi với lạm phát. Để thực hiện mục tiêu này, FPT một mặt đẩy cao việc thực hiện mục tiêu doanh số, lợi nhuận, một mặt hạn chế tuyển người mới, thuyên chuyển các vị trí không đáp ứng yêu cầu, cắt giảm các hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận và tăng cường tiết kiệm. Theo một lãnh đạo của FPT, trong chiến dịch cắt giảm chi phí, FPT đặc biệt nhấn mạnh đến vấn để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, coi đó là chìa khoá chống lạm phát. Tính trung bình, chi phí cho một nhân viên làm phầm mềm mỗi năm lên tới 8.000 USD. Không ra quyết sách quyết liệt như FPT, công ty Tinh Vân thường xuyên tổ chức ngày văn hoá trong công ty với khẩu hiệu “thắt lưng buộc bụng” nhằm kêu gọi nhân viên tiết kiệm, chung tay chống lạm phát. Ngoài việc cắt giảm chi phí hoạt động thường xuyên, theo ông Phan Quang Minh, Trưởng phòng phát triển kinh doanh công ty Tinh vân, lạm phát đang làm thay đổi chính sách nhân sự của công ty. “Từ năm 2007 về trước, Tinh Vân tìm đủ mọi cách để níu chân những người xin ra đi nhưng nay thì khác. Những người xin đi sẽ được bộ phận nhân sự đánh giá lại, nếu là vị trí không thật xuất sắc thì không tìm cách giữ chân” ông Minh nói. Ông Lữ Thành Long, tổng giám đốc công ty Misa cho biết: từ khi lạm phát tăng cao, các hoạt động không cấp bách như đổi xe hơi đều bị cắt giảm. Bên cạnh đó, Misa đã 17 tính lại tỉ lệ tăng trưởng và lợi nhuận để hạn chế thấp nhất sự tác động của bão giá và lạm phát tới đời sống nhân viên. Tuy nhiên, bên cạnh tác động tiêu cực, theo ông Long, lạm phát là cơ hội cho Misa rà soát lại các quy trình nghiệp vụ để tăng cường hiệu quả và năng suất lao động. 2.3.3 Nông dân, người lao động nghèo Giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung (năm 2007 tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với tăng 6,02%). Nhóm hàng này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ tăng giá chung. Đây không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà còn là vấn đề của toàn thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước tăng tới 21,7%, trong những ngày tháng 3 này còn cao gấp rưỡi, gấp đôi. Giá lúa mì nhập khẩu năm 2007 tăng 60% so với năm 2006, 2 tháng đầu năm nay tăng 55,9%. Tốc độ tăng giá lương thực, thực phẩm của Trung Quốc tháng 2.2008 so với cùng kỳ năm trước cũng đã rất cao (giá lương thực tăng trên 18%, giá thực phẩm tăng tới 29%). Giá lương thực, thực phẩm của các nước phát triển cũng tăng hai chữ số. Nguyên nhân do tác động xấu của thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng và gia súc, do tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp... gây rất nhiều khó khăn cho việc sản xuất của nông dân. Hơn nữa, nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số cả nước, cũng tức là chiếm gần ba phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước. Trong thời kỳ bao cấp, quá nửa dân số sống dưới mức đói nghèo, nên lạm phát cao đã làm cho mọi người cùng bị khổ. Bây giờ chênh lệch giàu/nghèo lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ trọng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu, thì lạm phát cao sẽ làm cho người nghèo bị khổ hơn, trong khi người nghèo sống ở nông thôn chiếm tới trên 90% tổng số người nghèo của cả nước. Như vậy, xét về cả hai mặt (người tiêu dùng và người tiêu dùng nghèo) thì nông dân đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lạm phát cao đã làm cho nông dân, nhất là nông dân nghèo càng bị khổ. 18 Nông dân là thế, còn đối với công nhân – những người làm công ăn lương, cũng phải chịu hoàn cảnh khó khăn không kém. Tốc độ tăng lương cực kỳ chậm, nhưng giá cả mỗi bữa ăn, chi phí sinh hoạt ngày càng tăng cao chóng mặt. Hiện đã có nhiều vụ đình công do công nhân đòi tăng lương trong thời bão giá này. Và hơn hết, nếu chính phủ không sớm đưa ra những biện pháp cụ thể để ổn định đời sống công nhân và nông dân thì nước ta rất khó có thể đoàn kết toàn dân để chống chọi với căn bệnh lạm phát này. 2.3.4 Sinh viên Đời sống sinh viên ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn khi mà giá cả leo thang. Các chi phí sinh hoạt hằng ngày tăng cao: tiền ăn, ở, đi lại, sách vở... càng làm cho giới sinh viên càng nhiều lo âu. Một vài dẫn chứng thực tế về đời sống sinh viên trước cơn bão giá: + Giá nhà cho thuê loại trung bình tại khu trung tâm TP HCM cũng nhiều phen "nhảy múa" từ đầu năm đến nay. Tại một con hẻm trên đường Lý Tự Trọng, quận 1, phòng nhỏ có diện tích chừng 10-12 m2, sử dụng toilet công cộng nhưng gia chủ đã tăng từ 650.000 lên thành 850.000 đồng một phòng, từ đầu tháng 6. Thậm chí, đối với những người ở ghép, chủ nhà còn áp dụng biện pháp nâng giá thuê lẻ thêm 50.000-100.000 đồng mỗi người một tháng. + Giá điện, nước và phí gửi xe tại các khu nhà trọ cũng vênh với giá trị thật gấp 2- 3 lần. Đơn cử, giá điện tại khu nhà trọ Trần Văn Đang, quận 3, đang được các chủ nhà trọ thu 2.500 đồng một kw. Nhiều người thuê nhà trọ tại quận Phú Nhuận, Gò Vấp đang bị thu tiền điện với mức 3.000 đồng một kw. Trên thực tế, giá điện bình quân của nhà nước tính theo bậc thang tăng dần 50-401 kw là 550-1.780 đồng một kw. + Giá nước sinh hoạt "đánh" lên đầu người ở trọ đang là 9.000-10.000 đồng một m3 hoặc khoán theo mức sử dụng 30.000-40.000 đồng một người. Trong khi đó, giá nước sạch hiện tại của Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn đang là 2.700-8.000 đồng một m3. 2.4 Các giải pháp chống lạm pháp của chính phủ thông qua các chính sách tiền tệ và các tác động của các giải pháp này Trong thời điểm lạm phát tăng cao từng ngày, chính phủ đã đề ra rất nhiều biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát. Mỗi thời điểm khác nhau, các chính sách này có những tác 19 động nhất định đến tình hình thị trường tài chính. Sau đây là một số biện pháp chính phủ đã thực hiện trong các giai đoạn khác nhau nhằm kiềm chế lạm phát: 2.4.1 Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích cực như: giảm thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá,...cho các doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng nguyên, nhiên liệu nhập khẩu... Tác động: đây cũng được coi là nguyên nhân chính đẩy CPI lên. Các biện pháp liên quan đến lạm phát chi phí đẩy, trong thực tế ít hiệu lực, vì khi giảm thuế nhập khẩu còn có độ trễ nhất định về thời gian (không phải giảm thuế nhập khẩu, các sản phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu nhập khẩu này có thể giảm giá ngay được), mặt khác Nhà nước không kiểm soát được các Doanh nghiệp có giảm giá đúng với mức độ giảm thuế nhập khẩu, trong khi đó lại có doanh nghiệp tuy được hưởng chính sách giảm thuế nhập khẩu, nhưng giá sản phẩm sản xuất ra không những không giảm mà lại còn tăng; và trên một mức độ nhất định, Nhà nước hơi quá kỳ vọng vào biện pháp này, trong khi đã không tính toán được mức độ sẽ giữ giá hoặc giảm giá không phải chỉ với một nhóm sản phẩm mà toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, dùng biện pháp bù giá, đây là biện pháp không lâu dài, không có tính cơ bản vì không phù hợp với kinh tế thị trường, không làm trên phạm vi rộng (ngân sách Nhà nước không đủ sức làm việc này),... thay vì bằng trợ cấp cho nhân dân các vùng thiên tai, dịch bệnh,... 2.4.2 Các biện pháp thắt chặt tiền tệ Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước: 1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và Ngân Hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các ngân hàng thương mại phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho ngân hàng nhà nước. 2. Ngày 15/2/2008 ngân hàng nhà nước công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc. Ba ngân hàng thương mại Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai ngân hàng thương mại cổ 20 phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ vậy, các ngân hàng phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với ngân hàng nhà nước để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này ngân hàng nhà nước nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các ngân hàng thương mại khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại ngân hàng nhà nước. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm. 3. Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của ngân hàng nhà nước tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. 4. Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các ngân hàng thương mại, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. Tác động: * Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy, quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. 21 Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá. Trong cuộc đua tranh tăng lãi suất, ngày 20/2/2008, ngân hàng thương mại Cổ Phần Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm. Không chịu thua, ngày 21/2/2008 ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới 13,5%/năm. Một số ngân hàng thương mại còn đưa ra mức lãi suất thoả thuận tới 1,2% đến 1,3%/tháng đối với khách hàng gửi tiền với khối lượng lớn, hay giữ chân khách hàng rút tiền tới hàng tỷ đồng. Đây được coi là mức lãi suất “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho nhiều người nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ vỡ gần 6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, trong thời điểm lạm phát lên tới 200% - 300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta. Còn ngân hàng thương mại Cổ Phần An Bình thì tăng cao lãi suất nhưng chủ yếu ở kỳ hạn ngắn: 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần… Lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 4 tuần lên tới 7,8%/năm. Tiếp theo, một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm khi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt. Đặc biệt 22 lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm… Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại ngân hàng nhà nước lên tới 10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình thường. Thị trường "căng" đến mức ngày 22/2/2008 ngân hàng nhà nước phải bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số ngân hàng thương mại trúng thầu, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008. Tính tổng cộng chỉ trong 1 tuần, ngân hàng nhà nước phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của ngân hàng nhà nước từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các ngân hàng thương mại Nhà nước, một số ít ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu ngân hàng nhà nước và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các ngân hàng thương mại cổ phần thì không. Do đó các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị trường liên ngân hàng khoản vay của các ngân hàng thương mại đó với lãi suất từ 30% đến 43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của ngân hàng nhà nước. Không phải làm gì, các ngân hàng thương mại Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại. Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm. * Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Âu và các người khổng lồ 23 mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo hướng giảm đi, chúng ta dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định thắt chặt tiền tệ, như đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã bị điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng trưởng Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây cũng là vấn đề xã hội không nhỏ. * Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm 2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là ngân hàng nhà nước đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng của thị trường này trong năm nay. Với một thị trường được xây dựng trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị trường Việt Nam hấp dẫn nữa. Chúng ta không nên chủ quan cho rằng nếu thị trường chứng khoán giảm giá về mức hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ thích tham gia vào Việt Nam nhiều hơn. Một số nghiên cứu trong các năm 2000, 2001 ở các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài là những người mua bán dựa trên kết quả tốt đẹp (positive feedback trader), nghĩa là tham gia vào một thị trường khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi hấp dẫn trong quá khứ, và thoát khỏi nó khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi không cao. Nhìn lại quá trình vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán nước ta, rõ ràng vốn đổ vào nhiều trong những năm gần đây khi chúng ta trở thành “ngôi sao đang lên”, còn trước đó, trong những năm trước 2002, nhiều quỹ đầu tư đã rời khỏi Việt Nam sau những giai đoạn thị trường rơi vào trạng thái trầm lắng. Đó là chúng ta chưa tính đến yếu tố cơ bản là nếu kinh tế suy giảm tăng 24 trưởng, chi phí vay mượn của doanh nghiệp tăng cao, thì liệu cái nhìn của nhà đầu tư nước ngoài đối với triển vọng dài hạn của chúng ta sẽ bị bào mòn ít nhiều. * Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên đồng USD so với VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới, nhưng tính ra vẫn thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền đồng đã đến mức báo động ở nhiều ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển. 2.4.3 Chính phủ ban hành Nghị quyết 10/2008/NQ-CP Nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, ngày 17/4/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó Chính phủ đề ra 8 nhóm biện pháp chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm này như sau: - Nhóm thứ nhất: Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, Chính phủ đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Các hoạt động của ngân hàng thương mại về huy động, cho vay, tín dụng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định. - Nhóm thứ hai: Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi phí hành chính. Các hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành. Bộ Tài chính sẽ đảm trách việc rà soát, đề xuất biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế trong quý IV năm 2008. - Nhóm thứ ba: Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa. Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát 25 triển nông thôn chủ trì khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, tập trung phát triển trồng rau màu, chăn nuôi, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ hè thu, tăng nguồn cung thực phẩm. Từ đó, giá cả lương thực, thực phẩm sẽ sớm được ổn định. Chính phủ nhấn mạnh việc khắc phục tình trạng thiếu điện, bảo đảm điện cho sản xuất. - Nhóm thứ tư: Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu. Theo đó, Bộ Công Thương được giao phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điều hành và kiểm soát để xuất khẩu gạo năm 2008 ở mức 3,5 - 4 triệu tấn. Bộ Tài chính cần điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, rượu, bia...nhưng vẫn đảm bảo phù hợp cam kết hội nhập. - Nhóm thứ năm: Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị này. - Nhóm thứ sáu: Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Các hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước về giá sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ, đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. - Nhóm thứ bảy: Bên cạnh kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ chỉ rõ cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Điển hình là từ nay cho đến hết tháng 6/2008, chưa tăng giá điện, than, xăng, dầu, giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa, vé xe buýt, mức thu học phí, viện phí. Các biện pháp thích hợp tiếp theo sẽ được đề ra tùy thuộc vào diễn biến của lạm phát. Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính kiểm tra việc xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. 26 - Nhóm thứ tám: Các phương tiện thông tin đại chúng cần đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội. 27 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỐI VỚI TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện biện pháp thắt chặt tiền tệ cũng đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường vốn phát triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi ro lớn như vậy, sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát, để tăng trưởng thực sự mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Thực tế cũng đã cho thấy những bất cập trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát như thế nào. Sau đây là tổng hợp vài ý kiến đề xuất của các chuyên gia trước thực trạng khó khăn hiện nay của thị trường tài chính (Gồm: GS.TS Trần Ngọc Thơ, Ông Lương Văn Lý, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc DNL Partners, Ông Trịnh Kim Quang, Chủ tịch HĐQT Công ty quản lý quỹ Ngân hàng Á Châu (ACB), ông Huỳnh Thế Du) 3.1 Giải pháp về lượng cung – cầu tiền tệ Lượng tiền lưu thông quá lớn, tỷ lệ tăng tín dụng tới 40% (trong khi tăng GDP chỉ có 8,48%), cho nên vai trò của Nhà nước càng trở nên quan trọng với thị trường tiền tệ, như: nhằm thu hút bớt tiền trong dân, nhằm hướng người dân sử dụng đồng tiền vào đầu tư các hoạt động sản xuất, kinh doanh, vào việc tham gia mua nhiều trái phiếu Chính phủ, thậm chí gửi tiền ngân hàng,...thông qua nhiều chính sách và biện pháp về ngoại hối, ngoại tệ, lãi suất, ... Nhưng trong thực tế, việc điều hành ở tầm vĩ mô có việc chưa chuẩn xác hoặc không có hiệu lực như: Tăng dự trữ ngoại tệ là đúng, nhưng mua quá nhiều ngoại tệ (chủ yếu là USD – đồng tiển đang mất giá so với nhiều đồng ngoại tệ khác) là không hợp lý. Năm 2007, Ngân hàng Nhà nước mua vào tới 9 bill. USD (tương ứng 145 nghìn tỷ đồng Việt Nam). Nhà nước có chú ý thu tiền về bằng phát hành trái phiếu để sử dụng vào các mục tiêu đầu tư đã không được sự hưởng ứng rộng rãi của xã hội vì thiếu sự hấp dẫn (lãi suất , thời gian,...), mặt khác việc phát hành trái phiếu nhà nước, Bộ Tài chính lại đem ra chi (trong đó nhiều khoản chi không phải cho sản xuất), lại làm tăng áp lực lạm phát. Do vậy, 28 cần sớm phát hành trái phiếu ngân hàng để thu tiền về - biện pháp này đã không được đưa ra trong năm vừa qua. Thị trường chứng khoán 2007 khởi sắc, phát triển nhanh, cũng thu hút được nhiều tiền trong dân, nhưng mới là bước đầu và không vững chắc, nên vẫn còn hạn chế (và những ngày cuối năm và ít ngày đầu năm thị trường chứng khoán nước ta là một mầu ảm đạm) . Nhà nước cần có vai trò đối với thị trường này, như giảm cung bằng việc cân nhắc để dãn lộ trình IPO trong những thời điểm nhậy cảm như hiện nay, đồng thời có biện pháp kích cầu. Ngân hàng năm 2007 cũng là năm ăn nên làm ra, nhưng với lãi suất thấp (thấp hơn cả CPI) nên không thu hút được tiền trong dân; chưa kể, trong năm 2007, việc điều chỉnh lãi suất không kịp thời (thậm chí có thời gian lại giảm lãi suất tiền gửi), không hợp lý cũng đã làm giảm khả năng hút tiền trong dân. Nhớ lại, Việt Nam đã có những năm tháng lạm phát “siêu phi mã“ như năm 1987, lạm phát tới ba con số hay, năm 2004 mới đây CPI cũng ở mức 9,5% Việt Nam đã thành công bằng nhiều biện pháp một cách đồng bộ, trong đó biện pháp tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng đã tỏ ra rất hữu hiệu. Nhưng, năm 2007 lại không kịp thời sử dụng công cụ này (tất nhiên nếu tăng lãi suất tiền gửi, có thể các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay, như vậy, sẽ không hấp dẫn với người đi vay. Nhưng, giả định nếu không tăng lãi suất cho vay, thì các ngân hàng thương mại cũng không phá sản, mà có thể giảm bớt một phần lợi nhuận mà thôi – điều này có thể thấy qua các thông tin về kết quả hoạt động của nhiều ngân hàng năm 2007 rất khả quan: lợi nhuận nhiều, nộp nhà nước tăng, thu nhập của người lao động vào TOP 1- ngang ngửa với người lao động làm việc trong các công ty thuộc ngành chứng khoán); hoặc sớm có các quy định tăng dự trữ bắt buộc,... 3.2 Phải dự báo được xu hướng của thị trường Phần lớn người dân Việt Nam vẫn sống với mức thu nhập thấp. “Cơn lốc” tăng giá ảnh hưởng trực tiếp lên cuộc sống hằng ngày của những người nghèo, những nông dân, công nhân lao động. Chủ trương kiểm soát lạm phát là đúng và hợp với lòng dân. Tuy nhiên, giải pháp được ngân hàng nhà nước cho rằng để chủ động kiểm soát chặt chẽ tiền tệ ngay từ đầu năm, góp phần kiểm soát lạm phát, bằng việc phát hành tín phiếu bắt buộc 29 để hút về 20.300 tỷ đồng vào ngày 17-3 tới đây, theo tôi không chỉ “thắt quá chặt” mà còn là quá ngặt nghèo. Từ vấn đề này, dư luận có thể đặt câu hỏi: Liệu đã có sự trao đổi, thảo luận và thống nhất giữa ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính trước khi ban hành quyết định này? Những nhà hoạch định chính sách có tiên liệu được những tác động trực tiếp đối với chính sách này không? Ở các nước trên thế giới, khi ban hành một chính sách, các nhà hoạch định chính sách luôn công bố trước, đưa ra những chỉ số cần thiết có ảnh hưởng trực tiếp; chẳng hạn như chỉ số thất nghiệp, thu chi ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng… để thăm dò ý kiến dư luận. Chính sách không có dự báo, không có kế hoạch sẽ tạo ra cú sốc cho thị trường mà trước mắt là thị trường chứng khoán. Từ đó, mọi người dân và các chủ thể kinh tế có thể dự báo được xu hướng sắp tới của thị trường để chủ động và có biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng. Một nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu rộng như Việt Nam đòi hỏi những chính sách ban hành cũng phải được dự báo như vậy. Với chính sách không có dự báo, không có kế hoạch và mang tính chất đối phó thì tất yếu sẽ tạo ra cú sốc cho thị trường. Không đợi đến tháng 3, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải hạn chế ngay việc cho vay. Ngay cả khi huy động vốn được, các ngân hàng cũng sẽ không cho doanh nghiệp vay mà đem cho vay trên thị trường tiền tệ ngắn hạn để kiếm lợi nhuận cao hơn (lên đến 30%/năm). Ngoài ra, khi ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi lên 13,2%/năm thì lãi suất cho vay thực sự đang là gánh nặng lớn đổ lên vai các doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng giải pháp chống lạm phát của Trung Quốc còn “nặng tay” hơn Việt Nam khi năm ngoái liên tiếp 5 lần đưa tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên dưới 14%. Đây là sự so sánh khập khiễng và không thể có mẫu số chung. Trung Quốc là một nước lớn có nền kinh tế phát triển, sản phẩm hàng hóa của Trung Quốc có tính cạnh tranh rất lớn trên thị trường thế giới. Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc rất lớn và ngân hàng Trung ương có thể dùng số tiền này để đầu tư ra nước ngoài, luân chuyển được nguồn vốn không để tình trạng thừa ngoại tệ trong nước. Một khi ngân hàng Trung ương siết chặt 30 chính sách tiền tệ thì chi phí có gia tăng nhưng hàng hóa của Trung Quốc vẫn có thể cạnh tranh được. Hơn nữa, trong quá trình kiểm soát lạm phát, Trung Quốc đã đồng loạt đưa ra một gói giải pháp kinh tế, tạo sự cân bằng cho thị trường chứ không chỉ là giải pháp một chiều. 3.3 “Hà khắc”, không đúng thời điểm Thực tế, ngân hàng nhà nước đang dựa trên chỉ số lạm phát hiện tại mà thực hiện chính sách siết chặt tiền tệ, thế nhưng lại không nghĩ đến yếu tố là tình trạng khan hiếm tiền mặt kéo dài ngay từ giữa năm ngoái, trong khi tình trạng ứ ngoại tệ vẫn đang diễn ra và chưa có giải pháp khả thi. Ban hành một chính sách quá “hà khắc”, không đúng thời điểm sẽ không chỉ gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp mà sẽ còn ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. thị trường chứng khoán thời gian qua liên tiếp sụt giảm một phần nguyên nhân từ chính sách kinh tế vĩ mô, thực sự đã làm không ít nhà đầu tư trong và ngoài nước mất niềm tin. Nếu thị trường chứng khoán tiếp tục suy giảm kéo dài thì sẽ ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến nguồn vốn đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán mà còn ảnh hưởng lớn đến quá trình cổ phần hóa và đặc biệt là cơ hội huy động vốn của các doanh nghiệp qua thị trường chứng khoán. Câu hỏi được dư luận đặt ra là liệu ngoài việc “rút tiền ra khỏi lưu thông”, còn giải pháp nào sẽ thật sự hữu hiệu trong việc ngăn chặn nguy cơ lạm phát? Đồng tình với ý kiến cho rằng muốn đụng đến tầng ngầm của lạm phát còn cần thêm một chính sách tài khóa vẫn được trông đợi là thắt chặt tương đối tài chính công; nhất là giới hạn nguồn chi tài chính cho vốn đầu tư công. Sự tập trung này có thể dồn vào mục đích tăng chất lượng đầu tư công để giảm bớt các dự án kém hiệu quả và lãng phí, từ đó tăng hiệu năng của toàn nền kinh tế. Chính sách tiền tệ chặt như đã công bố chỉ là điều kiện cần nhưng chưa là điều kiện đủ. Tuy nhiên, ngay như với quan điểm kiểm soát lạm phát chỉ là giải pháp tiền tệ thì ngân hàng nhà nước phải đưa ra mục tiêu chống lạm phát là mục tiêu trung hạn, trong đó ngân hàng nhà nước phải có lộ trình thắt chặt tiền tệ để việc kiểm soát lạm phát, không 31 làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây ra tổn thất cho nền kinh tế. Có như vậy mới đạt được mục tiêu tăng trưởng như Quốc hội đề ra. Kiểm soát lạm phát nhưng không ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng là bài toán lớn cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Nếu chính sách mà không tạo niềm tin thì cho dù có chủ trương kiểm soát lạm phát cứng rắn bằng mọi giá thì giá cả vẫn tiếp tục gia tăng; bà bán rau ở chợ vẫn bị tác động tâm lý và sẽ vẫn phải tăng giá mớ rau của mình bán lên. 3.4 Ngoài giải pháp, còn cần ý chí Việt Nam đang áp dụng bài thuốc chữa lạm phát đã được đại đa số các nước chấp nhận, áp dụng và chứng minh tính hiệu quả trong quá khứ. Tuy nhiên, trước khi áp dụng bài thuốc này, lẽ ra nên có sự thảo luận giữa các nhà xây dựng chính sách và các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp để có thể tính tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế, từ đó đưa đến những quyết định là tỷ lệ lạm phát nên được chấp nhận ở mức độ nào để có thể giữ được tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý nhà nước cần băn khoăn trước những câu hỏi như: Tại sao nền kinh tế Việt Nam quá dễ bị tổn thương trước sự biến động của giá dầu, giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu thế giới? Tại sao Việt Nam mãi là một nước xuất khẩu dầu thô và mỗi khi giá dầu thế giới tăng thì Việt Nam lại phải tăng giá xăng dầu, kéo theo sự leo thang của giá cả tiêu dùng? Tại sao những nước khác vẫn nhập khẩu lớn nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và chịu tác động từ việc giá cả tăng cao nhưng việc điều hành kinh tế của họ vẫn không bị lúng túng? Phải chăng, các nhà quản lý đã có những khiếm khuyết trong điều hành để đến thời điểm này, nền kinh tế phải gánh chịu những hệ quả mang tính tổng hợp. Giải pháp hiện nay, cần ưu tiên chống lạm phát, hạn chế dòng vốn đầu tư gián tiếp nâng giá tiền đồng Việt Nam để hàng hóa vào Việt Nam nhiều hơn. Ngoài ra, tuyệt đối không thể cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần bằng ngoại tệ vì sẽ phát sinh các khoản vay trá hình khi ai cũng có thể sở hữu đô la Mỹ. Tuy nhiên cũng phải bình tĩnh nhìn nhận dòng vốn nước ngoài. Thay vì thắt chặt, Nhà nước cần thiết lập một hành lang pháp lý để tiếp nhận đầu tư hợp lý. Vấn đề của chúng ta hiện nay là Nhà nước không tạo điểm tựa cho các nhà đầu tư, các nhà hoạch định 32 chính sách để có thể thực hiện đồng bộ. Ông Thơ khẳng định, chúng ta không chỉ cần giải pháp mà còn rất cần ý chí để thực hiện các chính sách phù hợp. Các cơ quan quản lý nhà nước cần áp dụng linh hoạt việc siết chặt tín dụng ở những lĩnh vực không khuyến khích đầu tư nhưng bù lại, nên có chính sách hỗ trợ đối với những lĩnh vực khuyến khích đầu tư, cụ thể thông qua việc giảm thuế nhập khẩu một số mặt hàng nguyên liệu, vật liệu cơ bản. Về vấn đề nhập siêu, 70% tỷ lệ nhập khẩu hiện nay là nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và thiết bị công nghệ. Do đó, bất cứ chính sách nào về hạn chế nhập khẩu cũng sẽ tiếp tục gây ra sự khan hiếm về nguyên liệu, vật liệu và kéo theo tăng giá, từ đó tiếp tục góp phần đẩy giá đầu vào sản xuất tăng. Theo ông, nên sử dụng nguồn ngoại tệ dư thừa cho việc nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng. Ý kiến của nhiều chuyên gia là ngoài những biện pháp truyền thống, nên kiềm chế chi tiêu, đặc biệt là Nhà nước cần có biện pháp cụ thể về chi tiêu công. Có thể thấy đầu tư dàn trải và phí phạm là một trong những yếu tố dẫn đến lạm phát, do đó cần giảm thiểu đầu tư công. 33 KẾT LUẬN Lạm phát không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của xã hội. Trong thời gian lạm phát tăng cao như hiện nay, chính phủ cũng đã có những biện pháp hết sức cấp bách nhằm kiềm chế lạm phát. Nhưng bên cạnh đó, cũng có những tác động tiêu cực không nhỏ đến thị trường tài chính – tiền tệ. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô của mình, chính phủ nên kết hợp nhiều chính sách với nhau để có kết quả tốt nhất, bao gồm: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư… Mỗi chính sách có những ưu nhược điểm riêng và có những hiệu quả nhất định, và qua các chính sách này, chúng ta đã, đang và sẽ cố gắng thực hiện những biện pháp trung và dài hạn nhằm ổn định tình hình kinh tế để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP và kiềm chế được lạm phát như mong muốn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Luận văn liên quan