MỤC LỤC
Phần I: Lý luận chung về hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn
I. Công tác quản lý tài chính ngắn hạn
1. Vị trí của công tác quản lý tài chính ngắn hạn trong doanh nghiệp .
Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản xuất củadoanh nghiệp . Để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây:
Thứ nhất: nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp , là cơ sở để dự toán vốn đầu tư .
Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào?
Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Chẳng hạn việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý vốn, TSLĐ của doanh nghiệp .
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất là nghiên cứu cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Trong các doanh nghiệp , nhà quản lý tài chính có trách nhiệm đưa ra lời giải cho ba vấn đề nêu trên. Nhà quản lý tài chính không phải chỉ quan tâm đến việc sẽ nhận dược bao nhiêu tiền mà còn phải quan tâm tới việc khi nào nhận được và nhận được như thế nào. Đánh giá quy mô, thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong tương lai là vấn đề cốt lõi của quá trình dự toán vốn đầu tư . Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần phải xử lý sự lệch pha của các dòng tiền. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền không thể tách rời vốn lưu động ròng của doanh nghiệp . Vốn lưu động ròng được xác định là khoản chênh lệch giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Một số vấn đề về quản lý TSLĐ sẽ được làm rõ trong các phần sau như: Doanh nghiệp nên nắm giữ bao nhiêu tiền và dự trữ? Doanh nghiệp sẽ tài trợ ngắn hạn bằng cách nào? Mua chịu hay vay ngắn hạn và trả tiền ngay? Nếu vay ngắn hạn thìdoanh nghiệp nên vay ở đâu và vay như thế nào?
2. Khái quát chung về công tác quản lý tài chính ngắn hạn
Công tác quản lý tài chính doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Tham gia đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh; Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động vốn để đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp ; Tổ chức sử dụng có hiệu số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp ; Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp ; Đảm bảo kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với hoạt động của doanh nghiệp , thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp ; Thực hiện việc dự báo và kế hoạch hoá tài chính doanh nghiệp . Trong đó, công tác quản lý tài chính ngắn hạn là việc quản lý ngắn hạn các dòng tiền.
Có thể mô tả sơ đồ đó như sau:
- Công ty mua nguyên vật liệu để sản xuất, phần lớn những khoản mua này chưa trả ngay tạo những khoản phải trả người bán. Phần còn lại có thể được trả ngay bằng tiền.
- Lao động được sử dụng để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thông thường tiền lương không được trả ngay vào lúc công việc được thực hiện từ đó hình thành các khoản phải trả cán bộ công nhân viên.
- Tiền được đầu tư để mua sắm TSCĐ có thể được thanh toán ngay hoặc trả chậm hình thành nên các khoản phải trả. Hao mòn TSCĐ thể hiện giá trị TSCĐ chuyển vào sản phẩm.
- Sản phẩm có thể chưa bán được ngay hình thành hàng tồn kho. Khi bán một phần thu tiền ngay một phần bán chịu do đó tạo nên các khoản phải thu.
Tại một thời điểm nào đó trong quá trình vận động nói trên, doanh nghiệp phải thanh toán những khoản phải trả, nếu những khoản thanh toán này được thực hiện trước khi thu được những khoản phải thu thì sẽ tạo ra những luồng tiền ra ròng. Luồng tiền này phải được tài trợ bằng một nguồn tài trợ nào đó như từ bán hàng tồn kho hay giảmđầu tư ngắn hạn. Ngoài ra, tiền của doanh nghiệp còn được hình thành từ các nguồn khác như đi vay ngân hàng , vay huy động qua phát hành cổ phiếu hoặc tự tài trợ bằng các nguồn khác. Nhưng tiền cũng được sử dụng để nộp ngân sách, trả đơn vị nội bộ hay các khoản phải trả, phải nộp khác
Sơ đồ vận động miêu tả mối quan hệ giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn trong doanh nghiệp , trong đó tương ứng với bên phải sơ đồ là nợ ngắn hạn và bên trái là TSLĐ. Qua sơ đồ trên có thể thấy toàn bộ công tác quản lý tài chính ngắn hạn liên quan chủ yếu đến công tác quản lý TSLĐ và nợ ngắn hạn bởi đó là hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp .
Quản lý ngắn hạn các dòng tiền không thể tách rời quản lý hai khoản mục có tính ngắn hạn trong doanh nghiệp là TSLĐ và nợ ngắn hạn. Do đó, có thể nói công tác quản lý tài chính ngắn hạn có bản chất giống như quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp vì nó cũng liên quan đến TSLĐ và nợ ngắn hạn. Nhưng quản lý vốn lưu động tập trung chủ yếu vào quản lý TSLĐ còn nợ ngắn hạn chỉ được xem xét như một nguồn hình thành vốn lưu động. Quản lý tài chính ngắn hạn xem xét TSLĐ và nợ ngắn hạn trên góc độ ngang nhau và có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Không xem trọng quản lý TSLĐ hay nợ ngắn hạn mà xem xét chúng như hai hình thức biểu hiện của hoạt động quản lý tài chính trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Có thể nói công tác quản lý tài chính ngắn hạn và quản lý vốn lưu động là hai cách tiếp cận khác nhau đối với TSLĐ và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp .
3. Tài sản lưu động
3.1. Tài sản lưu động là gì?
Đối tượng lao động (nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm ) và các tư liệu lao động là những điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất kinh doanh. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các TSLĐ còn về hình thái giá trị gọi là Vốn lưu động của doanh nghiệp.
TSLĐ là những tài sản thuộc quyền sơ hữu của doanh nghiệp mà thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển thường dưới một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.
Giá trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp .
3.2. Những thành phần trong tài sản lưu động
3.2.1 Tiền và các khoản tương đương tiền
Tiền mặt là một loại tài sản mà doanh nghiệp nào cũng có và sử dụng . Tiền mặt bao gồm các khoản mục đặc thù như: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng, tiền đang chuyển Tiền mặt có thể chuyển thành loại tài sản khác, dùng để mua hàng hoá hoặc để trả nợ dễ dàng hàng mọi tài sản có khác do vậy tiền mặt là tài sản có tính luân chuyển hay tính thanh khoản cao nhất.
83 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3860 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý tài chính ngắn hạn tại công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên khi thực hiện hợp đồng công ty phải mua nguyên vật liệu với khối lượng và giá trị lớn để dự trữ sản xuất. Các hợp đồng lại được thanh toán khi công trình được nghiệm thu nên khoản
phải thu cũng cao.
Tỷ trọng nợ ngắn hạn/Tổng nguồn vốn phản ánh khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp. Hệ số này càng cao, khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp kém và rủi ro càng lớn. Tổng nguồn vốn=Nợ ngắn hạn+Nợ dài hạn+Vốn chủ sở hữu, vốn chủ sở hữu nhỏ chứng tỏ sự độc lập về tài chính của công ty không cao. Khả năng độc lập về tài chính không cao nên công ty sẽ dễ bị ràng buộc với các chủ nợ và sức ép trả nợ các khoản vay lớn.
Đối với kết cấu thép cơ khí xây dựng thì 100 đơn vị vốn kinh doanh có tới 80,38 phần là nợ ngắn hạn. Mặc dù tỷ trọng TSLĐ và nợ ngắn hạn là tương đương nhau nhưng điều đó không thể bao biện cho việc sử dụng một lượng nợ ngắn hạn cao nhu vậy. Sử dụng nợ ngắn hạn đồng nghĩa với việc áp lực trả nợ lớn hơn nợ dài hạn bởi các khoản nợ này phải thanh toán ngay trong năm.
Tỷ lệ nợ ngắn hạn cao có nguyên nhân là các khoản vay ngắn hạn và phải trả người bán cao. Công ty có một khoản phải thu cao nhưng đồng thời khoản phải trả cũng cao gần bằng nhau. Đó là tình trạng chung của các DNNN bởi họ có mối quan hệ tín dụng rất phức tạp và cấp tín dụng rất đơn giản, đôi khi không thẩm định trước khi cấp. Việc cấp tín dụng thương mại như vậy là do công ty ngày càng lấn sâu thêm vào con đường luẩn quẩn, khách hàng chưa trả nợ thì công ty đầu tư bằng cách mua chịu và việc mua chịu này kéo theo một hệ thống quan hệ phức tạp đối với các công ty khác.
Một tỷ lệ nợ cao như vậy sẽ khiến công ty gặp khó khăn trong việc huy động vốn mới. Kế hoạch tài chính của công ty trong năm tới nên chú ý đến việc giảm tỷ trọng TSLĐ và nợ ngắn hạn trong tổng tài sản và nguồn vốn để nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty.
*) Hiệu quả và hiệu suất sử dụng TSLĐ không cao
Theo thống kê của nhà nước thì hiệu quả kinh doanh của các DNNN trong những năm gần đây có xu hướng giảm xuống.
Năm
Hiệu suất
Hiệu quả
1995
3,46
19%
1998
2,9
14%
2001
2,12
9,5%
(Số liệu trong An ninh tài chính doanh nghiệp-NXB chính trị quốc gia)
Nếu đem so các chỉ tiêu của công ty trong năm 2001 với các chỉ tiêu chung của các DNNN trong năm 2001 ta thấy cả hiệu suất và hiệu quả sử dụng của công ty đều nhỏ hơn rất nhiều. Năm 2001 hiệu suất sử dụng của công ty chỉ là 1,56 và hiệu quả là 0,082%.
Nếu đem so các chỉ tiêu trên của công ty trong năm 2003 với chỉ tiêu chung thì trong vòng 2 năm công ty mới chỉ nâng hiệu suất sử dụng lên tương xứng với các DNNN khác ở thời điểm năm 2001 còn hiệu quả sử dụng thì vẫn chưa vượt qua được 1%. Điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng TSLĐ của công ty không cao. Trong thời gian tới công ty cần chú trọng đến việc tăng hiệu suất sử dụng TSLĐ và hiệu quả sử dụng TSLĐ.
Hiệu quả sử dụng TSLĐ của công ty không cao là do công ty có một tỷ lệ TSLĐ lớn và lợi nhuận sau thuế không cao. Việc duy trì một lượng TSLĐ lớn như trên đã phân tích vừa tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu tài sản vừa làm cho hiệu quả sử dụng nó nhỏ đi. Mặt khác, lợi nhuận công ty tạo ra cũng là quá nhỏ nên không thể có hiệu quả cao được.
*) Vòng quay tiền của công ty giảm hay số ngày của một vòng quay tăng
(Theo chỉ tiêu 6 và 9 trong bảng 6)
Trong 2 năm đầu vòng quay tiền của công ty rất ổn định nhưng năm 2003 vòng quay này đột ngột giảm xuống hơn 21% làm cho số ngày của một vòng quay tăng lên là 6,27 ngày. Việc giảm xuống này là do doanh thu tăng 44% và tiền mặt tăng 82%. Vòng quay tiền của công ty giảm cho thấy công ty sẽ phải duy trì lượng tiền mặt nhiều hơn, công ty sẽ phải đương đầu với việc tìm kiếm nguồn tiền dự trữ và giảm khả năng sinh lời do tính sinh lợi kém của việc giữ tiền. Do đó khi tăng vòng quay tiền lên thì với một lượng tiền mặt nhỏ hơn vẫn có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Lượng tiền mặt tồn quỹ này nên duy trì với một tỷ lệ sao cho vẫn đảm bảo vòng quay tiền là gần 72 vòng mỗi năm. Do đó, lượng tiền mặt tồn quỹ tối ưu chỉ nên duy trì là:
356.346.400.353/72 = 4.949.255.560đ
Sao cho số vòng quay vẫn đảm bảo đủ lớn. Bởi có duy trì lượng tiền mặt nhiều như trước thì khả năng thanh toán tức thời của công ty cũng không có gì khả quan.
Còn khả năng thanh toán nhanh của công ty vẫn đảm bảo:
Khả năng thanh toán nhanh (sau khi điều chỉnh tiền mặt) là:
(4.949.255.560+66.706.106.328)/133.004.722.032 = 0,54
*) Khả năng thanh toán chung và khả năng thanh toán nhanh đều giảm xuống, khả năng thanh toán tức thời không đảm bảo.
(Chỉ tiêu 16, 17, 18 trong bảng 6)
Sự giảm xuống của các khả năng thanh toán cho thấy hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty ngày càng mất an toàn. Nếu cứ theo tỷ lệ giảm xuống này thì năm sau công ty sẽ không đủ khả năng thanh toán nhanh cũng như khả năng thanh toán hiện hành (bởi tiêu chuẩn hiệu quả của chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành là 1 và khả năng thanh toán nhanh là 0,5).
Năm 2003 khả năng thanh toán nhanh của công ty chỉ còn là 0,55 điều đó cho thấy nếu công ty cần thanh toán thì lượng tiền tồn quỹ và thu hết các khoản phải thu mới chỉ thể thanh toán được một nửa số nợ ngắn hạn, số còn lại trông chờ vào việc bán hết hàng tồn kho của công ty. Điều này là rất mạo hiểm bởi nếu các khoản phải thu không thu được hết và hàng tồn kho bị giảm giá thì công ty sẽ không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn một cách nhanh chóng.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu thời gian trả nợ các khoản phải trả khách hàng là 40 ngày trong khi đó phải sau 68 ngày công ty mới thu hồi được vốn từ khách hàng, sau 61 ngày công ty mới bán được hàng tồn kho tạo quỹ tiền mặt nên công ty sẽ gặp khó khăn rất lớn khi đến hạn thanh toán cho khách hàng. Do thời gian thu hồi các khoản phải thu và thời gian thanh toán các khoản phải trả là không khớp nhau.
Nhìn vào bảng tài trợ cho thấy, để thanh toán cho một khoản nợ ngắn hạn là hơn 36 tỷ công ty đã sử dụng tiền thu của khách hàng là 29 tỷ phần còn lại thì lượng tiền mặt công ty tạo ra không đủ thanh toán mà phải dựa vào việc bán hàng tồn kho. Qua đó phản ánh công ty chỉ có khả năng thanh toán hiện hành là khả quan còn khả năng thanh toán nhanh và tức thời là không đảm bảo. Có thể mô tả khả năng thanh toán của công ty như sau: Nếu công ty mua hàng hoá có giá trị nhỏ hơn 6 tỷ ( lượng tiền mặt tồn quỹ) và thời hạn thanh toán trong 6 ngày (số ngày tạo quỹ tiền mặt) thì công ty có thể thanh toán bằng tiền. Còn nếu giá trị hàng hoá là >6 tỷ thì công ty sẽ phải mua chịu và phải sau 60 ngày công ty mới trả được khoản nợ này.
Như đã phân tích ở phần nguồn tiền và sử dụng tiền, việc giảm khả năng thanh toán là do khoản phải thu giảm tạo ra nguồn tiền nhưng sử dụng tiền lại lớn hơn nhiều. Sự giảm xuống của cả hàng tồn kho và khoản phải thu mới đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn mà chủ yếu là vay ngắn và phải trả phải nộp khác. Còn tiền mặt thì hoàn toàn không đủ đáp ứng khả năng thanh toán này mà chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ, khoảng 5%.
*) Công ty bị khách hàng chiếm dụng một lượng vốn lớn vì khoản phải thu của khách hàng lớn hơn khoản phải trả khách hàng rất nhiều.
Năm
Phải trả KH/Phải thu của KH
Phải trả KH - Phải thu của KH
2001
0,49
35.114.403.694
2002
0,58
23.535.120.467
2003
0,64
20.739.194.411
Mặc dù chênh lệch khoản phải trả khách hàng và phải thu của khách hàng giảm dần nhưng đó chỉ là hình thức bởi khoản phải thu của khách hàng thì ngày càng tăng dần còn khoản phải trả khách hàng thì giảm dần làm cho tỷ lệ chiếm dụng vốn tăng lên.
Sự tăng lên của tỷ lệ này phản ánh khoản phả thu của khách hàng đang lấn át dần phải trả khách hàng trong chính sách tín dụng thương mại của công ty. Tín dụng thương mại bao gồm công ty chiếm dụng vốn hình thành khoản phải trả khách hàng và công ty bị chiếm dụng vốn hình thành khoản phải thu của khách hàng. Khoản phải thu của công ty lớn hơn khoản phải trả khách hàng cho thấy công ty đang bị chiếm dụng vốn và đây là một điều không tốt bởi công ty có khả năng thanh toán giảm dần, tỷ lệ nợ cao mà lại bị chiếm dụng vốn ngày càng nhiều thì khả năng quay vòng vốn kém dẫn đến hiệu quả sử dụng nợ ngắn hạn không cao.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NGẮN HẠN TẠI CÔNG TY
KẾT CẤU THÉP CƠ KHÍ XÂY DỰNG.
Công tác quản lý tài chính ngắn hạn hiệu quả khi nó đảm bảo tính ổn định, an toàn và sinh lợi. Ổn định được hiểu là hoạt động tài chính được duy trì một cách bình thường, không có những biến động đột ngột, bất thường. Việc đảm bảo tình hình tài chính hàng ngày ổn định giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro bất ngờ dễ dấn đến tình trạng không an toàn. An toàn được hiểu là trạng thái không bị nguy hiểm từ phía các tác động cả từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Nội dung hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn bao gồm: đảm bảo sự cân bằng tài chính, sự tự chủ tài chính, đảm bảo khả năng thanh toán và đảm bảo hiệu quả. Trong đó:
Cân bằng tài chính được hiểu là cân bằng giữa luồng tiền ra và luồng tiền vào của doanh nghiệp. Bản chất là xem xét mối quan hệ giữa các nguồn tài trợ cho TSLĐ có cùng thời gian tồn tại hay không.
Tự chủ về tài chính phản ánh mức độ độc lập của doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là việc xem xét cơ cấu nguồn vốn trong doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán được hiểu là khả năng doanh nghiệp có thể trả các khoản nợ đến hạn (nợ ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả) và khả năng chuyển đổi thành tiền của các TSLĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Khả năng thanh toán phụ thuộc rất nhiều vào vòng quay của hàng tồn kho, khoản phải thu và khoản phải trả.
Hiệu quả hoạt động thể hiện trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. No cũng phản ánh số lợi nhuận doanh nghiệp làm ra bao nhiêu so với số vốn, TSLĐ bỏ ra trong kỳ.
Trên cơ sở nội dung hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn trên, phần này sẽ
trình bầy một số phương pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động này của công
ty kết cấu thép cơ khí xây dựng.
1) Phương án phát triển của công ty trong năm tới
1.1 Vai trò của việc xác định phương án phát triển đối với việc đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
Một yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp trên thị trường là chiến lược phát triển. Chiến lược phát triển đúng đắn sẽ đảm bảo khả năng cạnh tranh lâu dài cho doanh nghiệp và đảm bảo cho doanh nghiệp một trỗ đứng vững vàng. Chiến lược hay phương án phát triển phản ánh tầm nhìn của các nhà quản trị đối với hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường không thường xuyên ổn định. Chiến lược của doanh nghiệp được thể hiện bằng các kế hoạch có kỳ hạn khác nhau và các mảng hiệu quả khác nhau. Đó là những kế hoạch có kỳ hạn và mảng hoạt động tương ứng với mục tiêu hiệu quả hoạt động bộ phận hay toàn bộ, ngắn hạn hay dài hạn của doanh nghiệp.
Có thể nói kế hoạch tài chính là trọng tâm của kế hoạch hoá hoạt động của doanh nghiệp. Cùng với kế hoạch tài chính, các kế hoạch khác sẽ được lập để đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu mong muốn. Một phương án phát triển cho biết các thay đổi có thể xảy ra trong tương lai, được nhìn nhận và đánh giá dưới các điều kiện khác nhau của môi trường. Tương lai ở đây có thể là 3, 5 hay 7 năm tới những bao giờ nó cũng bao gồm phương án phát triển cho năm gần nhất. Đây là thời điểm bắt đầu cho một kế hoạch dài hạn do đó nó có vai trò định hướng cho sự thay đổi. Nếu mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn không đặt trong sự thay đổi này của doanh nghiệp thì dễ xảy ra tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” làm nảy sinh mâu thuẫn ngay trong nội bộ doanh nghiệp dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn, sau khi phân tích những mặt được và chưa được, thì phải đưa ra các giải pháp thể hiện bằng các quyết định tài chính. Các quyết định này có giá trị trong vòng một năm tới do đó các quyết định này phải tính đến sự phù hợp với phương án phát triển của doanh nghiệp hoặc ngược lại phải dựa vào phương án phát triển để ra quyết định cho phù hợp.
Đối với công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng, do vừa được cổ phần hoá nên các phương hướng phát triển này nhằm tạo ra sự thay đổi trong hoạt động phù hợp với loại hình công ty cổ phần mà công ty vừa chuyển đổi. Phương án phát triển được đưa ra cho thời gian 3 năm, để có thể đưa ra một quyết định tài chính ngắn hạn hướng tới mục tiêu hiệu quả ta xem xét phương án phát triển của công ty qua hai nội dung chính: - Định hướng phát triển chung đến năm 2006
- Kế hoạch tài chính trong năm tới, năm 2004
1.2 Định hướng chung đến năm 2006
Trong quyết định 241/2003/QĐ-BCN ngày 30/12/2003 về đổi mới và phát triển công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng thành công ty cổ phần, công ty đã đưa ra các định hướng phát triển chung như sau:
Căn cứ vào tình hình thực tế và những đặc điểm riêng cũng như các nguồn lực, tiềm năng của mình, sau khi chuyển thành công ty cổ phần công ty đặt ra mục tiêu hàng đầu là đổi mới phương thức quả lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh, lấy chỉ số tỷ suất lợi nhuận sau thuế là mục tiêu hàng đầu. Xây dựng công ty trở thành một nhà máy sản xuất, kinh doanh chuyên ngành về lĩnh vực kết cấu thép cơ khí xây dựng bằng các chiến lược về phát triển sản phẩm, thị trường, công nghệ và nguồn nhân lực.
Về chiến lược sản phẩm, Công ty tiếp tục duy trì và phát triển mở rộng sản xuất các sản phẩm chủ lực là khung nhà thép tiền chế từ thép thường và thép cường độ cao, hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất được các khung nhà cao tầng, nhà có khẩu độ lớn, tải trọng lớn. Sản xuất các loại phụ kiện đồng bộ, đặc biệt là các phụ kiện chất lượng cao như sản xuất cửa. Bên cạnh đó là phát triển sản xuất thiết bị nâng, hợp tác, liên kết với các hãng sản xuất thiết bị nâng để hoàn thiện sản phẩm với yêu cầu chất lượng cao, thiết kế chế tạo các thiết bị phi tiêu chuẩn cho các ngành công nghệp. Chú trọng công tác lắp ráp hoàn thiện công trình, kinh doanh kim khí vật tư tổng hợp cung ứng đủ vật tư đầu vào cho các cơ sở sản xuất.
Phù hợp với chiến lược sản phẩm nói trên, là việc đầu tư vào công nghệ,
thiết bị trong giai đoạn tới Công ty tập trung đầu tư các thiết bị công nghệ tự động trong dây truyền sản xuất. Về công nghệ hàn, sẽ đầu tư các máy hàn dầm tự động thay đổi thiết diện, máy hàn leo áp dụng trong các lò, hàn các bồn bể chứa dung tích lớn, máy tổ hợp cột thép đáp ứng cho sản xuất các khung nhà thép cao tầng. Về sản xuất thiết bị phi tiêu chuẩn, đầu tư thêm các thiết bị gia công cơ khí chính xác. Bên cạnh đoa là đầu tư các thiết bị nâng, cẩu lắp với khẩu độ lớn phục vụ cho lắp ráp kết cấu lớn, cao tầng tại các công trình.
Về phát triển thị trường, giữ vững các thị trường truyền thống và mở rộng khai thác thị trường mới, đồng thời tổ chức tốt lực lượng tư vấn bán hàng, tăng cường năng lực tư vấn, thiết kế về cả nguồn nhân lực cũng như các phần mềm tính toán thiết kế và các trang thiết bị cần thiết. Nâng cao trình độ thương mại, phát triển và quảng bá thương hiệu hàng hoá của Công ty trên thị trường.Tâp trung chiếm lĩnh và khai thác thị trường tại khu vực kinh tế trọng điểm đã được hoạch định, các khu công nghiệp như: tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, các cụm công nghiệp dọc đường 10, các khu công nghiệp miền Trung và phát triển mở rộng thị trường ra các tỉnh phía Nam.
Chiến lược về nguồn nhân lực: Trước mắt và trong thời gian đầu sau cổ phần hoá Công ty thực hiện nguyên tắc tiếp nhận tối đa lực lượng hiện có từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, bố trí sắp xếp lại cho phù hợp với năng lực đẻ đáp ứng được mô hình mới của công ty, có chính sách trả lương và các quyền lợi khác tạo được động lực để tăng hiệu quả công tác và năng suất lao động. Giai đoạn tiếp theo sẽ có kế hoạch tuyển dụng mới, đào tạo thích ứng với nhu cầu mới, có chính sách thích hợp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Trong 2 năm đầu, do mới chuyển đổi cơ chế, Công ty giữ nguyên vốn điều lệ. Năm thứ 3 Công ty sẽ đầu tư mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường, tăng vốn điều lệ bằng phát hành cổ phiếu mới thu hút vốn, tạo tiền đề để có thể tham gia thị trường chứng khoán khi đủ điều kiện. Tham gia thị trường chứng khoán giúp công ty có được thị trường vốn rộng hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với mục tiêu đặt ra đến năm 2006 của công ty.
Trên cơ sở đó công ty đã đưa ra kế hoạch về tài chính thông qua bảng dự kiến các chỉ tiêu sau:
KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN 2004 ĐẾN 2006
- Đầu tư xây dựng Nhà máy kết cấu thép tại Hải Dương 6.500 tấn/năm: 11,5 tỷ đồng.
- Đầu tư xây dựng Nhà máy kết cấu thép tại Đà Nẵng 3.000 tấn/năm: 7,5 tỷ đồng.
- Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất tại các cơ sở hiện có: 5,0 tỷ đồng.
BẢNG 8: DỰ KIẾN CÁC CHỈ TIÊU
Đơn vị: 1000 VNĐ
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Doanh thu
255.000.000
268.600.000
287.900.000
Tổng chi phí
252.200.000
265.400.000
283.445.000
Lợi nhuận trước thuế
2.800.000
3.200.000
4.555.000
Thuế TNDN
0
0
624.000
Lợi nhuận sau thuế
2.800.000
3.200.000
3.831.000
Chia các quỹ
600.000
800.000
591.000
-Quỹ dự phòng tài chính
140.000
160.000
191.000
-Khen thưởng
224.000
256.000
300.000
-Phát triển sản xuất
236.000
384.000
100.000
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn đầu tư
14%
16%
16,5%
1.3 Kế hoạch tài chính trong năm tới, năm 2004
Trên phương diện hoạt động tài chính ngắn hạn và dựa và kế hoạch tài chính của công ty trong 3 năm tới ta có thể tính toán, dự báo tình hình tài chính của công ty trong năm 2004. Việc dự báo Kết quả kinh doanh, Bảng cân đối kế toán, thu chi tiền mặt dựa trên phương pháp tỷ lệ % theo doanh thu, suy diễn theo tỷ lệ phát triển và kế hoạch của công ty để dự báo. Đây chỉ là dự báo nên chỉ có ý nghĩa bổ sung thêm vào quá trình ra quyết định, làm căn cứ cho việc xác định nhu cầu vốn và các nguồn tài trợ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty.
*) Dựa vào doanh thu dự kiến của công ty năm 2004 là 255 tỷ đồng ta có thể lập Báo cáo kết quả kinh doanh dự kiến năm 2004 như sau:
Bảng 9: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh kế hoạch năm 2004
Chỉ tiêu
Năm 2003
% DT
Năm 2004
1) Doanh thu
356,403,224,637
255,000,000,000
Giảm giá hàng bán
56,824,284
0
2) Tổng chi phí
354,649,023,333
99.51%
253,744,900,995
Giá vốn hàng bán
337,489,645,685
94.69%
241,467,679,585
CP hoạt động TC
2,569,625,086
0.721%
1,838,519,833
CP bán hàng
4,224,471,282
1.185%
3,022,532,072
CP quản lý DN
10,358,704,149
2.906%
7,411,463,689
CP khác
6,577,131
0.002%
4,705,817
3) Thu nhập khác
28,816,692
0.008%
20,617,817
4) LN trước thuế
1,726,193,712
1,275,716,822
5) Thuế TNDN
552,381,988
408,299,383
6) LNST
1,173,811,724
867,487,439
Trong đó doanh thu năm 2004 công ty dự kiến là 255 tỷ là phù hợp bởi các năm 2001, 2002 doanh thu của công ty đều đạt xấp xỉ 250 tỷ. Năm 2003 doanh thu của công ty đột ngột tăng lên hơn 300 tỷ, đó không phải là điều thường thấy của công ty mà chỉ là cá biệt trong năm 2003 nên năm 2004 công ty chỉ dự kiến doanh thu chỉ là 255 tỷ.
Khoản giảm trừ trong doanh thu năm 2003 là do giảm giá hàng bán, điều này cũng nằm ngoài quy luật phát triển hay chỉ là cá biệt nên dự toán khoản này sẽ bằng 0 trong năm 2004 như 2 năm trước.
Giá vốn hàng bán là một chỉ tiêu có mối quan hệ với doanh thu bởi doanh thu phản ánh giá trị thị trường của hàng bán còn giá vốn hàng bán phản ánh giá trị sản xuất của hàng hoá. Khi doanh thu tăng hay giảm thì giá vốn hàng bán cũng có sự thay đổi theo, sự thay đổi này có thể cùng chiều hoặc khác chiều, phản ánh mối quan hệ của giá vốn hàng bán với doanh thu. Tương tự như vậy các chi phí khác như chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng cũng có mối quan hệ với doanh thu. Tổng hợp các chi phí đó ta được tổng chi phí của doanh nghiệp. Đối với công ty kết cấu thép thì trong vòng 3 năm nghiên cứu doanh thu và chi phí thay đổi cùng chiều do đó dự kiến năm 2004 chi phí cũng thay đổi cùng chiều với doanh thu.
CP2004
=
CP2003
x
DT2004
DT2003
Với cách tính tương tự ta có thể tính cho các khoản mục chi phí khác của công ty.
*) Bảng cân đối kế toán và bảng tài trợ kế hoạch của công ty năm 2004
Bằng cách tính tỷ lệ % theo doanh thu đối với những khoản mục có sự thay đổi theo sự thay đổi của doanh thu và dựa vào kế hoạch TSCĐ, báo cáo kết quả kinh doanh dự toán, kế hoạch sử dụng vốn…và tỷ lệ tăng trưởng qua các năm ta có thể lập được bảng cân đối kế toán dự toán. Dựa vào bảng cân đối kế toán kế hoạch cho năm 2004 và với cách tính tương tự như phần trước ta có kế hoạch nguồn tiền và sử dụng tiền của công ty. Tổng hợp bảng cân đối kế toán và bảng tài trợ kế hoạch của công ty năm 2004 được thể hiện qua bảng 10.
(Trang bên)
Trong đó các khoản mục thay đổi theo doanh thu bao gồm: tiền và đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho, các khoản phải trả…Đây hầu hết là các khoản mục của TSLĐ và nợ ngắn hạn. Điều này là dẽ hiểu bởi hầu hết các chỉ tiêu liên quan được tính ở phần II đều được tính trên doanh thu nên sự thay đổi của doanh thu tác động cùng chiều hoặc ngược chiều lên các khoản mục này.
TSCĐ dự kiến đầu tư trong 3 năm tới là 24 tỷ do đó có thể coi là năm 2004 đầu tư vào TSCĐ 8 tỷ. Công ty tính khấu hao đường thẳng với tỷ lệ khấu hao trung bình các tài sản là 35% do đó: Nguyên giá TSCĐ = 33.193.816.405+8.000.000.000
= 41.193.816.405
Hao mòn = 41.193.816.405 x 0,35
= 14.417.835.745
Để đạt được mục tiêu là 255 tỷ năm 2004 thì công ty phải tài trợ cho hoạt động của mình bằng cách vay ngắn hạn từ bên ngoài là 40.616.122.995 khoản vay này được tính như sau:
Tổng Tài sản = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Vay ngắn hạn = Nợ ngắn hạn - các khoản còn lại trong nợ ngắn hạn
Þ Nợ ngắn hạn = 133.846.136.456 - (21.780.203.947 + 9.589.376.503)
Nhu cầu vay ngắn hạn = 101.711.553.885 - 61.095.430.890
Khoản vay này có thể được tài trợ bằng cách vay ngân hàng hoặc vay huy động từ bên ngoài.
Dựa vào báo cáo tài chính dự toán vừa tính được và thực trạng hoạt động tài chính ngắn hạn vừa phân tích để đưa ra một số giải pháp hay một số quyết định tài chính ngắn hạn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này của công ty.
2)Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn ở công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng
Như đã phân tích, các giải pháp của công ty tập trung vào giải quyết vấn đề mắt cân đối giữa TSLĐ và TSCĐ, nợ ngắn hạn và vốn chủ sở hữu. Vấn đề khả năng thanh toán và sử dụng tín dụng thương mại của công ty. Một giải pháp đưa ra sau đây do sự phân tích các chỉ số ở trên và cả ý kiến chủ quan của người phân tích tuy nhiên nó có thể đóng góp ý kiến nào đó vào hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty trong thời gian tới.
2.1. Một số giải pháp đối với TSLĐ
Sau khi phân tích ta thấy nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trong việc sử dụng TSLĐ là do dự trữ hàng tồn kho lớn, khoản phải thu của công ty chưa cân đối với phải trả, tiền mặt dự trữ chưa phải là tối ưu…do đó các giải pháp sau tập trung vào các khoản mục vừa nêu.
*) Công ty đang có khoản phải thu lớn, để giảm khoản phải thu công ty nên cân nhắc khi cấp tín dụng. Áp dụng một số biện pháp như phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, phân tích khoản tín dụng được đề nghị và quản lý khoản phải thu. Khả năng tín dụng của khách hàng bao gồm: phâm chất, tư cách tín dụng, năng lực trả nợ nhanh hay chậm, tình hình tài chính của khách hàng…để xác định thời gian tín dụng và khả năng trả nợ đúng hạn của khách hàng. Phân tích khoản tín dụng thương mại được đề nghị như: quy mô tín dụng, khả năng sinh lợi, rủi ro tín dụng, thời hạn tín dụng, yêu cầu đặt cọc, tạm ứng hay trả trước một phần giá trị hợp đồng…Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng chẳng hạn nếu vượt quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng thì doanh nghiệp sẽ được thu lãi theo lãi suất quá hạn của ngân hàng…Sau khi đã cấp tín dụng hình thành khoản phải thu thì phải theo dõi các khoản phải thu, đòi nợ kịp thời và có biện pháp xử lý nợ quá hạn.
Một cách để dự phòng tốt nhất về các khoản phải thu khó đòi có thể xảy ra là trong mỗi kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải tính số nợ khó đòi để lập dự phòng phải thu khó đòi. Nợ phải thu khó đòi là những khoản nợ quá hạn 2 năm kể từ ngày đến hạn thu nợ, doanh nghiệp đã đòi nhiều lần những vẫn không thu được hoặc chưa đến 2 năm nhưng con nợ đang trong thời gian xem xét giải thể, phá sản hoặc có dấu hiệu khác như bỏ trốn, bị giam giữ…Mức dự phòng tối đa bằng 20% tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm cuối năm và đảm bảo doanh nghiệp không bị lỗ.
Năm 2003 công ty đã trích dự phòng phải thu khó đòi là hơn 42 triệu, bằng 0,06% khoản phải thu. Trong năm tới khoản phải thu của công ty dự tính là 47,7 tỷ nên dự phòng có thể là 28,62 triệu là hợp lý bởi nó vừa đảm bảo tỷ lệ vừa phù hợp với lợi nhuận sau thuế của công ty trong năm tới. Khoản dự phòng này làm giảm khoản phải thu của công ty xuống và đảm bảo an toàn cho công ty khi bán chịu. Bên cạnh trích lập quỹ dự phòng, công ty có thể phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp như gia hạn nợ, bán nợ…
*) Để duy trì lượng dữ trữ, hàng tồn kho tối ưu, đáp ứng yêu cầu số vòng quay lớn và số ngày tồn kho nhỏ công ty phải cải tiến cơ cấu dự trữ bằng cách giảm dần dự trữ sản xuất trong tổng dự trữ. Như đã phân tích công ty có vòng quay dự trữ nguyên vật liệu dùng cho sản xuất lớn còn vòng quay hàng tồn kho nhỏ nên phải cải tiến cơ cấu dự trữ này bằng cách giảm dự trữ sản xuất trong tổng dự trữ.
Để quy định một tỷ lệ hợp lý giữa các loại dự trữ đối với từng loại vật tư hàng hoá phải dựa trên nhu cầu sản xuất, chu kỳ sản xuất và các chi phí dự trữ. Tạo cơ chế năng động và hiệu quả trong khai thác và sử dụng những vật tư ứ đọng ở doanh nghiệp. Đảm bảo đầy đủ thông tin cần thiết về nhu cầu dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp đồng thời quản lý và kiểm tra lượng dự trữ vật tư hàng hoá trong một cách thường xuyên. Mở rộng và phát triển các kênh phân phối hàng hoá, sử dụng các biện pháp xúc tiến thương mại để bán hàng nhanh hơn, sẵn sàng giảm hàng tồn kho khi cần.
Có thể tham khảo tỷ lệ giữa dự trữ sản xuất và dự trữ tiêu thụ (hàng tồn kho) trong cùng ngành với công ty ở một số nước như sau: Đơn vị %
Mỹ
Anh
Nga
Công ty
Dự trữ SX
38,8
50
89,1
92,95
Hàng tồn kho
62,2
50
10,9
7,05
Tổng
100
100
100
100
(Số liệu Giáo trình thống kê doanh nghiệp - trường ĐHKTQD)
Ngoài ra trong năm tới công ty có mức dự trữ, hàng tồn kho là hơn 41 tỷ, công ty có thể tính toán tỷ lệ giữa các loại dự trữ để có mức dự trữ tối ưu. Dự trữ giảm thì hiệu suất sử dụng cũng tăng hay số vòng quay tăng, tăng hiệu quả sử dụng cho công ty.
*) Để duy trì một lượng tiền mặt tối ưu đủ để phục vụ cho kinh doanh, khi doanh nghiệp có số dư tiền mặt quá cao thì doanh nghiệp có thể đầu tư vào các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, khi cần thiết có thể chuyển chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Biện pháp này không làm thay đổi cơ cấu TSLĐ và nợ ngắn hạn nên không ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trong các năm vừa qua công ty chỉ đầu tư dài hạn vào các trái phiếu chính phủ chứ chưa chú trọng đến đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán thanh khoản cao. Nhất là khi công ty được cổ phần hoá, sắp tới có thể sẽ ra nhập thị trường chứng khoán như mục tiêu đã đề ra thì việc đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn là cần thiết. Việc đầu tư này có thể sử dụng lượng tiền mặt thặng dư của công ty. Như đã tính ở trên, trong năm 2003 công ty chỉ nên duy trì lượng tiềm mặt là 4,95 tỷ, số còn lại gần 2 tỷ công ty nên đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn như các tín phiếu kho bạc ngắn hạn (loại chứng khoán rất an toàn) hoặc trái phiếu ngắn hạn của các ngân hàng. Trong năm tới, lượng tiền mặt của công ty được dự tính là 4,4 tỷ, vẫn cao hơn mức trung bình các năm trước nên việc đầu tư ngắn hạn vẫn có thể thực hiện được.
Việc dự đoán ngân quỹ là thực sự cần thiết để có các kế hoạch về nguồn tiền và sử dụng tiền một cách hợp lý. Do đó công ty nên chú trọng đến việc xây dựng kế hoạch tài chính và kế hoạch ngân quỹ (bảng tài trợ) nhằm nâng cao chất lượng dự báo tài chính trong công tác quản lý tài chính ngắn hạn.
Ngoài ra, trong quản lý sử dụng các khoản tiền còn có một số phương pháp quản lý cụ thể như: có sự phân định rõ ràng trong quản lý tiền mặt của công ty nhất là giữa thủ quỹ và kế toán nhằm đảm bảo an toàn kho quỹ, tránh mất mát, lợi dụng…Công ty có thể sử dụng các quy chế thu chi bằng tiền mặt để áp dụng cho từng trường hợp thu chi như: các khoản thu chi không lớn có thể sử dụng tiền mặt còn các khoản thu chi lớn cần sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm tiết kiệm thời gian và tránh mất mát trong thanh toán. Quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt, xác định rõ đối tượng tạm ứng, mức tạm ứng và thời hạn thanh toán tạm ứng để thu hồi kịp thời.
2.2. Giải pháp đối với nợ ngắn hạn
Nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và ổn định trong sử dụng nợ ngắn hạn, hiệu quả sử dụng nợ ngắn hạn nhằm vào việc đảm bảo hiệu quả của các khoản mục có liên quan. Đó là việc tăng hệ số chi trả lãi vay ngắn hạn, giảm kỳ hạn trả nợ đối với khoản phải trả…
*) Để tăng khả năng chi trả lãi vay ngắn hạn hay tăng hệ số chi trả lãi vay (áp dụng cả với khă năng chi trả nợ gốc và lãi vay) có hai cách là tăng EBIT và giảm chi phí sử dụng nợ vay ngắn hạn. Đối với quản lý tài chính ngắn hạn giải pháp chủ yếu là giảm chi phí sử dụng nợ ngắn bằng cách tìm kiếm những khoản nợ có chi phí thấp hay giảm kỳ hạn tín dụng, sử dụng hình thức đảo nợ để thanh toán các khoản nợ gốc nhằm giảm chi phí trả nợ gốc và lãi vay. Công ty cũng có thể giảm việc vay nợ và tài trợ bằng các nguồn khác “rẻ” hơn và tiện lợi hơn như các khoản phải trả, phải nộp…Sử dụng tín dụng thương mại là một hình thức rất tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng nợ vì đây là một nguồn tài trợ tiện lợi và linh hoạt, tạo ra mối quan hệ hợp tác trong kinh doanh.
*) Đối với công ty, khoản phải trả ít hơn khoản phải thu rất nhiều nên việc sử dụng tín dụng thương mại là chưa hiệu quả. Trong năm tới công ty nên chú trọng vào việc giảm tỷ trọng vay ngắn hạn và tăng khoản phải trả tương xứng với khoản phải thu dự kiến. Theo báo cáo dự toán thì trong năm 2004 công ty sẽ có nhu cầu vay ngắn hạn hơn 40 tỷ đồng, khoản phải trả khách hàng của công ty lại giảm xuống gần một nửa do đó để bù đắp nhu cầu vay ngắn hạn công ty có thể tăng tín dụng thương mại. Việc tăng khoản phải trả này đặt trong tỷ trọng cân đối với các khoản phải thu thì không những không làm tăng gánh nặng nợ cho công ty mà lại tạo hiệu quả hơn trong việc sử dụng tín dụng thương mại ở công ty.
Để đảm bảo sự thận trọng trong sử dụng các khoản phải trả khách hàng, công ty cũng nên thường xuyên kiểm tra, đối chiếu các khoản phải trả với khả năng thanh toán của các doanh nghiệp để chủ động đáp ứng các yêu cầu thanh toán khi đến hạn. Lựa chọn các hình thức thanh toán thích hợp, an toàn và hiệu quả khi thanh toán với khách hàng.
Để đảm bảo an toàn cho các khoản phải trả công ty cũng nên quan tâm đến thời gian trả nợ. Công ty cần tính toán thời gian tín dụng cho phù hợp vì không phải cứ kéo dài thời gian trả nợ là công ty sẽ được lợi hay thời gian trả nợ ngắn quá công ty cũng sẽ không chủ động được các khoản tiền để thanh toán. Trên thực tế, thời gian trả nợ của công ty đang < thời gian thu hồi các khoản phải thu và thời gian bán hàng tồn kho nên nếu công ty có ý định giảm thời gian thu hồi khoản phải thu và hàng tồn kho thì trước mắt nên duy trì thời gian trả nợ là 40 ngày nhằm đạt được sự cân bằg tương đối giữa thời gian thu hồi và thời gian trả nợ.
Trong trường hợp đến kỳ trả nợ nếu doanh nghiệp không đủ lượng tiền mặt để thanh toán cần tính đến việc giảm khoản phải thu và dự trữ hoặc giảm đầu tư ngắn hạn…Không nên để thời gian không trả được nợ kéo dài làm giảm uy tín và giảm khả năng thanh toán của công ty hoặc những lần giao dịch sau công ty sẽ phải chịu chi phí tín dụng cao hơn, điều kiện tín dụng khắt khe hơn…
Trong quan hệ tín dụng thương mại cần tính đến sự cân bằng tương đối giữa nợ phải trả và khoản phải thu, tránh tính trạng doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn không đủ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đi chiếm dụng vốn lớn tăng gánh nặng nợ sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do đó khi tỷ lệ này có sự chênh lệch phải ngay lập tức hạn chế mua chịu nếu đi chiếm dụng vốn và thu hồi các khoản phải thu nếu bị chiếm dụng vốn lớn. Công ty nên tính toán, cân nhắc thận trọng sao cho vừa sử dụng việc mua chịu như một nguồn tài trợ ngắn hạn đồng thời giảm đến mức tối thiểu các khoản phải thu đang bị khách hàng chiếm dụng để không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán.
*) Ngoài ra đối với khoản phải trả, phải nộp khác cần tính đến thời gian chậm trả, chậm nộp để có kế hoạch sử dụng các khoản này sao cho đến hạn trả doanh nghiệp có khả năng thanh toán bởi đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp, không thực hiện không được.
2.3. Các giải pháp tài chính khác
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn các giải pháp cần tập trung vào việc cân bằng giữa nợ và TSLĐ đó là vấn đề của NWC; cơ cấu nợ/tổng nguồn vốn để đạt được sự tự chủ về tài chính; tập trung vào đảm bảo khả năng chi trả nợ ngắn hạn của TSLĐ và các hiệu quả hoạt động khác.
*) Giải pháp để có sự cân bằng trong vốn lưu động ròng và sự cân đối trong tỷ trọng TSLĐ và nợ ngắn hạn trên tổng tài sản:
Nếu NWC>0 có nghĩa là TSLĐ > nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này chỉ cần phải điều chỉnh khi TSLĐ lớn hơn nợ ngắn hạn quá nhiều, nó chỉ đảm bảo mục tiêu an toàn mà không đảm bảo mục tiêu sinh lợi. Một tỷ lệ TSLĐ và nợ ngắn hạn cân bằng là khó có thể đạt đến nên NWC hiện nay của công ty là an toàn. Tuy nhiên, tỷ trọng TSLĐ/tổng Tài sản và Nợ ngắn hạn/Tổng nguồn vốn lớn như của công ty thì cần phải điều chỉnh.
Do đó, trong các năm tới công ty có kế hoạch đầu tư mở rộng sản xuất tạo ra các khoản đầu tư nhiều hơn vào TSCĐ như bảng cân đối kế toán dự toán đã nêu. Đó là một hướng đi đúng nhằm tăng tỷ trọng TSCĐ trong tổng tài sản và giảm tỷ trọng TSLĐ. Việc đầu tư vào tài sản với thời gian dài như tài sản cố định thì vốn đầu tư cho nó tương ứng cũng phải là các nguồn dài hạn nên tỷ trọng nguồn ngắn hạn sẽ phải điều chỉnh theo.
Khi tỷ trọng của nợ ngắn và TSLĐ quá cao công ty cũng có thể giảm tỷ trọng bằng cách tăng số vòng quay để tăng hiệu suất sử dụng các TSLĐ để từ đó giảm tỷ trọng TSLĐ mà không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng có thể giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn bằng cách thanh toán cho các khoản nợ ngắn khi có đủ khả năng và chuyển dần hướng đầu tư tài chính ngắn hạn sang dài hạn khi doanh nghiệp có độ an toàn tương đối trong khả năng thanh khoản. Việc chuyển sang đầu tư chứng khoán dài hạn sẽ mang lại lợi nhuận lớn hơn vì lãi suất cao hơn.
*) Các giải pháp nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của công ty
Khi hệ số khả năng thanh toán chung <1 điều đó có nghĩa là doanh nghiệp không thể giảm hàng tồn kho hay khoản phải thu để chuyển thành tiền mặt thanh toán cho các khoản nợ ngắn thì biện pháp tình thế của doanh nghiệp là sử dụng nợ vay từ bên ngoài để thanh toán hay đảo nợ, xin ân hạn…hoặc sử dụng thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty để trang trải. Các giải pháp tình thể đó không thể kéo dài lâu bởi vay nợ mới thì sẽ tăng thêm chi phí sử dụng nợ và gánh nặng nợ, thu nhập thì cũng có hạn nên trong hoạt động tài chính hàng ngày doanh nghiệp phải luôn chú ý đến khả năng thanh khoản và duy trì một lượng tiền mặt tối ưu, lập các quỹ dự phòng , sử dụng các chứng khoán thanh khoán và quan trọng nhất là hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu lợi cao bởi khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản đảm bảo quan trọng để chi trả những nhu cầu đó.
Khả năng thanh toán nhanh không đảm bảo tiêu chuẩn hiệu quả thì có vẻ dễ giải quyết hơn vì doanh nghiệp chỉ cần giảm dự trữ, hàng tồn kho. Nhưng việc giảm dự trữ, hàng tồn kho dễ gặp rủi ro giảm giá nên cần trích lập quỹ dự phòng giảm giá
hàng tồn kho.
Đối với công ty, tuy chưa gặp khó khăn trong thanh khoản nhưng khả năng thanh toán đang giảm dần và để ngăn chặn sự giảm dần đó công ty nên đảm bảo cân đối giữa khả năng mà mình có và sử dụng những khả năng đó. Không nên hoạt động quá sức dẫn đến phải đi vay nợ để thanh toán cho những nhu cầu chi trả thường ngày của mình. Tính toán giữa thời gian chậm trả các khoản phải trả và thời gian sử dụng các TSLĐ để không có sự lệch pha giữa chúng làm cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán tạm thời.
Theo các báo cáo tài chính dự toán thì trong năm tới nợ ngắn hạn của công ty đã lớn hơn TSLĐ, điều đó lại càng đe dọa khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Cùng với nó là vốn lưu động ròng sẽ <0 làm cho TSLĐ của công ty không thể tài trợ kịp cho nợ ngắn hạn. Do đó công ty nên giảm nợ ngắn hạn bằng các biện pháp ở phần trên để TSLĐ có thể tài trợ được. Bên cạnh đó, trong năm tới công ty sẽ sử dụng nhiều tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn nên ngay từ bây giờ công ty nên có kế hoạch thu hồi các khoản phải thu và giản dự trữ để bù đắp nhu cầu tiền trong năm tới.
Việc mất cân đối này là do công ty đang giảm dần cơ cấu TSLĐ trong tổng tài sản, nếu vượt qua được giai đoạn khủng hoảng tạm thời về khả năng thanh toán này thì công ty sẽ tiến tới một tỷ lệ hợp lý hơn. Ngay trong năm nay công ty nên trích lập các quỹ dự phòng như dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi…bằng lợi nhuận giữ lại. Đó là cách chuyển kỳ hạn nguồn hợp lý mà lại đảm bảo trợ giúp thanh toán khi khả năng thanh toán không đảm bảo như trong năm tới. Hoặc khi các dự báo không chính xác thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến tài sản và nguồn vốn của công ty bởi các quỹ này có thể được sử dụng trong năm và trích lập trở lại vào cuối năm, khi hoạt động tài chính đã hoàn tất.
3) Một số giải pháp khác đối với công ty.
Khi mà các nhà quản trị tài chính làm hết khả năng của mình thì doanh nghiệp cũng phải lên tiếng giúp đỡ trong việc tháo gỡ những khó khăn về tài chính đó bởi việc nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính sẽ tác động đến các hoạt động khác và nếu hoạt động tài chính gắp khó khăn thì các hoạt động khác cũng không thể suôn sẻ.
Các giải pháp đối với doanh nghiệp tập trung vào việc xây dựng một hệ thống thu thập và xử lý thông tin kịp thời, chính xác; củng cố và tăng cường hệ thống kiểm trả, giám sát và phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp; Đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động nhằm tằng doanh thu, giảm chi phí và tăng lợi nhuận…vì đây cũng là các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn.
*) Xây dựng hệ thống thông tin hoàn hảo trong công ty nhằm cung cấp thông tin cho hoạt động tài chính một cách thường xuyên, chính xác. Công ty cần chú trọng đến việc thu thập thông tin về khách hàng, khả năng tài chính, đạo đức cũng như hiệu quả hoạt động của họ. Những thông tin này không những phục vụ trong việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng mà biết được nhu cầu, nguyện vọng của khách hàng để có phương án phát triển sản phẩm của công ty, giúp tăng hiệu quả hoạt động của toàn công ty. Những thông tin về thị trường, về sự biến động của nền kinh tế…cũng vô cùng quan trọng trong việc dự trữ hàng hoá cho công ty.
Để xây dựng được một hệ thống cung cấp thông tin như vậy công ty cần phối hợp phòng kế hoạch thị trường với các phòng ban khác nhằm xác định nhu cầu thông tin và phương án tìm kiếm thông tin. Ngoài ra việc sử dụng mạng nội bộ và mạng toàn cầu Internet cũng là một biện pháp cung cấp thông tin cập nhật và nhanh chóng nhất. Sử dụng đội ngũ nhân viên có trình độ về công nghệ thông tin đảm trách nhiệm vụ tìm kiếm thông tin, nhận biết những thay đổi của môi trường…bởi thông tin là vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động chứ không riêng gì hoạt động tài chính ngắn hạn.
Đây là biện pháp cần làm ngay bởi trong các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn ở trên có đề cập đến việc mở rộng tín dụng thương mại và giảm dự trữ nên công ty rất cần có những thông tin chính xác về thị trường, khách hàng để xác định mức tín dụng và dự trữ tối ưu, tránh được rủi ro.
*) Định kỳ tổ chức hoạt động phân tích tài chính để phòng nừa rủi ro và đánh
giá những mặt đã đạt được cũng như chưa được của công ty. Tránh để công ty rơi vào tình trạng mất an toàn do mất khả năng thanh toán hoặc nợ quá hạn quá lớn. Như đã phân tích thì công ty đang có xu hướng giảm khả năng thanh toán nếu không phân tích kịp thời thì việc lợi nhuận của công ty tăng lên trong nhưng năm gần đây cũng không thể bù đắp được nhu cầu thanh toán của công ty. Các báo cáo tài chính chỉ cung cấp những thông tin tài chính còn để nhận biết tình hình tài chính thì phải phân tích nó. Đôi khi kết quả hoạt động có lãi đánh lừa những nhà quản lý về thực trạng hoạt động của công ty do đó việc phân tích tài chính là quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty và tránh rủi ro.
Bên cạnh đó là việc công khai tình hình tài chính của công ty. Việc công khai này không những là cần thiết đối bởi công ty đã chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần mà việc công khai này còn giúp các nhà đầu tư thấy được khả năng hoạt động của công ty để có kế hoạch đầu tư vào công ty. Tuy nhiên việc công khai này có thể làm khi kiểm toán hay cấp trên yêu cầu.
*) Đổi mới tư duy, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tài chính và quản lý doanh nghiệp nói chung
Lối tư duy cũ của lối làm ăn cũ đã ăn sâu vào các doanh nghiệp nhà nước, làm cho nó hoạt động không hiệu quả. Những tư duy đó là: chỉ xem xét vấn đề một cách riêng rẽ, tách rời, không đặt nó trong một tổng thể đa dạng, phức tạp vốn có của nó. Hậu quả của những tư duy đó là dễ sa vào hình thức, xem nhẹ hiệu quả, đề cao kết quả. Nhất là các quan niệm về hoạt động quản lý, họ cho rằng quản lý là giữ cho đối tượng quản lý nguyên vẹn, không suy chuyển, bắt nó vận động theo ý muốn chủ quan của một người quản lý cao nhất.
Lối tư duy kiểu mới cho rằng: quản lý là tác động vào đối tượng quản lý một cách hợp quy luật khách quan, làm cho nó phát triển theo những quy mô và nhịp độ đã được xác định bằng các phương pháp khoa học, thực tiễn có hiệu quả nhất. Để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì từ đội ngũ những nhà quản lý tài chính cần thay đổi tư duy và các biện pháp quản lý của mình. Trong đó các biện pháp tập trung vào việc hình thành một cơ chế kiểm soát hoạt động trong công ty. Cụ thể:
- Công ty tự giám sát hoạt động của nội bộ công ty như lập các ban kiểm soát nội bộ. Đối với một công ty lớn như công ty kết cấu thép thì việc lập ra một bộ phận chuyên trách để kiểm soát nội bộ công ty và các đơn vị thành viên là điều cần thiết để nâng cao khả năng kiểm soát hoạt động của những người quản lý công ty.
- Công ty chịu sự giám sát các chủ nợ, các cổ đông, sự gián mát của khách hàng, của đối thủ cạnh tranh…hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ như vậy công ty sẽ phải hoạt động hiệu quả hơn để tạo hình ảnh tốt đối với khách hàng, nhà đầu tư…
- Quy trách nhiệm rõ ràng cho mỗi thành viên đảm trách mỗi công việc trong công ty để nâng cao tính trách nhiệm đối với công việc được giao.
Bên cạnh đó bản thân nhà quản trị doanh nghiệp phải luôn mạnh dạn đưa ra các quyết định sáng tạo. Giải thích, hướng dẫn để thực hiện các quyết định có hiệu quả. Phân bổ tài chính, thiết bị, nhân sự, phương tiện hợp lý để tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyết định. Tổng kết và đánh giá các quyết định trong quá khứ làm căn cứ để ra quyết định trong hiện tại và kế hoạch cho tương lai của công ty.
*) Tăng doanh thu, giảm chi phí nhằm tăng lợi nhuận cũng là một biện pháp nhằn tăng hiệu quả quản lý TSLĐ và nợ ngắn hạn bởi lợi nhuận tăng làm cho tử số trong các công thức hiệu quả tăng. Để tăng lợi nhuận công ty nên tập trung vào các biện pháp đổi mới công nghệ sản xuất. Công ty phải có giải pháp đầu tư vào công nghệ, trang thiết bị theo đúng yêu cầu công việc, chất lượng và mức độ hiện đại của công nghệ, nâng cao công suất của máy móc thiết bị. Đây là vấn đề về quản lý tài sản cố định nên công ty cần phải tính đến chi phí khấu hao của từng thời kỳ. Nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới bên cạnh việc củng cố chất lượng sản phẩm hiện có. Tăng cường các biện pháp thông tin, quảng cáo nhằm mở rộng thị trường của công ty và có nhiều hợp đồng hơn. Trong quá trình thi công lắp ráp các công trình phải thúc đẩy tiến độ thi công ở mức cao nhất có thể nhằm rút ngắn thời gian thi công, tăng số vòng quay vốn kinh doanh, giảm chi phí sử dụng vốn. Đây là một trong những yếu tố cần quan tâm để giảm chi phí kinh doanh nói chung vì nếu vốn lưu động có vòng quay nhỏ thì chi phí sử dụng nó sẽ tăng.
*) Kiến nghị hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của cấp trên về những khó khăn gặp phải của công ty trong quá trình hoạt động. Những khó khăn công ty gặp phải đôi khi trong khả năng của mình công ty không thể giải quyết nổi, khi đó một sự giúp đỡ của nhà nước hay cơ quan cấp trên sẽ giúp công ty tránh khỏi khủng hoảng và ổn định hơn. Tuy nhiên công ty cũng không nên quá dựa dẫm vào người khác bởi công ty cũng phải lo cho tình hình hoạt động của các đơn vị thành viên. Việc đưa ra kiến nghị là cần thiết nhưng yêu cầu sự giúp đỡ chỉ khi công ty gặp vấn đề nghiêm trọng mà không giải quyết được sẽ ảnh hưởng đến cả các đơn vị khác trong ngành.
Ngoài ra, có rất nhiều biện pháp để công ty có thể nâng cao hiệu quả hoạt động hàng ngày trong đó có hoạt động tài chính hàng ngày hay hoạt động tài chính ngắn hạn. Các giả pháp như nâng cao trình độ người lao động, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng hợp đồng…Nhưng trong phạm vi chuyên đề về hoạt động tài chính ngắn hạn chỉ đề cập đến các giải pháp chủ yếu và có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến công tác quản lý tài chính ngắn hạn này.
4) Một số kiến nghị
Đầu tiên nhà nước hoặc bộ công nghiệp nên xây dựng hệ thống các chỉ tiêu chuẩn mực hay tiêu chuẩn hiệu quả để đánh giá tình hình tài chính nói chung và tài chính ngắn hạn nói riêng. Trên cơ sở chuẩn mực hiệu quả của nhà nước các ngành, các tổng công ty xây dựng các tiêu chuẩn hiệu quả cho ngành mình, công ty mình làm cơ sở đánh giá cho các đơn vị trực thuộc.
Hiện nay việc nhận xét đánh trên chỉ dựa trên sự thay đổi theo thời gian, ý kiến chủ quan của người đánh giá và so với những kết quả đã đạt được của xã hội mà không có một căn cứ nào khác. Cách đánh giá nào cũng có những hạn chế của nó do đó phải có một tiêu chuẩn hiệu quả cụ thể và chỉ tiêu của ngành để có những đánh giá chính xác hơn, nâng cao hiệu quả trong phân tích và quản lý tài chính ngắn hạn.
Bên cạnh đó, chính phủ cần lập một cơ quan chuyên phân tích, đánh giá và công bố thực trạng tài chính của doanh nghiệp như tổng cục thống kê, bộ tài chính , ngân hàng…Đồng thời định kỳ các doanh nghiệp gửi báo cáo tài chính lên các cơ quan đó để đánh giá các chỉ tiêu làm cơ sở để doanh nghiệp hoạt động và cung cấp số liệu về hiệu quả nói chung của các doanh nghiệp và các ngành.
Ngoài ra, nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách về tài chính doanh nghiệp như bổ sung vốn chủ sở hữu trong các doanh nghiệp, về tiền lương, thưởng, chế độ kế toán, xử lý nợ quá hạn…Cải thiện môi trường pháp lý, tạo ra sự tự chủ trong hoạt động và bình đẳng trong quan hệ giữa các doanh nghiệp. Việc thay đổi các chính sách của nhà nước là vấn đề lâu dài và mang tính vĩ mô. Trong khi các chính sách chưa thể thay đổi như ta mong muốn thì công ty sẽ chờ cho mọi cái hoàn thiện rồi mới bắt tay vào hành động hay phải tiếp tục hành động trên cái nền vừa xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sụng liên tục để luôn đối mặt với những rào cản, những ách tắc và nguy cơ phạm sai lầm? Có thể công ty sẽ chọn cách thứ hai bởi công ty đợi chính sách nhưng khách hàng, chủ nợ, nhà đầu tư… không thể đợi công ty. Do đó cách thứ hai có thể khó khăn hơn nhưng tìm cách tháo gỡ nó, sử dụng nó một cách hợp lý lại có thể tạo ra lợi thế cho công ty.
Tóm lại, các giải pháp đối nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng tập trung vào: giảm khoản phải thu, tăng khoản phải trả, giảm dự trữ hàng tồn kho và tiền mặt tối ưu; lập các quỹ dự phòng phải thu khó đòi và giảm giá hàng tồn kho; đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán thanh khoản; Giảm vay nợ ngắn hạn, thay vào đó là sử dụng tín dụng thương mại; tăng khả năng thanh toán; tăng đầu tư vào tài sản cố định…Một số kiến nghị chủ yếu về việc xây dựng chuẩn mực hiệu quả để nâng cao chất lượng công tác đánh giá hiệu quả quản lý tài chính nói chung cũng như trong ngắn hạn.
KẾT LUẬN
Mỗi doanh nghiệp có một mục tiêu khác nhau, có doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tối đa hoá lợi nhuận, có doanh nghiệp mục tiêu là tối đa hoá khả năng thanh toán, có doanh nghiệp lại tối đa hoá phúc lợi xã hội mà doanh nghiệp tạo ra…nhưng “tối đa” là một chỉ tiêu không có hạn. Vậy tại sao các doanh nghiệp lại luôn theo đuổi một điều vô hạn mà không biết bao giờ mới đạt đến như vậy? Bởi các doanh nghiệp đều muốn mình tiến xa hơn nữa, tiến nhanh hơn nữa khi còn có thể. Khi đang hoạt động thì không một doanh nghiệp nào nghĩ là mình sẽ bị phá sản ngày mai do đó trong hoạt động hàng ngày của mình doanh nghiệp luôn muốn đảm bảo hiệu quả, tạo ra nhiều kết quả trong điều kiện các chi phí không đổi.
Công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng, có thể nói là có hoạt động tài chính ngắn hạn hiệu quả vậy tại sao chuyên đề vẫn nghiên cứu các giải pháp tạo ra hiệu quả trong hoạt động đó. Bởi cả người phân tích lẫn công ty đều muốn công ty tốt hơn hiện tại. Để có hiệu quả trong dài hạn thì trước hết hãy đảm bảo hiệu quả trong ngắn hạn. Để có hiệu quả trong toàn bộ hoạt động thì trước hết hoạt động tài chính hãy đảm bảo hiệu quả. Trên cơ sở quan niệm đó chuyên đề nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty.
Qua nghiên cứu cho thấy công ty còn một số tồn tại nhưng đó không phải là quá nghiêm trọng vì dù sao công ty cũng là thế hệ “sinh sau đẻ muộn” nên tránh được những tồn tại cố hữu của thế hệ đi trước. Các giải pháp không quá kỳ vọng vào việc chuyển biến hoàn toàn những tồn tại và nâng cao hơn nữa những kết quả đạt được mà chỉ mong muốn đóng góp ý kiến vào công việc quản trị tài chính ngắn hạn cuả công ty. Các ý kiến này có thể đúng, có thể sai nhưng chỉ qua thực tế mới đánh giá được điều đó mà thực tế thì nhà quản trị tài chính của công ty có thể áp dụng các giải pháp này không lại là vấn đề khó có thể trả lời.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng công tác quản lý tài chính ngắn hạn tại công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng.doc