Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam 2005 - 2009

Thứ nhất, doanh nghiệp cần chủ động huy động vốn từ mọi hỡnh thức. Vốn luụn là một yếu tố đầu vào quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Để duy trỡ và phỏt triển hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn luôn là một yếu tố quan trọng, nguồn vốn càng đa dạng bao nhiêu thỡ càng san sẻ bớt rủi ro trong quỏ trỡnh sử dụng vốn.Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có nhiều doanh nghiệp, tập đoàn có vốn lớn gấp hàng chục, thậm chí là hàng trăm, hàng nghỡn lần so với cỏc doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ của ta. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phát triển trong một môi trường kinh doanh mà áp lực cạnh tranh và sự biến động kinh tế là rất lớn. Điều này đũi hỏi cỏc doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế cần có sự chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt là nguồn vốn. Vỡ thế doanh nghiệp cần huy động mọi nguồn vốn để thực hiện đầu tư phát triển. Nguồn vốn có thể là từ vốn tự có của các doanh nghiệp, huy động vốn từ các tổ chức kinh tế khác thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu, thậm chí có thể huy động vốn từ các nhân viên của doanh nghiệp. Thứ hai.tận dụng tối đa hiểu biết về thị trường trong nước. Cho dù các tập đoàn bán lẻ có tập trung đầu tư nghiên cứu thị trường thỡ cũng khụng thể hiểu hết về thị trường Việt Nam bằng các doanh nghiệp Việt Nam. Sự hiểu biết về thị trường là một thế mạnh rất lớn của các doanh nghiệp trong nước. Nếu như biết tận dụng tốt thế mạnh này thỡ cỏc doanh nghiệp trong nước có thể vững vàng cạnh tranh cùng các tập đoàn nước ngoài. Điều này đó được chứng minh rất rừ bởi sự thành cụng của cỏc nhà bỏn lẻ Hàn Quốc để cạnh tranh và giữ được vị thế của mỡnh, ngoài việc khai thỏc triệt để ưu thế về độ quen thuộc, thông hiểu tập quán, sở thích tiêu dùng của người dân; để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị hiếu tiêu dùng của người dân, vốn rất nhanh nhạy với giá cả, chất lượng dịch vụ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần nhanh chóng đổi mới theo phương pháp quản lý kinh doanh hiện đại và chuyờn nghiệp.

doc61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2396 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam 2005 - 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự thành lập hiệp hội sẽ hứa hẹn những bước phát triển mới cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Sau khi thành lập, Hiệp hội đã đề ra mục tiêu hoạt động là tập trung hỗ trợ và nâng cao năng lực cho các nhà bán lẻ Việt Nam, từng bước hình thành hệ thống bán lẻ Việt Nam với quy mô lớn và tính chuyên nghiệp cao. 2.3.1.4 Phục vụ người tiêu dùng tốt hơn 2.3.1.4.1 Về giá cả Trong bối cảnh giá cả thị trường ngày càng tăng, giá sẽ là yếu tố quyết định tạo nên doanh thu và sức mua cho siêu thị. Với tiềm lực tài chính dồi dào, các doanh nghiệp FDI có lợi thế trong việc giảm giá hàng hóa bằng những phương thức kinh doanh mua tận gốc, bán tận ngọn và những cách thức tổ chức, quy hoạch vùng chuyên canh thực phẩm và hàng hoá cho toàn bộ hệ thống đã giúp các tập đoàn này tiết kiệm được tầng chi phí trung gian và chủ động kiểm soát chất lượng hàng hoá.Trong những năm gần đây, hệ thống siêu thị Metro Cash & Carry đã thu hút khách hàng bằng chiến lược về giá. Các siêu thị của Metro thường xuyên cung cấp hàng hóa các loại với giá luôn rẻ hơn so với mức giá bình quân của các siêu thị khác trong nước khoảng 10 - 15%, chỉ bằng giá bán buôn ở các chợ đầu mối bán buôn lớn như Đồng Xuân (Hà Nội), Bến Thành (Thành phố Hồ Chí Minh). Vì thế nên dù ở vùng ngoại thành thì thứ 7 & Chủ nhật, những siêu thị này cũng đón nhận một lượng khách hàng rất lớn đổ về. Siêu thị Big C cũng thu hút khách hàng bằng chiến lược giá của mình bằng phương thức kinh doanh mua tận gốc, bán tận ngọn nhờ biết cách tổ chức, qui hoạch vùng chuyên canh thực phẩm và hàng hoá cho toàn bộ hệ thống đã giúp các tập đoàn này tiết kiệm được tầng chi phí trung gian và chủ động kiểm soát chất lượng hàng hoá. Nhờ vậy, Big C đã có một số lượng lớn các mặt hàng sản xuất độc quyền với thương hiệu “WOW giá hấp dẫn và sẽ tăng them chủng loại trong thời gian tới. 2.3.1.4.2. Về số lượng Sự đa dạng, phong phú về diện hàng hoá cung cấp trong các siêu thị của các tập đoàn nước ngoài cũng là một ưu thế cạnh tranh rất đáng kể đối với nhiều doanh nghiệp phân phối trong nước. Tại Zen plaza, đã có tới hơn 240 nhãn hiệu thời trang trong và ngoài nước và nếu tính trung bình một siêu thị trong hệ thống của Metro thường xuyên cung cấp khoảng 15.000 mặt hàng các loại thì chắc chắn không có nhiều siêu thị của doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng được. 2.3.1.4.3 Về chất lượng Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ không chỉ chú ý vào chiến lược giá mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng chiến lược về chất lượng sản phẩm. Từ tâm lý của người tiêu dùng Việt Nam không tin tưởng vào hàng hóa được doanh nghiệp Việt Nam cung cấp, các doanh nghiệp phân phối nước ngoài đã rất chú ý đến chất lượng sản phẩm được cung ứng trong hệ thống phân phối bán lẻ của mình. Như đã nói ở trên, hệ thống siêu thị Metro Cash & Carry đã liên kết với thiết lập được mối liên kết chặt chẽ với khoảng hơn 1.000 nhà cung cấp hàng hoá và khoảng 15.000 hộ nông dân, 15 lò mổ gia súc ở Việt Nam. Công tác quản lý chất lượng và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đã được Metro phối hợp với Sở Y tế và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện ngay từ đầu thông qua quy trình công nghệ sạch với các nhà cung ứng sản phẩm theo tiêu chuẩn Metro dựa trên các quy định hiện hành của Việt Nam. Những khách hàng đến đây không chỉ hài lòng về giá cả mà còn yên tâm về chất lượng sản phẩm. Không chỉ là đảm bảo chất lượng hàng hóa mà các doanh nghiệp FDI còn mang đến người tiêu dùng Việt Nam những thương hiệu hàng hóa nổi tiếng trên thế giới như CK (Anh); Mo&Co (Pháp)... 2.3.1.4.4 Về những dịch vụ chăm sóc khách hàng Những tập đoàn bán lẻ đầu tư vào Việt Nam không chỉ chú ý tới giá cả và chất lượng sản phẩm mà những khách hàng đến mua sắm tại đây còn được hưởng những dịch vụ chăm sóc khách hàng khá chu đáo. Tại siêu thị Metro, dịch vụ hậu mãi rất được chú trọng. Metro phát hành phiếu trả hàng cho tất cả hàng hóa trả lại trong tình trạng còn tốt trong vòng 3 ngày và kèm theo hóa đơn, hệ thông siêu thị BigC thì triển khai dịch vụ xe buýt 2 chiều miễn .Bằng những dịch vụ chăm sóc khách hàng, các doanh nghiệp FDI đã khẳng định đẳng cấp của mình trên thị trường Việt Nam và luôn là những doanh nghiệp dẫn đầu về doanh thu bán lẻ. Như vậy, hơn 86 triệu người tiêu dùng VN được hưởng lợi nhiều hơn từ việc mở cửa thị trường theo cam kết WTO với ý nghĩa là họ sẽ được tiêu dùng nhiều hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, giá rẻ hơn; được hưởng các dịch vụ với tiện ích tốt hơn, tính chuyên nghiệp cao hơn …Những lợi ích đó sẽ không chỉ các doanh nghiệp FDI mà các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ mang lại cho người tiêu dùng bởi vì tất cả: trong nước cũng như nước ngoài muốn tồn tại được đều phải thông qua quá trình cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Cạnh tranh mang đến lợi ích cho người tiêu dùng.   2.3.1.5 Hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phân phối bán lẻ, sự hài lòng của khách hàng là chìa khóa cho những thành công của doanh nghiệp. Mà để làm hài lòng khách hàng thì cách tốt nhất là cung ứng những hàng hóa tốt nhất, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Nhưng các doanh nghiệp phân phối bán lẻ lại không trực tiếp sản xuất, vì thế để nâng cao chất lượng cho hàng hóa của mình, các doanh nghiệp FDI đã nỗ lực trong việc hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, con giống hoặc nguyên vật liệu cho nông dân và những doanh nghiệp sản xuất. Người nông dân khi liên kết với những doanh nghiệp này cũng có thể chú tâm vào việc canh tác mà không phải bận tâm về việc phân phối sản phẩm của mình. Từ khi có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối sản xuất của nhà nông cũng trở nên sôi động. Sản phẩm nông nghiệp được đưa đến tay người tiêu dùng thông qua các nhà phân phối bán lẻ. Tại Daklak, Metro Cash & Carry cùng với Saigon Co.op hợp tác cùng với ngành trồng bơ Daklak sản xuất trái bơ và giới thiệu trái bơ tới người tiêu dùng. Hơn nữa, do những tập đoàn bán lẻ có hệ thống cửa hàng, siêu thị của mình trên khắp thế giới, từ đó các tập đoàn này đã tạo điều kiện cho nhà sản xuất Việt Nam được xuất khẩu hàng hóa . Trong năm 2006, 730 container hàng Việt Nam vào bán ở các siêu thị nước ngoài thông qua hệ thống siêu thị Big C và dự kiến sẽ bán 3.000 container cà phê, thuỷ hải sản, hàng may mặc, hạt điều… và nhiều sản phẩm khác vào năm 2010. Như vậy các nhà sản xuất trong nước, đặc biệt là nông dân đã có cơ hội để phát triển và ổn định sản xuất cũng như nâng cao trình độ sản xuất thông qua mối liên kết ngày càng chặt chẽ với những nhà phân phối hiện đại, có quy mô lớn và hoạt động một cách chuyên nghiệp. Từ đó, họ sẽ có thể tạo ra được thu nhập cao hơn từ việc cung cấp cho các nhà phân phối này những sản phẩm có chất lượng tốt hơn. 2.3.2 Tác động tiêu cực 2.3.2.1 Biến đổi trong tình trạng việc làm Sự biến đổi trong tình trạng việc làm có thể được coi là một trong những mặt tác động đáng quan tâm nhất đối với Việt Nam khi mở cửa thị trường dịch vụ của mình theo các cam kết trong WTO. Với đặc điểm của một thị trường còn mang nặng tính truyền thống, hoạt động phân phối được thực hiện qua hệ thống các chợ truyền thống và cửa hàng nhỏ lẻ của tư nhân vẫn chiếm đa số... thì mối quan tâm này là hoàn toàn có cơ sở. Như đã trình bày ở các phần trên, sự cạnh tranh giữa khu vực các nhà phân phối chuyên nghiệp với các hộ kinh doanh cá thể là không cân sức. Trong khi các nhà phân phối chuyên nghiệp có khả năng để thay đổi phương thức kinh doanh cũng như mở rộng quy mô phân phối để đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng thì khu vực các hộ kinh doanh nhỏ lẻ không có điều kiện để làm được điều này. Trong thời gian trước đây, khi nước ta chưa có những cam kết mở cửa dịch vụ phân phối bán lẻ, sự lấn át của những nhà phân phối chuyên nghiệp trong nước với khu vực các hộ kinh doanh nhỏ lẻ cũng vẫn sẽ diễn ra nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều do họ không gặp phải áp lực mới về việc thay đổi phương thức kinh doanh cũng như củng cố hệ thống một cách để cạnh tranh một cách cấp bách. Tuy nhiên, hiện nay, trước sự nhận biết ngày càng rõ về nguy cơ phải đối đầu với các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài sẽ sớm có mặt tại Việt Nam, các nhà phân phối chuyên nghiệp trong nước trong thời gian qua đã ngay lập tức có những phản ứng nhanh chóng để nâng cao sức cạnh tranh chuẩn bị đối đầu với các nhà phân phối nước ngoài. Và điều này tất yếu dẫn tới sự thu hẹp dần thị phần của khu vực các hộ kinh doanh cá thể. Kết quả là sẽ có những hộ kinh doanh bị đánh bật khỏi thị trường mà chưa kịp chuẩn bị để chuyển sang hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực khác. Về mặt xã hội, lượng lao động bị thất nghiệp do kết quả của tình trạng này sẽ là sức ép trực tiếp tạo ra cho các cơ quan nhà nước trong việc tạo việc làm mới. Nếu xét tới số lượng khoảng 900 nghìn hộ kinh doanh cá thể kiểu này ở Việt Nam và thời điểm mở cửa thị trường dịch vụ phân phối theo cam kết không còn xa thì rất có thể tác động này sẽ là không nhỏ. 2.3.2.2 Biến đổi trong tình trạng thu nhập xã hội Rõ ràng là sự biến đổi trong tình trạng việc làm sẽ kéo theo sự thay đổi trong tình trạng thu nhập của những nhóm đối tượng liên quan. Nhóm đối tượng có thể chịu nhiều tác động nhất từ việc mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam theo cam kết WTO là các hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ phân bố rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước. Điều đáng lưu ý là những hộ kinh doanh này lại hầu hết thuộc về khu vực dân cư có thu nhập thấp trong xã hội. Vì vậy, một khi tình trạng thất nghiệp diễn ra, thu nhập bị giảm sút thì khoảng cách về thu nhập giữa nhóm đối tượng này với các nhóm đối tượng khác trong xã hội sẽ càng bị nới rộng. Khi đó, gánh nặng về giải quyết vấn đề an sinh xã hội và phân phối lại thu nhập của nhà nước sẽ càng nặng nề hơn. Trước tình trạng mất việc làm và giảm sút trong thu nhập của các hộ kinh doanh nhỏ lẻ có thể còn tạo ra những tác động gián tiếp khác rất đáng lưu ý như là khả năng gia tăng về tệ nạn xã hội, về tình trạng bỏ học... của các thành viên trong các hộ gia đình trước đây có thu nhập chủ yếu từ hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ này. Một đặc điểm dễ thấy và khá đặc trưng của các hộ kinh doanh nhỏ lẻ ở Việt Nam là mức thu nhập thấp và là nguồn duy nhất để bảo đảm cuộc sống cho các thành viên trong gia đình. Vì vậy, một tác động làm thay đổi tình trạng thu nhập từ cửa hàng cũng có thể ảnh hưởng tới nhiều thành viên khác trong gia đình đó. Hơn thế nữa, những thành viên trong các hộ gia đình này lại thường thuộc diện dễ bị tổn thương bởi những tác động từ bên ngoài do khả năng tự trang bị kiến thức và trình độ để đối phó với những thay đổi bên ngoài là không cao. 2.3.2.3 Các doanh nghiệp FDI tạo ra sự lũng đoạn thị trường Việc thu hút số lượng lớn các khách hàng của các siêu thị và trung tâm thương mại có thể dẫn đến tình trạng phá sản dây chuyền của nhiều hộ cá thể buôn bán nhỏ lẻ. Vì thế các cơ sở sản xuất nhỏ thường phải phụ thuộc vào các tập đoàn phân phối. Sự phụ thuộc vào các tập đoàn phân phối nước ngoài cũng có thể phải trả một giá đắt vì ảnh hưởng chi phối của nó đến các nhà cung cấp nhỏ. Các siêu thị thường đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và chất lượng rất cao đối với người nông dân, nếu đáp ứng thì họ sẽ mua với khối lượng khổng lồ. Để đáp ứng được yêu cầu rất cao của các siêu thị, người nông dân phải đầu tư máy móc thiết bị, giống, phương pháp canh tác, nhưng họ lại không có vốn và phải đi vay ngân hàng, nếu các nhà phân phối nước ngoài không mua hàng, họ sẽ bị rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điều này không dễ dàng gì so với trước đó khi họ chỉ phải chuyển tất cả nông sản làm ra với các hình thức khác nhau tới các chợ. Đối với hàng gia dụng và trang trí là mặt hàng có thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, các tập đoàn phân phối nước ngoài thường áp dụng mức giá cao trong các đơn đặt hàng các sản phẩm gia công đồng thời cũng đặt ra các quy định ngặt nghèo về thời hạn giao hàng, sử dụng lao động, nguồn nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ. Có đối tác lo đầu ra, các doanh nghiệp nhỏ chỉ phải tập trung sản xuất, không phải lo các khâu bao bì, thiết kế, marketing, xây dựng hệ thống phân phối và tạo dựng thương hiệu, nên hình thức liên kết này thu hút nhiều nhà sản xuất nhỏ, nhưng sau đó, phía nước ngoài càng giảm giá đặt hàng, các nhà sản xuất trong nước bị lỗ nặng. Tiền vốn đổi mới công nghệ theo yêu cầu của nhà phân phối hàng hóa nước ngoài lại là vay của ngân hàng, không bán được hàng nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Với vốn đầu tư lớn, mặt hàng kinh doanh rộng, hệ thống quản lý bán hàng, lưu kho, vận chuyển có tính ưu việt, các khâu Logistics được thực hiện với độ chuyên nghiệp cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước; các tập đoàn phân phối nước ngoài hàng hóa sẽ dần khống chế hệ thống phân phối hàng hóa nội địa. Như vậy, rõ ràng là việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ sẽ cùng lúc tạo ra những tác động tích cực và tiêu cực không chỉ đối với sự phát triển của lĩnh vực này mà còn đối với sự phát triển trong nhiều mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung. Mặc dù rất khó để có thể lượng hoá và so sánh được những lợi ích và tổn thất có thể tạo ra, song trên cơ sở xem xét những đặc điểm, tính chất cũng như xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam như đã trình bày ở những phần trên, có thể đưa ra nhận định chung là Việt Nam nhận được những lợi ích nhiều hơn là những thiệt hại đối với dòng vốn này. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG TỐT NHẤT NGUỒN VỐN FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ VIỆT NAM 3.1 Thời cơ và thách thức trong việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ Việt Nam 3.1.1 Thời cơ 3.1.1.1 Xu hướng đầu tư của thế giới Trên thế giới hiện nay toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng mà bản chất của nó là sự mở rộng thị trường theo các định chế song phương, khu vực và toàn cầu. Thông qua các cam kết về mở cửa thị trường mà sự phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia trong lĩnh vực phân phối ngày càng lớn mạnh. Sự hình thành nên các hãng phân phối lớn xuyên quốc gia và đa quốc gia có mạng lưới phủ khắp toàn cầu đã trở thành một thế lực mạnh, áp đặt cuộc chơi cho các nhà sản xuất. Trong lĩnh vực bán lẻ, xuất hiện sự thay thế các cửa hàng quy mô nhỏ, độc lập bằng những hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm…. Tập đoàn Wal-Mart (Mỹ) có tới 7.343 cửa hàng trên 14 quốc gia, Carefour (Pháp) có 15.000 cửa hàng trên 30 nước. Như đã nói ở trên, cả hai tập đoàn này đã lên kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam. Điều đó sẽ mang đến những tác động không nhỏ đến lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực phân phối bán lẻ nói riêng. Vai trò của FDI trong khu vực dịch vụ khác với trong lĩnh vực chế tạo, với số lượng việc làm tạo ra ít hơn và giá trị gia tăng cũng ít hơn. Sáp nhân và thôn tính (M&A) là những hình thức thâm nhập thị trường nhanh nhất và thực tiễn nhất. Sự tăng trưởng FDI vào lĩnh vực dịch vụ ngày càng được tiếp sức bởi sức ép cạnh tranh ở thị trường trong nước, dẫn đến việc các công ty xuyên quốc gia phải tìm kiếm thị trường mới để phát huy lợi thế cạnh tranh của họ. . Sự chi phối của các dịch vụ tài chính đã giảm xuống, còn các dịch vụ máy tính, giải trí, sức khỏe và bán lẻ đã nổi lên chiếm ưu thế. Tiêu dùng ở các nước Châu Á đang ngày càng gia tăng và đây là một trong những thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn phân phối hàng hóa lớn trên thế giới. Một đặc điểm chung của các nước Châu Á là hệ thống phân phối hàng hóa còn mang nặng tính sản xuất nhỏ, các cửa hàng bán lẻ kiểu gia đình, quy mô nhỏ, hình thức mua bán trên thị trường chủ yếu là các giao dịch ngẫu nhiên theo kiểu mua đứt bán đoạn. Hệ thống phân phối hàng nông sản chủ yếu qua các chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Điều này lại càng thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo quy mô lớn để thu hút lượng khách hàng phân tán trên thị trường. Tuy nhiên tại Châu Á, thời gian qua có một số nước bất ổn về tình hình chính trị do bạo loạn, khủng bố nên đã ảnh hưởng không ít đến hoạt động đầu tư. Hiện nay, Việt Nam đang được coi là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư thế giới vì tình hình chính trị ổn định, môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư cũng đã tương đối hoàn chỉnh, cùng với việc nền kinh tế Trung Quốc phát triển quá nóng khiến các nhà đầu tư tìm hướng đầu tư vào Việt Nam càng tăng. 3.1.1.2 Xu hướng chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam Trong những năm qua, sự gia tăng trong chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam luôn đạt tốc độ cao, hứa hẹn những tiềm năng rất lớn cho sự phát triển của thị trường phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới. Hơn nữa, tỉ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam đạt khoảng trên 70%, thuộc loại cao so với các nước trong khu vực như Singapore 57%, Malaysia 59%, Thái Lan 68%... cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự gia tăng mạnh trong tiêu dùng trong nước của Việt Nam Sự thay đổi trong cách thức mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam diễn ra khá mạnh trong những năm qua và đang cho thấy xu hướng chuyển dịch mạnh từ việc mua sắm trong các khu chợ truyền thống sang các siêu thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Trong một cuộc điều tra mới đây được thực hiện ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có tới 70% người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và 20% ở Hà Nội cho rằng họ thích mua sắm ở các siêu thị hơn là ở các khu chợ truyền thống ngoài trời. Trong năm 2010, số người đi siêu thị đã tăng từ 21% lên 43% và số tiền chi tiêu cho mỗi lần mua sắm cũng tăng hơn 20%. Theo dự đoán, trong mười năm tới, con số này có thể tăng lên tương ứng là 90% ở Thành phố Hồ Chí Minh và 50% ở Hà Nội. Điều này cho thấy sự thay đổi khá nhanh và mạnh trong cách thức của người dân Việt Nam đối với việc mua sắm hàng hoá. 3.1.1.3 Thực hiện các cam kết với quốc tế Về các quan hệ song phương, đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 160 quốc nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần, có thoả thuận đối xử Tối huệ quốc 81 quốc gia. Một số hiệp định quan trọng như Hiệp định thương mại Việt Nam - Trung Quốc (1991), Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc (1992), Hiệp định khung với Liên minh châu âu (EU) (1992),Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (2000),Hiệp định hợp tác đầu tư với Nhật Bản (2003)..Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ. Về các quan hệ đa phương toàn cầu và khu vực, Việt Nam đã khai thông và nối lại quan hệ với Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) (1993); gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) năm 1998; tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) năm 2001. Việt Nam đã kết thúc thành công 14 phiên đàm phán đa phương và song phương với 28 nước thành viên của WTO có yêu cầu đàm phán. Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, mở ra những cơ hội to lớn đối với phát triển kinh tế nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế mở cửa thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ, trong đó có dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa. Cam kết quốc tế về mở cửa thị trường trong lĩnh vực phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam bao gồm các cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ASEAN+ (ASEAN với các đối tác) và cam kết trong khuôn khổ WTO. Dịch vụ phân phối hiện nay đã được mở cửa cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Nhật Bản (theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt Nam - Nhật Bản). Gia nhập WTO, trong thời gian tới, dịch vụ phân phối sẽ được tiếp tục mở cửa cho các nước thành viên khác. Đến 01/01/2009, Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ 100% vốn đầu tư nước ngoài đối với hầu hết các mặt hàng. Ngoài sự mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp FDI trong nước, theo bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ có một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đã đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam. Trong số đó có Tesco của Anh, tập đoàn bán lẻ đứng thứ 6; Wal-Mart - nhà bán lẻ lớn nhất thế giới, và Carrefoul, nhà bán lẻ lớn thứ hai thế giới cũng đã đưa Việt Nam vào kế hoạch mở rộng các thị trường trọng điểm trong thời gian tới. Hệ thống phân phối hàng hóa tại Việt Nam hiện nay chủ đạo bởi hệ thống phân phối truyền thống với kênh phân phối chính là chợ và các tiệm bán lẻ rải rác khắp các địa phương. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại với các siêu thị như Co.opMart, MaxiMark... và các trung tâm bán buôn, bán lẻ lớn như Metro, BigC đã dần dần tạo nên những thay đổi trong thói quen mua sắm của dân cư, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Tại các đô thị lớn - nơi có sức mua lớn nhất, nhịp sống dần dần được thay đổi trong các gia đình trẻ bởi thói quen cuối tuần đi siêu thị mua đồ dùng cho cả gia đình trong một tuần. Thêm nữa, sự chênh lệch về phương thức kinh doanh, sự đa dạng hàng hóa, giá cả, nhãn hiệu, an toàn thực phẩm... đã nghiêng cán cân lợi thế về phía hệ thống phân phối hiện đại. Như vậy, với việc thực hiện các cam kết quốc tế, hệ thống phân phối trong nước ngày càng đa dạng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà phân phối nước ngoài. Lĩnh vực phân phối bán lẻ của nước ta sẽ có cơ hội trở thành một ngành công nghiệp bán lẻ tiên tiến theo kịp với xu hướng chung của khu vực và thế giới. 3.1.2 Thách thức 3.1.2.1 Cơ sơ hạ tầng yếu kém. Sự khan hiếm mặt bằng kinh doanh là một trở ngại đối với việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ. Ở nước ta hiện nay, hầu hết các mặt bằng hiện hữu không đạt tiêu chuẩn quốc tế và để đảm bảo chỗ đứng cho mình, nhiều nhà kinh doanh bán lẻ quốc tế đã phải chọn giải pháp cải tạo lại các cửa hàng mặt tiền trong khi chờ đợi những mặt bằng có chất lượng tốt hơn. Do thiếu mặt bằng nên giá thuê trung bình tại TP.HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng kể từ năm 2002 và đạt mức 40 USD/m2/tháng vào cuối quí III năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến 200 USD/m2/tháng Hiện nay công suất thuê mặt bằng tại các thành phố lớn nước ta đều đạt trên 95% và nhu cầu thuê mặt bằng đang tăng mạnh. Có nhiều trung tâm thương mại đến nay vẫn đang trong quá trình xây dựng nhưng các nhà kinh doanh cũng đã đăng ký  thuê kín chỗ. 3.1.2.2 Phong cách tiêu dùng của người dân vẫn mang nặng tính truyền thống Phần lớn dân cư nước ta vẫn chưa thích ứng được với các mô hình mua sắm hiện đại. Vì vậy, ở trong nước, dù những tập đoàn bán lẻ lớn như Big C, Metro đang kinh doanh rất thành công, thì hệ thống phân phối truyền thống gồm gần 9.000 chợ vẫn đang hoạt động hiệu quả và thu hút một lượng lớn dân cư thuộc mọi tầng lớp, đặc biệt là những người có mức thu nhập trung bình, thấp và những người hưu trí. Những người tiêu dùng trong nước hàng ngày vẫn tiếp cận với những nguồn hàng hoá tại chợ gần với nơi họ sinh sống hoặc tại các cửa hàng ven đường. Điều đó cho thấy, mặc dù nhu cầu ngày một gia tăng, nhưng điều đó chưa đủ để có thể thay đổi tập quán, thói quen tiêu dùng. Người Việt Nam vốn quá quen với văn hóa chợ và cửa hàng tạp hóa nên để người tiêu dùng có thể thay đổi hành vi mua sắm ở các cửa hàng bán lẻ hiện đại, họ cần thời gian thích nghi. Yếu tố này thường dễ làm các nhà đầu tư nản lòng. 3.1.2.3 Mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất trong nước và bán lẻ nước ngoài Khi các doanh nghiệp bán lẻ vào Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp phân phối hàng tiêu dùng, một điều họ khá quan tâm là nguồn cung hàng hóa trong nước. Đa phần các nhà sản xuất đều mong muốn sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của thị trường, với hàng may mặc thì nhà sản xuất phải có nhiều bộ siêu tập trong năm, các yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật phải đảm bảo, đồng thời phải giao hàng đúng thời hạn, giá cả được trả theo đúng thỏa thuận hai bên đã cam kết. Song sản xuất của chúng ta quy mô nhỏ, đôi khi không thể hoàn thành đơn hàng đúng thời hạn. Chất lượng sản phẩm không đúng theo yêu cầu và dẫn đến tình trạng có những nhà sản xuất đưa tiền cho nhân viên siêu thị để được có mặt trong hệ thống của họ. Đặc biệt về hàng hóa thời trang như may mặc, giày dép, mặc dù chúng ta có thể xuất khẩu nhưng hầu hết vẫn phải nhường chỗ cho thương hiệu nước ngoài trong những trung tâm mua sắm sang trọng như Parkson, Zen plaza… Hơn nữa, đối với các nhà phân phối lớn như Metro, Walmart…thì họ cần một lượng hàng hóa tập trung mà chỉ có những doanh nghiệp sản xuất lớn mới có thể có khả năng đáp ứng những điều kiện của họ. Còn những nhà sản xuất nhỏ yếu về kinh nghiệm, tài chính, nguồn lực thì khó có thể cạnh tranh để có được một vị trí tốt trên những quầy kệ, siêu thị của hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại này. 3.1.2.4 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn hạn ché Gia nhập WTO và mở cửa thị trường là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là những lĩnh vực đã được nhà nước bảo hộ mạnh mẽ đến thời điểm hiện nay. Vì được bảo hộ nên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này rất yếu kém và nếu không kịp thời đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh thì rất dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất và kinh doanh và dẫn tới phá sản là điều khó tránh khỏi. Phân phối bán lẻ là lĩnh vực tác động không chỉ đến tiêu dùng mà còn đến cả sản xuất. Nếu các doanh nghiệp trong nước không đứng vững được trên thị trường nước nhà thì nguy cơ bị các tập đoàn bán lẻ nước ngoài lũng đoạn thị trường là điều khó tránh khỏi. Vì thế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam là một bài toán khó của tiến trình mở cửa thị trường. Nếu doanh nghiệp Việt Nam đủ lớn mạnh để phân chia thị phần với các doanh nghiệp nước ngoài thì lợi ích cho việc mở cửa thị trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phân phối bán lẻ là không nhỏ. Do đó để có thể tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực này thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp là điều khá cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 3.2 Gỉải pháp 3.2.1 Bài học từ nước ngoài 3.2.1.1 Hàn Quốc Sau 8 năm hoạt động ở Hàn Quốc,tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới Wal-Mart đã tuyên bố rút lui khỏi thị trường này bằng cách bán hết các cơ sở của mình cho tập đoàn bán lẻ nội địa Shinsegae với giá gần 900 triệu USD.Trước đó khoảng 1 tháng,tập đoàn bán lẻ lớn là Carrefour của Pháp cũng gây nên một cơn “địa chấn” tương tự khi bán lại hệ thống cửa hàng ở Hàn Quốc với giá gần 2 tỉ USD.Vì sao các nhà bán lẻ Hàn Quốc có thể chiến thắng trước các đại gia mạnh nhất của ngành bán lẻ thế giới? Giải thích cho quyết định rút lui khỏi thị trường Hàn Quốc,cả Carrefour và Wal-Mart đều nói rằng đó là do chiến lược tập trung cho thị trường Trung Quốc.Tuy nhiên,theo giới phân tích,lý do chính là cả 2 gã khổng lồ này đã thất bại trong việc cạnh tranh với các nhà bán lẻ nội địa vốn có khả năng xoay trở nhanh và hiểu rõ thị hiếu tiêu dùng của người dân. Sau 8 năm thâm nhập thị trường Hàn Quốc, Wal-Mart mới chỉ chiếm được 4% thị phần, xếp thứ 5 sau Shinsegae với 30% thị phần, Tesco với 17% thị phần, Lotte Shopping 12% và Carrefour khoảng 8%... Tính riêng năm 2005, doanh thu của Wal-Mart tại thị trường Hàn Quốc chỉ đạt khoảng 800 triệu USD, thua lỗ đến 10 triệu USD.Khi bắt đầu hoạt động tại thị trường Hàn Quốc, có tổng giá trị khoảng 120 tỉ USD mỗi năm, cả Carrefour và Wal-Mart đều làm dấy lên làn sóng lo ngại trong các nhà phân phối hàng hóa nội địa. Họ cho rằng với kinh nghiệm quản lý của một tập đoàn đa quốc gia và có vốn lớn, chẳng mấy chốc hai đại gia này sẽ “thôn tính” và thao túng thị trường bán lẻ Hàn Quốc như đã từng làm ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Thế nhưng, thực tế xảy ra hoàn toàn ngược lại. Mới đầu, người dân Hàn Quốc đổ xô tới các cửa hàng của Wal-Mart và Carrefour vì tò mò muốn thử mua sắm theo phong cách phương Tây với những núi hàng ngồn ngộn. Tuy nhiên, hàng hóa ở hai chuỗi cửa hàng này thường được đóng gói rất kỹ và kiểu cách nên nhiều khách hàng tỏ ra e ngại khi muốn xem xét cẩn thận món hàng mà họ muốn mua.Ở các cửa hàng của Wal-Mart và Carrefour hiếm khi thấy nhân viên hướng dẫn để giải đáp những thông tin liên quan đến sản phẩm mà khách hàng cần biết trước khi quyết định có nên mua hay không.Trong khi đó, các cửa hàng của Hàn Quốc thường sắp xếp hàng hóa theo hướng thuận tiện nhất cho khách hàng quan sát, so sánh các mặt hàng cùng loại với nhau. Nhân viên bán hàng trong các cửa hàng của Hàn Quốc cũng thường xuyên có mặt để kịp thời trả lời hoặc hướng dẫn khi khách hàng cần đến. Về chủng loại hàng hóa thì trong khi Carrefour và Wal-Mart tỏ ra vượt trội với những mặt hàng như đồ điện, điện tử, quần áo, túi xách, giày dép... nhập từ khắp nơi trên thế giới thì các cửa hàng nội địa lại có ưu thế trong nhóm hàng thực phẩm tươi sống và thức uống. Trên thực tế, chính các chuỗi cửa hàng của doanh nghiệp Hàn Quốc với ưu thế về sự thông hiểu tập quán, sở thích tiêu dùng của người dân đã đáp ứng rất tốt nhu cầu của khách hàng.Các chuỗi cửa hàng nội địa còn giữ chân khách hàng bằng chính sự đón tiếp thân mật, các nhân viên luôn nở nụ cười trên môi và sẵn sàng cúi gập người chào khách hay giúp khách chuyển hàng hóa lên xe. Cách thiết kế hệ thống cửa hàng cũng có chuyện đáng nói. Từ trước khi các tập đoàn nước ngoài chính thức thâm nhập thị trường nội địa, các tập đoàn phân phối của Hàn Quốc đã nhanh chóng “xí phần” những vị trí tốt nhất để mở cửa hàng. Điều này góp phần tạo ra khó khăn cho các đại gia khi muốn bành trướng hoạt động.Mặt khác, trong khi các cửa hàng của Wal-Mart và Carrefour được thiết kế theo dạng nhà kho, hàng hóa chất đống nên thiếu tính hấp dẫn thì người tiêu dùng lại tỏ ra thích thú khi bước vào những cửa hàng thoáng đãng, trang trí đẹp và sắp xếp hàng hóa hợp lý của Shinsegae. Một điều nữa giúp các chuỗi cửa hàng nội địa của Hàn Quốc thành công trong cuộc đua với các đại gia nước ngoài là sự liên kết giữa nhà phân phối với nhà sản xuất. Hàng hóa của các nhà sản xuất cung cấp cho các hệ thống cửa hàng bán lẻ luôn đảm bảo đúng tiêu chuẩn đã quy định sẵn.Ngược lại, các nhà phân phối cũng cố gắng giữ giá cả ổn định, kể cả những lúc thị trường có những biến động bất thường. Điều này tạo sự dễ dàng cho cả hai bên tính toán chiến lược sản xuất kinh doanh của mình và làm tăng thêm niềm tin trong quá trình hợp tác. Điểm mạnh nhất của các hệ thống bán lẻ khổng lồ như Wal-Mart, Carrefour là hàng hóa đa dạng và giá rẻ. Nhưng để có được mức giá cạnh tranh như thế, Wal-Mart đã bị kết tội là thường xuyên o ép các nhà cung cấp để mua hàng với giá rẻ mạt.Tuy nhiên, các nhà sản xuất vẫn phải bán hàng cho Wal-Mart vì trên thực tế, đại gia này chính là người luôn mua hàng với số lượng lớn và ổn định nhất. Một khi Wal-Mart không mua hàng nữa thì nhà sản xuất chỉ có nước đóng cửa. Nắm được điều đó, Wal-Mart luôn tìm cách buộc các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau để hạ giá và mua hàng của người bán mức giá thấp nhất.Các hệ thống bán lẻ của Hàn Quốc đã cố gắng làm tốt vấn đề này song song với việc quảng bá hình ảnh trên các phương tiện truyền thông. Điều này góp phần tạo thiện cảm cho người tiêu dùng Hàn Quốc, vốn ngày càng xem trọng vấn đề điều kiện và môi trường làm việc trong xã hội.Ngoài ra, các nhà bán lẻ Hàn Quốc cũng biết lợi dụng điểm yếu của các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia như Wal-Mart là thường xuyên bị dư luận chỉ trích là bóc lột và đối xử không tốt đối với nhân viên cũng như chèn ép các nhà cung cấp hàng hóa. 3.2.1.2 Trung Quốc Các đại gia bán lẻ lớn trên thế giới như Wal-mart, Carrefour, Metro… hiện đã chiếm 80% thị phần bán lẻ Trung Quốc, khiến doanh nghiệp nội có nguy cơ phá sản.Từ 1978 đến 2009, tổng kim ngạch bán lẻ hàng tiêu dùng Trung Quốc tăng khoảng 38 lần. Ước tính, đến 2020, con số này sẽ vượt trên 20 nghìn tỷ USD. Đó là lý do khiến các “đại gia” bán lẻ xuyên quốc gia tranh giành quyết liệt “miếng bánh” tại thị trường lớn nhất hành tinh này.Vậy tại sao họ lại có thể xâm nhập được vào thị trường được coi la khó nhằn như vậy? Các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng thế giới tại Trung Quốc luôn coi khách hàng là thượng đế thực thụ.Theo quy định của Wal Mart, trước những câu hỏi của “thượng đế”, nhân viên không bao giờ được phép nói “tôi không biết”. Dù bận đến đâu, nhân viên cũng phải giúp khách hàng tìm sản phẩm mà họ cần. Trong vòng 3m, nhân viên bán hàng luôn phải mỉm cười với khách hàng.Khi người dân Trung Quốc không thích mua trứng gà đựng trong khay có ngăn, không thích mua rau đã nhặt sạch rễ, các “đại gia” này liền thay đổi ngay cách đóng gói. Trứng gà được đựng trong giỏ nứa; rau xanh được rửa sạch rễ và bày lên giá hàng...Và điều thú vị nhất là, giá cả tại các đại siêu thị này rẻ hơn tại các siêu thị quốc doanh. Trong thời gian ngắn, các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã đua nhau xây dựng các đại siêu thị tại nhiều thành phố lớn, nhỏ ở Trung Quốc và tìm cách mua đứt các doanh nghiệp nội nhằm chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường này. Theo thống kê, giai đoạn 2006 - 2009, đã có gần 200 siêu thị nhà nước phá sản, một số doanh nghiệp quốc doanh khác đã sáp nhập với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài.Đến 2009, đã có hơn 100 tập đoàn bán lẻ lớn nhất toàn cầu vào Trung Quốc, xây dựng trên 500 đại siêu thị, chiếm hơn 80% thị phần bán lẻ ở quốc gia này. Tốc tộ tăng trưởng của ngành bán lẻ do nước ngoài đầu tư đạt trên 50% năm 2009.Đến cuối 2009, 4 tập đoàn bán lẻ lớn nhất là Wal Mart (Mỹ), Carrefour (Pháp), Metro (Đức), Parkson (Malaysia) đã mở hơn 300 siêu thị ở 70 thành phố trên toàn Trung Quốc. Từ 1995 đến nay, Carrefour đã xây dựng hơn 100 đại siêu thị ở Trung Quốc, chiếm gần 1/5 kế hoạch mở rộng trên phạm vi toàn cầu của tập đoàn. Các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới xuất hiện đã thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, song sự lớn mạnh của các đại gia này đã khiến ngành bán lẻ và ngành công nghiệp nhẹ của Trung Quốc khốn đốn.Các công ty bán lẻ trong nước phải đối mặt với nguy cơ phá sản, tỷ lệ công nhân thất nghiệp không ngừng tăng. Theo thống kê, hiện chỉ có khoảng 10 tập đoàn bán lẻ nhà nước của Trung Quốc đạt doanh thu trên 10 tỷ NDT/năm, trong khi doanh thu của 11 hệ thống siêu thị có vốn đầu tư nước ngoài đều đạt 20 tỷ NDT/năm.Nhờ thương hiệu và khả năng kinh doanh tốt, các tập đoàn bán lẻ này luôn tìm cách ép giá, bán phá giá, kéo dài thời gian thanh toán cho nhà sản xuất để quay vòng vốn, hạ giá thành sản phẩm…Sự ưu đãi của chính quyền nhằm thu hút đầu tư nước ngoài khiến các tập đoàn bán lẻ này càng có cơ hội “tung hoành”.Theo tính toán, một siêu thị lớn với diện tích 10.000 m2 có thể thay thế 300 cửa hàng bán lẻ với quy mô nhỏ. Sau khi tập đoàn Carrefour mở siêu thị tại Thượng Hải, trong bán kính 5km, 3 siêu thị quốc doanh Trung Quốc đã lần lượt phá sản. Phương châm kinh doanh “không kiếm lợi nhuận từ người tiêu dùng mà kiếm lời từ nhà sản xuất” được các tập đoàn bán lẻ quốc tế tận dụng triệt để.Các tập đoàn này đã ép các nhà sản xuất phải ký các hợp đồng cung cấp hàng hóa bất lợi. Kết quả điều tra một công ty sản xuất hàng điện gia dụng ở Quảng Đông năm 2009 cho thấy, giá bán buôn các mặt hàng quạt điện, máy ép hoa quả, lò nướng… trung bình giảm 40% so với 10 năm trước. Trước năm 1996, nguồn lợi nhuận thu từ xuất khẩu quạt điện chiếm 20%, nay chưa đầy 5%, số công nhân giảm 1/2, sản lượng không thay đổi, công nhân phải làm việc gần 20 tiếng/ngày…Trước sức ép “giá rẻ tàn khốc” này, tháng 10/2006, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra biện pháp nghiêm cấm tình trạng thu phí bừa bãi và cố tình kéo dài thời gian nợ của nhà bán lẻ đối với nhà sản xuất trong nước. Đồng thời, yêu cầu các nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ những hành vi kinh doanh không đúng đắn của các tập đoàn xuyên quốc gia và đề nghị các nhà sản xuất trong nước cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh, tự lực tự chủ. 3.2.2 Gỉải pháp 3.2.2.1 Về phía Nhà Nước Thứ nhất, thực hiện mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa theo các cam kết quốc tế. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam đồng thời tạo dần sức ép cạnh tranh để buộc các doanh nghiệp trong nước phải đẩy mạnh quá trình đổi mới hoạt động thương mại, đẩy mạnh quá trình liên kết, đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh quá trình tăng trưởng. Mặt khác, thông qua các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, giúp doanh nghiệp trong nước tranh thủ thời gian và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp và của xã hội để vươn lên, đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã và sẽ tham gia vào lĩnh vực phân phối. Thứ hai, Nhà nước cần có các biện pháp xây dựng và quy hoạch tổng thể về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ. Quy hoạch này cần cố gắng đảm bảo độ chuẩn xác cao với tình hình mất cân đối trong việc thu hút vốn đầu tư giữa các vùng, mất cân đối giữa các hình thức đầu tư.Trong thực tế, thu hút vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ một cách cân bằng giữa các vùng là mong muốn của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, để thực hiện được thì lại rất khó. Các dự án lớn của các tập đoàn bán lẻ đều chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn do họ đều đặt các mục tiêu lợi nhuận, doanh thu lên hàng đầu. Do đó nhà nước cần có những chính sách ưu đãi tưng xứng để thu hút nguồn vốn FDI về vùng nông thôn nhằm phát triển cân bằng giữa các vùng và góp phần đô thị hóa nông thôn. Thứ ba, Nhà nước cần có các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư. Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư và quyết định tiến độ thực hiện dự án. Thủ tục rườm rà, sách nhiễu sẽ làm giảm độ hấp dẫn đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, gây trở ngại đến việc thu hút đầu tư. Chính phủ cũng cần sớm nghiên cứu để xây dựng những quy định, nguyên tắc về đánh giá nhu cầu thực tế khi xem xét các đề nghị mở từ điểm bán lẻ thứ hai trở đi của các nhà đầu tư nước ngoài theo đúng các cam kết trong WTO bảo đảm được lợi ích chung của xã hội. chính phủ cần tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng... bảo đảm nhanh chóng và thuận tiện để các doanh nghiệp. đối với hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài thì chủ đầu tư luôn muốn đầu tư vào những nơi có môi trường đầu tư thuận lợi mà trước hết là những nơi có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại. Lĩnh vực phân phối bán lẻ phụ thuộc khá lớn vào những cơ sở hạ tầng đó vì nó liên quan đến sản xuất, vận chuyển, kho chứa, bến bãi….Do vậy nhà nước cần chú trọng phát triển hệ thống đường bộ, đường biển, đường hàng không, hệ thống thông tin liên lạc… Thị trường bán lẻ là lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm và hấp dẫn. Nhạy cảm vì dễ bị tổn thương và hấp dẫn vì có lãi lớn. Vì vậy, Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước hiện nay vẫn mong muốn được nhà nước bảo hộ, hạn chế sự mở rộng và đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài đồng thời có những chính sách đãi ngộ ưu tiên hơn những doanh nghiệp FDI. đó chính phủ cần hạn chế bảo hộ để tạo sức ép cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp lành mạnh, chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp kém hiệu quả bằng cách phá sản, bán lại, cổ phần hóa. Việc bảo hộ lĩnh vực phân phối bán lẻ một mặt là cần thiết nhưng mặt khác lại làm cho nhiều ngành khác thậm chí cả nền kinh tế bị ảnh hưởng. Môi trường chính sách cho dịch vụ ở Việt Nam là một hệ thống khá phức tạp với nhiều loại luật, quy định và các văn bản dưới luật do các Bộ, cơ quan và các chính quyền địa phương ban hành. Kết quả là thiếu minh bạch và điều khá phổ biến là các văn bản này thường mâu thuẫn với nhau. Ngay cả người Việt cũng gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với các văn bản này do đó việc tiếp cận và hiểu được các văn bản đó đối với các công ty nước ngoài còn khó khăn hơn nhiều. Thứ tư, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tiếp cận với nguốn vốn.Một trong những khó khăn lớn nhất của các nhà sản xuất là việc tiếp cận nguồn vốn. Doanh nghiệp nước ta thường là thiếu vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư vào máy móc tiên tiến, nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ của các công nhân sản xuất vì thế nên không ít các cơ sở kinh doanh không thể đáp ứng được yêu cầu của các tập đoàn phân phối nước ngoài. Hỗ trợ các doanh nghiệp này được tiếp xúc với nguồn vốn sẽ giúp nâng cao sản xuất tránh những trường hợp đáng tiếc xẩy ra mà nguyên nhân là do thiếu vốn đầu tư sản xuất. Thứ năm, hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực bán lẻ. Để tạo sự chủ động để tận dụng những cơ hội và đặc biệt là để vượt qua những thách thức cho các chủ thể kinh doanh dịch vụ phân phối của Việt Nam trong tiến trình mở cửa thị trường theo các cam kết trong khuôn khổ WTO, Chính phủ Việt Nam cần đóng vai trò chủ đạo và tích cực trong việc nâng cao nhận thức và hiểu biết của các đối tượng có liên quan trong lĩnh vực phân phối, trong đó tập trung đặc biệt vào khu vực các doanh nghiệp phân phối và các hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ ở trong nước. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ta không tránh khỏi những bỡ ngỡ trước những thay đổi của môi trường kinh doanh mới. Các chính sách định hướng, khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp của Chính Phủ sẽ một phần nào nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Do thời gian trước đây nước ta chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực phân phối bán lẻ cho nên hiện nay các doanh nghiệp nói chung chưa có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực này mà đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và những hộ kinh doanh. Nhà nước nên bố trí ngân sách tập trung theo chương trình để nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật, đổi mới đội ngũ giáo viên và giáo trình về lĩnh vực phân phối cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề để đào tạo các cán bộ quản lý, các nhân viên có kỹ năng hiện đại cho các khâu bán hàng, thanh toán, nghiệp vụ kho hàng. Xây dựng chương trình đào tạo phù hợp và theo kịp xu hướng phát triển của thế giới trong lĩnh vực phân phối. 3.2.2.2 Về phía doanh nghiệp Thứ nhất, doanh nghiệp cần chủ động huy động vốn từ mọi hình thức. Vốn luôn là một yếu tố đầu vào quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn luôn là một yếu tố quan trọng, nguồn vốn càng đa dạng bao nhiêu thì càng san sẻ bớt rủi ro trong quá trình sử dụng vốn.Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có nhiều doanh nghiệp, tập đoàn có vốn lớn gấp hàng chục, thậm chí là hàng trăm, hàng nghìn lần so với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ của ta. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phát triển trong một môi trường kinh doanh mà áp lực cạnh tranh và sự biến động kinh tế là rất lớn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế cần có sự chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt là nguồn vốn. Vì thế doanh nghiệp cần huy động mọi nguồn vốn để thực hiện đầu tư phát triển. Nguồn vốn có thể là từ vốn tự có của các doanh nghiệp, huy động vốn từ các tổ chức kinh tế khác thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu, thậm chí có thể huy động vốn từ các nhân viên của doanh nghiệp. Thứ hai.tận dụng tối đa hiểu biết về thị trường trong nước. Cho dù các tập đoàn bán lẻ có tập trung đầu tư nghiên cứu thị trường thì cũng không thể hiểu hết về thị trường Việt Nam bằng các doanh nghiệp Việt Nam. Sự hiểu biết về thị trường là một thế mạnh rất lớn của các doanh nghiệp trong nước. Nếu như biết tận dụng tốt thế mạnh này thì các doanh nghiệp trong nước có thể vững vàng cạnh tranh cùng các tập đoàn nước ngoài. Điều này đã được chứng minh rất rõ bởi sự thành công của các nhà bán lẻ Hàn Quốc để cạnh tranh và giữ được vị thế của mình, ngoài việc khai thác triệt để ưu thế về độ quen thuộc, thông hiểu tập quán, sở thích tiêu dùng của người dân; để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị hiếu tiêu dùng của người dân, vốn rất nhanh nhạy với giá cả, chất lượng dịch vụ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần nhanh chóng đổi mới theo phương pháp quản lý kinh doanh hiện đại và chuyên nghiệp. Thứ ba, đổi mới khâu tổ chức và quản lý. Để nâng cao chất lượng quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ phân phối nói riêng, áp dụng công nghệ hiện đại là một trong những đòi hỏi cấp thiết trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Cái lợi đầu tiên trong việc đưa công nghệ hiện đại vào quản lý là con người bởi nó làm thay đổi tư duy làm việc của mọi vị trí trong mỗi doanh nghiệp, ứng dụng một hệ thống quản lý hiện đại, ban lãnh đạo doanh nghiệp có được thông tin nhanh chóng và chính xác. Các cấp quản lý có thể tối ưu hóa năng suất tại mỗi công đoạn, hợp lý hóa công việc, giảm chi phí...Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ thông tin thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa cần coi thương mại điện tử là xu thế khách quan, một giải pháp hữu hiệu nhất nhằm rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian, mở rộng hợp tác, quản lý điều hành kinh doanh nhanh chóng kịp thời với mức chi phí hợp lý nhất. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình chiến lược và kế hoạch ứng dụng thương mại điện tử phù hợp với hoàn cảnh của từng doanh nghiệp, xây dựng cho mình các website riêng và tăng cường đầu tư cho ứng dụng thương mại điện tử. Việc tham gia vào đúng lúc, đúng thời điểm với sự chuẩn bị đầy đủ sẽ mang lại những đột phá mang tính bước ngoặt cho công việc kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Thứ tư, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa, đồng thời là yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống siêu thị nội địa đang ngày càng khiến nhiều khách hàng chán nản. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng và quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO để thực sự mang lại hiệu quả trong quản lý điều hành, xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp không những ở trong nước mà cả trên thế giới. Thú năm,nâng cao chất lượng lao động.Nguồn nhân lực được coi là vấn đề sống còn của mỗi một doanh nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa không nằm ngoại lệ. Vốn quý nhất của doanh nghiệp chính là vốn nhân sự, một đội ngũ lao động được đào tạo gắn kết cùng đồng lòng chia sẻ thuận lợi và vượt qua những thử thách gay go của quá trình kinh doanh là điều hết sức quan trọng. Ngành dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa thu hút một lượng lao động lớn, tuy nhiên do đặc thù của ngành nên lao động đến với ngành này phần lớn chưa qua đào tạo, trong khi nguồn cung lao động của ngành dịch vụ phân phối rất dồi dào, thực hiện hoạt động kinh doanh một cách nhỏ lẻ... điều này gây cho ngành dịch vụ phân phối hàng hóa một áp lực cạnh tranh rất lớn sẽ được tạo ra từ phía các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường này khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO. Có thể nói việc mở cửa thị trường dịch vụ phân phối sẽ không chỉ tạo ra những tác động về mặt kinh tế mà còn tạo ra không ít tác động về mặt xã hội ở Việt Nam . Chính vì vậy, việc nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối hàng hóa. Đặc biệt đối với phân phối bán lẻ, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa về đào tạo kỹ năng mềm cho nhân viên như khả năng giao tiếp giữa người với người, đánh giá nhu cầu, kỹ năng thương lượng, các kỹ năng giải quyết vấn đề. Chính những kỹ năng đó sẽ tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ sáu, mở rộng thị trường tới khu vực nông thôn.Thị trường nông thôn đang trở thành một thị trường tiềm năng với khoảng 60 triệu dân và thu nhập ở nông thôn cũng ngày một tăng dần, chuyển đổi cơ cấu hiệu quả sẽ bùng phát sức mua tại các khu vực này.Và khi mở rộng thị trường tới vùng nông thôn, các doanh nghiệp nước ta không những tránh được các sức ép cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp FDI mang đến mà còn được hưởng lợi rất lớn từ sự ưu tiên về vị trí, về mặt bằng cũng như sự ưu tiên trong các chính sách phát triển của nhà nước. KẾT LUẬN Xét cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế, thì nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển đúng hướng và những tác động tích cực của mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ là hoàn toàn có thể nhận thấy được. Nếu như trước khi có các doanh nghiệp FDI đầu tư, lĩnh vực phân phối nước ta hoàn toàn mang tính chất tự phát, truyền thống thì trong những năm qua, lĩnh vực này đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tiên tiến và hiện đại hơn. Nhưng, khi lĩnh vực này được mở cửa một cách sâu rộng mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để tận dụng tốt nhất nguồn vốn FDI thì nguy cơ các doanh nghiệp nước ngoài thao túng thị trường nước ta là hoàn toàn có thể xẩy ra. Sau một thời gian nhất định nữa, những mặt tích cực và tiêu cực mà dòng vốn này mang lại sẽ xuất hiện rõ nét hơn. Nếu chúng ta có thể hoàn thiện các cơ chế chính sách, phát triển bền vững thị trường trong nước thì việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ sẽ hỗ trợ không nhỏ tới công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của nước ta.Qua đây, chúng tôi chỉ xin đua ra một số giải pháp để có thể giúp cho lĩnh vực bán lẻ Việt Nam có thể phát triển một cách toàn diện tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Do thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế, bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thấy cô và các ban. Xin chân thành cảm ơn !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam 2005-2009.doc
Luận văn liên quan