Luận văn dài 74 trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua đã chứng minh rằng: Sau khi có đường lối đúng, cán bộ là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" (1) .
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, do làm tốt công tác cán bộ, Đảng ta đã đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực tổ chức thực tiễn ngang tầm nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ các cấp đã đưa chủ trương, đường lối của Đảng thâm nhập vào quần chúng, tổ chức, lãnh đạo quần chúng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu anh dũng, làm nên thắng lợi lịch sử của cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Mục lục
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
9
I. VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN
9
1. Vai trò của đội ngũ cán bộ
9
2. Vai trò của cán bộ cơ sở và công tác cán bộ cơ sở
16
3. Vai trò của đội ngũ giảng viên
18
4. Vai trò, nhiệm vụ, tiêu chuẩn của cán bộ, giảng viên Trường Chính trị tỉnh, thành phố.
21
II. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN
23
1. Đánh giá chung về đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ hiện nay
23
2. Tình hình công tác cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh
27
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỪ 2005 ĐẾN NAY.
29
I. KHÁI QUÁT VỀ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN
29
1. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên
29
2. Vài nét khái quát về Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên
34
II. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH
38
1. Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, giảng viên
38
2. Đánh giá khái quát việc thực hiện nhiệm vụ của Nhà trường do Uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho từ năm 2005 - 2008
42
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH, TỈNH HỪNG YÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỜI KỲ MỚI
51
I. PHƯƠNG HƯỚNG
51
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
53
1. Về giáo dục chính trị tư tưởng
54
2. Về học tập nâng cao trình độ cho cán bộ, giảng viên
56
3. Về quy hoạch cán bộ, giảng viên
60
4. Về tuyển dụng cán bộ, giáo viên
61
5. Về thực hiện quy chế, chính sách với cán bộ, giảng viên
62
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
63
KIẾN NGHỊ
63
KẾT LUẬN
65
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7887 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường.
- Ban giám đốc gồm có: Giám đốc và 3 Phó giám đốc
- Các khoa, phòng chuyên môn, gồm có 4 khoa, 3 phòng, cụ thể là:
+ Khoa Lý luận cơ bản
+ Khoa Nhà nước và Pháp luật
+ Khoa Xây dựng Đảng
+ Khoa Dân vận
+ Phòng Đào tạo
+ Phòng Khoa học – Thông tin – Tư liệu
+ Phòng Tổ chức – Hành chính
* Đội ngũ cán bộ:
Biên chế của Trường là 55, ngoài ra có 6 hợp đồng bảo vệ và tạp vụ. Trường có 11 thạc sĩ (4 đang học).
2.3. Công tác đào tạo:
- Chương trình Đào tạo:
+ Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Nhà trường được Tỉnh giao cho liên kết với Học viện: Học viện chính trị – Hành chính khu vực I, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Hành chính liên kết để đào tạo các hệ : Cao cấp Lý luận chính trị: Đại học Hành chính, Đại học Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
+ Đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị, Trung cấp Hành chính.
- Chương trình bồi dưỡng: Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, Quản lý Nhà nước, Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác của các ngành, đoàn thể.
- Kiểm tra, thi đánh giá kết quả học tập: Căn cứ vào đối tượng học viên, chương trình học, Nhà trường có tổ chức kiểm tra, thi, đánh giá kết quả học tập học viên theo phân phối chương trình, có Ngân hàng đề cho chương trình đào tạo các lớp. Ngân hàng đề hình thành là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường do các Khoa, phòng làm Chủ nhiệm đề tài. Hàng năm có sửa đổi, bổ sung.
- Giảng dạy: Kiến thức chung theo nội dung giáo trình (kiến thức cơ bản, thiết thực): 50% thời lượng giảng dạy; Liên hệ thực tiễn trong, ngoài nước, hoạt động của tỉnh liên quan tới kiến thức lý luận: 20% thời lượng; Cung cấp kiến thức nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý: 15% thời lượng: Kỹ năng xử lý tình huống: 15% thời lượng.
- Các lớp đều có màn chiếu: giảng viên soạn giảng dùng máy chiếu, giáo án điện tử. Trang bị phục vụ giảng dạy của Trường được trang bị tương đối đồng bộ, hiện đại.
- Giảng viên lên lớp phải được Trưởng hoặc Phó khoa duyệt giáo án, soạn bài. Mỗi khoa tổ chức thao diễn giảng dạy 2 lần trong năm. Trưởng khoa và giảng viên phải dự giờ giảng ít nhất 2 lần trong năm. Mỗi khoa lên kế hoạch tổ chức hội nghị khoa học ít nhất 1-2 lần/năm.
2.4. Nghiên cứu thực tế, nghiên cứu khoa học.
- Về công tác nghiên cứu thực tế nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường quy định mỗi giảng viên hàng năm phải đi thực tế khoảng 01 tháng; có thể đi cả đợt hoặc đi một số ngày theo nhiều đợt. Trên cơ sở đó, các khoa chuyên môn xây dựng kế hoạch đi thực tế hàng năm, về cơ sở xã, phường, thị trấn hoặc một số cơ quan khác của tỉnh, huyện. Kết thúc việc đi nghiên cứu thực tế, các giảng viên có báo cáo kết quả cụ thể.
- Về công tác nghiên cứu khoa học: Mỗi giảng viên hàng năm đều viết các chuyên đề tự nghiên cứu, tham gia nghiên cứu đề tài khoa học cấp Trường, cấp tỉnh.
Đối với nhà trường, tháng 8 hàng năm, nhà trường đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh. Từ năm (2005-2008) nhà trường tham gia 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh. Theo lĩnh vực chuyên môn, các giảng viên sẽ tham gia đề tài nghiên cứu khoa học.
Đối với giảng viên, tháng 9 hàng năm các khoa, phòng đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học của năm sau. Nhà trường sẽ xét, duyệt các công trình, đề tài khoa học cấp Trường. Hội đồng Khoa học Nhà trường nghiệm thu cuối năm.một số các hoạt động nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của tỉnh…
* Đánh giá ưu điểm, hạn chế:
- Về ưu điểm: Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp cho mỗi cán bộ, giảng viên trong nhà trường nâng cao trình độ, có nhiều giải pháp đáp ứng kịp thời nhiệm vụ được giao, phát huy trí tuệ của mỗi cán bộ, giảng viên, có nhiều đề tài đã được áp dụng vào thực tiễn, nhất là được áp dụng trong công tác giảng dạy.
- Về hạn chế: Có nhiều cán bộ, giảng viên chưa thực sự hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học. Do vậy nhiều cán bộ, giảng viên làm mang tính chất chống đối, qua loa…
II. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ GIẢNG VIÊN CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH.
1. Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, giảng viên:
1.1.Tình hình chất lượng cán bộ (năm 2005-2008) Biểu số: 01
Trình độ năm
2005-2006
2006-2007
2007-2008
Chức danh
Chuyên môn
Trình độ LL C.trị ĐH,CC
,và T.đương
Qủan lý nhà nước
Chuyên môn
Tđộ LLchính trị,ĐH,
CC,
và TĐ
QLý nhà nước
Chuyên môn
Trình
độ LL C.Trị,
Qlý nhà nước
Trên ĐH
Đại học
T.cấp
Trên ĐH
Đại học
T. cấp
Trên ĐH
Đại học
T.cấp
ĐH,CC, và TĐ
Cán bộ lãnh đạo, Qlý
0
3
3
3
1
3
4
4
1
3
4
4
Trưởng, phó khoa, phòng
1
10
1
8
2
10
5
8
5
8
5
15
Cán bộ, chuyên viên, CNV
05
7
5
5
7
5
6
Giảng viên
16
15
17
5
17
1
30
5
30
Tổng cộng
1
34
7
4
31
3
35
7
14
34
7
41
6
14
49
Từ biểu 1cho thấy:
* Về tình hình đội ngũ cán bộ, giảng viên của Trường như sau:
- Về trình độ chuyên môn:
+ Nhìn chung đội ngũ cán bộ, giảng viên của Nhà trường đều được đào tạo cơ bản, từ trung cấp trở lên, trong đó trình độ trên Đại học 7/54 = 12,96%; trình độ Đại học 41/54= 75,94%; trình độ trung cấp 6/54 = 11,1%
Về trình độ lý luận chính trị:
+ Nhìn chung cán bộ, giảng viên của trường đều được đào tạo từ trung cấp lý luận chính trị trở lên, trong đó số cán bộ, giảng viên được đào tạo chương trình cử nhân, cao cấp lý luận chính trị và tương đương có 14đ/c =25,9%; 100% cán bộ lãnh đạo quản lý, giảng viên đã học qua chương trình bồi dưỡng quản lý nhà nước.
Qua những số liệu thống kê trên cho thấy đội ngũ cán bộ, giảng viên của Nhà trường về trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị chính trị cao còn ít cụ thể có 12,9%, thạc sỹ; 25,9% cao cấp, cử nhân và tương đương, với trình độ chuyên môn, lý luận chính trị như vậy sẽ hạn chế việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà trường ở mọi lĩnh vực quản lý, giảng dạy và phục vụ.
1.2. Tình hình chất lượng, cơ cấu đội ngũ giảng của Trường
(Thời điểm thống kê năm 2008) Biểu số: 2
Trình độ, chất lượng giảng viên
GV theo khoa
Số lượng
Giới tính
Trình độ chuyên môn
Ngoại ngữ
Tin học
Tr.độ L. luận C. trị ĐH,CC và TĐ
Đảng viên
Tuổi nghề >10 năm
Nam
Nữ
Trên ĐH
ĐH
Số người
Chứng chỉ loại
Số người
Chứng chỉ
Khoa Lý luận cơ bản
8
3
5
2
6
8
A
8
A
4
7
2
Khoa Xây dựng Đảng
6
4
2
1
5
6
A
6
A
4
5
3
Khoa NN& Pháp luật
8
2
6
2
6
8
B
8
A
0
6
1
Khoa Dân vận
4
2
2
0
4
4
A
4
A
1
4
1
Giảng viên kiêm chức
9
6
3
2
7
9
A
9
A
6
9
7
Tổng cộng
35
17
18
7
28
35
35
15
31
14
Qua tình hình thống kê ở biểu số 2 cho thấy:
* Ưu điểm:
- Về số lượng: Tổng số giảng viên của Nhà trường đến năm 2008 giảng viên có 35/54 tổng số cán bộ công nhân viên của nhà trường (năm 2005 hỉ có 26 giảng viên) điều đó cho thấy với số lượng giảng viên được tăng nhanh như vậy có thể đủ đảm đương tốt nhiệm vụ đào tạo – bồi dưỡng cán bộ của Nhà trường.
- Về giới tính: Tại thời điểm thống kê năm 2008 là 17nam/18 nữ để cho thấy vấn đề bình đẳng giới ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đã được quan tâm.
- Về tuổi:
Đối với độ tuổi dưới 30 tuổi: có 14 /35 = 40% (trẻ)
Đối với độ tuổi dưới 50: có 15/35 = 42,8% (sung sức, nhiều kinh nghiệm, thực tiễn)
Đối với độ tuổi trên 50: 6/35 = 17,2% (già, có nhiều kinh nghiệm song hạn chế về việc tiếp cận thông tin mới chậm )
- Về trình độ chuyên môn: Tại thời điểm thống kê năm 2008, 100% giảng viên có trình độ từ đại học trở lên (trong đó có 07 là thạc sỹ (năm 2005 chưa có giáo viên có trình độ thạc sỹ) điều đó cho thấy chất lượng đội ngũ giảng viên của Nhà trường đã được nâng lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Nhà trường.
Qua số liệu trên cho thấy với tỷ lệ giữa các lứa tuổi trong đội ngũ giảng viên đã đảm bảo sự dung hợp giữa các lứa tuổi; có lớp dày dạn kinh nghiệm có lớp sung sức và nhất là đội ngũ giảng viên trẻ đông được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, đó là nguồn rất cơ bản để kế cận sự nghiệp của Nhà trường.
- Về trình độ lý luận chính trị:
Với tỷ lệ 15/35đ/c = 42,85% có trình độ cử nhân, cao cấp và tương đương đều đó cho thấy đội ngũ có đủ trình độ lý luận chính trị để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy lý luận chính trị.
- Về tuổi nghề: Số giảng viên có tuổi nghề trên 10 năm có 14/35đc = 40% làm công tác giảng dạy có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, trong nghiên cứu khoa học đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.
* Về hạn chế:
Từ bảng thống kê trên cho thấy:
- Trình độ chuyên môn cao còn ít trong tổng số giảng viên, và giảng viên kiêm chức có trình độ thạc sỹ là 7/35đc = 20%, với tỷ lệ như vậy còn quá thấp so với yêu cầu của sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở trong thời kỳ mới của tỉnh.
- Trình độ lý luận chính trị; Số giảng viên và giảng viên kiêm chức được đào tạo về lý luận chính trị cử nhân, cao cấp và tương đương cũng ít. Hiện chỉ có 13/35đồng chí = 42,85%.
- Về trình độ ngoại ngữ, tin học: Cũng thấp cụ thể về trình độ tin học cũng chỉ dừng lại ở mức biết sử dụng soạn thảo các văn bản đơn giản, trình độ ngoại ngữ 100% chỉ có trình độ A.
- Về tuổi nghề: Từ bảng biểu 2 cho thấy số lượng giảng viên trẻ cũng đông, tuổi nghề còn ít, thiếu kinh nghiệm thực tiễn một số đồng chí lớn tuổi việc tiếp cận phương pháp hiện đại chậm.
Từ thực trạng đội ngũ giảng viên của Trường những năm qua cho thấy: Lãnh đạo Nhà trường đã có nhiều quan tâm đến đội ngũ giảng viên: Tuyển dụng những giảng viên có đủ tiêu chuẩn tăng thêm về số lượng và sắp xếp, bố trí cử giảng viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, phương pháp sư phạm,…. Tuy nhiên với tinh thần cầu thị, nghiêm túc đánh giá, đội ngũ giảng viên về chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao sự nghiệp giáo dục, đào tạo của Nhà trường, đào tạo ra nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong Nhà trường là bức thiết, là tất yếu khách quan quyết định sự tồn tại phát triển của Nhà trường.
2. Đánh giá khái quát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà trường do Uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho từ năm 2005 đến 2008.
2.1. Về chỉ tiêu kế hoạch giao hàng năm
* Kết quả đào tạo bồi dưỡng từ năm 2005-2008 Biểu số: 3
Năm
Hệ tuyển sinh
2003 - 2004
2005 - 2006
2007- 2008
Chỉ tiêu
Tuyển
Tỷ lệ đạt
Chỉ tiêu
Tuyển
Tỷ lệ đạt
Chỉ tiêu
Tuyển
Tỷ lệ đạt
Đại học Chính trị
86
86
100%
Cao cấp chính trị
117
117
100%
117
117
100%
100
123
123%
Đại học Hành chính
90
120
133,3%
93
93
100%
93
93
100%
Đại học XDĐ & CQNN
80
90
112,5%
70
69
98,5%
69
69
100%
Trung cấp LLCT
500
600
120%
887
900
101,4%
850
900
105,8%
Trung cấp HC - VP
80
80
100%
80
80
100%
60
60
100%
Quản lý Nhà nước
100
100
100%
100
120
100%
100
110
100%
Tiền công vụ
70
70
100%
2.2. Về kết quả học tập
* Kết quả học tập từ năm 2005-2008. Biểu số: 4
Năm
Hệ đào tạo
2003 - 2004
2005 - 2006
2007- 2008
Khá, giỏi
TB
Yếu
Khá, giỏi
TB
Yếu
Khá, giỏi
TB
Yếu
Cao cấp LLCT
70%
30%
Đại học Chính trị
90%
10%
Đại học Hành chính
65%
35%
Đại học XDĐ & CQNN
Trung cấp LLCT
60%
40%
65%
35%
55%
45%
Trung cấp HC - VP
65%
35%
70%
30%
65%
35%
Quản lý Nhà nước
75%
25%
72%
28%
68%
32%
Tiền công vụ
78%
22%
Qua bảng thống kê ở trên cho thấy:
Việc thực hiện nhiệm vụ chính trị hàng năm của Nhà trường đều vượt kế hoạch. Chất lượng đào tạo tăng lên, đáp ứng yêu cầu. Số cán bộ công chức sau khi học xong các chương trình lý luận chính trị cao cấp, quản lý Nhà nước đang phát huy tốt cương vị công tác của mình, nhiều đồng chí được cân nhắc, đề bạt ở cương vị cao hơn có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển của tỉnh. Với chất lượng giáo dục đào tạo của Nhà trường ngày một nâng cao, uy tín của vị thế của Nhà trường ngày một tăng.
2.3. Về giảng dạy:
Đội ngũ giảng viên của Trường không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, giáo viên có trình độ chuyên môn giỏi thực hiện đúng quy chế của Học viện chính trị – Hành chính Quốc gia, lên lớp, kiểm tra, thi cử, lượng kiến thức chuyển tải đến học viên, học sinh đảm bảo thích hợp về lý thuyết và thực tiễn. Năm 2006,2007 Hội giảng toàn quốc do Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia tổ chức giáo viên của Trường tham gia dự thi và đều đạt kết quả cao: 1 giáo viên đạt loại giỏi, 1 giáo viên đạt xuất sắc.
2.4. Về biên soạn giáo trình, bài giảng:
Trong những năm qua, cán bộ giảng viên nhà trường thường xuyên bổ sung đưa những đường lối, quan điểm chính sách của Đảng pháp luật của Nhà nước vào bài giảng và đã chủ động xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện giáo án, giáo trình góp phần nâng cao chất lượng, đào tạo, bồi dưỡng.
2.5. Về bồi dưỡng học tập, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên:
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đòi hỏi cán bộ giảng viên của Trường phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt: Chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, có như vậy khi giải quyết công việc, khi giảng dạy mới có cơ sở lý lụân khoa học, phương pháp luận duy vật biện chứng. Từ nhận thức đúng đắn đó, lãnh đạo Nhà trường đã đặc biệt quan tâm đến bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ giáo viên, nhiều đồng chí đã được cử đi học Cao học ở các trường Đại học, đi học lý luận chính trị cao cấp, Học viện chính trị – Hành chính khu vực I mở tại Trường… các đồng chí sau khi hoàn thành chương trình học tập trình độ được nâng cao, phát huy tốt cương vị công tác của mình, có đồng chí được đề bạt vào cương vị cao hơn.
2.6. Về xây dựng cơ sở vật chất:
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm tạo điều kiện của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, Nhà trường đã tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại, hiệu quả.
Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh được sử dụng diện tích trên 2ha; có khu điều hành là một nhà 4 tầng; 02 giảng đường liền kề; có 01 hội trường lớn 300 chỗ ngồi được trang bị tương đối hiện đại; có khu nhà ăn phục vụ khoảng 250 chỗ ngồi; khu ký túc xá 66 phòng (khép kín); có 01 phòng tin học với trên 30 máy; Nhà trường có trang Web riêng (htt://WW. Truongchinhtrinvl- hy.gov.vn); Hệ thống mạng LAN 40 nút mạng liên kết tất cả các khoa, phòng đều có máy vi tính, máy in. Các đồng chí Lãnh đạo Trường, Trưởng phòng Khoa học - Thông tin - tư liệu được trang bị máy vi tính xách tay phục vụ việc khai thác, cập nhật thông tin, và công tác giảng dạy. Nhà Trường có 02 màn chiếu Projector phục vụ giảng dạy bằng giáo án điện tử. Nói chung, cơ sở vật chất của Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh được trang bị mới, hiện đại có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
2.7. Về chăm lo đời sống vật chất trong Nhà trường.
Quan tâm đời sống vật chất của cán bộ, giảng viên, nhân viên Trường Chính trị là toàn bộ hoạt động về thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên hàng năm, phụ cấp lương, chế độ xếp ngạch, nâng ngạch bậc công chức, chế độ phúc lợi tập thể, chính sách khen thưởng và khuyến khích lợi ích vật chất.v.v… trong chế độ chính sách nâng bậc lương thường xuyên hàng năm, vấn đề cần quan tâm là khuyến khích, động viên xứng đáng cho những cán bộ, công chức, viên chức có đức, có tài cống hiến hết mình cho sự nghiệp giáo dục của Đảng. Đó là những chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, cấp tỉnh phải thực hiện hết mình cho sự nghiệp giáo dục của Đảng. Đó là chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, cấp tỉnh phải thực hiện tốt chế độ nâng bậc lương trước thời hạn theo quy định; chế độ phụ cấp ưu đãi cho giảng viên trực tiếp giảng dạy và chế độ khen thưởng tương xứng với kết quả cống hiến, với thành tích đạt được của cán bộ, công chức. Quan tâm đời sống vật chất đúng đắn, đầy đủ và kịp thời là động lực trực tiếp để cán bộ công chức giáo viên yên tâm gắn bó với sự nghiệp giáo dục đào tạo của Nhà trường.
2.8. Về chăm lo đời sống tinh thần trong Nhà trường.
Đời sống tinh thần của cán bộ, giảng viên và nhân viên Trường Chính trị tỉnh là toàn bộ hoạt động, sinh hoạt chuyên môn, văn hoá, văn nghệ, thơ, nhạc, hò, vè, thể thao, các phong trào thi đua, thăm quan, du lịch.v.v…Về đời sống tinh thần Nhà trường quan tâm đúng đắn về vấn đề văn hoá văn nghệ, thể thao: Xây dựng sân bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, bóng bàn, đẩy mạnh các hoạt đông thể dục thể thao văn nghệ trong Nhà trường góp phần tạo ra môi trường lành mạnh, nâng cao đời sống tinh thần cho cán bộ giảng viên, học sinh phục vụ tốt cho thực hiện nhiệm vụ chính trị đồng thời nó là điều kiện tốt để ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào Nhà trường.
Đời sống tinh thần là một mặt đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên của Nhà trường; khi mà đời sống tinh thần mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên được quan tâm đúng mức thì lúc đó nó sẽ trở thành một động lực mạnh mẽ, chất xúc tác làm hoàn thiện, nâng cao và đổi mới con người họ. Họ sẽ cảm thấy thoải mái hơn, hạnh phúc hơn, nhẹ nhàng hơn trước cuộc sống năng động với bao nhiêu bộn bề, áp lực công việc. Cũng từ đó, họ sẽ muốn cống hiến nhiều hơn, muốn được làm việc và làm hết mình với thái độ và tinh thần trách nhiệm cao; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Và một điều quan trọng hơn hết là khi đời sống tinh thần của họ được quan tâm đúng mức thì mỗi con người họ sẽ luôn tự rèn luyện, phấn đấu hoàn thiện và nâng mình lên ở một tầm cao mới. Họ sẽ là những con người thật sự hoàn thiện và điều đó sẽ tạo nên một đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên của Nhà trường thật sự vững mạnh và ngày càng hùng hậu hơn.
Hiệu quả và chất lượng công việc chỉ đạt được cao nhất khi tinh thần của người lao động thoải mái và hưng phấn nhất. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của đời sống tinh thần trong cuộc sống của mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên, Ban giám đốc Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh luôn coi việc quan tâm đến đời sống tinh thần của mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên của Nhà trường là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của Nhà trường. Chính vì vậy, Nhà trường luôn có những giải pháp, biện pháp và cách thức nhằm ngày càng làm phong phú và mới mẻ đời sống tinh thần của mỗi thành viên, tạo ra một bầu không khí trong Nhà trường thật sự thoải mái, đoàn kết, gắn bó và ấm áp nghĩa tình.
2.9. Về xây dựng đội ngũ giảng viên:
Xuất phát từ nhận thức: yếu tố con người là nhân tố quan trọng nhất, cán bộ giảng viên quyết định sự thành, bại sự nghiệp phát triển của Nhà trường, những năm gần đây Nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ giáo viên nâng cao trình độ về mọi mặt: về lý luận chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ, về năng lực tổ chức thực tiễn, về ứng dụng phương pháp giảng dạy tích cực, … Ban giám đốc Trường luôn quan tâm sâu sát việc nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ, giảng viên của Nhà trường. Đội ngũ cán bộ giảng viên nghiêm túc thực hiện việc tự học tập, nghiên cứu, rèn luyện kỹ năng công tác và việc cử đi đào tạo nâng cao tại các Học viện, các trường Đại học. Bên cạnh đó, Nhà trường thường xuyên cử giảng viên đi tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ do Học viện triệu tập; tổ chức cho cán bộ Nhà trường đi tham quan, nghiên cứu thực tế và trao đổi kinh nghiệm đào tạo bồi dưỡng ở một số Trường Chính trị các tỉnh bạn. Hiện nay đội ngũ giảng viên có 35 đồng chí, trong đó: thạc sỹ đã có 7 đồng chí =20% (hiện nay, có thêm 4 đồng chí đang học Cao học tại Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh); Đại học có 25 đồng chí = 81%.
2.10. Về xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà trường:
Đảng uỷ, Ban giám đốc, các phòng ban chức năng và các đoàn thể: Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ nữ công đã được sắp xếp hợp lý, tổ chức Đại hội nhiệm kỳ đúng quy định, hoạt động của bộ máy trong Nhà trường có sự phối hợp nhịp nhàng phát huy hết vai trò chức năng của mình bảo đảm sự thống nhất của Đảng uỷ, quản lý điều hành của Ban giám đốc trường, tham mưu giúp việc của các phòng ban chức năng, tham gia quản lý của các đoàn thể đồng thời thực hiện tốt dân chủ hoá nội bộ, phát huy quyền làm chủ tập thể thực sự của công chức giáo viên trong toàn Trường.
Có thể khẳng định một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên thành tích của Nhà trường trong những năm qua là công tác lãnh đạo giáo dục chính trị tư tưởng. Từ Đảng uỷ, Ban giám đốc, các đoàn thể trong Trường đã có sự đoàn kết phối hợp nhất trí cao phấn đấu vì mục tiêu chung, đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quy tụ được sức mạnh của toàn trường đồng sức, đồng lòng phấn đấu vì sự nghiệp tồn tại, phát triển của Nhà trường, vì sự nghiệp giáo dục đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho Đảng. Kiên quyết chống lại mọi biểu hiện chia rẽ mất đoàn kết, cục bộ… Có thể nói công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, thống nhất vì một mục tiêu chung đã đạt được kết quả to lớn, trong vai trò của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt có ý nghĩa quyết định.
Với những thành tích cơ bản nêu trên, tổng kết phong trào thi đua các năm từ ngày tái lập tỉnh đến nay, Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh luôn được Học viện chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tặng danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc. Đảng bộ Nhà trường được công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Công đoàn trường được tặng bằng khen của Công đoàn viên chức tỉnh và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, nhà trường được tặng huân chương lao động hạng II năm 2005… Thành tích có được và sự trưởng thành của Nhà trường là kết quả nỗ lực phấn đấu tập trung trí tuệ của toàn trường. Tuy nhiên với tinh thần cầu thị và nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá thì ở mặt này hay mặt khác cán bộ, giảng viên của Nhà trường cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Những hạn chế và khuyết điểm:
Bên cạnh những ưu điểm đã trình bầy khái quát ở trên, trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên của Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện ở những điểm sau:
- Về tổ chức bộ máy: Phòng ban giúp việc, các đoàn thể, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Câu lạc bộ nữ công trong chừng mực nào đó còn mang nặng tính cơ cấu chưa đảm bảo hài hoà ở các cơ sở do vậy một số cán bộ chủ chốt chưa thực sự đủ năng lực và sự tín nhiệm cao, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và quản lý trong Nhà trường.
- Một số cán bộ phòng ban chức năng, năng lực còn hạn chế, cần phải được bồi dưỡng đào tạo.
- Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức ở các phòng ban chức năng còn cao so. Hầu hết giáo viên còn rất trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Tỷ lệ giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy là rất thấp do vậy gặp nhiều khó khăn trong công tác giảng dạy.
- Nhà trường chưa thực sự tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên trong công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ. Việc quan tâm đến đội ngũ cán bộ, giảng viên về mặt vật chất còn hạn chế.
- Về phía tỉnh chưa thực sự quan tâm đến cán bộ, giảng viên nhất là về chế độ chính sách còn nhiều bất cập.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỜI KỲ MỚI
I. PHƯƠNG HƯỚNG:
Để phát huy tốt những thành tích đã đạt được trong những năm qua và đáp ứng yêu cầu giáo dục đào tạo thời kỳ đổi mới, cung cấp cho đất nước những cán bộ có đức có tài có sức khoẻ cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc bồi dưỡng đội ngũ nói giảng viên càng phải được coi trọng, phải được thực hiện theo hướng sau:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên của Trường phải dựa trên cơ sở nắm vững nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta và những bài học kinh nghiệm từ công tác xây dựng cán bộ công chức thời gian qua.
+ Công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng và sử dụng cán bộ giảng viên phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong đó cán bộ phải có vai trò quyết định thắng lợi mục tiêu đã định.
+ Công tác cán bộ phải quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc. Muốn vậy Đảng phải thường xuyên giáo dục lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp công nhân cho cán bộ, tăng cường cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân. Công tác cán bộ phải đảm bảo tính kế thừa truyền thống của các thế hệ cán bộ cách mạng để xây dựng thế hệ cán bộ trẻ. Công tác cán bộ phải chú ý đảm bảo đổi mới, trẻ hoá, có cơ cấu hợp lý về tuổi tác, giới tính….; khai thác những nhân tố tích cực, tăng thêm sức mạnh cho đội ngũ cán bộ.
+ Công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ giảng viên phải gắn với đổi mới cơ chế chính sách, vì đường lối chính trị quyết định tổ chức và cán bộ trên nguyên tắc có nhiệm vụ chính trị mới lập ra tổ chức, có tổ chức mới bố trí cán bộ công chức, không thể vì cán bộ công chức mà lập ra tổ chức, mỗi cán bộ công chức trong tổ chức phải có chức năng, quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, quy hoạch cán bộ, đào tạo bố trí sử dụng cán bộ phải gắn với nội dung xây dựng tổ chức.
Công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ giáo viên phải căn cứ vào điều 61 của Luật giáo dục quy định tiêu chuẩn của một nhà giáo: Nhà giáo là người làm công tác giảng dạy, giáo dục trong Nhà trường. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau:
Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt
Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ
Có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp
Lý lịch bản thân rõ ràng
Thông qua hoạt động thực tiễn và phong tráo cách mạng của quần chúng để rèn luyện giáo dục bồi dưỡng cán bộ, lựa chọn cán bộ công chức – phát triển sự nghiệp giáo dục nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ công chức là cách làm cơ bản và chính quy có hệ thống. Đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân để rèn luyện giáo dục, đào tạo, đánh giá, lựa chọn cán bộ lấy hiệu quả công tác và những đóng góp thực tế làm thước đo đánh giá phẩm chất năng lực của cán bộ. Phải đặt cán bộ công chức trong môi trường và điều kiện cụ thể trong mối quan hệ đường lối chính sách của Đảng, công tác tổ chức, cơ chế quản lý để xem xét đánh giá cán bộ có như vậy mới khách quan, toàn diện, cụ thể, chính xác.
Cuối cùng, Đảng phải thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ quản lý cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Văn kiện Trung ương 3 khoá VIII đã chỉ rõ tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới là:
+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
+ Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP:
Từ thực trạng đội ngũ cán bộ, giảng viên của Trường với những ưu, khuyết điểm đã nêu trên, căn cứ vào nhiệm vụ của Nhà trường những năm tới, vận dụng quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, giảng viên và tiêu chuẩn của người cán bộ, giáo viên thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Hội nghị Trung ương 3, khoá VIII thông qua. Chúng tôi xin mạnh dạn được đề xuất một số giải pháp bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh như sau:
1. Về giáo dục chính trị tư tưởng:
Người giảng viên của Trường Chính trị tỉnh là người giảng dạy chính trị, là người trực tiếp truyền đạt Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến học viên, từ đó bổ sung và nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt cấp cơ sở. Chính vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với mỗi giảng viên của Trường Chính trị là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Chủ nghĩa Mác – Lênin, với lý tưởng của Đảng, không được phép hoang mang, dao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nếu xa rời nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều và xét lại. Xét về nhân cách, người cán bộ, đảng viên đó sẽ không còn đủ tư cách phẩm chất của người cộng sản. Đây chính là sản phẩm hàng đầu và cốt lõi của người giảng viên dạy lý luận chính trị. Mỗi giảng viên cần nhận thức được nhiệm vụ khó khăn nhưng rất cao quý và tự hào về con đường, sự nghiệp mà mình đã lựa chọn; tâm huyết với nghề và suốt cuộc đời nguyện sẽ phấn đấu vì sự nghiệp vẻ vang đó. Cán bộ, giảng viên phải sống, và làm việc theo đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có lối sống lành mạnh văn minh, lịch sự.
Bác Hồ đã chỉ rõ: người cán bộ cách mạng phải có và luôn giữ vững đạo đức cách mạng bởi vì “tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó, cò tính xấu của một Đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân”. Chính vì vậy, hơn ai hết người cán bộ, người giảng viên Trường Chính trị phải là tấm gương về nhân cách lối sống. Bởi vì, đối tượng học viên của họ là cán bộ, công chức, là cán bộ chủ chốt ở cơ sở và các ban ngành, đoàn thể. Học viên vừa học kiến thức nhưng đồng thời trong môi trường này chính là nơi để họ rèn luyện phẩm chất. Nhà trường đang hoàn thiện đội ngũ cán bộ, giảng viên với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, luôn thương yêu, gắn bó, đoàn kết giúp đỡ nhau vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đặt ra. Trong mỗi con người ấy đã có sự thống nhất giữa lý tưởng chính trị và đạo đức cách mạng cao đẹp. Và khi đã có được sự thống nhất giữa hai yếu tố này, mỗi cán bộ, giảng viên sẽ giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi, nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ đạo đức trước nhiệm vụ của mình.
Năm 2008, kỷ niệm 78 năm ngày thành lập Đảng, cũng là năm thứ hai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Hưởng ứng cuộc vận động này, mỗi cán bộ, giảng viên Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh cần tự nhìn nhận, kiểm điểm lại mình, sửa chữa khuyết điểm, noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công, Vô tư”. Người cán bộ, giảng viên phải là tấm gương về đạo đức cách mạng, sự chân thành, trung thực, khiêm tốn, quý mến học viên; say mê với công việc nhất là say mê với công việc giảng dạy, lao động không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giáo dục lý luận chính trị của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, lối sống văn minh, trong sáng, các mối quan hệ xã hội lành mạnh tiến bộ. Đây cũng là một yêu cầu đòi hỏi cơ bản tất yếu đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên lý luận chính trị để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng; là một trong những động lực quan trọng góp phần tăng cường sức mạnh của Đảng, của dân tộc trước cục diện phát triển mới của đất nước thời hội nhập.
Để kiểm tra, đánh giá chính trị, tư tưởng cán bộ, giảng viên, định kỳ hàng năm, cấp uỷ Đảng cần tổ chức cho cán bộ Đảng viên, công chức tự kiểm điểm, lấy ý kiến đóng góp dân chủ của đơn vị công tác, trên cơ sở đó Đảng đánh giá phân loại cán bộ, giảng viên từ đó có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, sắp xếp và sử dụng cho tốt.
2. Về học tập nâng cao trình độ cho cán bộ, giảng viên.
Người ta thường nói:
Đường đời là chiếc thang không nấc chót
Việc học là quyển sách không trang cuối.
Với tinh thần đó việc học tập nâng cao trình độ cho cán bộ, giảng viên phải là việc làm quan trọng, thường xuyên. Nhà trường và mỗi cá nhân phải nhận thức đầy đủ về học tập nâng cao trình độ, vì nhiệm vụ trọng tâm của Nhà trường là đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt cấp cơ sở. Hiện nay, so với yêu cầu đặt ra thì đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh vẫn còn thiếu về số lượng và chất lượng cần phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao. Mặt khác, do hoàn cảnh Trường mới tái lập (Trường chính trị Nguyễn Văn Linh – Trường Chính trị tỉnh Hưng Yên được tách ra từ Trường Chính trị tỉnh HảI Hưng), phần lớn cán bộ, giảng viên mới được tuyển dụng, điều động từ nhiều nguồn, nhiều ngành khác nhau nên chưa đồng bộ về chuyên ngành đào tạo. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên, Nhà trường phải có kế hoạch sắp xếp, bố trí cho cán bộ giáo viên có thời gian học tập nâng cao trình độ với nhiều hình thức: Đào tạo, đào tạo lại, đào tạo chính quy, đào tạo tại chức và tham gia Hội thảo khoa học.
- Đối với cán bộ đang đảm nhiệm chức vụ, ngoài việc tiếp tục học tập nâng cao kiến thức chuyên môn đảm nhiệm, Trường cần có kế hoạch bố trí để đội ngũ cán bộ của Nhà trường đi học các lớp lý luận chính trị, quản lý Nhà nước. Có như vậy đội ngũ cán bộ mới có cơ sở lý luận cơ bản, phương pháp luận khoa học khi xem xét giải quyết công việc được giao đạt hiệu quả cao.
- Đối với giảng viên: Từ thực trạng nêu trên, giáo viên của Trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng, do vậy việc bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ giáo viên cần đặc biệt phải được chú trọng. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cần phải được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt về lý luận, kinh tế, pháp luật….thì mới đáp ứng được yêu cầu của học viên hiện nay. Trong qúa trình đào tạo, bồi dưỡng, ngoài những nội dung về lý luận, cần có thời gian, kinh phí cho cán bộ, giảng viên đi tham quan thực tế, học tập kinh nghiệm ở trong và ngoài nước, giúp cán bộ mở mang thêm trình độ hiểu biết thực tiễn. Trong quá trình giảng dạy, tránh tình trạng chung chung mà phải cụ thể hoá cho phù hợp với nhận thức của đối tượng, vì người học ở đây chủ yếu là cán bộ hoạt động thực tiễn. Có như vậy hiệu quả đào tạo mới cao, người học phát huy được vốn kiến thức đã học tập tại trường, phát huy năng lực tư duy sáng tạo khi vận dụng vào thực tiễn. Muốn đạt được hiệu quả của việc đào tạo, bồi dưỡng, ngoài những tiêu chuẩn chung của cán bộ công chức, đội ngũ giáo viên Nhà trường cần đáp ứng những tiêu chuẩn sau:
+ Có tri thức khoa học rộng, phong phú, nhất là khoa học xã hội và nhân văn.
+ Say mê nghiên cứu, ham hiểu biết.
+ Có nghiệp vụ sư phạm.
+ Gương mẫu trong lối sống
+ Phải qua đào tạo cử nhân chính trị trở lên.
Muốn đạt được nhưng yêu cầu về chất lượng giảng dạy cũng như hiệu quả vận dụng tri thức khoa học và thực tiễn, cần phải đặc biệt chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giảng viên và học viên, tạo điều kiện yên tâm học tập và công tác. Tích cực nghiên cứu, cải thiện chế độ, chính sách đãi ngộ thoả đáng, ưu đãi hợp lý cho giảng viên và học viên, người lao động, công chức viên chức của Nhà trường.
Vấn đề cấp thiết đặt ra là cần phải đầu tư thoả đáng về kinh phí xây dựng, tu bổ hệ thống cơ sở vật chất, trang bị thêm hệ thống giảng đường, phòng làm việc và nơi sinh hoạt thuận tiện, phù hợp cho cán bộ, giảng viên; tăng đầu tư phòng đọc, hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ dạy và học, đó là cơ sở để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tình hình hiện nay.
- Nâng cao trình độ cho cán bộ Đảng viên, phải trên quan điểm xác định rõ tiêu chuẩn người cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy trong Nhà trường của thời kỳ mới. Vì mỗi thời kỳ có nhiệm vụ mục tiêu khác nhau do vậy tiêu chuẩn về phẩm chất năng lực của người cán bộ trong ngành Giáo dục nói chung trong Trường Chính trị nói riêng không hoàn toàn giống nhau. Việc xác định tiêu chuẩn người cán bộ công chức
giảng viên của Trường phải dựa vào những căn cứ sau:
- Một là: những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan điểm của Đảng.
- Hai là: căn cứ vào tiêu chuẩn có tính đặc thù của Nhà trường
- Ba là: căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Nhà trường thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Bốn là: cần chú ý đến các yếu tố thực tiễn.
Từ những căn cứ trên tiến hành xác định tiêu chuẩn cán bộ để bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ công chức đảm bảo tiêu chuẩn:
- Về phẩm chất chính trị: Có phẩm chất chính trị vững vàng kiên định, quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vững mạnh bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, chấp hành tốt Nghị quyết đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, thực hiện lời dạy của Hồ Chủ Tịch cán bộ vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trrung thành của nhân dân. Với cán bộ giảng dạy, giảng viên phải giữ vững phẩm chất, tính mô phạm của người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, xứng đáng đứng trong đội ngũ những người làm nghề dạy học, cái nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.
- Về năng lực lãnh đạo, quản lý: Quán triệt và vận dụng tốt những quan điểm đường lối của Đảng vào hoạt động thực tiễn công tác được giao, có khả năng nắm bắt, dự báo tình hình để từ đó xác định nhiệm vụ đào tạo, có năng lực tổ chức, quản lý, điều hành bộ máy và kiểm tra việc thực hiện có khả năng xây dựng tổ chức, cán bộ Đảng viên, giảng viên, quy tụ được sự đoàn kết nhất trí cao trong đơn vị.
- Kiến thức năng lực chuyên môn: Với cán bộ lãnh, đạo cán bộ quản lý phải có trình độ hiểu biết, tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng điều hành công việc, có trình độ đại học chuyên ngành trải qua thực tiễn cơ sở ít nhất là 5 năm trong lãnh đạo, quản lý, chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và điều hành công việc trôi chảy có hiệu quả cao.
- Phong cách làm việc: Luôn giữ vững tính Đảng, tính khoa học, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc với tinh thần quyết đoán, có trách nhiệm cao, thể hiện nói đi đôi với làm, sâu sát cơ sở, kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng để có biện pháp giải quyết phù hợp. Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý phải đủ các điều kiện: phải là Đảng viên, có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, biết ít nhất 1 ngoại ngữ trình độ B trở lên và biết sử dụng Máy vi tính.
3. Về quy hoạch cán bộ, giảng viên:
Khẩn trương xây dựng quy hoạch cán bộ, giảng viên, phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quy hoạch cán bộ, phải coi đây vừa là công tác có tính cấp thiết, vừa có tính cơ bản lâu dài. Đây không phải chỉ là công việc của tổ chức mà là công việc của cấp uỷ, cấp uỷ phải trực tiếp chỉ đạo. Quy hoạch phải đảm bảo tính đồng bộ về cơ cấu, kết hợp hài hoà các thế hệ cán bộ, giảng viên, đảm bảo tính kế thừa, tính phát triển và trẻ hoá, đặc biệt chú ý lực lượng trẻ có phẩm chất đạo đức, có năng lực. Việc lựa chọn, đánh giá, đưa vào quy hoạch phải trên cơ sở nắm vững mục tiêu, điều kiện và đảm bảo nguyên tắc dân chủ, tập thể và công khai hoá.
Công tác đào tạo bồi dưỡng, đánh giá chất lượng cán bộ cần được làm thường xuyên, đây là công việc rất hệ trọng, phải thực hiện đúng quy trình khoa học. Mục tiêu đào tạo phù hợp với từng loại chức năng cán bộ công chức. Đánh giá cán bộ là vấn đề hệ trọng và tế nhị, nếu đánh giá đúng, sử dụng hợp lý sẽ phát huy, chắp cánh cho cán bộ trưởng thành. Nếu đánh giá sai, bố trí cán bộ sẽ không hợp lý không phát huy được tài năng, có thể đẩy cán bộ công chức đến chỗ tiêu cực. Khi đánh giá, đề bạt, sắp xếp cán bộ công chức giảng viên phải trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đảng, coi trọng đức và tài, trong đó đức là gốc. Phải căn cứ vào tiêu chuẩn, nhiệm vụ được giao và kết quả công tác để đánh giá chứ không phải chỉ căn cứ vào lời nói hay bài viết giỏi. Hồ Chủ Tịch dạy, trước khi cân nhắc cán bộ phải nhật xét rõ ràng, chẳng những xem xét cách viết cách nói của họ mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không.
Đánh giá cán bộ đương nhiên phải căn cứ vào bằng cấp học vị, song không được tuyệt đối hoá, đồng nhất bằng cấp học vị với năng lực. Bằng cấp học vị chỉ là điều kiện để tạo ra năng lực chứ bản thân nó chưa phản ánh đầy đủ năng lực. Đánh giá phải dựa vào cứ liệu mới đảm bảo tính khách quan, chính xác.
Cần sử dụng đúng cán bộ, biết dùng cán bộ, đặt cán bộ đúng việc. Hồ Chủ Tịch dạy: Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, dùng người như người dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được, không nên sử dụng cán bộ tuỳ tiện theo kiểu thợ mộc thì bảo rèn dao, thợ rèn thì bảo đóng tủ. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người thì 2 người đều thành công.
Khéo dùng người còn thể hiện ở việc biết kết hợp hài hoà các thế hệ cán bộ, bố trí sử dụng cán bộ phải đảm bảo tiêu chuẩn và sở trường của họ, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm, thay thế kịp thời khi cần thiết.
Thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra, xử lý thích đáng những cán bộ công chức mắc khuyết điểm sai lầm trên cơ sở đoàn kết, thương yêu cán bộ, có lòng vị tha sâu sắc đồng thời có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những cán bộ tốt có tài, cần chú ý đảm bảo nguyên tắc.
- Cấp uỷ nắm quản lý công tác cán bộ
- Gắn trách nhiệm quản lý cán bộ với trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Bảo đảm nguyên tắc tập thể và trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị.
4. Về tuyển dụng cán bộ, giảng viên:
Theo quy luật, số cán bộ giảng viên sau quá trình công tác, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục đào tạo và sự phát triển đến nay tuổi đã cao được nghỉ chế độ hưu trí. Để tiếp tục sự nghiệp tồn tại và phát triển của Nhà trường tất nhiên phải có lực lượng bổ sung. Mặt khác, trước yêu cầu nhiệm vụ được giao ngày càng tăng lên, nhà trường cần thiết phải tăng cường thêm cán bộ, giáo viên. Trước tình hình đó Nhà trường phải tiến hàn tuyển dụng thêm trên cơ sở những nguyên tắc:
- Trước hết phải xuất phát từ công việc để tuyển dụng cán bộ, giảng viên.
- Người được tuyển dụng phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn quy định (theo yêu cầu chức danh tuyển dụng) khi tuyển dụng lưu ý trẻ hoá, khả năng phát triển của người được tuyển dụng.
- Tổ chức thi để tuyển dụng được những người có tài năng.
- Công khai hoá trong tuyển dụng để tránh những tiêu cực.
5. Về thực hiện quy chế, chính sách với cán bộ, giảng viên:
Căn cứ vào tiêu chuẩn hoá cán bộ, giảng viên, kiên quyết sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, giảng viên có đủ tiêu chuẩn theo chức danh. Số không đủ tiêu chuẩn cho đi đào tạo hoặc bố trí làm công việc khác thích hợp. Đồng thời có quy chế nội bộ ưu đãi thoả đáng về vật chất tinh thần với những cán bộ, giảng viên có nhiều thành tích đóng góp, tích cực học tập nâng cao trình độ, có đề tài khoa học có giá trị cao.
KIẾN NGHỊ VÀ KÊT LUẬN
KIẾN NGHỊ:
1. Đề xuất kiến nghị với Nhà nước:
+ Đề nghị có quy định về mô hình chuẩn về xây dựng cơ sở vật chất các trường. Cần có sự đầu tư các dự án, chương trình, mục tiêu về công tác bồi dưỡng đội ngũ, về trang thiết bị phục vụ dạy và học đối với các Trường chính trị.
+ Có chính sách thống nhất trong hệ thống các Trường chính trị như phụ cấp ưu đãi, chế độ vượt giờ.v.v… Vì hiện nay các trường cùng hệ thống nhưng thực hiện còn rất khác nhau. Cần quan tâm hơn về chế độ tiền lương để đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý trong hệ thống các Trường chính trị yên tâm hơn với công việc, yêu nghề hơn và đủ sống bằng tiền lương.
2. Đề xuất với Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Đề nghị Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh có quy định về tính chất đặc thù nghề nghiệp, tránh tình trạng mỗi trường, mỗi địa phương “vận dụng” một khác như hiện nay.
+ Chế độ xét, phong tặng các danh hiệu nhà giáo trong hệ thống giảng dạy lý luận như Bộ Giáo dục và đào tạo.
3. Đề xuất kiến nghị với tỉnh Hưng Yên:
+ Tăng nguồn đầu tư ngân sách để nâng cao chất lượng mọi mặt của Trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, vì nơi đây trực tiếp làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới hiện nay tại địa phương.
+ Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh với khối lượng nhiệm vụ được giao với biên chế cán bộ công chức giảng viên hiện nay chưa đáp ứng đặc biệt là đội ngũ giáo viên đề nghị Tỉnh xem xét bổ sung biên chế cho Trường.
+ Đề nghị đầu tư kinh phí cho việc trang bị mới và nâng cấp phương tiện kỹ thuật phục vụ dạy và học như phòng để trang thiết bị dạy và học, hệ thống phòng đọc, thư viện của Trường…
+ Đề nghị cho phép Trường thành lập phòng Tin học – Ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu học tập của học viên và hướng tới đáp ứng nhu cầu học ngoại ngữ - tin học của các đối tượng khác trong tỉnh phù hợp với xu thế hội nhập.
KẾT LUẬN:
Ngày nay, đất nước hoà bình thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng đòi hỏi phải nâng cao trình độ dân trí mới có thể tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Sự nghiệp đó đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề cho toàn Đảng toàn dân, đặc biệt sự nghiệp giáo dục đào tạo. Những người làm công tác giáo dục đào tạo nhất là đội ngũ giảng viên phải phấn đấu trưởng thành nhiều hơn nữa, nâng cao năng lực, chất lượng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đảng ta khẳng định khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và đã có nhiều chính sách quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên.
Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề khó khăn, phức tạp gắn liền với con người, gắn liền với các hoạt động khác trong xã hội, ở giai đoạn cách mạng nào cán bộ và công tác cán bộ cũng là trung tâm chú ý của con người. Những năm gần đây nhiều nước, nhất là những nước đang phát triển, người ta rất chú ý đến việc phát triển nhân tố con người, coi chiến lược phát triển con người là điều kiện quan trọng, là tiền đề sự phát trỉên kinh tế – xã hội của đất nước.
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên ở các Trường Chính trị tỉnh, thành phố là một vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Có đội ngũ cán bộ, giảng viên tốt chúng ta sẽ có được đội ngũ cán bộ cơ sở tốt cho Đảng và cho các hệ thống chính trị cơ sở. Muốn có đội ngũ cán bộ, giảng viên đủ đức đủ tài đòi hỏi chúng ta phải luôn quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cho họ. Vấn đề “ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới”vừa là yêu cầu có tính chiến lược lâu dài nhưng cũng luôn là đòi hởi có tính cấp bách trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể, ở từng cơ sở cụ thể. Do vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới là một nhiệm vụ được Tỉnh uỷ Hưng Yên, Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh đặc biệt quan tâm. Là một thành viên trong Nhà trường, tôi cũng muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung ấy, việc nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới” với sự hiểu biết cùng với sự hướng dẫn giúp đỡ của các Thầy Cô, nhất là cô Nguyễn Thị Thanh Hà. Tôi đã đi từ việc nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề, vận dụng vào nghiên cứu tìm hiểu tình hình đội ngũ cán bộ, giảng viên và công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh.
Với thực trạng của Nhà trường nêu trong chương II, từ những thành tích đạt được, và khuyết điểm hạn chế, cho thấyTrường Chính trị Nguyễn Văn Linh đã có nhiều cố gắng vươn lên. Song, trước yêu cầu nhiệm vụ ngày một nặng nề chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ giảng viên ngày càng phải cao hơn. Qua việc khảo sát, đánh giá tương đối đầy đủ về đội ngũ cán bộ giảng viên và việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên tôi mạnh dạn đưa ra những đề xuất phương hướng,mong tằng đề tài của tôi được nghiên cứu, xem xét và vận dụng vào thời gian tới sẽ góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên của Nhà trường lớn mạnh cả về số lượng, và chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình viết luận văn này, do thời gian, điều kiện và trình độ năng lực có hạn, sự chi phối của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, kính mong các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để đề tài có giá trị cao hơn khi vận dụng vào thực tiễn.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với thầy cô giáo của Học viện chính trị – Hành chính khu vực I đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà thạc sỹ giảng viên khoa Văn hoá và phát triển đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
1) C.Mác.Ăng ghen TT NXB chính trị QG 11-1995.
2) Lênin TT NXB –TB-M -1974.
3) Hồ Chí Minh toàn tập. NXBCTQG. 4 .1995 – T5
4) Biên niên sử các Đại hội ĐCSVN-NXB từ điển Bách koa – T2-HN-2006.
5) Tìm hiểu Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và Hội nghị Trung ương -1930-2002.
6) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, NxbSt. 1987
7) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII, NxbSt. 1991
8) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb,ST.1996
9) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ Ba khoá VIII
10) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,HN,2001
11) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ sáu (lần 2)
Khoá VIII,NxbCTQG,H 1999.
12) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,HN,2001
13) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQGST ,HN,2006.
14) Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị lần thứ IX, Nxb CTQGST,HN - 2009
15) Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – tập bài giảng xây dựng Đảng, HN,1998, hệ trung cấp lý luận chính trị.
16) Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Lý luận và nghiệp vụ về tổ chức và cán bộ, T1,2 và 3 ,NxbCTQG, Hà Nội 1998.
17) Một số Tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí cộng sản, Tạp chí giáo dục lý luận
18) Phân viện Hà Nội- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng),NxbCTQG, H,1995.
19) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam , NXBCTQG,ST-HN – năm 2006.
20) Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ Hưng Yên lần thứ XVI – 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.doc