MỤC LỤC
lời nói đầu 1
Chương I: Hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản - Những vấn đề mang tính lý luận. 3
1. Tổng quan về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. 3
2. Khái niệm về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. 4
1.1. Lịch sử hình thành - Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản 6
1.2. Các mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. 13
1.3. Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. 14
2. Hoạt động mua bán nợ tại các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. 17
2.1. Các khái niệm cơ bản. 17
2.2. Cơ chế hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. 22
3. Kinh nghiệm hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản một số quốc gia trên thế giới - bài học đối với Việt Nam. 26
3.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới. 26
3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. 34
Chương II: Thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 38
1. Sự cần thiết phải thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ở Việt Nam 38
2. Khái quát về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 43
2.1. Lịch sử hình thành công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 43
2.3. Khái quát về Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 45
3. Thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 53
3.1. Tình hình hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trong năm qua. 53
3.2. Các kết quả đạt được - Nguyên nhân thành công. 60
3.3. Những khó khăn tồn tại - Nguyên nhân tồn tại trong hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 62
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 80
1. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. 80
1.1. Đề án xử lý nợ tồn đọng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 80
1.2. Mục tiêu nhiệm vụ và các giải pháp chính của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 82
2. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 86
2.1. Về tổ chức công ty. 86
2.2. Về hoạt động của công ty. 90
3. Một số kiến nghị. 92
3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ, ngành liên quan. 93
3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước. 104
3.3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn . 111
Kết luận 113
101 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2784 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện nhiệm vụ chính trị, cũng như nhiệm vụ chuyên môn do Ban lãnh đạo công ty đề ra.
Tích cực tham gia các phong trào hoạt động do Đảng uỷ, Công đoàn ngành đề ra nhằm tạo không khí đoàn kết, phấn khởi trong cán bộ công nhân viên công ty.
Các giải pháp hoàn thiện và phát triển công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Trước những đòi hỏi của thực tế cũng như thực trạng nợ tồn đọng ở nước ta hiện nay, sự ra đời của loại hình công ty quản lý tài sản là một điều tất yếu. Vấn đề là phải làm sao để công ty hoạt động một cách có hiệu quả nhất, giải quyết được vấn đề nợ tồn đọng khó đòi trong thời gian ngắn nhất. Hơn nữa, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là một định chế còn hoàn toàn mới mẻ đối với Việt Nam, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và quản lý hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Điều này đưa đến nhiều khó khăn cũng như những bất cập khó tránh khỏi trong quá trình hoạt động của loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Đây là bài toán đặt ra cho không chỉ công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam mà là cho tất cả các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại nói chung. Để phát huy hiệu quả của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, không có cách nào khác là chúng ta phải từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ chế tổ chức, cơ chế hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản từ những vướng mắc và bất cập nảy sinh trong quá trình hoạt động thực tế.
Về tổ chức công ty.
Mô hình tổ chức .
Có thể nói, mô hình tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến hiệu quả hoạt động, đến sự thành công của một công ty. Một cơ cấu tổ chức không khoa học, hoặc quá cồng kềnh, hoặc quá sơ lược... đều sẽ gây nên sự ách tắc, trì trệ trong hoạt động kinh doanh, thậm chí còn có thể gây nên sự thất bại, sụp đổ cho công ty đó.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , cũng như những công ty quản lý nợ và khai thác tài sản nói chung, là một định chế đặc thù, chuyên hoạt động trong lĩnh vực giải quyết nợ tồn đọng của hệ thống ngân hàng, nên đòi hỏi phải có một mô hình tổ chức phù hợp riêng. Công ty cần có một cơ chế quản trị công ty lành mạnh, cụ thể là trong tất cả các giai đoạn vòng quay của tài sản phải loại bỏ những ảnh hưởng có thể làm lệch lạc việc định giá, ưu tiên không công bằng..., một cơ chế tổ chức vừa gọn nhẹ để đẩy nhanh hoạt động của công ty, vừa cụ thể, chi tiết để đáp ứng được những đòi hỏi riêng của công tác xử lý nợ về rủi ro, tối đa hoá giá trị thu hồi... Vì vậy, công ty cần thành lập các tổ, nhóm chuyên trách như: tổ quản lý tài sản, tổ mua bán tài sản, cơ cấu lại nợ, quản lý rủi ro...
Việc thành lập các tổ chuyên trách này sẽ giúp hoạt động của công ty có tính chuyên môn hoá cao hơn; sự phân công nhiệm vụ cũng như trách nhiệm rõ ràng hơn; công tác quản lý, phân loại nợ và tài sản cũng sẽ được nâng cao về mặt chất lượng.
Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là một nguồn lực quan trọng trong hoạt động của mọi công ty. Đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực, trình độ cao luôn là một lợi thế rất lớn, nó tác động đến tất cả các mặt, các nguồn lực khác trong kinh doanh.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cần chú ý tới các công tác sau:
Công tác tuyển dụng: Vì công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là một định chế được thành lập với mục đích xử lý nợ tồn đọng, công ty cần phải tập hợp được một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, có kiến thức và kinh nghiệm về nợ tồn đọng. Thông thường, nhu cầu về nhân lực có thể được đáp ứng từ 2 nguồn: nguồn cán bộ trong chính hệ thống và nguồn nhân lực từ bên ngoài công ty qua việc tuyển lựa. Trong trường hợp của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì đội ngũ cán bộ công nhân viên tốt nhất là nên được lựa chọn từ bản thân các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , những người đã có một thời gian hoạt động nhất định trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp . Ưu điểm của phương thức tuyển lựa và sử dụng nguồn cán bộ này thể hiện ở chỗ:
+) Thứ nhất, đây là những cá nhân đã có bề dày trong việc quản lý nợ và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động ngân hàng nói chung. Thời gian thích nghi với công việc cũng như chi phí đào tạo lại sẽ được giảm thiểu, hiệu quả công việc sẽ cao hơn.
+) Thứ hai, những cán bộ này có sự hiểu biết nhất định về các đặc trưng trong hoạt động kinh doanh, về khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như tình hình hoạt động của họ... từ đó có khả năng đưa ra những phương pháp, cách thức xử lý tài sản, cơ cấu lại nợ... phù hợp và hiệu quả nhất.
Tất nhiên, công ty cũng có thể tiến hành việc tuyển lựa cán bộ từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, từ Ngân hàng Nhà nước, hay từ nguồn nhân lực trên thị trường. Nhưng nói chung, các cán bộ của công ty cần phải có một số kỹ năng nhất định như:
+) Nắm được các nguyên tắc hạch toán kế toán cơ bản
+) Kiến thức về kinh tế để hỗ trợ thực hiện phân tích kinh tế vi mô khi phải tiến hành đánh giá các khoản vay.
+) Kỹ năng phân tích tài chính
+) Kỹ năng quản lý
+) Kỹ năng thương mại
+) Kiến thức về các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức: Cơ chế xử lý nợ đọng còn là vấn đề khá mới mẻ đối với đa số, ngay cả đối với nhiều cán bộ trong ngành ngân hàng. Vì vậy, một mặt, công ty cần xây dựng các định hướng chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực thông qua các chương trình tái đào tạo, gửi cán bộ đi học tập, khảo sát tại nước ngoài... Đây là một phần không thể tách rời của chiến lược phát triển cán bộ cũng như sự nghiệp của họ. Công ty cần phải xây dựng được một chương trình giảng dạy trọng tâm để đảm bảo rằng các cán bộ của mình có được một cơ sở kiến thức và năng lực thích hợp. Chương trình đào tạo phải hoà trộn một cách thích hợp cả đào tạo chính thức, không chính thức, và vừa học vừa làm tiến tới đạt được các mục tiêu cán bộ được trang bị đầy đủ bốn loại kỹ năng: quản lý, kỹ thuật, giao tiếp và lập báo cáo. Mặt khác, công ty cũng cần có những buổi giới thiệu, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật mới quy định và điều chỉnh hoạt động của công ty. Vì công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là một loại hình công ty rất mới, chưa có một đạo luật riêng nào điều chỉnh, nên trong quá trình hoạt động công ty chưa thể có ngay sự thống nhất về mặt pháp lý. Sẽ còn nhiều những văn bản pháp quy mới được bổ sung, sửa đổi, để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ đọng của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Nếu đội ngũ cán bộ công nhân viên không được kịp thời hướng dẫn về các văn bản pháp lý, họ có thể sẽ không thực hiện được công việc của mình hoặc sẽ làm sai, làm trái pháp luật, gây tổn hại đến hoạt động của công ty.
Cơ chế lương, thưởng: Việc hình thành các động cơ hoàn thành công việc ở mức cao hơn với chất lượng tốt hơn đối với các nhân viên cũng cần được thực hiện thông qua một cơ chế lương thưởng xứng đáng và một kế hoạch thưởng phạt công minh. Chẳng hạn như cán bộ của công ty cần được hưởng một chế độ lương có tính chất khuyến khích việc tối đa hoá giá trị tài sản...
Về hoạt động của công ty.
Nguồn vốn hoạt động.
Trong hoạt động mua bán nợ, sau khi tiếp nhận một khoản nợ, tài sản đảm bảo nợ, công ty phải mất một thời gian dài, có khi tới vài tháng, mới bán được số tài sản đó để thu hồi giá trị. Tức là, vòng quay vốn của những công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thường nhỏ, dẫn đến khối lượng vốn cần cho hoạt động này trở nên rất lớn. Do đó, sự cần thiết của nguồn vốn dồi dào là một đặc trưng hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, nó giúp đảm bảo hoạt động của công ty, tránh cho công ty không rơi vào tình trạng “lực bất tòng tâm”, đồng thời nâng cao tính hiệu quả của công tác xử lý nợ thông qua việc rút ngắn thời gian giải quyết nợ đọng.
Một trong những mặt tồn tại của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại ở nước ta là sự phụ thuộc vào nguồn vốn cấp phát từ ngân hàng mẹ, từ Chính phủ. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cũng ở trong tình trạng đó. Trước khi có những quy định cụ thể hơn và nới lỏng hơn cho việc huy động vốn của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, bản thân công ty cũng nên chủ động và linh hoạt trong việc tìm nguồn vốn hoạt động từ những nguồn khác mà luật pháp cho phép như vốn vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, sử dụng quỹ trích lập bổ sung vốn, tránh tâm lý “bao cấp”, thụ động chờ nguồn vốn từ trên rót xuống. Thực tế hoạt động của công ty cũng cho thấy trong thời gian vừa qua việc huy động vốn mới chỉ bó hẹp trong số vốn do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp, chứ chưa tìm đến những nguồn cung ứng vốn khác.
Tuy nhiên, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động, công ty cũng cần chú ý tới vấn đề sử dụng vốn sao cho tiết kiệm và hiệu quả nhất. Mặc dù công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được thành lập và hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà nhằm mục tiêu giải quyết số nợ tồn đọng quá lớn của hệ thống ngân hàng, nhưng không phải vì thế mà công ty không cần quan tâm tới vấn đề tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu và cố gắng tạo ra lợi nhuận. Vì vậy, trong hoạt động, công ty cần có sự cân nhắc, tính toán cẩn thận giữa chi phí bỏ ra và giá trị thu về đối với mỗi phương pháp xử lý, cũng như so sánh chi phí và khả năng thu hồi giữa các cách thức xử lý, từ đó lựa chọn phương thức phù hợp nhất, kinh tế nhất.
Hoạt động nghiệp vụ xử lý nợ và tài sản.
Để công tác xử lý nợ được diễn ra một cách hiệu quả, công ty cần không ngừng hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ xử lý nợ của mình.
Trong thời gian tới, công ty cần mạnh dạn, chủ động áp dụng đa dạng các biện pháp xử lý để đạt được hiệu quả cao nhất cho công tác thu hồi giá trị của khoản nợ. Công ty có thể đẩy mạnh việc sử dụng tài sản bảo đảm vào việc cho thuê, góp vốn liên doanh, hay chuyển thành vốn góp của công ty vào doanh nghiệp. Hoạt động này vừa giúp giải quyết được vấn đề nợ đọng cho ngân hàng, vừa giúp các doanh nghiệp cơ cấu lại hoạt động của mình theo hướng lành mạnh và phát triển, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng cũng mật thiết hơn. Đồng thời, công ty cũng cần mạnh dạn mở rộng việc mua bán nợ với cả các tổ chức tín dụng, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản khác nữa bên cạnh hoạt động mua bán nợ với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn .
Nhóm nợ không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn hoạt động, tồn tại chiếm đa số trong tổng số nợ đọng công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần xử lý. Để xử lý tốt những khoản nợ nhóm này, trước tiên công ty cần thực hiện thật tốt công tác “tái thẩm định khách hàng”. Việc tái thẩm định là việc xác định lại tư cách pháp nhân người vay, người bảo lãnh, tình hình tài chính, công nợ của khách hàng nợ, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ... Trên cơ sở tái thẩm định, cần phân tích nguyên nhân các khản nợ quá hạn và đánh giá thực trạng nợ khó đòi của từng hồ sơ tín dụng như: Phân tích theo loại hình kinh tế và khả năng cho vay, phân tích theo loại hình kinh tế và khả năng thu hồi; phân tích theo nguyên nhân. Trên cơ sở đó, lên phương án xử lý trên nguyên tắc 2 bên đều đạt được những thoản thuận tối đa về việc điều chỉnh lại thời hạn nợ, giãn nợ, kết hợp với chính quyền địa phương thức ép nợ, xoá nợ, giảm lãi, xoá lãi, chuyển nợ thành cổ phần tại doanh nghiệp, các biện pháp cho vay tiếp để phục hồi sản xuất tạo nguồn trả nợ, sử dụng các quỹ dự phòng bù đắp...
Việc định giá tài sản cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định đến khả năng bán nhanh, thu hồi được giá trị khoản nợ. Để hoạt động định giá được chính xác, phản ánh đúng giá trị của tài sản, sát với mức giá của thị trường, công ty cần quan tâm hơn nữa đến công tác này, cố gắng khắc phục những khó khăn về phía những cơ chế, quy định bất cấp trong việc định giá. Công ty cũng có thể giao tài sản cho một tổ chuyên trách việc quản lý, định giá tài sản hoặc hợp tác với một tổ chức chuyên định giá để hình thành mức giá khởi điểm hợp lý cho tài sản.
Ngoài ra, công ty nên tổ chức, mở rộng việc tuyên truyền, quảng cáo và các hoạt động khác để không chỉ thu hút được sự chú ý, quan tâm của mọi đối tượng đối với các tài sản đấu giá, mà còn giúp xã hội biết, hiểu nhiều hơn về công ty, tạo tâm lý quen thuộc và ủng hộ của xã hội đối với hoạt động của công ty.
Một số kiến nghị.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, cũng như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, khả năng tồn tại và thành công không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực của bản thân công ty mà còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế vĩ mô, vào sự thông thoáng và thuận lợi của môi trường pháp lý và sự quan tâm giúp đỡ của các bộ, ngành liên quan.
Kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ, ngành liên quan.
Hoàn thiện khung pháp lý.
Có thể nói, hệ thống pháp luật chính là một trong những dấu hiệu thể hiện trình độ phát triển của một quốc gia, của một nền kinh tế. Sự phức tạp của các hoạt động kinh tế, trình độ phát triển của thị trường càng cao thì đòi hỏi hệ thống luật pháp càng phải chặt chẽ, thống nhất, phù hợp xu hướng phát triển chung. Sự can thiệp của luật pháp cũng chính là giúp tạo lập và duy trì trật tự, đảm bảo cho sự lành mạnh, tuân theo các quy luật vốn có của hoạt động thị trường. Đối với các doanh nghiệp, hệ thống pháp luật tạo cơ sở cho các hoạt động kinh doanh của họ. Dựa vào luật pháp doanh nghiệp biết được mình được phép làm những gì, không được phép làm những gì, nếu vi phạm thì sẽ chịu hậu quả ra sao... điều đó vừa có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp linh hoạt, chủ động trong kinh doanh, hướng tới mục tiêu lợi nhuận, vừa có tác dụng răn đe, ngăn ngừa các hành vi có thể làm tổn hại đến lợi ích của xã hội của cộng đồng vì lợi nhuận của bản thân doanh nghiệp. Hệ thống luật pháp thông thoáng, đồng bộ sẽ giúp cho hoạt động của mọi thành phần trong nền kinh tế trở nên thuận lợi, trôi chảy và hiệu quả hơn.
Đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, hệ thống luật pháp phù hợp lại càng là vấn đề quan trọng vì đây là một loại hình công ty còn rất mới, không phải chỉ với riêng Việt Nam mà với cả các nước khác trên thế giới, thời gian hoạt động của công ty thường không phải là dài nhưng quá trình hoạt động lại liên quan đến rất nhiều các lĩnh vực, hoạt động kinh tế, thành phần kinh tế, và do đó liên quan đến các ngành luật khác nhau. Để hoàn thiện hơn nữa hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng, hệ thống pháp luật cần được kiện toàn và phát triển theo 2 hướng:
Thứ nhất, cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Trong thời gian vừa qua, tuy Chính phủ đã ban hành, bổ sung nhiều văn bản, quy định, nghị định về vấn đề tổ chức, hoạt động, xử lý nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, giải quyết được nhiều khó khăn vướng mắc pháp lý cho công ty, nhưng vì thời gian chuẩn bị không lâu, lại không có nhiều kinh nghiệm, nên còn rất nhiều mặt hoạt động của công ty mà luật pháp còn bỏ ngỏ hoặc có những quy định chưa thích đáng. Cụ thể, Chính phủ cần xem xét sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản, các quy định pháp luật về một số vấn đề như sau:
Cho phép, khuyến khích sự tham gia của thành phần đầu tư nước ngoài và tư nhân vào các hoạt động huy động vốn cũng như xử lý tài sản của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Như đã phân tích, nguồn vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với khả năng hoạt động và tồn tại của một công ty quản lý tài sản. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, đa dạng hoá các kênh huy động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, một mặt, Chính phủ cần có những quy định làm rõ hơn về các nguồn vốn công ty có thể huy động theo luật định, mặt khác, Chính phủ cũng nên mở rộng hoạt động này, theo đó cho phép có sự tham gia của cả nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và từ khu vực tư nhân. Tương tự, trong hoạt động xử lý, mua bán tài sản, Chính phủ cũng nên có những quy định cụ thể hơn về việc cho phép công ty quản lý nợ và khai thác tài sản tiến hành bán tài sản, bán các khoản nợ cho các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân, tạo sự linh hoạt và đa dạng cho hoạt động của công ty. Đây là hai khu vực có nguồn vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, và sự quan tâm không nhỏ tới vấn đề mua bán nợ.
Cho phép công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được mua lại nợ tồn đọng khó đòi từ ngân hàng thương mại, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản khác mà không cần phải có sự đồng ý của bên nợ ngay cả trong trường hợp hợp đồng tín dụng không quy định việc mua bán nợ. Phần lớn các hợp đồng tín dụng từ thời điểm 31/12/2000 trở về trước không đề cập đến khả năng mua bán nợ, nên khi các món nợ này trở thành nợ tồn đọng khó đòi, việc mua bán nợ với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản diễn ra không được nhanh chóng và thuận lợi do phải được sự đồng thuận của bên nợ và các bên có liên quan, một việc không phải lúc nào cũng dễ thực hiện.
Quy định cụ thể về các quyền của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đối với tài sản bảo đảm đã được công ty mua lại. Hiện nay, pháp luật quy định với tài sản bảo đảm nợ vay chưa bán được, ngân hàng thương mại và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được áp dụng các biện pháp: cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn, liên doanh bằng tài sản. Tuy nhiên, quy định cũng mới chỉ dừng ở đó chứ chưa nêu rõ công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có toàn quyền đối với tài sản bảo đảm, nhất là khi trong văn bản khác của luật lại quy định chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản (đối với động sản) hay như trong Quy chế mua bán nợ ban hành kèm theo quyết định 140/1999/QĐ-NHNN14 có quy định: trường hợp cần điều chỉnh các bảo đảm đối với khoản nợ phải có sự chấp thuận của bên nợ và bên bảo lãnh, bên tái bảo lãnh. Rất nhiều trường hợp khi không trả được nợ vay, khách hàng vay hoặc người bảo lãnh không hợp tác với ngân hàng và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, cố tình cản trở việc phát mại tài sản, mặc dù đã có sự thoả thuận giữa khách hàng vay hoặc người bảo lãnh với ngân hàng về phương thức xử lý tài sản thế chấp trong hợp đồng tín dụng. Do vậy, khi ngân hàng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản muốn phát mại nhà đất để thu hồi vốn thì buộc phải khởi kiện lên toà dân sự hoặc toà kinh tế và sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, thì mới được phát mại. Thậm chí không ít trường hợp, mặc dù bản án đã có hiệu lực pháp lý, nhưng việc phát mại gặp rất nhiều khó khăn và cản trở do khách hàng chống đối và không chịu thi hành. Vì vậy, việc cần làm là Chính phủ sửa đổi, ban hành những quy định cụ thể, trao cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản những quyền lực đặc biệt về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm để công ty có thể thực hiện việc hiện xử lý tài sản một cách chủ động và linh hoạt, không bị phụ thuộc và chi phối bởi sự bất hợp tác từ phía khách nợ.
Cho phép công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được mua những khoản nợ và tài sản có khiếm khuyết về thủ tục pháp lý; được hợp pháp hoá quyền sở hữu, quyền sử dụng qua phát hành chứng chỉ chuyển giao; và những tài sản này sau khi được công ty mua được đăng ký mà không gặp trở ngại khó khăn gì. Tài sản không đầy đủ về mặt thủ tục pháp lý chiếm số lượng không nhỏ trong các tài sản bảo đảm nợ đọng, và nó đang là vấn đề khiến các ngân hàng thương mại và các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản gặp phải không ít khó khăn trong quá trình xử lý. Các quy định trên sẽ giúp cho công ty giải quyết được nhiều vướng mắc từ khâu mua, tiếp nhận, đăng ký tài sản và đem bán, giúp rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí xử lý đối với những tài sản không đủ hồ sơ pháp lý, qua đó đẩy nhanh tốc độ và hiệu quả của hoạt động xử lý nợ đọng của công ty và các ngân hàng thương mại.
Có những quy định phù hợp về quyền được biết những thông tin của ngân hàng và của các doanh nghiệp - khách hàng của ngân hàng. Theo như pháp lệnh về bảo mật thông tin và quyết định 681/1994 của Thủ tướng Chính phủ về bảo mật thông tin ngân hàng, ngân hàng có trách nhiệm bảo mật những thông tin về khách hàng của mình. Tuy nhiên, khi chuyển giao nợ tồn đọng khó đòi cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý, ngân hàng lại cần phải chuyển giao toàn bộ thông tin về khách hàng của mình cho công ty để trên cơ sở đó công ty quản lý nợ và khai thác tài sản tiến hành phân tích, đánh giá khoản nợ và đề ra phương thức xử lý phù hợp và hiệu quả nhất.
Thứ hai, tiếp tục bổ sung, sửa đổi các hệ thống luật có liên quan khác cho phù hợp với đòi hỏi thực tế và tương thích với các quy định về hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Lĩnh vực nợ là lĩnh vực bao trùm nhiều những quan hệ kinh tế rộng lớn, nên cũng có liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đòi hỏi phải có sự phối hợp, thống nhất của hệ thống các khuôn khổ pháp luật điều chỉnh các hoạt động liên quan. Do vậy, bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động mua bán xử lý nợ tồn đọng khó đòi của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thì Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cũng cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật đất đai,... trong thời gian gần nhất.
Luật phá sản doanh nghiệp, ra đời năm 1993, tuy đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn..., nhưng trong thực tế giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản những năm qua cũng đã bộc lộ một số điểm bất hợp lý trong nhiều quy định pháp lý. Có thể đưa ra đây một số ví dụ như: điều 2 của luật Phá sản doanh nghiệp có quy định: “doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo như quy định này thì không phải tất cả các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn đều được đưa ra xem xét giải quyết theo thủ tục phá sản mà chỉ những doanh nghiệp nào bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do hai lý do là bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vì lý do bất khả kháng mới được Toà án xem xét để tuyên bố phá sản.
Hay như khoản 3, Điều 7 Luật Phá sản doanh nghiệp quy định, khi gửi đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản thì các chủ nợ phải cung cấp cho Toà án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh về việc doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này gây khó khăn cho các chủ nợ trong việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vì họ chỉ có thể biết được việc con nợ không thanh toán được các khoản nợ đối với mình chứ không biết, và cũng khó có đủ giấy tờ để chứng minh đựơc con nợ còn không thanh toán được nợ đối với các chủ nợ khác.
Một số những quy định bất hợp lý như phân tích ở trên đã khiến việc thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp gặp khó khăn. Thực tế, số lượng đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là rất ít so với số lượng thực tế các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Hiện tượng nhiều doanh nghiệp đã không còn hoạt động, chỉ tồn tại trên danh nghĩa, mà không được tuyên bố phá sản khiến nhiều chủ nợ, trong đó có trường hợp của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, không thể thu hồi được nợ. Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng có những sửa đổi, bổ sung thích hợp để tháo gỡ khó khăn không những cho chủ nợ mà còn cho bản thân các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có khả năng cơ cấu lại hoạt động của mình.
Chính phủ cũng cần có những sửa đổi đối với Luật đất đai theo hướng thông thoáng và hợp lý hơn nữa. Một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay trong vấn đề đất đai là sự rườm rà, khó khăn... khi làm các giấy tờ, thủ tục pháp lý. Theo Luật đất đai quy định, người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thế chấp và thừa kế, nhưng khi thực hiện các quyền trên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Như vậy, cũng có thể nói các cơ quan nhà nước cấp dưới còn có thẩm quyền cao hơn cả Quốc hội. Người chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình, dù đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn cứ phải xác nhận qua xã, phường, rồi vòng qua mấy lượt cơ quan nhà nước, mới chuyển nhượng được cho đúng pháp luật. Nhìn chung, các quy định về thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Nghị định số 17/1999/NĐ-CP và Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 17, về cơ bản vẫn mang đặc trưng của thời bao cấp, quan điểm xin – cho vẫn in đậm trong thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và trong bộ máy Nhà nước. Bên cạnh đó, sự tồn tại của nhiều loại giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay như: giá thị trường, giá do Nhà nước quy định, giá để tính tiền thuê đất đối với tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài, giá đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất...; và sự áp đặt giá theo khung giá đã kìm hãm sự phát triển của thị trường bất động sản, khiến thị trường bất động sản trở nên khó quản lý, dễ xẩy ra các hiện tượng tiêu cực...
Sự phối hợp của các bộ, ngành có liên quan.
Như ta đã thấy rõ, hoạt động xử lý nợ tồn đọng của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không có sự hỗ trợ, phối hợp của nhiều bộ, ngành liên quan. Vì vậy, để tạo sự thuận lợi, trôi chảy cho công tác giải quyết nợ khê đọng, các cơ quan liên quan cần hướng dẫn thực hiện một số công việc sau:
Bộ Tư pháp:
Ban hành văn bản, hướng dẫn các cơ quan bảo vệ và thi hành pháp luật đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án liên quan đến tài sản thế chấp, tránh kéo dài dây dưa.
Ngay cả khi nhiều bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mà trong đó có tuyên giao tài sản cho ngân hàng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại quản lý, khai thác, phát mại để thu hồi nợ, nhưng các cơ quan thi hành án địa phương lại tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của toà án rất chậm. Cho đến nay, nhiều tài sản liên quan đến các vụ án vẫn chưa được cơ quan thi hành án giao cho ngân hàng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý theo bản án, quyết định có hiệu lực của toà án. Do đó, việc giải quyết nợ tồn đọng của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản liên quan đến các vụ án đang chiếm một tỷ lệ lớn. Vì vậy, Bộ Tư pháp cần hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan thi hành án thực hiện nghiêm túc đúng quy định về việc cưỡng chế buộc người vay thi hành án; bàn giao nhanh cho ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại những tái ản bảo đảm nợ vay đã được toà án tuyên giao cho nh để xử lý thu hồi nợ.
Ban hành văn bản hướng dẫn các phòng công chứng địa phương và uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán những tài sản được giao từ các vụ án. Thực tế, thời gian qua khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản bán cho khách hàng những tài sản được giao từ các vụ án, nhiều hợp đồng mua bán những tài sản đó đã không được một số cơ quan công chứng Nhà nước chứng nhận vì cơ quan công chứng cho rằng tài sản chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp. Do vậy, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không thể làm được các thủ tục công chứng hợp đồng mua bán những tài sản bảo đảm nói trên để bán cho khách hàng thu nợ.
Tổng cục Địa chính và Bộ Xây dựng:
Cần xác định rõ việc xử lý nợ tồn đọng không phải là trách nhiệm riêng của ngành ngân hàng, của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản mà là trách nhiệm chung của các ngành có liên quan để làm lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sở Địa chính các tỉnh, thành phố nên sớm xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân có vay và thế chấp nhà đất tại các ngân hàng thương mại.
Tổng cục Địa chính và Bộ xây dựng phải coi những tài sản bảo đảm nợ vay chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp là hậu quả của lịch sử để lại để ban hành văn bản hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với đất và tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay khi các ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại bán tài sản bảo đảm nợ vay là bất động sản.
Sở Địa chính phối hợp với Trung tâm bán đấu giá tài sản làm nhanh các thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với các tài sản bán đấu giá để tạo điều kiện cho người mua.
Phát triển thị trường thứ cấp, thị trường bất động sản – tạo sự chuyển biến về nhận thức.
Mọi hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, từ việc mua, tiếp nhận nợ, cơ cấu lại nợ, và bán ra thị trường để thu hồi giá trị đều diễn ra theo cơ chế của thị trường mua bán nợ – thị trường thứ cấp. Do đó, trình độ phát triển của thị trường thứ cấp chính là một trong những điều kiện đảm bảo cho tính hiệu quả của hoạt động mua bán nợ. Để phát triển thị trường thứ cấp – một thị trường còn khá mới mẻ và chưa thực sự phát triển ở nước ta, Chính phủ cần có những biện pháp tăng cường hoạt động của thị trường, xây dựng khung pháp lý theo hướng vừa chặt chẽ, nghiêm minh để tạo sự ổn định, trật tự thị trường, tạo dựng lòng tin ở các nhà đầu tư trên thị trường, vừa thông thoáng, khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường, không can thiệp, bóp méo các quy luật...
Thực chất, trong phần lớn các trường hợp, các khoản nợ mua vào của công ty là việc chuyển giao tài sản thế chấp, bảo lãnh, là các bất động sản mà các tổ chức tín dụng đã xiết nợ, nay chuyển cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Do vậy, từ những bất động sản “nằm chết” chờ xử lý, khi chuyển giao cho công ty mua bán nợ, chúng cần phải được khai thác một cách triệt để qua các hoạt động của thị trường bất động sản. Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn trong giao dịch bất động sản, điều chỉnh, ban hành nhiều quy định giúp các hoạt động được thông thoáng hơn, các giao dịch được dễ dàng hơn, gần hơn với những quy luật thị trường, phù hợp đòi hỏi thực tế. Tuy vậy, thị trường bất động sản vẫn còn nhiều bất ổn, tự phát, khó kiểm soát, thủ tục mua bán còn rườm rà... Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu đưa ra các quy định, các biện pháp kiểm soát nhằm đưa hoạt động thị trường vào ổn định, tạo thuận lợi tối đa cho các giao dịch, có như vậy thì việc xử lý, mua bán các tài sản bản đảm là bất động sản mới có thể diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia.
Để phát triển thị trường thứ cấp, thị trường bất động sản, thúc đẩy hoạt động xử lý nợ tồn đọng của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, một trong những việc trước tiên cần làm là phải có sự chuyển biến về mặt nhận thức và quan điểm về phát triển thị trường, về hoạt động mua bán nợ. Đây là các giải pháp liên quan đến đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường. Mọi điều về kinh tế thị trường đối với chúng ta đều mới, không nên vội phê phán và đánh giá theo cảm tính, dẫn đến những sự e ngại, không mạnh dạn và triệt để trong suy nghĩ và hành động.
Không chỉ các cơ quan quản lý Nhà nước, mà cả các doanh nghiệp, tổ chức và dân chúng cũng cần có nhận thức đầy đủ để có sự đánh giá và tiếp cận đúng đắn về hoạt động mới này của nền kinh tế thị trường. Mọi thành phần cần có sự hợp tác, phối hợp tốt hơn trong hoạt động xử lý nợ của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, không nên để yếu tố tâm lý đơn thuần ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cũng như đến việc giải quyết nợ đọng của hệ thống ngân hàng.
Đẩy nhanh hơn nữa công tác xem xét phê duyệt xoá nợ
Xử lý nợ là một công việc không hề đơn giản, nhất là khi đó lại là những khoản nợ “có vấn đề”, phải dựa vào điều kiện, đặc điểm cụ thể của từng khoản nợ mà có những phương thức xử lý hợp lý. Trong số nợ khê đọng, không phải khoản nợ nào cũng có tài sản bảo đảm nợ vay để có thể tiến hành thanh lý, phát mại... thu hồi giá trị; con nợ còn hoạt động và có khả năng trả nợ mà có nhiều trường hợp món nợ đó vừa không có tài sản bảo đảm lại vừa không có khả năng thu nợ từ con nợ (doanh nghiệp giải thể, phá sản, còn hoạt động nhưng không có khả năng hoàn trả...). Tình hình nợ khê đọng ở nước ta nói chung, ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng, số nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm, con nợ không còn tồn tại không phải là nhỏ do hậu quả của chế độ bao cấp, không tách bạch tín dụng thương mại và tín dụng chính sách trong một thời gian dài để lại. Với những khoản nợ như vậy, các ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại không có cách xử lý nào khác là phải sử dụng quỹ dự phòng, nguồn vốn ngân sách cấp để xoá nợ. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong việc xem xét phê duyệt xoá nợ của Chính phủ lại đang là khó khăn của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trong quá trình xử lý nợ đọng. Để tạo thuận lợi cho công tác xử lý nợ, Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa việc xem xét xoá nợ, phê duyệt nguồn vốn cho các ngân hàng thương mại và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại thực hiện xoá nợ. Một trong những biện pháp tạo sự chủ động cho Chính phủ trong việc phê duyệt nguồn vốn xoá nợ cũng như tạo sự tin tưởng ở nh và các doanh nghiệp là Chính phủ thành lập một quỹ đặc biệt để xoá nợ, cơ cấu lại nợ cho các doanh nghiệp.
Có cơ chế bù lỗ trong hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và thực tế cũng rất khó để tạo ra lợi nhuận. Vì vậy, để công ty hoạt động bình thường và có hiệu quả, ngoài số vốn được cấp ban đầu, Bộ Tài chính nên nghiên cứu chế độ cấp bù lỗ hàng năm dựa trên cơ sở quyết toán tài chính được duyệt.
Đối với Ngân hàng Nhà nước.
Nghiên cứu soạn thảo, hoàn thiện mô hình Công ty mua, bán nợ của Nhà nước.
Để hoạt động xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng thương mại được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả, việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ở từng ngân hàng thôi là chưa đủ. Cần phải thành lập một công ty ở tầm nhà nước để vừa trực tiếp tham gia giải quyết nợ tồn đọng cho hệ thống ngân hàng, vừa có tác dụng quản lý, hướng dẫn, kết nối hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc các ngân hàng thương mại khác nhau.
Ý thức được sự cần thiết phải thành lập công ty mua, bán nợ của Nhà nước, Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu soạn thảo các cơ chế, quy chế hoạt động cho công ty quản lý tài sản tồn đọng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm nghiên cứu, tổ chức các hội thảo, và mời các chuyên gia tư vấn... để đưa ra một cơ chế tổ chức và hoạt động cho công ty mua, bán nợ Việt Nam trong tương lai, đồng thời chịu trách nhiệm soạn thảo một Nghị định về thành lập công ty mua, bán nợ Việt Nam, quy định rõ những quyền hạn và kỹ năng đặc biệt của công ty.
Dự kiến mô hình công ty mua, bán nợ của Nhà nước.
Về mô hình tổ chức công ty, theo kiến nghị của Ngân hàng Nhà nước thể hiện rõ trong dự thảo nghị định: Công ty mua bán nợ Việt Nam sẽ là một tổ chức tài chính Nhà nước đặc biệt, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có bảng cân đối riêng và được mở tài khoản tại các nh trong nước và nước ngoài. Người ra quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mua bán nợ là Thủ tướng Chính phủ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động của công ty.
Công ty mua bán nợ Việt Nam dự kiến sẽ có trụ sở chính tại Hà nội và có chi nhánh ở một số thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng...
Là một tổ chức đặc biệt, Công ty mua bán nợ dự kiến sẽ không bị chi phối bởi Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng, mà là một tổ chức đặc thù, chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, khoảng 10 năm, vốn hoạt động là vốn Nhà nước cấp hoặc phát hành trái phiếu. Việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng nh được thực hiện theo cơ chế riêng.
Theo kinh nghiệm của một số nước, cơ cấu tổ chức của Công ty mua bán nợ sẽ phụ thuộc vào tính chất, số lượng và giá trị của các tài sản được chuyển cho công ty mua bán nợ. Công ty mua, bán nợ Việt Nam sẽ được tổ chức thành một bộ máy gọn nhẹ để tiết kiệm chi phí và nguồn lực và cần được chia tách giữa hai bộ phận chức năng: hoạt động và quản lý với một cơ cấu quản trị công ty và điều hành chung.
DỰ KIẾN MÔ HÌNH CÔNG TY MUA, BÁN NỢ CỦA NHÀ NƯỚC.
Hội đồng quản lý (Ban điều hành)
Ban kiểm soát
Ban Giám đốc điều hành (Tổng Giám đốc)
Kiểm toán nội bộ
Mua tài
sản
Hành
chính
Quản lý
rủi ro
Kế toán
tài chính
Pháp chế
Quản lý
tài sản
Tổ chức
Kế toán
Bán
tài sản
Thông
tin
tuyên truyền
Tài
chính
Tài sản không còn giá trị
Công
nghệ
thông
tin
Khối quản lý
Hội đồng quản lý (Ban điều hành): có ít nhất 9 thành viên, trong đó có 3 thành viên chuyên trách là Chủ tịch, Tổng Giám đốc, Trưởng ban kiểm soát do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Các thành viên kiêm nhiệm là đại diện của các Bộ, Ngành liên quan: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tư pháp, Ban Vật giá Chính phủ, Tổng cục địa chính... Đồng thời một Ban định giá riêng được thành lập để giúp Hội đồng quản lý đưa ra các quyết định về giá, Hội đồng quản lý tham khảo ý kiến và đưa ra các quyết định cuối cùng về giá.
Hoạt động của Ban điều hành tập trung vào giám sát hoạt động và chiến lược của công ty mua, bán nợ cũng như các kế hoạch của Tổng Giám đốc và đòi hỏi có sự phê duyệt đặc biệt.
Ban Giám đốc điều hành: gồm một Tổng Giám đốc là thành viên của Hội đồng quản lý, do Hội đồng quản lý bổ nhiệm. Tổng Giám đốc có trách nhiện tổng thể đối với hoạt động của công ty mua, bán nợ, là đại diện pháp lý và có quyền cao nhất trong công ty mua bán nợ. Tổng giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhà nước và ban điều hành. Các phó tổng giám đốc là cán bộ công chức có trình độ tiêu chuẩn chuyên môn đáp ứng được việc quản lý chuyên môn của công ty, sẽ do Tổng giám đốc đề cử và uỷ quyền điều hành một số phòng hoạt động của công ty mua bán nợ và sẽ báo cáo trực tiếp cho Tổng giám đốc.
Ban kiểm soát: do Hội đồng quản lý thành lập và hoạt động với tư cách là thanh tra độc lập và có chức năng kiểm tra sự tuân thủ của công ty mua, bán nợ. Ban kiểm soát gồm ít nhất 5 thành viên. Trong đó, một thành viên thuộc Hội đồng quản lý làm trưởng ban, hai thành viên kiêm nhiêkm là đại diện của Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước, còn hai thành viên chuyên trách là cán bộ trong bộ máy công ty do Chủ tịch Hội đồng quản lý bổ nhiệm.
Ban kiểm toán nội bộ: Trong mô hình dự kiến Ban kiểm toán nội bộ đứng ở vị trí độc lập. Tuy nhiên, các nhà tư vấn công ty mua bán nợ lại đề xuất là Ban kiểm soát sẽ hoạt động với chức năng kiểm toán nội bộ
Khối nghiệp vụ:
Khối nghiệp vụ là bộ phận chức năng chính của công ty mua bán nợ, là nơi tiến hành tất cả các hoạt động kinh doanh của công ty mua bán nợ. Mỗi phòng trong khối nghiệp vụ có chức năng và trách nhiệm cụ thể đối với những tài sản được mua, quản lý và bán. Dự kiến gồm 4 bộ phận chính:
Tiếp nhận tài sản
Quản lý tài sản
Bán tài sản
Tài sản không còn giá trị (Tài sản có giá trị bằng 0)
Khối quản trị gồm:
Phòng hành chính gồm 2 phòng: Phòng nhân sự và phòng tuyên truyền
Phòng quản lý rủi ro
Phòng tài chính kế toán:
phòng kế toán
Phòng tài chính
Phòng Công nghệ thông tin
Phòng pháp chế.
Dự kiến các hoạt động của công ty mua bán nợ Việt Nam
Công ty mua, bán nợ Nhà nước thực tế sẽ chỉ có một cơ cấu tài chính – tài sản. Đối tượng mua nợ và các tài sản là các ngân hàng thương mại, trong giai đoạn đầu ưu tiên các ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngân hàng thương mại cổ phần bán cho công ty mua, bán nợ những khoản nợ có vấn đề của các ngân hàng thương mại quốc doanh và các Doanh nghiệp Nhà nước. Trong trường hợp này việc tài trợ, định giá và các chính sách khác sẽ mang chức năng chính sách hơn là các sức mạnh thị trường và các cơ cấu vốn có tính tối ưu.
Nợ được mua là các khoản nợ khó đòi hạch toán trên sổ sách kế toán của ngân hàng từ trước 31/12/2000. Tài sản được mua là những tài sản đã gán, xiết nợ liên quan đến các khoản nợ khó đòi được hạch toán trên sổ sách nh thời điểm trên. Ngân hàng đã nhận được tài sản, quyền sở hữu hay quyền sử dụng, quyền định đoạt và các quyền khác do con nợ chuyển giao để thay thế một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng.
Đối với các khoản nợ không còn giá trị do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng. Để thực hiện việc mua bán nợ – tài sản công ty mua, bán nợ sẽ lập chứng chỉ chuyển giao làm cơ sở pháp lý trong việc mua bán, chuyển nhượng.
Công ty được trực tiếp mua theo giá thị trường một phần hoặc toàn bộ nợ, tài sản mà bên bán nợ đang nắm giữ quyền sở hữu, hoặc quyền sử dụng, định đoạt với các tổ chức cá nhân khác.
Các tài sản được mua, công ty mua bán nợ sẽ trực tiếp quản lý hoặc sử dụng đại lý để quản lý, bảo trì, bảo dưỡng... các khoản nợ thì cơ cấu lại thông qua việc xác định lại thời hạn nợ mới, thay đổi kỳ hạn trả nợ, phương thức trả nợ gốc, miễn giảm lãi suất, đầu tư cho vay thêm, chuyển đổi thành cổ phiếu trái phiếu... nhằm chuyển đổi các khoản vay không sinh lời thành có sinh lời, phục hồi tài sản và khả năng sinh lời. Cuối cùng công ty mua bán nợ sẽ thực hiện quy trình bán, chuyển nhượng tài sản thông qua đấu giá, chứng khoán hoá hoặc bán riêng theo thoả thuận.
Nhìn chung, mô hình công ty mua bán nợ do Ngân hàng Nhà nước đề xuất là tổng hợp kết quả của cả một quá trình nỗ lực nghiên cứu tìm tòi, áp dụng các kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cùng với sự giúp đỡ tận tình của các công ty tư vấn hàng đầu thế giới như Công ty Anthur Andersen, Công ty Deloitte Touch Tohmatsu, Công ty Vinstar...
Tuy nhiên, do tính đặc thù riêng biệt của nền kinh tế Việt Nam, do những hạn chế, thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý, các vấn đề về chính sách, vốn, nhân sự... cũng như một số điểm chưa thực sự thích hợp trong bản thân mô hình công ty mua, bán nợ mà đến nay công ty vẫn chưa được cho ra đời. Vì vậy, cùng với việc Chính phủ từng bước xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa mô hình công ty mua bán nợ Nhà nước để trình lên Chính phủ, nhanh chóng đưa mô hình công ty đi vào hoạt động.
Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản hướng dẫn thực hiện các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Như đã phân tích, hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cần có những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, công ty cần được trao những kỹ năng và quyền lực đặc biệt để có thể hoàn thành được mục tiêu xử lý nợ tồn đọng khó đòi của hệ thống ngân hàng. Việc Chính phủ không ngừng hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý cho hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là điều vô cùng cần thiết và phải làm cho được. Tuy nhiên, để công ty quản lý nợ và khai thác tài sản biết, hiểu, và thực hiện đúng theo các quy định luật pháp của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ban hành các văn bản liên quan, cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện quyết định, và cần tránh không để xảy ra hai tình trạng:
Thứ nhất, các quyết định, văn bản của Ngân hàng Nhà nước không thống nhất, thậm chí xung đột với quyết định của Chính phủ; không phù hợp với đòi hỏi thực tế.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước chậm ban hành các công văn, chỉ thị, văn bản... hướng dẫn hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản theo tinh thần quyết định của Chính phủ.
Cả hai trường hợp trên đều gây nên những khó khăn, vướng mắc cho công tác giải quyết nợ tồn đọng của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần rà soát các văn bản hiện hành có liên quan đến việc xử lý nợ tồn đọng và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, đồng thời tham khảo thêm ý kiến của các ngân hàng thương mại để ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới cho phù hợp với các quyết định và tình hình thực tế.
Một trong những trường hợp Ngân hàng Nhà nước cần xem xét là Quy chế mua bán nợ ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19 tháng 04 năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quy chế này chỉ điều chỉnh hoạt động mua bán nợ mà bên bán là tổ chức tín dụng. Do đó, sau khi mua nợ từ các tổ chức tín dụng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại không biết căn cứ vào văn bản pháp lý nào để bán nợ cho các tổ chức kinh tế hay cá nhân khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành văn bản hướng dẫn hoạt động mua bán nợ giữa công ty quản lý nợ và khai thác tài sản với các tổ chức kinh tế và cá nhân khác hoặc ngược lại.
Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn .
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đơn vị trực tiếp quản lý, kiểm tra về tổ chức và nội dung, phạm vị hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn . Công ty có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực khác được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao; phải thực hiện các công tác tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn các hình thức trả lương, thưởng và các nghĩa vụ và quyền hạn của người lao động theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; chịu trách nhiệm trước Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và trước pháp luật về mọi hoạt động của công ty; thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Như vậy, hoạt động của công ty phụ thuộc rất nhiều vào các quyết sách, định hướng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn .
Để thúc đẩy, phát triển hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, điều trước tiên Ngân hàng Nông nghiệp cần làm là tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính, cơ sở vật chất ban đầu cho công ty, thể hiện ở nguồn vốn cấp ban đầu, tiếp tục có sự bổ sung và trợ giúp thích hợp, kịp thời trong quá trình hoạt động sau này. Ngân hàng cũng có thể tạo điều kiện về trụ sở hoạt động và những trang thiết bị vật chất ban đầu để công ty nhanh chóng đi vào hoạt động. Đồng thời, ngân hàng nên giúp đỡ điều chuyển những cán bộ có trình độ và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng nói chung cũng như lĩnh vực quản lý nợ nói riêng sang công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng để giúp công tác xử lý nợ đạt được hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần thường xuyên quan tâm đến tình hình hoạt động nói chung của công ty, lắng nghe ý kiến và những vướng mắc trong công tác xử lý nợ mà công ty gặp phải, từ đó cùng công ty đề ra các biện pháp tháo gỡ. Kịp thời có các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động của công ty cho phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng không nên có sự can thiệp quá sâu vào hoạt động của công ty, nên tránh tư tưởng bao cấp, ỷ lại, mà nên để công ty có sự tự chủ và linh hoạt của mình trong công tác xử lý nợ tồn đọng cho ngân hàng.
Về phần mình, công ty nên không ngừng củng cố và phát triển hoạt động nghiệp vụ. Công ty mới đi vào hoạt động chưa lâu nên khó khăn còn rất nhiều. Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty cần cùng nhau nỗ lực, tìm hiểu kỹ nguyên nhân của những vướng mắc, chưa thành công, từ đó có những biện pháp khắc phục kịp thời. Với những nguyên nhân từ phía cơ chế, luật pháp, môi trường vĩ mô... công ty cần có những phản ánh kịp thời lên các cơ quan lãnh đạo cấp trên để có những sửa đổi, hoàn thiện về mặt pháp lý, đồng thời tăng cường mối quan hệ, tận dụng sự giúp đỡ của các bộ ngành có liên quan, đẩy nhanh tốc độ giải quyết nợ tồn đọng. Trong hoạt động, công ty cần có sự chủ động, linh hoạt đối với công tác xử lý nợ, không ngừng bồi dưỡng trình độ cho các cán bộ, hoàn thiện hơn nữa các quy trình nghiệp vụ, cố gắng tận dụng những khả năng và lợi thế của công ty...
KẾT LUẬN
Trước đòi hỏi của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế cũng như yêu cầu phát triển bền vững nền kinh tế, chương trình cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hoá tình hình tài chính, trong đó xử lý nợ tồn đọng của hệ thống ngân hàng là một nội dung quan trọng, là một quyết định kịp thời và đúng đắn của Chính phủ.
Để phục vụ cho chương trình tái cơ cấu tài chính, nhiều ngân hàng thương mại đã thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng mình nhằm giải quyết cho được vấn đề nợ tồn đọng khó đòi đã tồn tại từ lâu nay. Với những nghiên cứu nghiêm túc, luận văn cố gắng phần nào làm rõ được những lý luận tổng quát nhất về hoạt động của hình thức công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Dựa trên cơ sở lý luận đó, phân tích đánh giá tình hình hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , rút ra những mặt đã làm được và chưa làm được của công ty trong thời gian hoạt động vừa qua. Nhưng quan trọng nhất vẫn là việc phát hiện ra những nguyên nhân của các khó khăn tồn tại để đưa ra hệ thống những giải pháp thích hợp giúp hoàn thiện hơn nữa hoạt động của công ty.
Cuối cùng, em xin cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy, cô giáo, của các cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như công ty quản lý nợ và khai thác tài sản nơi thực tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô giáo, thạc sĩ Đỗ thị Kim Hảo, người đã rất nhiệt tình, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt thời gian làm luận văn.
Dù đã có sự cố gắng hết sức của người viết, luận văn chắc chắn vẫn không tránh khỏi việc còn có những điểm thiếu sót, chưa hoàn thiện. Rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến đóng góp, sửa chữa của thầy, cô và các bạn bè.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ & khai thác tài sản Ngân Hàng NN & PTNT Việt Nam.doc