Đề tài Thực trạng lãi suất huy động vốn bằng vnđ của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Mục lục I. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT2 1. Khái niệm2 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất huy động. 2 3. Vai trò, tác động của lãi suất đến việc huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. 2 a. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.2 b. Lãi suất với đầu tư.2 c. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.2 d. Lãi suất với lạm phát.2 e. Vai trò của lãi suất đến việc huy động vốn.3 II. THỰC TRẠNG LÃI SUẤT HUY ĐỘNG VỐN BẰNG VNĐ CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM . 3 1. Biến động lãi suất năm 2008. 3 2. Biến động lãi suất năm 2009. 8 3. Biến động lãi suất năm 2010. 11 4. Biến động lãi suất những tháng đầu năm 2011. 13 III. KÊT LUẬN16 IV. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO17 Đề bài: Thực trạng lãi suất huy động vốn bằng VNĐ của các NHTM VN trong thời gian vừa qua ( 2008-2010) I. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT 1. Khái niệm Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng (= tỷ số giữa tổng số lợi tức và tổng số tiền cho vay), vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. Tóm lại, lãi suất huy động vốn là là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người đi vay phải trả cho người cho vay. 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất huy động - Sự thay đổi của cung cầu tiền tệ - Sự chi tiêu của Chính phủ - Chính sách tiền tệ - Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư 3. Vai trò, tác động của lãi suất đến việc huy động vốn trong nền kinh tế thị trường a. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia làm hai bộ phận: Tiêu dùng và Tiết kiệm. Do đó, khi lãi suất tăng đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, làm tiết kiệm tăng. b. Lãi suất với đầu tư. Hoạt động đầu tư chiu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh. Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư tăng c. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá trong ngắn hạn chịu ảnh hưởng của lãi suất: lãi suất là tiển gửi nội tệ và ngoại tệ. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi ) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng. Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá (tỷ giá giảm ) và ngược lại d. Lãi suất với lạm phát. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm , lượng tiền cung ứng cũng sẽ giảm và lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. e. Vai trò của lãi suất đến việc huy động vốn. Lãi suất là chi phí huy động vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét khả năng lợi nhuận thu được với chi phí huy động vốn bỏ ra để quyết định huy động vốn từ nguồn nào và đầu tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân hàng phải xem xét giữa lãi suất huy động với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương hướng hoạt động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển. Tóm lại, lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền (GNP). II. THỰC TRẠNG LÃI SUẤT HUY ĐỘNG VỐN BẰNG VNĐ CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM 1. Biến động lãi suất năm 2008 1.1. Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam năm 2008 [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/M210/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg[/IMG] Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất tương đối ổn định. 1.2. Thực trạng lãi suất huy động vốn của các NHTM năm 2008 Năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: cuộc đua tăng lãi suất của các NHTM vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều ngược lại là giảm lãi suất, dù độ quyết liệt kém hơn. [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/M210/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image004.gif[/IMG] 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh : Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường do lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Mặc khác kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa đầu năm 2008. Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc 17/03/2008, đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương mại làm cho tính thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột điều này gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng. Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung các ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay. Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài từ 1 năm trở lên.Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các ngân hàng thương mại. Bởi vậy, áp lực trong cân đối nguồn vốn các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn. Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng. “Một nguồn vốn không nhỏ đã dịch chuyển từ ngân hàng sang các kênh đầu tư này”. Và cũng không phải ngẫu nhiên có những khoản vay trong các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Đó là chưa kể những đợt sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng khiến nhà đầu tư “sốt sắng” tham gia. Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu các ngân hàng cổ phần không tăng lãi suất sẽ khó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất âm. Mặt khác, do hiện nay nền kinh tế chưa hấp thụ hết dòng vốn ngoại, trong khi nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam được dự đoán sẽ tiếp tục chảy vào nên phải tăng lãi suất huy động để hút tiền đồng. 1 số ví dụ điển hình về các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất 6 tháng đầu năm: - Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank): lãi suất cho các kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng là 15,12-15,48% mỗi năm, với kỳ hạn 13 tháng trở lên là 15,24%. - Lãi suất cao nhất tại Viettinbank là 16% mỗi năm cho kỳ hạn 12 tháng. Với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất là 15% và cho kỳ hạn 6-9 tháng là 15,5%. - Tình hình diễn ra tương tự tại Ngân hàng Đông Nam Á (SeABank): niêm yết mức lãi suất 15,36% cho kỳ hạn 9 tháng. Với hình thức Tiết kiệm siêu lãi suất, trong đó người gửi không được rút tiền trước thời hạn với bất kỳ lý do nào, lãi suất cao nhất được niêm yết là 16,2% cho kỳ hạn 12 tháng. - Tại TP HCM, ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) tiến hành nâng mức lãi suất huy động tiền gửi VND từ 16,08% lên 18,08% mỗi năm cho những khách hàng tham dự sản phẩm "Siêu lãi suất - siêu linh hoạt". - Ngân hàng TMCP Đại Dương (Oceanbank) cũng chính thức áp dụng biểu lãi suất mới trên toàn hệ thống, với mức cao nhất là 17,8% một năm đối với tiền gửi VND, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Nếu lựa chọn kỳ hạn từ 3 tuần đến 3 tháng, người gửi sẽ nhận lãi suất 17,50% một năm. Một thực tế khác đó là khi mà các NHTM đang ra sức chạy đua để tăng lãi suất huy động lên cao thì chắc chắn là lãi suất cho vay cũng không nằm ngoài cuộc chạy đua này. Diễn biến lãi suất phản ánh tác động tiêu cực của cả lạm phát và giảm phát lên hoạt động của hầu hết các DN. Lãi suất nóng (tháng 5 – 6/2008) khiến DN phải vay với lãi suất cao khiến cho chi phí tài chính tăng mạnh, ảnh hưởng tới lợi nhuận của DN. Báo cáo của VCCI (phòng thương mại và công nghiệp VN) tháng 7/2008 cho thấy có tới 93% DN cho rằng việc lãi suất NH tăng cao đã gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động SXKD. Và ảnh hưởng của lãi suất tới DN đc thể hiện: - Do lãi suất cho vay tăng cao, hiệu quả SXKD của hầu hết các DN đã bị giảm sút, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ nên khả năng trả nợ là khó khăn. - Lãi suất vay cao, cùng với nguồn cung tín dụng bị hạn chế đã dẫn đến tình trạng hầu hết các DN buộc phải cơ cấu lại hoạt động SXKD, cắt giảm việc đầu tư, thu hẹp quy mô và phạm vi hoạt động - Nhiều DN có quy mô nhỏ, vốn ít, không chịu đựng được mức lãi suất cao, không có khả năng huy động vốn để duy trì hoạt động SXKD đã phải ngừng hoạt động, giải thể và phá sản. 6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh: Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm 2008. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao và tính rủi ro thấp. Mặt khác, sau 6 tháng đã huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì nay các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu dùng trong hoạt động sản xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. NH nào cũng chỉ muốn cho vay khách hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì chỉ vay khi LS ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là vay bằng mọi giá). Vì vậy để có vốn rẻ khuyến khích nhu cầu vay của DN tốt thì phải hạ LS huy động. Thứ hai, tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có được sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng VND dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các NH đã liên tục hạ LS tiền gửi VND. Từ 16,5%- 17,5%/năm giảm về từ 10,5%-14,5%/năm. Và thứ ba, trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như yêu cầu quản trị , các ngân hàng đã có quyết định phù hợp với trường hợp của mình, cũng như theo hướng chung của hệ thống. Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, chi phí đầu vào tăng lên, khi có điều kiện các ngân hàng sẽ xem xét để có điều chỉnh hợp lý, tính đến cả mục tiêu lợi nhuận của mình nữa, cùng với nhận định việc giảm lãi suất huy động sẽ không ảnh hưởng lớn tới tốc độ huy động trong thời gian tới. 1.3. Nguyên nhân chủ yếu Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác động của lạm phát và lòng tin. Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong bối cảnh đó, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu thông thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư. Các NHTM đã không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh khoản một cách khoa học và bài bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng. Sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu của ngân hàng trong thời gian qua, có nguyên nhân từ việc nhà đầu tư nhận thấy rằng khủng hoảng thanh khoản đang hoặc sắp xảy ra với ngân hàng. Nguyên nhân gây nên sự sụt giảm mạnh cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ cũng xuất phát từ vấn đề thanh khoản. Rủi ro thanh khoản cũng là rủi ro tài chính do tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổchức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng. 2. Biến động lãi suất năm 2009 2.1. Chính sách lãi suất của NHNN VN năm 2009 Sau 10 tháng duy trì ổn định, từ ngày 1/12/09, lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7% lên 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 5% lên 6%/năm. Điều chỉnh này của NHNN với mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010. [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/M210/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image006.jpg[/IMG] 2.2. Thực trạng lãi suất huy động vốn tại các NHTM năm 2009 Ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Một lý giải chắc chắn cho đợt điều chỉnh lãi suất huy động mới của các NH, vốn không chỉ dừng lại ở khối các NHTMCP, là nhằm chuẩn bị một nguồn vốn dồi dào trước các dự báo cho rằng nhu cầu vốn của DN sẽ đặc biệt tăng mạnh trong năm 2009. Các điều chỉnh tăng vì thế được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12.3 của các NHTM gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm. Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. Cụ thể, tại Ngân hàng An Bình, hiện mức lãi suất đỉnh đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Với kỳ hạn 18 tháng, người gửi tiền được hưởng lãi suất 9%/năm; 24 tháng: 9,2%/năm; 36 tháng: 9,4%/năm; 60 tháng: 9,5%/năm. trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ, ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Từ tháng 8 đến tháng10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Ngân hàng Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank) lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến đỉnh 9,5%. Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà TP.HCM (HDBank), ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng nay cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao, 9,1% và 9,3%. Tiếp tục sau đó các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như 15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi xuất huy động 0.3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8 lãi suất huy động vốn VND đã lên tới đỉnh là 10.3%. Đến đầu tháng 11 nhóm NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động VND với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động USD từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn. Hiện nay, lãi suất của các ngân hàng đã lên tới 9.99%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/M210/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image008.gif[/IMG] Ngày 25/11/2009, NHNN bất ngờ công bố quyết định tăng lãi suất cơ bản lên mức 8% năm, áp dụng từ ngày 1/12/2009. Đây là quyết định khá bất ngờ, bởi trong 11 tháng liên tiếp duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7%/năm, NHNN vẫn khẳng định sẽ giữ mức này tối thiểu đến hết năm 2009. Với mức lãi suất cơ bản mới, trần lãi suất kinh doanh tại các ngân hàng thương mại sẽ là 12%/năm, thay vì mức 10,5%/năm trước đó. NHNN cũng tăng một loạt lãi suất tái cấp vốn (từ 7% lên 8%/năm) và lãi suất chiết khấu (từ 5% lên 6%/năm). Các mức lãi suất mới này cũng sẽ có hiệu lực từ ngày 1/12, qua đó gián tiếp hạn chế tín dụng bằng cách tăng chi phí vốn của các ngân hàng thương mại. Với trần lãi suất kinh doanh 12%/năm theo mức lãi suất cơ bản mới, các ngân hàng sẽ có nhiều lựa chọn hơn để “kéo” khách hàng đến gửi tiền, tăng cơ hội giành nguồn vốn từ các kênh đầu tư khác như vàng hay chứng khoán. 2.3. Nguyên nhân chủ yếu Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm. Trước hết là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gởi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn không chỉ đến với ngân hàng thương mại mà cả đối với Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng. Mặt khác, để ổn định tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần. Ngoài ra, do tác động của việc nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong 10 tháng đầu năm 2009, làm cho việc kiểm soát tốc độ tăng ở mức hợp lý của hai chỉ tiêu trên gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiềm soát lạm phát, ổn định lãi suất thị trường trong các tháng cuối năm 2009 và sẽ kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của tác động tiền tệ. 3. Biến động lãi suất năm 2010 3.1. Chính sách lãi suất của NHNN VN năm 2010 [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/M210/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image010.jpg[/IMG] Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Ngày 03/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ TCTD) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Đồng thời NHNN cũng cử các đoàn kiểm tra phải báo cáo hàng ngày với Thống đốc về tình trạng huy động lãi suất trên địa bàn. Trên thị trường OMO( nghiệp vụ thị trường mở), NHNN có thời điểm mỗi ngày bơm 20.000 tỷ đồng để bình ổn thị trường. Ngày 24/06/2010 NHNN đã ra quyết định số 1565/QĐ-NHNN lãi suất cơ bản bằng VNĐ là 8%/năm và có hiệ lực thi hành kể từ ngày 01/07/ 2010. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN. 3.2. Thực trạng lãi suất huy động vốn tại các NHTM VN năm 2010 Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng. CHúng ta có thể thấy rằng là lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận vì vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10. Sau những diễn biến khó lường của tỷ giá và giá vàng trong nước vào những ngày cuối tháng 10/2010, trong cuộc họp ngày 04/11, Ủy ban Giám sát tài Chính Quốc gia công bố thả nổi lãi suất theo thị trường. Ngày 05/11, NHNN tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9%. Các thành viên Hiệp hội ngân hàng nâng mức lãi suất huy động đồng thuận lên trần 12%/năm. Tuy nhiên liên tục sau đó các NHTM nhỏ cạnh tranh lãi suất huy động, đẩy lên mặt bằng 14%/năm, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng tăng lên trên 13%/năm, có thời điểm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới 20%/năm Cho đến ngày 15/10/2010, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Sau những diễn biến khó lường của tỷ giá và giá vàng trong nước vào những ngày cuối tháng 10/2010, trong cuộc họp ngày 04/11, Ủy ban Giám sát tài Chính Quốc gia công bố thả nổi lãi suất theo thị trường. Điều này đã châm ngòi nổ cho các NHTM có cuộc đua tăng lãi suất huy động. Một ví dụ tiêu biểu đó là ngày 8/12, Techcombank công bố thực hiện chương trình “3 ngày vàng” với lãi suất 17,6%/năm, tạo tiền đề cho các NHTM nhỏ chuyển sang thỏa thuận ngầm với khách hàng với lãi suất 17 – 18%/năm. 3.3. Nguyên nhân chủ yếu Như vậy, có thể thấy rằng, mặt bằng lãi suất huy động chịu sức ép tăng trong năm do một số nguyên nhân chính: Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế; Chịu sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách năm 2009 (trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3 đến tháng 8, các tháng còn lại biến động tăng cao đã ảnh hưởng đến nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ và các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN); Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng của người dân. 4. Biến động lãi suất những tháng đầu năm 2011 Để ổn định thị trường tiền tệ năm 2011, báo cáo của NHNN đưa ra giải pháp kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất ngay từ những tháng đầu năm (6 tháng đầu năm dưới 3,5%), phấn đấu đạt mục tiêu lạm phát cả năm không quá 7% là điều kiện cơ bản để ổn định và giảm dần lãi suất thị trường. Giải pháp tiếp theo là các tổ chức tín dụng tiếp tục ấn định lãi suất huy động vốn theo mức “trần” 14%/năm và giảm dần theo xu hướng lạm phát. Bên cạnh đó, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại tệ, giá vàng biến động phù hợp với giá vàng thế giới và không có biến động đột biến; tiếp tục thực hiện các giải pháp để tăng cung ngoại tệ, giảm cầu ngoại tệ như trong năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ . Lãi suất huy động VND không được vượt 14%/năm Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 03 tháng 03 năm 2011 quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể: Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/ năm. Riêng các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm. Mức lãi suất huy động vốn tối đa này áp dụng đối với phương thức trả lãi cuối kỳ; đối với các phương thức trả lãi khác, phải được quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động vốn tối đa. Tổ chức tín dụng niêm yết công khai lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam tại các địa điểm huy động vốn (Hội sở chính, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghiêm cấm tổ chức tín dụng thực hiện khuyến mại huy động vốn bằng tiền, lãi suất và các hình thức khác không đúng với quy định của pháp luật và Thông tư này. Ngân hàng Nhà nước cho biết, mục đích của việc ban hành Thông tư này là nhằm thực hiện giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ lãi suất cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác để góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội theo chủ trương của Chính phủ; đồng thời tạo cơ sở pháp lý để xử lý đối với tổ chức tín dụng vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng. Trước đó, tại cuộc họp báo của NHNN ngày 1/3, nhiều ý kiến của phóng viên và hiệp hội ngân hàng phản ánh hiện nay tại nhiều địa phương, một số NHTM đang cố tình nâng mức lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam lên đến 17-18%/năm, gây bất ổn thị trường tiền gửi, đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao. Và đến ngày 04/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có các 2 công văn xử lý vi phạm lãi suất huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kiên Long – chi nhánh Đắc Lắc đã huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng với mức lãi suất 15,7%/năm và Ngân hàng TMCP Phương Tây chi nhánh Hà Nội huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn loại sản phẩm “Tiền gửi tiết kiệm phát lộc” với mức lãi suất 17,8%/năm đã vi phạm mức quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam theo quy định tại Công văn số 9779/NHNN-CSTT ngày 14/12/2010 của Thống đốc NHNN. Sau hơn 2 tuần NHNN áp dụng nhiều biện pháp ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất tiết kiệm đã có dấu hiệu bình ổn. Lãi suất huy động VNĐ của khá nhiều NH dưới mức trần 14%/năm. Đặc biệt từ ngày 1-4, NH Kiên Long (Kienlong Bank) phát hành chứng chỉ tiền gửi để huy động 500 tỉ đồng nhưng lãi suất chỉ 13,5%/năm (dưới mức cho phép 0,5%/năm). Tuy lãi suất tiền gửi có kỳ hạn VNĐ đang giảm nhẹ nhưng những ngày gần đây, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lại biến động mạnh. Trước đây, lãi suất không kỳ hạn phổ biến ở mức 3%/năm (mức lãi suất thấp nhất), ngân hàng chỉ được phép sử dụng 30% số vốn huy động không kỳ hạn để cho vay. Mặt khác, một số ngân hàng vận động khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nhưng khi rút trước hạn lại được ngân hàng chi trả lãi suất 12% – 13%/năm. Điều này thường làm ngân hàng thiếu hụt vốn tạm thời khiến thị trường liên tục diễn ra các cuộc đua về lãi suất có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Vì thế, mới đây, NHNN quy định khách hàng rút tiền trước hạn, các ngân hàng chỉ được chi trả với mức lãi suất thấp (lãi suất không kỳ hạn), lập tức, một số ngân hàng tăng mạnh lãi suất không kỳ hạn bằng nhiều hình thức. Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank) triển khai sản phẩm VP Super dành cho khách hàng luân chuyển tiền qua tài khoản thanh toán với lãi suất lên đến 9%/năm. Từ nay đến ngày 5-4, NH Hàng hải (Maritime Bank) tung ra thị trường sản phẩm M – Business dành cho tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp được cộng thưởng 2% cho tất cả các bậc lãi suất của tài khoản M – Business, đưa lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lên 10%/năm. Kienlong Bank cũng nâng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lên 6%/năm. Còn NH Việt Á không chỉ nâng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn mà còn áp dụng lãi suất tăng theo mức tiền gửi: Người gửi 1 tỉ đồng trở lên được hưởng lãi suất không kỳ hạn 8%/năm, từ 400 triệu đồng đến dưới 1 tỉ đồng lãi suất là 7,5%/năm; từ 20 triệu đồng – dưới 400 triệu đồng lãi suất 6%/năm trở lên Có thể thấy rằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tăng đột biến không đồng nghĩa với việc ngân hàng huy động vốn không kỳ hạn để cho vay. Việc tăng lãi suất không kỳ hạn chủ yếu là để giữ chân khách hàng, bởi không một ngân hàng nào muốn khách hàng rút tiền trước hạn làm xáo trộn nguồn vốn. III. KÊT LUẬN Vốn nhàn rỗi trong dân chiếm một lượng quan trọng rất lớn và chưa được đưa vào quỹ đạo của nền kinh tế, chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. Vậy để thu hút và sử dụng được nguồn vốn này có hiệu quả thì các NHTM phải có những chính sách lãi suất huy động vốn phù hợp để các bên cùng có lợi mà không vi phạm các quy định về lãi suất huy động mà NHNN đã đưa ra. Ngược lại, NHNN cũng nên đưa ra các chính sách lãi suất thận trọng và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Hiện tượng lãi suất vẫn đang biến động theo từng ngày, từng giờ khắp trong và ngoài nước. Lãi suất là một trong những biến số cần phải được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Sự dao động của lãi suất được đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó trực tiếp tác động đến các quyết định của chính phủ, doanh nghiệp cũng như nhiều hoạt động của các tổ chức tín dụng và các thành phần khác trong nền kinh tế. Do vậy, trong thời gian tới lãi suất huy động vốn sẽ phụ thuộc vào các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sao cho phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính trong nước, trong khu vực và thế giới. IV. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.www.vnexpress.com 2.www.dantri.com 3.www.thitruongtaichinh.vn 4.www.ebank.vnexpress.net 5.www.sbv.gov.vn

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3218 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng lãi suất huy động vốn bằng vnđ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Đề bài: Thực trạng lãi suất huy động vốn bằng VNĐ của các NHTM VN trong thời gian vừa qua ( 2008-2010) I. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT 1. Khái niệm Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng (= tỷ số giữa tổng số lợi tức và tổng số tiền cho vay), vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. Tóm lại, lãi suất huy động vốn là là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người đi vay phải trả cho người cho vay. 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất huy động - Sự thay đổi của cung cầu tiền tệ - Sự chi tiêu của Chính phủ - Chính sách tiền tệ - Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư 3. Vai trò, tác động của lãi suất đến việc huy động vốn trong nền kinh tế thị trường a. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia làm hai bộ phận: Tiêu dùng và Tiết kiệm. Do đó, khi lãi suất tăng đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, làm tiết kiệm tăng. b. Lãi suất với đầu tư. Hoạt động đầu tư chiu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh. Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư tăng c. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá trong ngắn hạn chịu ảnh hưởng của lãi suất: lãi suất là tiển gửi nội tệ và ngoại tệ. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi ) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng. Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá (tỷ giá giảm ) và ngược lại d. Lãi suất với lạm phát. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm , lượng tiền cung ứng cũng sẽ giảm và lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. e. Vai trò của lãi suất đến việc huy động vốn. Lãi suất là chi phí huy động vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét khả năng lợi nhuận thu được với chi phí huy động vốn bỏ ra để quyết định huy động vốn từ nguồn nào và đầu tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân hàng phải xem xét giữa lãi suất huy động với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương hướng hoạt động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển. Tóm lại, lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền (GNP). II. THỰC TRẠNG LÃI SUẤT HUY ĐỘNG VỐN BẰNG VNĐ CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM 1. Biến động lãi suất năm 2008 1.1. Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam năm 2008 Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất tương đối ổn định. 1.2. Thực trạng lãi suất huy động vốn của các NHTM năm 2008 Năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: cuộc đua tăng lãi suất của các NHTM vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều ngược lại là giảm lãi suất, dù độ quyết liệt kém hơn. Hình2: Lãi suất huy động tiền gởi VNĐ năm 2008 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh : Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Mặc khác kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa đầu năm 2008. Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc 17/03/2008, đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương mại làm cho tính thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột điều này gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng. Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung các ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay. Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài từ 1 năm trở lên. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các ngân hàng thương mại. Bởi vậy, áp lực trong cân đối nguồn vốn các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn. Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng. “Một nguồn vốn không nhỏ đã dịch chuyển từ ngân hàng sang các kênh đầu tư này”. Và cũng không phải ngẫu nhiên có những khoản vay trong các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Đó là chưa kể những đợt sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng khiến nhà đầu tư “sốt sắng” tham gia. Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu các ngân hàng cổ phần không tăng lãi suất sẽ khó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất âm. Mặt khác, do hiện nay nền kinh tế chưa hấp thụ hết dòng vốn ngoại, trong khi nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam được dự đoán sẽ tiếp tục chảy vào nên phải tăng lãi suất huy động để hút tiền đồng. 1 số ví dụ điển hình về các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất 6 tháng đầu năm: - Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank): lãi suất cho các kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng là 15,12-15,48% mỗi năm, với kỳ hạn 13 tháng trở lên là 15,24%. - Lãi suất cao nhất tại Viettinbank là 16% mỗi năm cho kỳ hạn 12 tháng. Với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất là 15% và cho kỳ hạn 6-9 tháng là 15,5%. - Tình hình diễn ra tương tự tại Ngân hàng Đông Nam Á (SeABank): niêm yết mức lãi suất 15,36% cho kỳ hạn 9 tháng. Với hình thức Tiết kiệm siêu lãi suất, trong đó người gửi không được rút tiền trước thời hạn với bất kỳ lý do nào, lãi suất cao nhất được niêm yết là 16,2% cho kỳ hạn 12 tháng. - Tại TP HCM, ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) tiến hành nâng mức lãi suất huy động tiền gửi VND từ 16,08% lên 18,08% mỗi năm cho những khách hàng tham dự sản phẩm "Siêu lãi suất - siêu linh hoạt". - Ngân hàng TMCP Đại Dương (Oceanbank) cũng chính thức áp dụng biểu lãi suất mới trên toàn hệ thống, với mức cao nhất là 17,8% một năm đối với tiền gửi VND, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Nếu lựa chọn kỳ hạn từ 3 tuần đến 3 tháng, người gửi sẽ nhận lãi suất 17,50% một năm. Một thực tế khác đó là khi mà các NHTM đang ra sức chạy đua để tăng lãi suất huy động lên cao thì chắc chắn là lãi suất cho vay cũng không nằm ngoài cuộc chạy đua này. Diễn biến lãi suất phản ánh tác động tiêu cực của cả lạm phát và giảm phát lên hoạt động của hầu hết các DN. Lãi suất nóng (tháng 5 – 6/2008) khiến DN phải vay với lãi suất cao khiến cho chi phí tài chính tăng mạnh, ảnh hưởng tới lợi nhuận của DN. Báo cáo của VCCI (phòng thương mại và công nghiệp VN) tháng 7/2008 cho thấy có tới 93% DN cho rằng việc lãi suất NH tăng cao đã gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động SXKD. Và ảnh hưởng của lãi suất tới DN đc thể hiện: - Do lãi suất cho vay tăng cao, hiệu quả SXKD của hầu hết các DN đã bị giảm sút, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ nên khả năng trả nợ là khó khăn. - Lãi suất vay cao, cùng với nguồn cung tín dụng bị hạn chế đã dẫn đến tình trạng hầu hết các DN buộc phải cơ cấu lại hoạt động SXKD, cắt giảm việc đầu tư, thu hẹp quy mô và phạm vi hoạt động - Nhiều DN có quy mô nhỏ, vốn ít, không chịu đựng được mức lãi suất cao, không có khả năng huy động vốn để duy trì hoạt động SXKD đã phải ngừng hoạt động, giải thể và phá sản. 6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh: Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm 2008. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao và tính rủi ro thấp. Mặt khác, sau 6 tháng đã huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì nay các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu dùng trong hoạt động sản xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. NH nào cũng chỉ muốn cho vay khách hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì chỉ vay khi LS ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là vay bằng mọi giá). Vì vậy để có vốn rẻ khuyến khích  nhu cầu vay của DN tốt thì phải hạ LS huy động. Thứ hai, tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có được sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng VND dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các NH đã liên tục hạ LS tiền gửi VND. Từ 16,5%- 17,5%/năm  giảm về từ 10,5%-14,5%/năm. Và thứ ba, trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như yêu cầu quản trị…, các ngân hàng đã có quyết định phù hợp với trường hợp của mình, cũng như theo hướng chung của hệ thống. Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, chi phí đầu vào tăng lên, khi có điều kiện các ngân hàng sẽ xem xét để có điều chỉnh hợp lý, tính đến cả mục tiêu lợi nhuận của mình nữa, cùng với nhận định việc giảm lãi suất huy động sẽ không ảnh hưởng lớn tới tốc độ huy động trong thời gian tới. 1.3. Nguyên nhân chủ yếu Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác động của lạm phát và lòng tin. Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong bối cảnh đó, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu thông thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư. Các NHTM đã không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh khoản một cách khoa học và bài bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng. Sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu của ngân hàng trong thời gian qua, có nguyên nhân từ việc nhà đầu tư nhận thấy rằng khủng hoảng thanh khoản đang hoặc sắp xảy ra với ngân hàng. Nguyên nhân gây nên sự sụt giảm mạnh cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ cũng xuất phát từ vấn đề thanh khoản. Rủi ro thanh khoản cũng là rủi ro tài chính do tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổchức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng. 2. Biến động lãi suất năm 2009 2.1. Chính sách lãi suất của NHNN VN năm 2009 Sau 10 tháng duy trì ổn định, từ ngày 1/12/09, lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7% lên 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 5% lên 6%/năm. Điều chỉnh này của NHNN với mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010. 2.2. Thực trạng lãi suất huy động vốn tại các NHTM năm 2009 Ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Một lý giải chắc chắn cho đợt điều chỉnh lãi suất huy động mới của các NH, vốn không chỉ dừng lại ở khối các NHTMCP, là nhằm chuẩn bị một nguồn vốn dồi dào trước các dự báo cho rằng nhu cầu vốn của DN sẽ đặc biệt tăng mạnh trong năm 2009. Các điều chỉnh tăng vì thế được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12.3 của các NHTM gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm. Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. Cụ thể, tại Ngân hàng An Bình, hiện mức lãi suất đỉnh đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Với kỳ hạn 18 tháng, người gửi tiền được hưởng lãi suất 9%/năm; 24 tháng: 9,2%/năm; 36 tháng: 9,4%/năm; 60 tháng: 9,5%/năm. trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ, ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Từ tháng 8 đến tháng10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Ngân hàng Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank) lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến đỉnh 9,5%. Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà TP.HCM (HDBank), ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng nay cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao, 9,1% và 9,3%. Tiếp tục sau đó các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như 15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi xuất huy động 0.3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8 lãi suất huy động vốn VND đã lên tới đỉnh là 10.3%. Đến đầu tháng 11 nhóm NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động VND với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động USD từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn. Hiện nay, lãi suất của các ngân hàng đã lên tới 9.99%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Hình 4: Lãi suất huy động tiền gởi VNĐ năm 2009 Ngày 25/11/2009, NHNN bất ngờ công bố quyết định tăng lãi suất cơ bản lên mức 8% năm, áp dụng từ ngày 1/12/2009. Đây là quyết định khá bất ngờ, bởi trong 11 tháng liên tiếp duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7%/năm, NHNN vẫn khẳng định sẽ giữ mức này tối thiểu đến hết năm 2009. Với mức lãi suất cơ bản mới, trần lãi suất kinh doanh tại các ngân hàng thương mại sẽ là 12%/năm, thay vì mức 10,5%/năm trước đó. NHNN cũng tăng một loạt lãi suất tái cấp vốn (từ 7% lên 8%/năm) và lãi suất chiết khấu (từ 5% lên 6%/năm). Các mức lãi suất mới này cũng sẽ có hiệu lực từ ngày 1/12, qua đó gián tiếp hạn chế tín dụng bằng cách tăng chi phí vốn của các ngân hàng thương mại. Với trần lãi suất kinh doanh 12%/năm theo mức lãi suất cơ bản mới, các ngân hàng sẽ có nhiều lựa chọn hơn để “kéo” khách hàng đến gửi tiền, tăng cơ hội giành nguồn vốn từ các kênh đầu tư khác như vàng hay chứng khoán. 2.3. Nguyên nhân chủ yếu Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm. Trước hết là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gởi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn không chỉ đến với ngân hàng thương mại mà cả đối với Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng. Mặt khác, để ổn định tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần. Ngoài ra, do tác động của việc nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong 10 tháng đầu năm 2009, làm cho việc kiểm soát tốc độ tăng ở mức hợp lý của hai chỉ tiêu trên gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiềm soát lạm phát, ổn định lãi suất thị trường trong các tháng cuối năm 2009 và sẽ kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của tác động tiền tệ. 3. Biến động lãi suất năm 2010 3.1. Chính sách lãi suất của NHNN VN năm 2010 Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Ngày 03/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ TCTD) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Đồng thời NHNN cũng cử các đoàn kiểm tra phải báo cáo hàng ngày với Thống đốc về tình trạng huy động lãi suất trên địa bàn. Trên thị trường OMO( nghiệp vụ thị trường mở), NHNN có thời điểm mỗi ngày bơm 20.000 tỷ đồng để bình ổn thị trường. Ngày 24/06/2010 NHNN đã ra quyết định số 1565/QĐ-NHNN lãi suất cơ bản bằng VNĐ là 8%/năm và có hiệ lực thi hành kể từ ngày 01/07/ 2010. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8%  trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN. 3.2. Thực trạng lãi suất huy động vốn tại các NHTM VN năm 2010 Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng. CHúng ta có thể thấy rằng là lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế  lãi suất thỏa thuận vì vậy  đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10. Sau những diễn biến khó lường của tỷ giá và giá vàng trong nước vào những ngày cuối tháng 10/2010, trong cuộc họp ngày 04/11, Ủy ban Giám sát tài Chính Quốc gia công bố thả nổi lãi suất theo thị trường. Ngày 05/11, NHNN tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9%. Các thành viên Hiệp hội ngân hàng nâng mức lãi suất huy động đồng thuận lên trần 12%/năm. Tuy nhiên liên tục sau đó các NHTM nhỏ cạnh tranh lãi suất huy động, đẩy lên mặt bằng 14%/năm, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng tăng lên trên 13%/năm, có thời điểm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới 20%/năm Cho đến ngày 15/10/2010, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Sau những diễn biến khó lường của tỷ giá và giá vàng trong nước vào những ngày cuối tháng 10/2010, trong cuộc họp ngày 04/11, Ủy ban Giám sát tài Chính Quốc gia công bố thả nổi lãi suất theo thị trường. Điều này đã châm ngòi nổ cho các NHTM có cuộc đua tăng lãi suất huy động. Một ví dụ tiêu biểu đó là ngày 8/12, Techcombank công bố thực hiện chương trình “3 ngày vàng” với lãi suất 17,6%/năm, tạo tiền đề cho các NHTM nhỏ chuyển sang thỏa thuận ngầm với khách hàng với lãi suất 17 – 18%/năm. 3.3. Nguyên nhân chủ yếu Như vậy, có thể thấy rằng, mặt bằng lãi suất huy động chịu sức ép tăng trong năm do một số nguyên nhân chính: Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế; Chịu sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách năm 2009 (trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3 đến tháng 8, các tháng còn lại biến động tăng cao đã ảnh hưởng đến nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ và các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN); Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng của người dân. 4. Biến động lãi suất những tháng đầu năm 2011 Để ổn định thị trường tiền tệ năm 2011, báo cáo của NHNN đưa ra giải pháp kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất ngay từ những tháng đầu năm (6 tháng đầu năm dưới 3,5%), phấn đấu đạt mục tiêu lạm phát cả năm không quá 7% là điều kiện cơ bản để ổn định và giảm dần lãi suất thị trường. Giải pháp tiếp theo là các tổ chức tín dụng tiếp tục ấn định lãi suất huy động vốn theo mức “trần” 14%/năm và giảm dần theo xu hướng lạm phát. Bên cạnh đó, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại tệ, giá vàng biến động phù hợp với giá vàng thế giới và không có biến động đột biến; tiếp tục thực hiện các giải pháp để tăng cung ngoại tệ, giảm cầu ngoại tệ như trong năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ... Lãi suất huy động VND không được vượt 14%/năm Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 03 tháng 03 năm 2011 quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể: Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/ năm. Riêng các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm. Mức lãi suất huy động vốn tối đa này áp dụng đối với phương thức trả lãi cuối kỳ; đối với các phương thức trả lãi khác, phải được quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động vốn tối đa. Tổ chức tín dụng niêm yết công khai lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam tại các địa điểm huy động vốn (Hội sở chính, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghiêm cấm tổ chức tín dụng thực hiện khuyến mại huy động vốn bằng tiền, lãi suất và các hình thức khác không đúng với quy định của pháp luật và Thông tư này. Ngân hàng Nhà nước cho biết, mục đích của việc ban hành Thông tư này là nhằm thực hiện giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ lãi suất cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác để góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội theo chủ trương của Chính phủ; đồng thời tạo cơ sở pháp lý để xử lý đối với tổ chức tín dụng vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng. Trước đó, tại cuộc họp báo của NHNN ngày 1/3, nhiều ý kiến của phóng viên và hiệp hội ngân hàng phản ánh hiện nay tại nhiều địa phương, một số NHTM đang cố tình nâng mức lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam lên đến 17-18%/năm, gây bất ổn thị trường tiền gửi, đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao. Và đến ngày 04/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có các 2 công văn xử lý vi phạm lãi suất huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kiên Long – chi nhánh Đắc Lắc đã huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng với mức lãi suất 15,7%/năm và Ngân hàng TMCP Phương Tây chi nhánh Hà Nội huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn loại sản phẩm “Tiền gửi tiết kiệm phát lộc” với mức lãi suất 17,8%/năm đã vi phạm mức quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam theo quy định tại Công văn số 9779/NHNN-CSTT ngày 14/12/2010 của Thống đốc NHNN. Sau hơn 2 tuần NHNN áp dụng nhiều biện pháp ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất tiết kiệm đã có dấu hiệu bình ổn. Lãi suất huy động VNĐ của khá nhiều NH dưới mức trần 14%/năm. Đặc biệt từ ngày 1-4, NH Kiên Long (Kienlong Bank) phát hành chứng chỉ tiền gửi để huy động 500 tỉ đồng nhưng lãi suất chỉ 13,5%/năm (dưới mức cho phép 0,5%/năm). Tuy lãi suất tiền gửi có kỳ hạn VNĐ đang giảm nhẹ nhưng những ngày gần đây, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lại biến động mạnh. Trước đây, lãi suất không kỳ hạn phổ biến ở mức 3%/năm (mức lãi suất thấp nhất), ngân hàng chỉ được phép sử dụng 30% số vốn huy động không kỳ hạn để cho vay. Mặt khác, một số ngân hàng vận động khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nhưng khi rút trước hạn lại được ngân hàng chi trả lãi suất 12% – 13%/năm. Điều này thường làm ngân hàng thiếu hụt vốn tạm thời khiến thị trường liên tục diễn ra các cuộc đua về lãi suất có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Vì thế, mới đây, NHNN quy định khách hàng rút tiền trước hạn, các ngân hàng chỉ được chi trả với mức lãi suất thấp (lãi suất không kỳ hạn), lập tức, một số ngân hàng tăng mạnh lãi suất không kỳ hạn bằng nhiều hình thức. Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank) triển khai sản phẩm VP Super dành cho khách hàng luân chuyển tiền qua tài khoản thanh toán với lãi suất lên đến 9%/năm. Từ nay đến ngày 5-4, NH Hàng hải (Maritime Bank) tung ra thị trường sản phẩm M – Business dành cho tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp được cộng thưởng 2% cho tất cả các bậc lãi suất của tài khoản M – Business, đưa lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lên 10%/năm. Kienlong Bank cũng nâng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lên 6%/năm. Còn NH Việt Á không chỉ nâng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn mà còn áp dụng lãi suất tăng theo mức tiền gửi: Người gửi 1 tỉ đồng trở lên được hưởng lãi suất không kỳ hạn 8%/năm, từ 400 triệu đồng đến dưới 1 tỉ đồng lãi suất là 7,5%/năm; từ 20 triệu đồng – dưới 400 triệu đồng lãi suất 6%/năm trở lên… Có thể thấy rằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tăng đột biến không đồng nghĩa với việc ngân hàng huy động vốn không kỳ hạn để cho vay. Việc tăng lãi suất không kỳ hạn chủ yếu là để giữ chân khách hàng, bởi không một ngân hàng nào muốn khách hàng rút tiền trước hạn làm xáo trộn nguồn vốn. III. KÊT LUẬN Vốn nhàn rỗi trong dân chiếm một lượng quan trọng rất lớn và chưa được đưa vào quỹ đạo của nền kinh tế, chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. Vậy để thu hút và sử dụng được nguồn vốn này có hiệu quả thì các NHTM phải có những chính sách lãi suất huy động vốn phù hợp để các bên cùng có lợi mà không vi phạm các quy định về lãi suất huy động mà NHNN đã đưa ra. Ngược lại, NHNN cũng nên đưa ra các chính sách lãi suất thận trọng và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Hiện tượng lãi suất vẫn đang biến động theo từng ngày, từng giờ khắp trong và ngoài nước. Lãi suất là một trong những biến số cần phải được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Sự dao động của lãi suất được đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó trực tiếp tác động đến các quyết định của chính phủ, doanh nghiệp cũng như nhiều hoạt động của các tổ chức tín dụng và các thành phần khác trong nền kinh tế. Do vậy, trong thời gian tới lãi suất huy động vốn sẽ phụ thuộc vào các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sao cho phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính trong nước, trong khu vực và thế giới. IV. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO www.vnexpress.com www.dantri.com www.thitruongtaichinh.vn www.ebank.vnexpress.net www.sbv.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThuc trang lai suat huy dong von.doc
Luận văn liên quan