Lời mở đầu
Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn đầu tư và các nguồn liên tiết kiệm có thể phát sinh từ những chủ thể khác nhau. Những người có cơ hội sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư. Vì vậy, cần phải có một cơ chế chuyển vốn từ những nơi có vốn dư thừa đến những nơi đang cần vốn. Việc đi vay, cho vay và góp vốn này được thực hiện qua các trung gian tài chính như: ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay các tổ chức trung gian đầu tư các trung gian tài chính đều đóng vai trò cầu nối giữa hai bên đi vay và cho vay, cầu nối giữa công ty và nhà đầu tư. Do đó, chức năng của những tổ chức này rất quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Trong các loại hình tổ chức trung gian tài chính thì Ngân hang thương mại có hoạt động gần gũi nhất với người dân và thị trường tài chính. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Cũng giống như các tổ chức tài chính khác, ngân hàng thương mại luôn phải kinh doanh bằng tiền của người khác và chính điều ấy, bất kỳ một sự sụp đổ nào của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào, thông thường nếu không có những biện pháp xử lí thông minh và khéo léo đều có thể lây lan, mà hậu quả là sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng gây thiệt hại lớn.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có giới hạn hoạt động rộng lớn và đa dạng (với chức năng cơ bản liên quan đến), là doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng đối với tất cả các chủ thể kinh tế. Với chức năng và dịch vụ trên, ngân hàng trở thành ”cửa hàng bách hóa tổng hợp các hoạt động tài chính”. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải không ngừng hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình, nâng cao chất lượng quản trị nhằm đạt mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2540 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn đầu tư và các nguồn liên tiết kiệm có thể phát sinh từ những chủ thể khác nhau. Những người có cơ hội sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư. Vì vậy, cần phải có một cơ chế chuyển vốn từ những nơi có vốn dư thừa đến những nơi đang cần vốn. Việc đi vay, cho vay và góp vốn này được thực hiện qua các trung gian tài chính như: ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay các tổ chức trung gian đầu tư…các trung gian tài chính đều đóng vai trò cầu nối giữa hai bên đi vay và cho vay, cầu nối giữa công ty và nhà đầu tư. Do đó, chức năng của những tổ chức này rất quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Trong các loại hình tổ chức trung gian tài chính thì Ngân hang thương mại có hoạt động gần gũi nhất với người dân và thị trường tài chính. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Cũng giống như các tổ chức tài chính khác, ngân hàng thương mại luôn phải kinh doanh bằng tiền của người khác và chính điều ấy, ất kỳ một sự sụp đổ nào của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào, thông thường nếu không có những biện pháp xử lí thông minh và khéo léo đều có thể lây lan, mà hậu quả là sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng gây thiệt hại lớn.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có giới hạn hoạt động rộng lớn và đa dạng (với chức năng cơ bản liên quan đến), là doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng đối với tất cả các chủ thể kinh tế. Với chức năng và dịch vụ trên, ngân hàng trở thành” cửa hàng bách hóa tổng hợp các hoạt động tài chính”. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải không ngừng hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình, nâng cao chất lượng quản trị nhằm đạt mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận
MỤC LỤC
Chương I: SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.Khái niệm và bản chất của ngân hàng thương mại
1.Khái niệm…………………………………………………………………………………… Tr5.
2.Bản chất………………………………………………………………………………........... Tr5.
II.Phân loại ngân hàng thương mại…………………………………………………………..Tr5.
III.Mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại………………………………….............Tr6.
IV.Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
1.Chức năng……………………………………………………………………………………Tr6.
2.Vai trò………………………………………………………………………………………...Tr7.
V.Các hoạt động của ngân hàng thương mại………………………………………………...Tr8.
Chương II: QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.Khái quát thực trạng về hoạt động của hệ thống NHTM ở nước ta hiện nay…………..Tr13.
2.Nhận xét khái quát…………………………………………………………………………..Tr14.
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………..Tr16.
Chương I:SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.Khái niệm và bản chất của ngân hàng thương mại:
1.Khái niệm ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
2.Bản chất của ngân hàng thương mạị:
-Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và là môt đơn vị kinh tế kinh doanh trong ngành dịch vụ tài chính ngân hàng.
-Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh. Để hoạt động kinh doanh, các ngân hàng phải có:
+Vốn
+Phải tự chủ về tài chính
+Mục tiêu cuối cùng phải đạt được là lợi nhuận
-Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
II.Phân loại ngân hàng thương mại:
1. Dựa vào hình thức sở hữu :
-Ngân hàng sở hữu tư nhân: là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của chính họ. Tại Việt Nam chưa có loại hình này.
-Ngân hàng sở hữu nhà nước: là ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp.
-Ngân hàng cổ phần: là loại hình ngân hàng được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế xã hội và các cá nhân cùng góp vốn kinh doanh.
-Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của hai hay nhiều bên. Ở Việt Nam, loại hình này thường được thực hiện giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau.
2. Dựa vào chiến lược kinh doanh:
-Ngân hàng bán buôn: là ngân hàng chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng khách hàng tập đoàn, công ty chứ không giao dịch với khách hàng cá nhân.
-Ngân hàng bán lẻ: là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng khách hàng cá nhân.
-Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ: là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho cả khách hàng công ty và khách hàng cá nhân. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều thuộc loại hình ngân hàng này.
III.Mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại:
Tùy từng nước, tùy từng thời kỳ, mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại có thể áp dụng khác nhau. Có 3 mô hình hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại: ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng kinh doanh tổng hợp, ngân hàng đa năng.
-Ngân hàng chuyên doanh là những ngân hàng chỉ chuyên hoạt động trong một lĩnh vực nhất định như: ngân hàng công nghiệp, ngân hàng nông thôn, ngân hàng đô thị…
-Ngân hàng kinh doanh tổng hợp là những ngân hàng có thể thực hiện đồng thời nhiều loại nghiệp vụ truyền thống và trong nhiều lĩnh vực. Thực chất, ngân hàng kinh doanh tổng hợp là ngân hàng làm nhiệm vụ tổng hợp của nhiều ngân hàng chuyên doanh,
-Ngân hàng đa năng: ngoài việc thực hiện các nghiệp vụ như ngân hàng kinh doanh tổng hợp, còn được thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại như:nghiệp vụ kinh doanh và làm các dịch vụ về chứng khoán, nghiệp vụ bảo hiểm
III.Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại:
1.Chức năng của ngân hành thương:
a.Chức năng trung gian tín dụng:
- Ngân hàng huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn cho vay và sử dụng nguồn vốn đó cho vay đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các chủ thể khác trong nền kinh tế. Như vậy” ngân hàng vừa mua tiền lại vừa bán tiền” phần tiền chênh lệch giữa giá “bán” và giá “mua” chính là bộ phận lớn trong lợi nhuận của ngân hàng thương mại.
-Chức năng này có ý nghĩa giúp điều hòa vốn tiền tệ từ nơi tạo dư thừa đến nơi tạm thời thiếu hụt làm giảm tối đa lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình vận động của vốn tiền tệ trong xã hội. Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này sẽ là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển, tạo nguồn vốn để ngân hàng thương mại kinh doanh và tăng thu lợi nhuận, đồng thời là cơ sở để ngân hàng thương mại tạo “bút tệ”.
-Đối với khách hàng gửi tiền, vừa giúp cho vốn nhàn rỗi tăng khả năng sinh lời lại vừa đảm bảo an toàn vốn. Đối với khách hàng vay tiền, vừa kịp thời thỏa mãn nhu cầu về vốn tạm thời thiếu hụt trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và tiêu dùng, lại vừa tiết kiệm chi phí, thời gian tìm kiếm nguồn vốn tiện lợi, an toàn và hợp pháp.
b.Chức năng trung gian thanh toán:
-Trên cơ sở những hoạt động đi vay để cho vay, NHTM (ngân hàng thương mại) đã cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp, các doanh nghiệp, cá nhân có thể nhờ NHTM thực hiện những công việc này dựa trên những khoản tiền họ đã gửi ở ngân hàng, thông qua việc mang tiền của người phải trả chuyển cho người được hưởng bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày càng đơn giản.
- Chức năng này có ý nghĩa với nền kinh tế vì đã tạo điều kiện thuận lợi giúp khách hàng thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn. Từ đó, đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
-Chức năng trên là tiến đề và cơ sở để các NHTM tạo ra tiền ghi sổ, góp phần tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế, vừa tiết kiệm tiền mặt lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Lại vừa tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển. Mặt khác chức năng thanh toán sẽ làm tăng uy tín của ngân hàng lên thông qua các dịch vụ được khuếch trương.
c.Chức năng tạo tiền:
- Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
-Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của.
- Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lương tiền cung ứng.
2.Vai trò của ngân hàng thương mại:
NHTM giúp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộ ng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Các ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các NHTM góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. NHTM tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW.
NHTM làm cầu nối giữa NHTW với nền kinh tế để thực hiện các chính sách tiền tệ.
NHTM phục vụ cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
IV.Các nghiệp vụ của ngân hàng tương mại:
1.Nghiệp vụ tạo vốn - Nghiệp vụ nợ:
Là nghiệp vụ dùng để hình thành nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của NHTM gồm: vốn chủ sở hữu (vốn tự có), vốn huy động và vốn vay
a.Vốn chủ sở hữu:
Trước hết mỗi ngân hàng phải có một số vốn tự có làm điều kiện hình thành và duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn tự do này thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Vốn tự có gồm:
-Vốn điều lệ: là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp, vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn điều lệ phụ thuộc vào hình thức sở hữu của ngân hàng, nếu là: ngân hàng tư nhân thì đó là vốn riêng của một doanh nghiệp đầu tư, với ngân hàng cổ phần thì vốn điều lệ được hình thành do phát hành cổ phiếu, nếu ngân hàng quốc doanh thì toàn bộ do ngân sách nhà nước cấp. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tùy thuọc vào quy mô và phạm vi hoạt động của nó. Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm động sản và bất động sản, phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, hùn vốn liên doanh, cho vay và mua cổ phần của các tổ chức tín dụng khác. Pháp lệnh về ngân hàng không cho phép dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi và khen thưởng.
- Quỹ ngân hàng bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài srn cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài chính.
b.Vốn huy động:
Là vốn thu hút được qua các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng, nguồn vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi ngân hàng: NHTM tập trung huy động tiền gửi của các cá nhân, doanh nghiệp, công ty… để hình thành quỹ cho vay. Tiền gửi NHTM huy động được bao gồm:
+Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người sở hữu nó có thể rút ra để sử dụng bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước về thời hạn và khối lượng tiền cần rút. Loại này bao gồm các khoản tiền gửi tạm thời của các doanh nghiệp và công ty, các tổ chức kinh tế…;thuế, lợi nhuận, vốn khấu hao của các doanh nghiệp, công ty, tiền gửi của các nhà đầu cơ.
Khách hàng gửi tiền loại này không vì mục tiêu lợi nhuận, chủ yếu là để thực hiện các khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ, thực hiện các giao dịch về thanh toán, chi trả và thực hiện các khoản chi trả khác và để ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi trong thanh toán.
Tiền gửi không kỳ hạn không ổn định mà biến động thường xuyên.
+Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà chủ sở hữu nó chỉ có thể rút ra và được hưởng trọn vẹn lợi tức theo thời hạn đã quy địng trước. Tiền gửi có kỳ hạn bao gồm các khoản tiền gửi của các nhà kinh doanh tiền tệ và của các công ty, doanh nghiệp…
Mục đích gửi tiền có kỳ hạn khác hẳn với tiền gửi không kỳ hạn ở chỗ là người gửi tiền nhắm đến khả năng sinh lời của tiền tệ, vì vậy đối với loại tiền gửi này NHTM phải trả lãi suất thỏa đáng cho khách hàng
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, NHTM có thể sử dụng một cách chủ động để cho vay.
-Tiềng gửi tiết kiệm: là tiền gửi của dân cư, của cá nhân, bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
c.Vốn vay: có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. thuộc loại này bao gồm:
-Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn tiền gửi chưa đủ đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
-Vốn vay của ngân hàng trung ương: khi ngân hàng trung ương nhận cho vay chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
-Vốn vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tại đây, các ngân hàng thiếu tiền thanh toán sẽ vay của các ngân hàng khác để thanh toán, nghiệp vụ này vừa giúp cho các ngân hàng thiếu tiền có tiền mặt ngay vừa giúp cho những ngân hàng dư tiền cho vay để sinh lời.
-Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài.
2.Nghiệp vụ sử dụng vốn-Nghiệp vụ Có:
a.Nghiệp vụ ngân quỹ:
Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời. Song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đánh ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ.
Tiền dự trữ của ngân hàng thương mại bao gồm:
-Tiền mặt tại quỹ: bao gồm giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại, tùy thuộc vào quy mô hoạt động của NHTM, nhu cầu thường xuyên cũng như nhu cầu thời vụ của các khoản chi tiền mặt mà NHTM để tồn quỹ tiền mặt cho hợp lý. Tồn quỹ tiền mặt có khả năng thanh toán kịp thời nhất, nhưng tiền này không sinh lời cho ngân hàng. Vì vậy NHTM cần phải tính toán duy trì cho hợp lý.
-Tiền gửi ở ngân hàng Trung ương: theo quy định, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần:
+Tiền gửi dự trữ bắt buộc:
+Tiền gửi thanh toán:
-Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý.
-Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
b.Nghiệp vụ cho vay:
Ngân hàng thương mại sử dụng phần lớn nguồn vốn của mình vào việc cho vay đối với các doanh nghiệp và cá nhân nên còn gọi là tài sản có tín dụng. Trong nghiệp vụ sử dụng vốn thì nghiệp vụ cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lợi nhuận của NHTM chủ yếu được sinh ra từ nghiệp vụ này. Nghiệp vụ cho vay của NHTM chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Việc cho vay ngắn hạn giúp NHTM giữ đoực khả năng thanh toán. Cho vay là nghiệp vụ hoạt động sinh lời chủ yếu của các NHTM. Hoạt động nà rất đa dạng và phong phú.
c.Nghiệp vụ đầu tư:
Ngoài việc sử dụng nguồn vốn để cho vay, NHTM còn sử dụng một phần nguồn vốn của mình để đầu tư vừa để sinh lời vừa để phân tán rủi ro. Nghiệp vụ đầu tư bao gồm:
-Đầu tư trực tiếp: NHTM đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp, công thương thông qua việc hùn vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty con hoặc mua cổ phiếu trái phiếu để tham gia Hội đồng quản trị công ty và để phân chia lợi nhuận.
-Đầu tư gián tiếp: Mua trái phiếu Chính phủ (Tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu kho bạc Nhà nước, …), trái phiếu Ngân hàng Nhà nước… khi cần vốn có thể bán trên thị trường chứng khoán hoặc làm chứng từ xin tái chiết khấu ở Ngân hàng Trung ương.
d. Nghiệp vụ trung gian-nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ tợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng.
Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng được hưởng tiền hoa hồng như:
-Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu cầu hoặc trả cho một người nào đó.
-Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu hộ các khoản kỳ phiếu đến hạn, chứng khoán, hàng hóa…
-Ủy thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như quản lý tài sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản chứng khoán và vật có giá, thanh lý tài sản của xí nghiệp bị phá sản…
-Mua bán hộ: theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu hoặc trái khoán công ty hoặc trái khoán nhà nước, mua bán ngoại tệ, kim khí quý, đá quý cho khác hàng.
-Kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ để kiếm lời nếu được phép của ngân hàng trung ương.
-Làm tư vấn tài chính tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư cho khách hàng.
V.Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Trong đời sống kinh tế hàng ngày, rủi ro thường được coi là những bất trắc, những biến cố không có lợi, ngoài sự mong đợi. Rủi ro nhiều khi mang lại những hậu quả không lường. Vì vậy, người ta thường tìm cách để phòng ngừa, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
Hoạt động kinh doanh nói chung, cũng như hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng cũng không thể tránh khỏi rủi ro.
Quá trình mở rộng kinh doanh đồng thời cũng là quá trình mở rộng rủi ro. Hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng không thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có những đặc điểm, bản chất riêng của nó.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng về cơ bản có thể chia làm hai loại:
.*Rủi ro đặc thù:
Rủi ro đặc thù do bản chất của ngành hay lĩnh vực kinh doanh tạo ra. Các rủi ro này có thể được giảm thiểu bằng cách đa dạng hóa danh mục cho vay giống như đa dạng hóa danh mục đầu tư trên thị trường tài chính.
Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố:
*Rủi ro về quản lý: đây là rủi ro do hoạt động sử dụng nguồn nhân lực bên trong ngân hàng tạo ra. Rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó có thể xảy ra do sự yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng.
*Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh (tín dụng). Rủi ro này gòm 6 loại chính: rủi ro về hạt động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hóa, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn cân nợ và cuối cùng là rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
*Rủi ro thích ứng vốn: đây cũng là rủi ro trong quản lý vốn của ngân hàng, nó thể hiện vấn đề ngân hàng có quy mô vốn nhỏ thường ít an toàn hơn ngân hàng có quy mô vốn lớn.
*Rủi ro tài sản thế chấp: là rủi ro do tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt hại cho ngân hàng.
2.Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là rủi ro không thể giảm thiểu bằng cách đa dạng hóa nên còn được gọi là rủi ro không thể đa dạng hóa. Có thể chia rủi ro thị trường ra thành hai loại
a .Rủi ro môi trường vĩ mô:
Môi trường mà ngân hàng hoạt động đầy rẫy các rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách hoặc làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. Những rủi ro này rất khó kiểm soát nên chúng được gọi là rủi ro không kiểm soát được. Trong thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ hạn chế trên cơ sở dự báo. Các rủi ro môi trường vĩ mô ngân hàng thường gặp là:
-Rủi ro tự nhiên hay còn gọi là rủi ro bất khả kháng: là rủi ro do những yếu tố thuộc về tự nhiên gây ra như lũ lụt, hạn hán, động đát…Thiệt hại do rủi ro này rất lớn nhưng thường diễn ra theo chu kỳ nên cũng có thể kiểm soát ở mức độ giới hạn.
-Rủi ro về luật pháp liên quan đến việc thay đổi các luật lệ gây bất lợi cho ngân hàng. Ở các nước đang phát triển đây là loại rủi ro có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, do thiếu các luật lệ hay thiếu các quy định cần thiết.
-Rủi ro về kinh tế liên quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh. Các rủi ro xảy ra có thể do các yếu tố. Lạm phát, thất nghiệp, suy thoái kinh tế, khủng hoảng…ảnh hưởng của các yếu tố này đến ngân hàng là rất lớn.
-Rủi ro về điều chỉnh: nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô các nhà quản lý các bộ, ban ngành chức năng hoặc cơ quan lập pháp đưa ra các chính sách, các quy định đôi khi gây ra thiệt hại cho ngân hàng. Các chính sách đó thường là chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất…
b.Rủi ro môi trường cạnh tranh:
Một ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thường chịu tác động của ngân hàng khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía. Vì thế luôn nhận rất nhiều các tác động đầy rủi ro. Các rủi ro đó nếu tương đối cao có thể gây phá sản ngân hàng. Rủi ro do khách hàng là người ký thác cơ bản là rủi ro thanh khoản, rủi ro do khách hàng là người đi vay cơ bản là rủi ro tín dụng, rủi ro do các định chế tài chính thay thế là các định chế tài chính sắp thành lập là rủi ro về cạnh tranh và cuối cùng là rủi ro do biến động của thị trường như rủi ro về lãi suất và rủi ro về tỷ giá. Dưới đay, chúng ta lần lượt đi vào tìm hiểu một số loại hình rủi ro chủ yếu:
*Rủi ro thanh khoản: là rủi ro xuất phát từ bản chất hoạt động trung gian tín dụng của ngân hàng thương mại, tức là nó xuất phát từ sự chuyển hóa của các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn. Do kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn của các nguồn vốn.
Rủi ro thanh khoản biểu hiện trên hai mặt: một mặt khi ngân hàng không đủ khả năng thanh toán tiền mặt cho người gửi tiền khi họ yêu cầu. Mặt khác đó là rủi ro khi ngân hàng phải luôn luôn quản lý tài sản nợ của mìn ở trạng thái lỏng (gần với tiền mặt hoặc dễ dàng chuyển thành tiền mặt) để đảm bảo khả năng thanh khoản nếu có sự không tương thích về thời hạn Tài sản có và tài srn nợ diễn ra.
*Rủi ro lãi suất: là rủi ro phát sinh khi có sự biến động của chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi vay dẫn đến làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế, hơn nữa nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với loại rủi ro này ngân hàng trung ương có thể chủ động ngăn ngừa bằng cách ổn định mức lãi suất đầu vào và đầu ra cho phù hợp với sự chuyển biến từng thời kỳ của nền kinh tế sao cho vừa bảo đảm các ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả, vừa có tác dụng kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
*Rủi ro tỷ giá: kinh doanh ngoại hối là một trong những hoạt động của ngân hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động thuận lợi.
Rủi ro tỷ giá xuất hiện do sự thay đổi tỷ giá giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài. Rủi ro này xuất hiện hầu hết trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt trong khâu đi vay và cho vay. Khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra lãi về hối đoái, tỷ giá giảm sẽ tạo ra lỗ về hối đoái. Những điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng cũng như đối với các khách hàng của ngân hàng là những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đối với rủi ro này, ngân hàng có thể ngăn ngừa bằng cách thường xuyên nghiên cứu biến động tỷ giá trên thị trường thế giới, qua đó dự đoán được hoạt động ngoại hối để dự trữ ngoại tệ thích hợp và chủ động đo lường, giới hạn mức tình thế ngoại hối của mỗi loại ngoại tệ vào cuối ngày giao dịch
*Rủi ro tín dụng: trước hết là một dạng rủi ro do không ăn khớp về thời hạn thanh toán sinh ra do chu chuyển tiền tệ diễn ra không đồng thời. Sự sai biệt này xuất phát từ khách hàng vay chứ không phải từ ngân hàng, khi người vay thanh toán không đúng hạn khoản vay theo thời hạn đã quy định. Mặt khác rủi ro tín dụng là rủi ro về định giá vì quan hệ tín dụng là tiền tệ hóa các lời hứa hẹn, đổi tiền mặt hiện tại lấy lời hứa hẹn và rủi ro cho ngân hàng.
Chương II: QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM:
1.Khái quát thực trạng về hoạt động của hệ thống NHTM ở nước ta hiện nay
Năm 1997
05/2008
08/2010
Quốc doanh
4
4
5
Cổ phần
51
36
39
Nước ngoài & Liên doanh
23
44
11
Hơn mười năm trước đây, số lượng ngân hàng hoạt động tại Việt Nam không kém là bao so với hiện nay. Năm 1997, cả nước có 4 ngân hàng quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần (bao gồm ngân hàng cổ phần nông thôn) và 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (kể cả ngân hàng liên doanh).
Trong hơn mười năm đó, kể từ khi hệ thống NHTM Việt Nam phải đối đầu với nguy cơ đổ vỡ vào năm 1997, chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là không cho thành lập mới bất cứ một ngân hàng thương mại cổ phần nào.
Đến tháng 5/2008, cả nước có 4 ngân hàng quốc doanh, 36 ngân hàng cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngân hàng liên doanh. Con số này cho thấy trong thời gian hơn mười năm, số lượng ngân hàng cổ phần trong nước đã giảm đi đáng kể do có một số bị phá sản hoặc bị rút giấy phép hoạt động, trong khi đó, số lượng ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam lại tăng lên khá nhiều, từ 23 lên 44 chi nhánh.
Tính đến thời điểm hiện nay, 08/2010 số lượng các ngân hàng có sự thay đổi n hư sau: cả nước hiện có 5 ngân hàng quốc doanh, 39 ngân hàng cổ phần, 17 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh. Như vậy, số lượng ngân hàng cổ phần có tăng nhưng rất ít và số lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh đã giảm đi nhiều, từ 44 xuống còn 17 chi nhánh.
2.Nhận xét khái quát.
a.Điểm mạnh
-Điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngủ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường nước ngoài
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo động lực giúp các NHTM VN học hỏi được nhiều kinh nghiệp trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với khách hàng
-Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam từng bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các NHTM VN trong giao dich tài chính quốc tế
- Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM trong các giao dịch quốc tế. từ đó, tiếp cận các nhà đầu tư nước ngoài hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như doanh thu hoạt động
- Chính hoạt động kinh tế quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tấc cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các NHTM VN phải chuyên môn hóa sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.
Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp.
Am hiểu về thị trường trong nước.
Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo.
Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ.
Đội ngũ nhân viên tận tuỵ, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại.
Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía ngân hàng trung ương.
Môi trường pháp lý thuận lợi.
Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hoá ngân hàng.
b.Điểm yếu
- Việc gia nhập WTO đó mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đầu tư trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam mà chủ yếu là do rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh
-Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Trong khi đó hệ số an toàn vốn bình quân của các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam thấp (dưới 5%) chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của nhà nước thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng sử dụng tài sản có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Ngân Hàng trong nước là hệ thống ngân hàng còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ truyền thống,
- Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống.
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước.
- Lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng.
-Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu.
-Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính sữ làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng dần.
- Áp lực cải tiến công nghệ và kĩ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh với nươc ngoài. Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. Khả năng sinh lời của các ngân hàng Việt Nam còn thấp hơn các ngân hàng trong khu vực do đó, hạn chế khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.
-Trong quá trình hội nhập hệ thống NHVN cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết cam kết quốc tế. Các ngân hàng Việt Nam đầu tư quá nhiều vào các Doanh Nghiệp Nhà Nước, trong khi phần lớn các Doanh Nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp và thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn đối với các NHTM. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống Ngân Hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát Ngân Hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
-Cấu trúc hệ thống Ngân Hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng nhưng còn quá cồng kềnh, giàn trải, chưa dừa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa so với khu vực. Biết đào tạo và sử dụng cán bộ nhân viên còn bất cập so với nhu cầu của nghiệp mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm cho khoảng cách tụt hậu và công nghệ Ngân Hàng Việt Nam còn khá xa so với khu vực.
-Nền văn minh tiền tệ của nước ta chưa thoát khỏi một nền kinh tế tiền mặt. Việc hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động nhiều nguồn vốn mới từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang đến một thách thức không nhỏ của các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam là làm thế nào để huy động vốn hiệu quả.
Vì khi đó, Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam thua kém các Ngân Hàng Thương Mại nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất lượng dịch vụ chưa cao,… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng như trước. Vậy thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đến từ những nhân tố bên trong của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Đồng thời, chảy máu chất xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Do đó, các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
*Giáo trình những nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính(.PGS.TS.Nguyễn Văn Luân,TS.Trần Viết Hoàng,TS.Cung Trần Việt/NXB ĐHQGTPHCM)
*Giáo trình quản trị ngân hàng thương mại(PGS.TS Lê Văn Tề/NXB thống kê)
*Giáo trình ngân hàng thương mại(GS.TS Lê Văn Tư/NXB tài chính)
*Giáo trình ngân hàng thương mại(EDWard W.Reed PHD/NXB thống kê)
*Giáo tình tiền tệ ngân hàng ĐH ngân hàng TPHCM(TS Lê Thị Tuyêt Hoa/NXB thống kê)
*
*
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng phát triển ngân hàng thương mại ở Việt Nam.doc