Đề tài Thực trạng, rủi ro lạm phát và giải pháp kìm chế lạm phát

MỤC LỤC: LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT 4 1.1 Khái niệm lạm phát 4 1.2 Đo lường lạm phát 4 1.2.1 Mức giá chung. 5 1.2.2 So sánh chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ số điều chỉnh DGDP 9 1.2.3 Cách tính CPI ở Việt Nam 9 1.3 Phân loại lạm phát 14 1.3.1 Thiểu phát 14 1.3.2 Lạm phát vừa phải 14 1.3.3 Lạm phát phi mã (Lạm phát cao). 14 1.3.4 Siêu lạm phát 15 1.4 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế. 16 1.4.1 Hiệu ứng tích cực. 16 1.4.2 Hiệu ứng tiêu cực (Tổn thất xã hội của lạm phát). 16 1.5 Nguyên nhân gây ra lạm phát 18 1.5.1 Lạm phát do chi phí đẩy. 18 1.5.2 Lạm phát do cầu kéo. 19 1.5.3 Lạm phát do cơ cấu. 19 1.5.4 Lạm phát do nhập khẩu. 20 1.5.5 Lạm phát do bội chi ngân sách. 20 1.5.6 Lạm phát tiền tệ. 20 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ BIỆN PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM . 22 2.1 Giai đoạn 1986 - 1991. 22 2.2 Giai đoạn 1992 - 1998. 30 2.3 Giai đoạn 1999 – 2003. 33 2.4 Giai đoạn 2004-2008. 37 2.5 Giai đoạn 2008-2011. 42 2.6 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam 48 2.6.1 Đối với môi trường kinh tế vĩ mô. 48 2.6.2 Đối với các doanh nghiệp. 52 2.6.3 Đối với đời sống dân cư. 55 CHƯƠNG 3: KINH NGHIỆM ĐỐI PHÓ LẠM PHÁT TỪ CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 64 3.1 Trung Quốc. 64 3.2 Ấn Độ. 69 3.3 Những “con Rồng châu Á”. 73 3.4 Các ngân hàng trung ương chống lạm phát bằng cách nào?. 77 3.5 Kinh nghiệm kiềm chế lạm phát của thế giới: Giải pháp phải đồng bộ. 80 CHƯƠNG 4: Tổng hợp ý kiến chuyên gia và kiến nghị của nhóm về giải pháp kiềm chế lạm phát hiện nay. 86 4.1 Giải pháp của Chính Phủ. 86 4.2 Ý kiến của các nhà kinh tế khác cho vấn đề lạm phát của Việt Nam 93 4.3 Đánh giá của nhóm về các giải pháp của chính phủ: 98 4.4 Một số kiến nghị của nhóm: 100 4.4.1 Giải pháp ngắn hạn. 100 4.4.2 Giải pháp dài hạn. 103 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

doc107 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2754 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng, rủi ro lạm phát và giải pháp kìm chế lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nhân là do đà leo thang của giá cả hàng hóa và đà tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu. Thái Lan và Hàn Quốc đa dạng hóa các biện pháp ghìm cương lạm phát Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT) cho biết dù lạm phát cơ bản (trừ giá năng lượng và thực phẩm) có thể vượt trần của ngân hàng này trong nửa cuối năm nay. BOT là một trong những ngân hàng trung ương nâng lãi suất mạnh nhất tại châu Á. Kể từ tháng 7/2010 đến nay, BOT đã nâng lãi suất tổng cộng 6 lần và theo dự đoán lần thứ 7 sẽ diễn ra vào tháng 6 tới. Yếu tố khiến lạm phát trở thành một vấn đề đặt biệt nan giải là đa số áp lực đều đến từ bên ngoài dưới dạng giá dầu và thực phẩm ngày càng cao. Chính sách tiền tệ nào cũng có những giới hạn nhất định trong việc hạ nhiệt lạm phát nhập khẩu. Đà tăng lãi suất của Thái Lan sẽ không thể bình ổn tình hình tại Libya, một trong những chất xúc tác lớn nhất đối với đà tăng gần đây của giá dầu. Nhà kinh tế Frederico Gil Sander của Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định trong một báo cáo được công bố hôm thứ Tư: “Vì nguồn gốc của phần lớn đà tăng giá đều từ bên ngoài nên liều thuốc chính để chữa bệnh lạm phát - tăng lãi suất - có thể không hiệu quả trong việc làm chậm đà tăng giá. Đối với Hàn Quốc, nước này lại thử nghiệm một biện pháp khác là cho phép đồng won tăng giá mạnh nhằm đẩy lùi áp lực lạm phát. Tại cuộc họp tháng 4, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) đã giữ nguyên lãi suất. Tuy nhiên, phương án trên có thể gây ra một vấn đề đau đầu khác. Đồng won mạnh khiến hoạt động vay mượn nước ngoài với kỳ hạn ngắn gia tăng mạnh. Hôm thứ Năm, Hàn Quốc cảnh báo nước này có thể áp dụng các biện pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn dòng vốn nóng. Số liệu được BOK công bố vào sáng nay cho thấy các khoản vay mượn nước ngoài với kỳ hạn ngắn, mà đối tượng chính là các ngân hàng, tăng ròng 6.72 tỷ USD trong tháng 3, đánh dấu tháng gia tăng thứ 3 liên tiếp và là đà tăng mạnh nhất kể từ tháng 8/2008. Người tiêu dùng vẫn còn nghi ngờ về khả năng thành công của các nhà làm chính sách trong việc hạ thấp lạm phát. Báo cáo công bố ngày thứ Ba cho thấy người Hàn Quốc kỳ vọng lạm phát sẽ tiếp tục đứng ở nửa trên trong phạm vi mục tiêu của BOK trong vòng một năm tới. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định trong Báo cáo Triển vọng Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương công bố ngày hôm qua rằng các ngân hàng trung ương châu Á đã thắt chặt chính sách quá chậm và cần phải hành động nhanh hơn để tránh tăng trưởng quá nóng. Phạm Thị Phước (Theo Reuters) Nguồn: www.vietstock.vn/Cac-ngan-hang-trung-uong-chong-lam-phat-bang-cach-nao/6165503.epi Thứ Sáu, 29/04/2011 | 17:50 3.5 Kinh nghiệm kiềm chế lạm phát của thế giới: Giải pháp phải đồng bộ Lạm phát là sự tăng giá liên tục của hàng hoá, vật tư, dịch vụ hoặc là việc đồng tiền nội tệ bị giảm giá. Lạm phát ở mức dưới 5% có tác dụng động viên các nguồn lực trong xã hội, giúp tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu tỷ lệ này vượt quá 5% sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế, tác động xấu đến đời sống dân cư. Mức tăng giá tiêu dùng của Việt Nam hiện nay đang ở mức cao, nhiều giải pháp đã được đưa ra và đã phần nào phát huy tác dụng. Tuy nhiên, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong cuộc chiến với lạm phát trong thời điểm hiện nay cũng không phải là việc không nên. Cải cách Ngân hàng trung ương Những năm 90 của thế kỷ trước, lạm phát ở các nước Mỹ La tinh lên tới 500%, Achentina, Brazil và Peru là những nền kinh tế lớn nhất khu vực, lạm phát còn tăng lên đến 4 con số. Trước tình hình đó, Chính phủ các quốc gia này đã có nhiều cải cách sâu rộng, đặc biệt là việc cải cách Ngân hàng Trung ương (NHTW). Năm 1989, Chi lê là nước đầu tiên và tiếp đến các nước Châu Mỹ La tinh khác đã thông qua luật tăng cường quyền tự chủ cho NHTW để nâng cao trách nhiệm của tổ chức này. Cuộc cải cách nhằm thực hiện 4 mục tiêu theo mức độ ưu tiên khác nhau tuỳ từng quốc gia: (1) Sự uỷ nhiệm rõ ràng trong việc theo đuổi ổn định giá cả hơn là tăng trưởng kinh tế (trước đó ưu tiên mục tiêu tăng trưởng); (2) độc lập về mặt chính trị trong việc xây dựng chính sách tiền tệ, tách rời hoạch định chính sách với quá trình bầu cử cơ quan lập pháp hoặc hành pháp; (3) độc lập trong hoạt động quản lý và điều hành chính sách tiền tệ từ việc thiết lập lãi suất đến việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ khác mà không có sự can thiệp của Chính phủ; (4) tính trách nhiệm trong việc đạt đến mức lạm phát mục tiêu. Hầu hết các quốc gia trên đều thực hiện thêm chính sách thay đổi chế độ tỷ giá. Với việc neo chặt tỷ giá hối đoái trong hơn 10 năm, tình hình lạm phát của họ đã được cải thiện rõ rệt, tăng trưởng kinh tế được khôi phục. Thực thi chính sách lạm phát mục tiêu Theo các nhà kinh tế học Thomas Laubach, Rick Mickin và Adam Poxen, chính sách lạm phát mục tiêu (CSLPMT) được hiểu là một nền tảng cơ sở cho chính sách tiền tệ, được đặc trưng bởi việc NHTW công bố với công chúng một mục tiêu định lượng chính thức (thường là một khung phạm vi hơn là một giá trị cụ thể) cho tỷ lệ lạm phát trong một hoặc vài thời kỳ, dựa trên quan điểm ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ trong dài hạn. Một trong những đặc trưng về quan điểm có tác động mạnh là công khai với công chúng về những kế hoạch, mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách và trong nhiều trường hợp là cả về cơ chế truyền tải trong đó nhấn mạnh đến trách nhiệm của NHTW trong việc theo đuổi mục tiêu”. Lạm phát mục tiêu thực chất là một kiểu chính sách tiền tệ được cụ thể và lượng hoá; để thực thi chính sách này đòi hỏi NHTW phải được quyền định đoạt các công cụ chính sách tiền tệ trước các tình huống kinh tế và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị. Thực thi CSLPMT là một chiến lược quan trọng để các chính sách của NHTW trở nên công khai, minh bạch, dễ dự đoán hơn, giúp cho lạm phát giảm xuống, giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ tính ưu việt này nên nhiều nước đã áp dụng khá thành công CSLPMT để kiềm chế lạm phát. New Zealand áp dụng CSLPMT từ tháng 4/1990, sau khi hoàn thành thời gian cam kết, NHTW được hoạt động độc lập tương đối, chỉ số lạm phát chỉ còn 0-3%. Canada áp dụng CSLPMT bắt đầu từ ngày 26/2/1991, Bộ Tài chính và NHTW công bố chỉ tiêu lạm phát, sử dụng công cụ đo lường lạm phát là CPI, trong đó loại trừ lương thực và năng lượng. Còn đối với Thuỵ Điển, chính sách kinh tế quá mở rộng, giá cả, tiền lương xung đột với tỷ giá cố định làm cho nền kinh tế Thuỵ Điển lâm vào cuộc khủng khoảng trầm trọng, tăng trưởng kinh tế thấp, năng suất lao động kém, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tình trạng tài chính suy giảm, lãi suất dài hạn và chênh lệch lãi suất gia tăng... Trước khó khăn đó, ngoài việc thắt chặt chính sách tài khoá, thả nổi đồng Krona để theo đuổi mục tiêu lạm phát thấp và ổn định nền kinh tế, từ 1/3/1993 NHTW Thuỵ Điển đưa ra mục tiêu lạm phát ở mức 2%/năm và mức dao động +/- 0,01%. Lạm phát mục tiêu được khẳng định rõ ràng bằng con số cụ thể khiến cho công chúng có thể dễ dàng đánh giá được hoạt động có thêm lòng tin vào NHTW. Kể từ đó, lạm phát ở Thuỵ Điển đã ở mức thấp và ổn định hơn. Tại Brazil, tháng 1/1999 đồng Rial mất giá 37%, NHTW nâng lãi suất lên 37%, Chính phủ phải quyết định phá giá đồng Real. Từ tháng 2/1999, NHTW Brazil công bố áp dụng CSLPMT, đồng thời tăng lãi suất cơ bản lên 45%/năm. Tháng 6/1999, Brazil công bố Nghị định nhằm thể chế hoá lạm phát mục tiêu với các nội dung chủ yếu: Thông báo về các mục tiêu lạm phát cho 12 tháng của các năm 1999, 2000, 2001 và cam kết thông báo mục tiêu cho năm 2002 và 2 năm tiếp theo; giao Uỷ ban tiền tệ quốc gia nhiệm vụ đặt ra các mục tiêu về lạm phát và biên độ dao động trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính; giao NHTW thực hành các chính sách cần thiết để đạt được các mục tiêu lạm phát đề ra; thiết lập các quy trình trách nhiệm của NHTW, nếu vượt biên độ cho phép thì Thống đốc NHTW phải có văn bản giải trình gửi cho Bộ Tài chính về nguyên nhân, giải pháp khắc phục, thời gian đưa lạm phát trở lại biên độ cho phép; cải thiện tính công khai, minh bạch của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và giải pháp chiến lược trọng yếu của Chính phủ hàng năm. Trên thực tế, tính độc lập của NHTW Brazil và cam kết ổn định giá cả vẫn chưa rõ ràng vì chỉ dựa vào một văn bản là Nghị định mà chưa có Luật. Tuy vậy, CSLPMT đã được vận hành tốt ở Brazil, đồng Real từ chỗ mất giá 45% khi khủng hoảng xẩy ra đã ổn định ở mức giá thấp hơn là 30%; tăng trưởng kinh tế quốc dân được hồi phục tăng 1% trong năm 1999; đã không có các vụ hoảng loạn trong lĩnh vực ngân hàng. NHTW các nước Argentina, Peru, Mehico, Colombia cũng áp dụng CSLPMT vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước. Các NHTW đã nắm lấy quyền tự chủ để hiện đại hoá phương thức hoạt động trong môi trường tỷ giá hối đoái mềm dẻo và chuyển từ kiểm soát tiền tệ theo phương thức truyền thống sang việc sử dụng lãi suất ngắn hạn làm đòn bấy chính trong chính sách tiền tệ. Những cải cách thể chế chính sách tiền tệ, sự thay đổi kinh tế vĩ mô và các chính sách khác đã giúp các nước Mỹ La tinh giảm tỷ lệ lạm phát một cách ấn tượng xuống còn 1 con số. Nếu như những năm 90 thế kỷ trước Chính phủ các nước Mỹ La tinh theo đuổi mục tiêu chống lạm phát thì ngày nay các nước này đang theo đuổi mục tiêu tăng trưởng. Đối phó với tình trạng đô la hoá Đô la hoá đã làm phức tạp nhiệm vụ quản lý chính sách tiền tệ của các nước Mỹ La tinh. Tình trạng này làm cho hệ thống tài chính dễ bị tổn thương, NHTW chần chừ trong việc thả nổi đồng nội tệ vì các tác động có hại của việc phá giá có thể gây tổn thất cho những người tham gia thị trường không có bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Để đối phó tình trạng đô la hoá, các NHTW đã phải nâng cao hơn độ tin cậy, trách nhiệm của họ bằng cách cố gắng đạt được mục tiêu lạm phát đã đề ra, đồng thời tạo ra các công cụ để nâng cao khả năng cạnh tranh của đồng nội tệ với USD, tăng cường sự kiểm soát nghiêm ngặt các hoạt động ngoại hối và rủi ro tỷ giá của các trung gian tài chính. Đối phó với dòng vốn chảy vào Ngoài cuộc chiến với lạm phát và đô la hóa, NHTW các nước Mỹ La tinh còn phải đối mặt với những thách thức từ sự tăng lên của dòng vốn chảy vào. Đồng nội tệ có khuynh hướng lên giá làm cho NHTW bối rối trong chính sách đáp trả. Nếu tăng lãi suất thì càng hấp dẫn thêm luồng vốn nước ngoài và nếu để đồng nội tệ lên giá lại có tác hại đến việc giảm thâm thụt cán cân mậu dịch và càng làm cho lạm phát gia tăng. Để đối phó với tình trạng này, NHTW các nước Mỹ La tinh đã chọn mục tiêu ổn định giá cả, chỉ can thiệp vào thị trường ngoại hối khi thị trường có biến động quá mức. Các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực canh tranh về chất lượng hàng hoá và giá cả, Chính phủ đẩy mạnh cải cách cơ cấu giúp cho nền kịnh tế linh hoạt hơn, có khả năng chống đỡ với cú sốc từ bên ngoài. Ngăn ngừa khủng hoảng ngân hàng Cái giá phải trả cho khủng hoảng ngân hàng là vô cùng to lớn do sự đổ vỡ có tính hệ thống ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và lòng tin của công chúng đối với ngân hàng. Do vậy, thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc ngăn chặn khủng hoảng ngân hàng là cực kỳ cần thiết, cần trao quyền cho các nhà quản lý ngân hàng để giải quyết những vấn đề đảm bảo tính thanh khoản và khả năng trả nợ từ khi mới chớm nở; thiết lập hệ thống cảnh bảo sớm cho hệ thống ngân hàng, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tái cấu trúc ngân hàng và các giải pháp cần được cải tiến để giải quyết các vấn đề khủng hoảng ngân hàng nhằm ít gây tổn thất và có hiệu quả nhất. Những năm 90 của thế kỷ trước, các nước Mỹ La tinh đã xẩy ra các cuộc khủng hoảng ngân hàng làm cho lạm phát tăng, suy giảm tăng trưởng kinh tế, đe dọa xảy ra khủng hoảng tiền tệ. Chính phủ Mỹ La tinh đã giữ được mức thâm thụt ngân sách ở mức có thể kiểm soát được, điều này rất quan trọng bởi vì tài trợ cho chi tiêu công với nguồn lực từ NHTW sẽ dẫn tới việc tăng tỷ lệ nợ/GDP. Từ đó có thể dẫn tới sự tăng lãi suất thực và chỉ số “ rủi ro quốc gia”; những nhân tố này làm giảm khả năng điều hành chính sách tiền tệ và tăng tổn thất cho nền kinh tế trong khi đang theo đuổi chính sách giảm lạm phát. Nếu chính sách tài khoá bất ổn có thể dẫn đến khủng hoảng tiền tệ như ở Brazil năm 1999 hoặc khủng hoảng ngân hàng và nợ quốc gia của Argentina năm 2002. Tổng kết quá trình chống lạm phát của các nước Mỹ La tinh, các chuyên gia Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF đã nhận định rằng các nước này đã thành công trên cả 4 mặt: Cải cách NHTW bằng cách tăng quyền tự chủ, tính trách nhiệm cao và tính độc lập; thực thi CSLFMT đảm bảo tính công khai, minh bạch và cam kết trước công chúng; đối phó có hiệu quả với tình trạng đô la hoá, áp dụng tỷ giá linh hoạt; hạn chế tác hại của dòng vốn chảy vào vượt quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế; ngăn ngừa có hiệu quả nguy cơ khủng hoảng ngân hàng. Tạp chí “Kinh tế và Dự báo” số 14 tháng 7/2008 Nguồn: CHƯƠNG 4: Tổng hợp ý kiến chuyên gia và kiến nghị của nhóm về giải pháp kiềm chế lạm phát hiện nay. 4.1 Giải pháp của Chính Phủ Để đối phó với tình hình lạm phát phức tạp, Chính phủ đã có động thái điều chỉnh mà cụ thể là các giải pháp được đưa ra trong nghị quyết 11/NQ-CP. Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/2/2011 (đăng công báo ngày 06/03/2011) do thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kí về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trong nghị quyết này, chính phủ đã đưa ra các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát cụ thể như sau: 4.1.1 Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương: Phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Điều hành chủ động các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng.  Điều hành tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn buôn lậu vàng. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát và xử phạt các vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản. 4.1.2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước Bộ Tài chính chủ trì: Tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Chống thất thu thuế; xử lý các khoản nợ đọng thuế và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới. Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm). Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì: Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012 cho các dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách. Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các khoản này để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2011. Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011. Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài. Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước. Các Bộ, cơ quan, địa phương: Chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách và các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại để điều chuyển vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2011 trong phạm vi quản lý để tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011.  Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại các dự án đầu tư, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính. 4.1.3. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng Bộ Công Thương chủ trì: Trong quý II năm 2011, ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, bảo đảm an ninh lương thực. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá. Phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Kiểm soát các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu; kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế nhập siêu. Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy động tối đa công suất để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý. Bộ Tài chính chủ trì: Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường. Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban hành. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, bảo đảm an ninh lương thực. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa phương, chỉ đạo sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...; tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn. Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.  Các Bộ, cơ quan, địa phương tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt, tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống lãng phí; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử dụng điện 10% theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ; đồng thời, áp dụng các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện. 4.1.4. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo Tiếp tục thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường. Bộ Tài chính chủ động điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới. Trong năm 2011 thực hiện điều chỉnh một bước giá điện; Bộ Công Thương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong quý I năm 2011 cơ chế điều hành giá điện theo cơ chế thị trường. Nhà nước có chính sách hỗ trợ hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện. 4.1.5. Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì: Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. Tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh viên,....  Chỉ đạo các cơ quan, địa phương triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng các quy định hỗ trợ đối tượng chính sách, người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (già yếu cô đơn, không nơi nương tựa,...) Bộ Tài chính chủ trì thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới.  Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì triển khai thực hiện quy định về hỗ trợ hộ nghèo khi giá điện được điều chỉnh.  4.1.6. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì: Chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và nội dung của Nghị quyết này thông tin, tuyên truyền đầy đủ, kịp thời, nhất là các nội dung thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ hộ nghèo trực tiếp chịu tác động của việc thực hiện điều chỉnh giá điện để nhân dân hiểu, đồng thuận. Xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không đúng định hướng của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.  Các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm.  4.1.7. Tổ chức thực hiện Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động triển khai thực hiện nghiêm túc, triệt để các nội dung quy định tại Nghị quyết này; định kỳ hàng tháng, hàng quý, kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP và Nghị quyết này, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ hàng tháng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:  Theo dõi tình hình và kết quả triển khai Nghị quyết của các Bộ, cơ quan, địa phương; tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại giao ban 15 ngày hàng tháng của Thường trực Chính phủ.  Trình Thủ tướng Chính phủ để báo cáo Quốc hội trong tháng 3 năm 2011 về các giải pháp tổng thể, toàn diện phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Đề nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương và các tổ chức thành viên chỉ đạo các cấp hội tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền, vận động để cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân nhận thức đúng, hiểu rõ, tham gia tích cực, thiết thực, tạo đồng thuận cao trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết. Các hội, hiệp hội ngành nghề tổ chức để cộng đồng doanh nghiệp tích cực thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, các nội dung của Nghị quyết. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan Trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện các nội dung của Nghị quyết này. 4.2 Ý kiến của các nhà kinh tế khác cho vấn đề lạm phát của Việt Nam Nghị quyết số 11/NQ-CP đã được Chính phủ ban hành về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới hiện đang diễn biến phức tạp, lạm phát tăng, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm có xu hướng tiếp tục tăng cao. Trong nước, thiên tai, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất và đời sống. Một số mặt hàng là đầu vào quan trọng của sản xuất như điện, xăng dầu vẫn chưa thực hiện đầy đủ theo cơ chế giá thị trường buộc phải điều chỉnh tăng. Mặt khác, chúng ta phải nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Trong bối cảnh đó, không ít những chuyên gia kinh tế đã đóng góp những ý kiến nhằm giúp Việt Nam đối phó với lạm phát. Sau đây là một số ý kiến. 4.2.1 Giải pháp cho lạm phát Việt Nam đã đi đúng hướng Trong hội nghị thường niên ADB lần thứ 44 vừa được tổ chức từ ngày 3/5 đến ngày 6/5 tại Hà Nội, Chủ tịch Ngân hàng phát triển châu Á Haruhiko Kuroda cho biết: “việc chính phủ Việt Nam đưa ra gói chính sách gồm 6 giải pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tôi cho rằng rất phù hợp. Việc Ngân hàng nhà nước Việt Nam thắt chặt chính sách tiền tệ, rõ ràng đã phát huy tác dụng trong việc giám sát chặt chẽ chỉ số lạm phát, cán cân thanh toán, đảm bảo nền kinh tế phát triển cân đối và bền vững hơn. Tôi đánh giá rất cao quyết tâm của Việt Nam trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô”. Cùng quan điểm, Ngân hàng HSBC cũng rất lạc quan khi cho rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ nhanh chóng có những bước chuyển biến tốt sau hàng loạt những biện pháp giảm giá đồng nội tệ, tăng lãi suất cho vay liên ngân hàng, hạ thấp mục tiêu tăng trưởng tín dụng và cắt giảm chi tiêu công của Chính phủ. Đại sứ Anh tại Việt Nam Antony Stokers trong một cuộc họp báo mới đây, cũng nhấn mạnh Việt Nam đang có bước đi chính xác, phù hợp khi mà có sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Bởi nếu chính sách tài khóa hướng vào mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng thì chính sách tiền tệ sẽ hướng vào mục tiêu kích thích tăng trưởng kinh tế và ổn định tiền tệ Chuyên gia độc lập Huỳnh Thế Du trong buổi giao lưu trực tuyến ngày 6/5/2011 do Vneconomy tổ chức đã đưa ra 3 nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát hiện nay của Việt Nam. Thứ nhất là do đầu tư công quá mức (chiếm 35-40% GDP) nhưng không đem lại hiệu quả, dẫn đến lãng phí đồng vốn và tình trạng tham nhũng. Thứ hai, các khoản cho vay theo quan hệ (từ các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân lớn) trở nên ngày càng phổ biến, lại đem rủi ro đến cho nền kinh tế chứ không hề góp phần tạo ra giá trị gia tăng. Trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính tạo nên động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thì khó tiếp cận với vốn, phải thu hẹp sản xuất và không thể tạo hàng hóa cung ứng cho thị trường. Thứ ba, chính sách ổn định tỉ giá trong giai đoạn lạm phát cao đã làm cho hàng hóa Việt Nam giảm sức cạnh tranh trên trường thế giới, cộng với việc định giá cao đồng tiền khiến cho tình trạng nhập siêu trở nên vô cùng căng thẳng. Qua những nguyên nhân ông Huỳnh Thế Du đưa ra, rõ ràng ta thấy ông rất đồng tình với chính phủ trong các biện pháp thắt chặt chính sách tài khóa, cắt giảm đầu tư công; thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kiềm chế nhập siêu. TS Lê Đạt Chí Trường Đại học Kinh tế TP.HCM đồng ý rằng việc tăng giá điện, than, xăng dầu không phải là yếu tố mạnh ảnh hưởng lạm phát. Theo ông, tác động lạm phát của Việt Nam năm 2011 là nhập khẩu lạm phát. Nguyên nhân là kim ngạch nhập siêu quá lớn, mà trong đó các yếu tố về hàng hóa nguyên liệu cơ bản trên thế giới đều tăng giá trong năm nay. Qua đây, ông ủng hộ giải pháp “ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu” của chính phủ. Nhóm ngành thứ hai tác động mạnh mẽ đến lạm phát chính là lương thực - thực phẩm, bởi vì cơ cấu chi tiêu cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, người dân dành phần lớn chi tiêu cho nhóm lương thực - thực phẩm. Cho nên việc Chính phủ chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, bảo đảm an ninh lương là biện pháp cấp thiết cần thực hiện để kìm hãm tác động từ giá lương thực của thế giới. Ngài Micheal Bear, Thị trưởng Khu Tài chính London (Anh) trong chuyến viếng thăm Việt Nam ngày 23/03/2011 vừa qua đã nói rằng: “Các giải pháp xử lý lạm phát và tăng trưởng hiện nay của Việt Nam đang đúng hướng. Giải pháp mang tính tổng thể nhất là tăng trưởng cần mang tính ổn định, việc tăng trưởng cao trong những năm vừa qua rất tốt, nhưng nó lại dễ trở thành tiền đề cho lạm phát. Chúng tôi cũng có trao đổi với ngài Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là, ưu tiên sự tăng trưởng ổn định để lãi suất ngân hàng thực dương, tức là cao hơn lạm phát, và mọi người có thể mong muốn gửi tiền vào ngân hàng để đầu tư hơn là giữ tiền mặt hay vàng. Một khi chính sách ổn định, người dân có lòng tin khi đầu tư thì sẽ huy động được vốn.” 4.2.2 Các giải pháp của Chính Phủ vẫn hàm chứa bất ổn. Cũng trong buổi giao lưu trực tuyến của Vneconomy, ông Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương lại có ý kiến không đồng tình với chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ. Về nguyên tắc, khi tiền tăng nhiều hơn mức tăng của hàng hóa dẫn đến lạm phát thì cần phải thắt chặt tiền tệ để giảm lượng tiền trong nền kinh tế là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, việc thắt chặt tiền tệ cần phải đảm bảo rằng những đối tượng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế (ở đất nước chúng ta chính là những doanh nghiệp vừa và nhỏ) phải ít bị ảnh hưởng nhất. Với tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, nếu nguồn vốn bị giới hạn thì những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Họ phải thu hẹp quy mô, sản xuất cầm cự qua ngày và không tạo đủ hàng hóa cung ứng cho thị trường. Điều này dẫn đến mất cân đối tiền hàng trở nên ngày càng trầm trọng hơn. Và thứ hai nữa, liệu rằng việc chi tiêu công có cắt giảm và tuân theo những kỉ luật nghiêm ngặt của chính phủ hay không? Hay là tiền thu về từ nền kinh tế lại đổ ra cho khu vực chi tiêu ngân sách, cho các dự án đầu tư không hiệu quả và tham nhũng? Trên thực tế là Ngân hàng nhà nước không thể nói không với yêu cầu từ phía Chính Phủ. Do đó, nếu Chính Phủ không quản lí được chính những chi tiêu ngân sách của đất nước thì việc thắt chặt tiền tệ sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí là gây tác dụng ngược. Ông Benedict Bingham - Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF tại Việt Nam khuyến nghị rằng thay vì thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua việc thắt chặt thanh khoản vốn đang tạo ra những tác động mạnh trên thị trường liên ngân hàng, thì nên sử dụng chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn. Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra thông điệp rõ ràng cho các ngân hàng và thị trường ngoại hối, về định hướng chính sách tiền tệ cho thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ về giá của đồng vốn thời gian tới. Điều này sẽ giúp cho Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất một cách dần dần và có thể dự báo được. Các doanh nghiệp cũng sẽ có định hướng về tương lai xem có khả năng tiếp tục kinh doanh hay không. Cùng quan điểm với ông Nguyễn Đình Cung, IMF cũng kêu gọi một chính sách tài khoá thể hiện rõ ràng hơn khả năng cắt giảm thâm hụt. Và cuối cùng, thông điệp của IMF là sau khi thoát khỏi giai đoạn bất ổn này, nên chuyển sang các chính sách mang tính thị trường hơn để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam phát triển trên nền tảng kinh tế thị trường. Cũng như IMF, để hướng kinh tế Việt Nam đến phát triển bền vững, Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá nêu rõ, lạm phát do cả hai nhóm nhân tố gây nên: nhóm nhân tố thuộc về tiền tệ và nhóm nhân tố thuộc về giá trị hàng hóa. Các giải pháp tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội do chính phủ ban hành vừa qua tương đối đồng bộ và đã chạm được tới 3 cái chốt, đó là giảm tốc độ bơm tiền ra, giảm bội chi ngân sách và cắt giảm bớt đầu tư công. Đây chính là 3 yếu tố cơ bản, là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, đây vẫn chỉ là những giải pháp mang tính ngắn hạn, tình thế. Cả 3 cái chốt này chưa động tới việc tái cấu trúc đầu tư, tái cơ cấu nền kinh tế, tức là chưa động đến yếu tố giá trị hàng hóa, chưa động đến vấn đề cơ bản của lạm phát. Nhưng, điều đáng mừng là Thủ tướng đã đề cập đến tái cơ cấu nền kinh tế. Đây chính là giải pháp mang tính dài hạn nhằm không để lạm phát cao tái diễn. Nguyên Bộ trưởng  nhấn mạnh, kinh nghiệm cho thấy, để chống lạm phát thành công, phải có một phương án đồng bộ, đầy đủ, cụ thể được thiết kế sẵn, bao gồm từ mục đích, mức độ điều chỉnh từng yếu tố đến tính toán, dự báo trước các tác động, nhất là các tác động tiêu cực. Đặc biệt, phải có các phương án dự phòng xử lý các hệ lụy do các biện pháp này mang lại. Phải chuẩn bị thực sự chu đáo, cũng như phải rất quyết tâm trong các biện pháp kiềm chế lạm phát. Vì vậy, truyền thông cho người dân hiểu và đồng thuận là quan trọng, nhưng quan trọng hơn, phải truyền thông nội bộ thật mạnh mẽ, để cả lãnh đạo ngành, địa phương, doanh nghiệp hiểu, có quyết tâm cao để cùng chung tay với Chính phủ kiềm chế lạm phát. 4.3 Đánh giá của nhóm về các giải pháp của chính phủ: Về các nhóm giải pháp được chính phủ đưa ra trong nghị quyết 11, nhóm nhận thấy như sau: Trước hết, các nhóm giải pháp được đưa ra khá toàn diện bao gồm cả các giải pháp về tiền tệ và tài khóa. Trong bối cạnh lạm phát tăng cao như hiện nay, việc thắt chặt tiền tệ và tài khóa chặt chẽ, cắt giảm đầu tư công là vấn đề hoàn toàn hợp l‎í. Các giải pháp đưa ra sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhưng có tác dụng kiềm chế lạm phát, giữ ổn định tình hình kinh tế vĩ mô. Nghị quyết 11 đã quan tâm một cách đầy đủ đến các nguyên nhân gây ra lạm phát hiện nay ở Việt Nam đó là lạm phát do cầu kéo từ việc đầu tư dàn trải thiếu hiệu quả với mục tiêu tăng tạo trưởng cao qua nhiều năm, do chi phí đẩy từ việc tăng giá các mặt hàng thiết yếu như nguyên liệu, điện, … Các giải pháp nói trên nếu được thực hiện tốt sẽ giúp nền kinh tế cân đối, phát triển bền vững hơn. Tuy vậy, nhóm nhận thấy trong nghị quyết 11 còn nhiều vấn đề chưa được xác định một cách rõ ràng, dẫn đến rủi ro trong quá trình thực hiện và có thể gây ra những tác dụng ngược không mong muốn lên nền kinh tế: Thứ nhất, đối với chính sách thắt chặt tiền tệ, chính phủ chủ trương cắt giảm tín dụng đối với các nhóm ngành phi sản xuất nhưng chưa có văn bản xác định rõ đâu là nhóm ngành phi sản xuất và đặc điểm, ảnh hưởng của nhóm ngành đó lên nền sản xuất như thế nào. Việc không xác định không rõ ràng dẫn đến rủi ro là hàng loạt các nhóm ngành phi sản xuất như dịch vụ, thương mại, vận tải, các nhóm ngành tuy không tạo ra hàng hóa nhưng lại là một khâu quan trọng trong chuỗi cung ứng phục vụ cho quá trình sản xuất bị đình trệ. Điều này sẽ gây đình trệ hoạt động sản xuất. Các dịch vụ hỗ trợ sản xuất gặp khó khăn, thiếu vốn hoặc phải vay vốn với chi phí đắt đỏ sẽ khiến giá gia tăng, từ đó có thể khiến giá đầu vào, chi phí sản xuất của một số ngành tiếp tục tăng, gây tác dụng ngược đối với quá trình chống lạm phát. Mặt khác, chính phủ chưa có những giải pháp cụ thể để kiếm soát tình trạng lãi suất khá cao hiện nay. Lãi suất huy động và cho vay thực tế của các ngân hàng liên tục tăng cao, và vượt xa mức lãi suất cơ bản hiện tại đã khiến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp phải đối mặt với chi phí vốn cao, có thể phải thu hẹp sản xuất hoặc tăng giá bán các hàng hóa. Điều này gây ra rủi ro tài chính cho hệ thống doanh nghiệp Việt Nam, nếu kéo dài có thể gây nên sự đình trệ sản xuất, dẫn đến suy thoái. Thứ hai, quá trình thực hiện việc cấm kinh doanh vàng và đôla trên thị trường tự do nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Việc cấm kinh doanh vàng, đôla tự do, tập trung lại tại các đầu mối chính để kiểm soát là một quyết định đúng. Tuy vậy, khi thực hiện còn quá cứng nhắc, mặt khác chưa tạo được lòng tin trong người dân. Điều này khiến việc huy động vàng và đôla tích trữ trong dân diễn ra chậm và không được như mong đợi. Nhà nước chưa tạo được kênh mua bán thông thoáng, đảm bảo nhu cầu vàng và đôla của người dân. Thứ ba, chính sách cắt giảm đầu tư công được thực hiện chậm. Vấn đề nằm ở việc lựa chọn dự án để cắt hoặc giảm vốn. Trong nghị quyết 11, Chính phủ đưa ra việc cắt giảm một số dự án không hiệu quả nhưng chưa đưa ra được tiêu chí đánh giá hoặc lĩnh vực cắt giảm cụ thể. Điều này khiến các bộ ngành, địa phương hết sức lúng túng khi phải rà soát và lập danh sách các dự án cần giảm vốn hoặc ngưng thực hiện. Việc thiếu tiêu chí đánh giá cũng như chưa có những động thái rõ ràng khiến cho chính sách này của chính phủ chưa đủ mạnh, không tạo được hiệu quả nhanh, mặt khác còn gây rủi ro về tham nhủng và thất thoát, lãng phí chi phí trong công tác đánh giá. Thứ tư, việc tăng giá xăng dầu và điện liên tục khiến do tâm l‎í của người dân không ổn định, hoang mang. Đây là cơ hội cho các tin đồn thất thiệt, đầu cơ, gây ảnh hưởng xấu tới thị trườngm góp phần tạo lạm phát do tâm lí. Chính phủ chưa có những động thái thực sự hiệu quả để trấn an nhân dân, chưa tạo được niềm tin trong nhân dân về chính sách kinh tế hiện tại. Chính phủ chưa có biện pháp đủ mạnh để chặn đà tăng giá của các mặt hàng nhu yếu phẩm, dẫn đến các loại hàng hóa liên tục biến động do dự báo xấu về lạm phát. Việc tăng lương không bù đắp được sự tăng giá, mặt khác còn gây ra sự tăng giá ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân. Như vậy, xét về mặt chủ trương, Nghị quyết 11 đã xác định được những bước đi đúng hướng. Tuy vậy trong quá trình cụ thể hóa, còn nhiều vấn đề phải điều chỉnh, làm rõ để nâng hiệu quả khi áp dụng vào thực tế. 4.4 Một số kiến nghị của nhóm: Để việc thực hiện kiếm chế lạm phát có hiệu quả hơn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước. Nhóm có một số đề xuất sau đây: 4.4.1 Giải pháp ngắn hạn Trong ngắn hạn, để nhanh chóng kiềm chế lạm phát, Chính phủ cần thực hiện ngay một số điều chỉnh nhằm giúp cho nghị quyết 11 nhanh chóng đi vào thực tế và phát huy hiệu quả: - Thứ nhất, nhanh chóng phân tích và đánh giá tác động của mỗi ngành đối với nền kinh tế và mối quan hệ giữa các ngành. Từ đó có cái nhìn tổng thể, để xác định cụ thể đâu là các ngành nên tập trung đầu tư, đâu là những nhóm ngành không tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội cần được cắt bớt và hạn chế tín dụng. Vẫn tiếp tục có chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thuộc các lĩnh vực trọng yếu để kích thích sản xuất, thúc đẩy tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mặt khác, cần rà soát lại hoạt động tín dụng của các ngân hàng, xử l‎í nghiêm túc các hình thức huy động quá cao vượt mức cho phép và các hình thức khuyến mại, lách luật. - Thứ hai, khơi thông dòng đôla và vàng trong dân thông qua một chính sách kiểm soát hợp l‎í. Cần đảm bảo nhu cầu của người nhân dân, để tạo được sự an tâm của người dân khi bán vàng hoặc đôla. Có thể cấp “chứng chỉ” vàng hoặc đola cho những cá nhân và tổ chức gửi hoặc bán vàng và đôla, chứng nhận số vàng hoặc đôla hiện đang nắm giữ, đảm bảo sẽ được mua lại khi có nhu cầu. - Thứ ba, cần nghiên cứu, đưa ra các chỉ tiêu đánh giá dự án, các lĩnh vực cần cắt giảm. Chính phủ trực tiếp thực hiện đánh giá các dự án từng địa phương một cách tập trung, thay vì giao về tự mỗi địa phương xem xét. Thực hiện kiên quyết việc cắt giảm. Đưa chỉ tiêu cắt giảm về cho từng địa phương, tuy nhiên lưu ‎y tùy theo mỗi địa phương, tùy theo vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế đất nước có mức cắt giảm đầu tư phù hợp. Tập trung vốn vào các dự án, vào các vùng có tiềm năng hiệu quả cao nhất. Song song đó, thành lập một hội đồng gồm các nhà khoa học độc lập để kiểm tra lại hồ sơ các dự án cần xem xét, đảm bảo việc đánh giá được thực hiện khách quan. Để tăng tính minh bạch và lấy phản hồi từ nhân dân , Chính phủ nên thiết lập kênh thông tin chính thức, đăng tải thông tin rõ ràng về các dự án hiện đang thực hiện, tiến độ, hiệu quả dự kiến và các đánh giá về tiếp tục duy trì hay cắt giảm để mọi người dân và các nhà khoa học có thể xem xét, gửi kiến nghị khi có sai sót. - Thứ tư, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thuộc các ngành trọng yếu về chi phí do tăng giá xăng, điện theo lộ trình giảm dần nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước từng bước thích nghi và điều chỉnh, tránh cú sốc về chi phí một cách đột ngột dẫn đến phá sản hoặc cắt giảm sản xuất. - Thứ năm, kiểm soát chặt chẽ giá cả một số mặt hàng có tác động lớn đến CPI, các mặt hàng thiết yếu đối với đời sống của người dân như lương thực thực phẩm. Đối với một số mặt hàng chịu tác động lớn của tâm l‎í như lương thực thực phẩm, các mặt hàng nhu yếu phẩm, Chính phủ có thể đặt một mức tỷ lệ tăng giá (biên độ tăng giá) cố định cho mỗi tháng, chống lại tình trạng đầu cơ, tăng giá và nhằm ổn định tâm l‎í người tiêu dùng. Kỳ gốc năm 2009 Tháng 4 năm 2010 2011 so với 4 tháng đầu năm 2010 CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG 127,61 117,51 113,95 I, Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 136,50 124,44 119,11 1- Lương thực 137,39 122,74 117,39 2- Thực phẩm 137,22 126,61 120,69 3- Ăn uống ngoài gia đình 133,27 119,52 115,94 II, Đồ uống và thuốc lá 121,00 111,50 110,61 III, May mặc, mũ nón, giầy dép 118,60 111,31 109,79 IV, Nhà ở và vật liệu xây dựng (*) 138,12 119,04 116,40 V, Thiết bị và đồ dùng gia đình 112,74 108,37 107,26 VI, Thuốc và dịch vụ y tế 107,26 105,25 104,53 VII, Giao thông 131,57 115,98 108,16 VIII, Bưu chính viễn thông 90,09 95,59 95,14 IX, Giáo dục 130,20 124,54 123,70 X, Văn hoá, giải trí và du lịch 111,70 107,16 106,06 XI, Hàng hoá và dịch vụ khác 123,26 110,92 110,21 (*) Nhóm này bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (Thống kê chỉ số giá tiêu dùng cả nước 04/2011 – Nguồn Tổng cục thống kê) Căn cứ vào số liệu trên có thể nhận thấy những mặt hàng có mức tăng giá hơn 10% trong tháng 4 năm 2011 so với năm 2010 là “Hàng ăn và dịch vụ ăn uống”, “Đồ uống và thuốc lá”, “Nhà ở và vật liệu xây dựng”, và “Giáo dục”. Ở đây cần tập trung quan tâm là những mặt hàng như lương thực, thực phẩm và điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng bởi vì sự tăng giá của những mặt hàng này thường dẫn đến sự gia tăng giá hàng loạt trong nền kinh tế. Chính vì thế Chính phủ cần có những sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ những mặt hàng này, đặc biệt là đối với những mặt hàng mang tính độc quyền cao như điện, nước và xăng dầu. 4.4.2 Giải pháp dài hạn Xét trong dài hạn, để ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát hiệu quả, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, Việt Nam nên tập trung vào một số vấn đề sau: Thứ nhất, tạo và củng cố lòng tin của đa số bộ phận dân chúng đối với sự ổn định của nền kinh tế, và sự hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô. Để thực hiện được điều này, chính phủ cần minh bạch hơn nữa trong việc đề ra và thực hiện các chính sách kinh tế. Phát triển các kênh thông tin nhất quán, thống nhất giữa các bộ, ngành và các cấp quản l‎í nhà nước. Cần tránh tình trạng thay đổi chính sách đột ngột, khác nhau giữa thông báo của cơ quan chính phủ và hành động thực tế. Rộng hơn, cần tạo sự phối hợp hài hòa, nhịp nhàng, đồng bộ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và công tác điều hành quản l‎í đất nước ở các cấp từ trung ương đến địa phương nhằm tránh lãng phí đầu tư, tham những gây nên kém hiệu quả trong chính sách và mất niềm tin trong dân chúng. Chỉ khi niềm tin của người dân đối với chính phủ cao, tâm l‎í ổn định thì các chính sách can thiệp vĩ mô của chính phủ mới có tác dụng nhanh và hiệu quả cao trong các trường hợp khẩn cấp. Thứ hai, chính phủ nên xem xét tái cấu trúc lại nền kinh tế. Tránh đầu tư dàn trải, tập trung phát triển các nhóm ngành và khu vực có thế mạnh, tận dụng được nguồn lực sẵn có, nhanh chóng tạo ra sản phẩm cho xã hội như khu vực nông nghiệp nơi tập trung ¾ lực lượng lao động. Tăng cường vốn đầu tư cho khu vực tư nhân, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của khu vực này, làm năng động hơn nền kinh tế. Cần có chính sách thúc đẩy, tận dụng nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng, đưa vào sản xuất, tạo ra của cải cho xã hội một cách hiệu quả nhất. Tập trung vốn vào các khu vực trọng điểm, phát triển thành đầu tàu kéo cả nền kinh tế. Phát triển nền sản xuất nhất là nông nghiệp, lương thực thực phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước, bình ổn giá cả và tâm l‎í tiêu dùng, Thứ ba, tăng tốc độ giải ngân dòng vốn FDI. Về cơ bản, đây là nguồn vốn quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên việc thu hút thiếu kiểm soát, giải ngân chậm, chậm tạo ra các sản phẩm hàng hóa dịch vụ cho xã hội, có thể sẽ tạo nên tăng cung tiền và gây nên áp lực lớn cho lạm phát của nền kinh tế. Kiểm soát kĩ dòng vốn FDI, có định hướng rõ ràng và chính sách linh hoạt về lĩnh vực và thời điểm cần vốn FDI sẽ giúp nền kinh tế vừa đảm bảo tốc độ phát triển vừa tránh nguy cơ tạo áp lực lạm phát. Thứ tư, ngân hàng trung ương nên chú ‎ việc đảm bảo sự ổn định của tỷ giá. Các chính sách điều chỉnh tỷ giá của Ngân Hàng Trung Ương như bán tiền đồng, thu mua đôla cần được phối hợp với các chính sách điều tiết lượng cung tiền đồng như dự trữ bắt buộc, phát hành hay mua trái phiếu chính phủ. Sự phối hợp nhịp nhàng này sẽ giúp bình ổn tỷ giá, đồng thời không gây ra sức ép lạm phát. Cuối cùng, Chính phủ nên thường xuyên nghiên cứu và đánh giá các tác động kinh tế thế giới đến kinh tế Việt Nam, sớm nhận ra các dấu hiệu và xu hướng kinh tế vĩ mô để có chính sách chủ động. Cần đảm bảo sự ổn định của kinh tế vĩ mô song song mục tiêu tăng trưởng, tránh tình trạng phát triển quá nóng, thiếu bền vững. KẾT LUẬN Lạm phát là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi, và là một bài toán khá nan giải với nền kinh tế Việt Nam mà Chính phủ và các cơ quan chức năng phải đối phó. Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế, nổi bật lên là một tốc trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên vẫn còn đó những bất cập trong những chính sách tiền tệ và tài khoá mà nhà nước đã và đang thực hiện, đặc biệt là sự lãng phí trong đầu tư công. Sự thiếu hoàn chỉnh trong những chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam kết hợp với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã đẩy tình trạng lạm phát của Việt Nam vào mức đáng báo động.Trước tình hình cấp bách đó, Nhà nước cần có những biện pháp tức thời nhằm giảm tốc độ hiện tại bằng những biện pháp như thắt chặt tiền tệ và nâng cao hiệu quả đầu tư công, cũng như có những bước đi dài hạn nhằm giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển một cách ổn định hơn. Xây dựng một nền kinh tế phát triển ổn định và có năng lực nội tại chính là cách mà Việt Nam có thể phòng ngừa được những rủi ro, giảm thiểu được những tổn thất gây ra bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới. Nhóm thực hiện mong rằng đề tài đã đem lại cái nhìn tổng quan về tình hình lạm phát của Việt Nam. Hi vọng với những ý kiến đánh giá của những chuyên gia kinh tế cũng như đóng góp của nhóm, chúng ta sẽ tìm ra những giải pháp đúng đắn trong việc đối phó với lạm phát hiện nay. Mặc dù đã cố gắng vận dụng nhưng do khả năng nghiên cứu, và kiến thức còn hạn hẹp nên chắc chắn đề tài của nhóm sẽ không tránh khỏi nhưng khuyết điểm. Vì vậy, nhóm rất mong sẽ nhận được ý kiến góp ý của thầy cô và các bạn để nhóm có thể hoàn thành tốt đề tài này. Xin cám ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Micheal Parkin (1994), “Macroeconomics, Second Edition”, Addison-Wesley Publishing Company, Inc, USA David Begg, Stanley Fisher and Rudiger Dornbush, “Economics, Eight Edition”, pubished by McGraw Hill Education TS. Phạm Đỗ Chí, Trung tâm tri thức doanh nghiệp quốc tế (2011), “Từ lạm phát đến kích cầu”, NXB Thanh Niên Nguyễn Lư (2009), Chiến tranh lạm phát, NXB Lao động. Paul A. Samuelson và William D.Nordhaus (1/2011), “Kinh tế học”, NXB Tài Chính, dịch giả: Vũ Cương – Đinh Xuân Hà – Nguyễn Xuân Uyên – Trần Đình Toàn. Khoa Kinh tế phát triển, trường ĐH Kinh tế TPHCM (2009), Giáo trình kinh tế vĩ mô Vương Thị Thảo Bình (2008), "Phân tích tác động của giá xăng dầu thế giới đến giá cả và tỷ giá hối đoái ở Việt Nam" , Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 71, tr. 21-24. Phan Thị Hồng Hải (2005), Lạm phát trong các nước chuyển đổi kinh tế và vấn đề kiềm chế lạm phát ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. Lê Quốc Lý (2008), "Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam hiện nay", (Nguồn từ: Tạp chí ngân hàng số 10/2008)). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên, 2004, 2005,2006. Hoàng Đình Tuấn (2006), "Quá trình ngẫu nhiên phục hồi trung bình và ứng dụng trong phân tích động thái giá cả", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số đặc san tháng 10, tr. 34-37. Vũ Quang Việt (2004), "Lạm phát ở Việt Nam", Thời báo Kinh tế Sài gòn, 713, tr. 42-43. Lê Danh Vinh (2006), "Ngành thương mại: nhìn lại hai mươi năm đổi mới", Tạp chí Cộng sản, số 98-2006 ( show_content.pl?topic=3&ID=3474). Website Tổng cục thống kê Việt Nam (gso.gov.vn) Nguyễn Trung Hòa (2008), Lạm phát trong tiến trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng, Rủi ro lạm phát và giải pháp kìm chế lạm phát.doc
Luận văn liên quan