MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tên đề tài
2.Lý do chọn đề tài
3.Mục tiêu nghiên cứu
4.Kết cấu đề tài
MỤC LỤC 1
MụC LụC BIểU Đồ 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1. Tổng quan về lạm phát 3
1.1.1. Khái niệm về lạm phát 3
1.1.2. Phân loại lạm phát 3
1.2. Cách tính lạm phát 6
1.3. Lạm phát cơ bản 10
1.3.1. Khái niệm lạm phát cơ bản 10
1.3.2. Các phương pháp tính lạm phát cơ bản 12
1.4. Những ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế 15
1.5. Các bài học trên thế giới về kiểm soát lạm phát 16
1.5.1. Hàn Quốc 17
1.5.2. Trung Quốc 17
1.5.3. Các nước khác trên thế giới 19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 28
2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của VN trong thời gian vừa qua. 28
2.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 30
2.3. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát 33
2.3.1 Việc áp dụng phương pháp tính chỉ số CPI ở Việt Nam 33
2.3.2 Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007 35
2.3.3 Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. 37
2.3.4 Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh. 38
2.3.5 Do cầu kéo 41
2.3.6 Do chi phí đẩy. 42
2.3.7 Do công tác dự báo chưa tốt 43
2.3.8 Tỉ giá cố định trong thời gian dài 44
2.3.9 Lúng túng trong điều hành 45
2.4. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam 46
2.4.1. Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng 47
2.4.2. Tác động của lạm phát tới người nông dân 47
2.4.3. Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán 49
2.4.4. Tác động của lạm phát đến tín dụng ngân hàng 50
2.4.5. Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh 50
2.4.6. Tác động của lạm phát tới tài chính nhà nước 51
2.5. Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua 51
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM 58
3.2. Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam 58
3.3. Các giải pháp cần và đủ . 63
KẾT LUẬN 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
Mục lục biểu đồ
Đồ thị 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003-2008 28
Đồ thị 2:Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003-2007 30
Đồ thị 3: Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007-2008 35
Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam so với Trung Quốc và Thái Lan 36
Đồ thị 5: tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán 39
Đồ thị 6: tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004-2007 40
77 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3465 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp kiềm chế lạm pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nề và nghiêm trọng lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của 1 nước .Lạm phát làm cho quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho nhóm này kiếm được lợi lộc nhưng lại làm cho nhóm khác thiệt hại nặng nề , nhất là đối với người lao động.
Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua
Trong thời gian vừa qua chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình lạm phát hiện nay là: Phấn đáu kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần.Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm phát cho phù họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững những năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này.
Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các Bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiêm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá ximăng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng Đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam và đồng Đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2007 và tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ người nghèo bị thiệt hại do thiên tai và do giá tăng đột biến trong thời gian qua; tiếp tục tập trung thực hiện các biện pháp hỗ trợ nông dân bị thiệt hại trong đợt rét đậm, rét hại vừa qua; hỗ trợ giải quyết một phần khó khăn cho sản xuất, đời sống nhân dân do điều chỉnh tăng giá, trước hết là đối với người nghèo, vùng miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác; biến khó khăn thành các thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Tám là, các cấp các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải tích cực triển khai thực hiện tốt các chính sách và giải pháp chống lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống đầu cơ tăng giá. Các phương tiện thông tin đại chúng phải đưa thông tin chính xác, tạo niềm tin, khí thế trong nhân dân về các tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế - xã hội bền vững của nước ta.
Nhận xét
Trong tám giải chính phủ đã nêu lên, nhìn chung được đánh giá cao là trúng vấn đề và có quyết tâm, nhằm vào 3 cụm vấn đề (a) siết chặt tiền tệ, (b) loại bỏ đầu tư kém hiệu quả, (c) giảm sốc cho các biện pháp đau đớn. Qua các cuộc họp, Thủ tướng cũng đã “phát lệnh” cho các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp “xung trận” chống lạm phát, kêu gọi sự hợp tác cộng hưởng của toàn dân. Nền kinh tế đất nước vẫn ở tuổi đang lớn và có sức hấp dẫn, về cơ bản Việt Nam vẫn đang ở trong bối cảnh quốc tế thuận lợi.
Bây giờ tất cả phụ thuộc vào sự thực hiện, những vấn đề sau đây:
Tình hình khẩn cấp, kiến nghị nên có một cơ chế làm việc khẩn cấp, dưới dạng một “task forces” với sự giúp đỡ của một tập hợp cán bộ kỹ trị, có thể tham vấn ý kiến chuyên gia nước ngoài. Cơ chế này tùy sự lựa chọn của Thủ tướng, có thể là Thường trực Chính phủ, có thể là Bộ tư lệnh tác chiến chống lạm phát do Thủ tướng lựa chọn (xin tạm gọi như vậy). Nhóm này có chức năng: thực hiện tổng rà soát các vấn đề liên quan nhằm bảo đảm thực hiện 8 giải pháp, lên ngay chương trình hành động, nhân danh Chính phủ trực tiếp chỉ huy thực hiện 8 giải pháp. Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia đảm nhận mặt trận riêng của nó trong cuộc chiến chung này song không thay thế được cơ chế tư lệnh chống lạm phát.
Bổ sung việc giao chỉ tiêu cắt giảm 10% chi phí hành chính và bổ sung việc giao yêu cầu cắt giảm đầu tư kém hiệu quả, Bộ tư lệnh nên lên kế hoạch xét duyệt chương trình thực hiện 8 biện pháp của toàn thể các cấp Bộ, ngành, địa phương (cấp tỉnh) và các tập đoàn lớn, quyết định xử lý ngay những vấn đề lớn; trực tiếp hàng ngày đôn đốc và kiểm soát thực hiện chương trình 8 giải pháp của các ngành các cấp. Chương trình thực hiện 8 điểm này phải được coi như một "bộ Luật khẩn cấp".
Tình hình vừa qua đòi hỏi một loạt các biện pháp hành chính – như vấn đề biên độ giao dịch trên sàn chứng khoán, vấn đề lãi suất ngân hàng, vấn đề trái phiếu, vấn đề giá cả một số mặt hàng thiết yếu, hạn chế xuất khẩu lương thực... Sắp tới không loại trừ còn phải “ra” tiếp các quyết định hành chính như vậy. Tuy nhiên Bộ tư lệnh nên chỉ đạo và kiểm soát hàng ngày việc thực hiện có hiệu quả những quyết định “hành chính” này theo hướng loại bỏ chúng càng sớm càng tốt (ngoại trừ vấn đề an ninh lương thực). Trước mắt vận dụng bàn tay của kỹ trị tập trung chỉ đạo đưa tỷ giá trở về sát thị trường, kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn theo hướng lái chúng vào sản xuất kinh doanh, làm thông suốt thị trường vốn.
Bộ tư lệnh cần kiên quyết cắt “hộ khẩu” hai đứa “con lai” của các tập đoàn kinh tế lớn ra khỏi gia đình chúng: (1) ngân hàng thương mại, (2) kinh doanh địa ốc. Nhà nước có thể tiếp tục cho phép các tập đoàn kinh doanh các ngành nghề khác với sản phẩm chính của tập đoàn tới mức 30% tổng vốn để khỏi trái Luật hiện hành, nhưng dứt khoát cắt hộ khẩu 2 đứa “con lai” này.
Bộ tư lệnh trực tiếp kiểm soát gắt gao việc các doanh nghiệp và các địa phương thực hiện các biện pháp “giảm sóc”. Sự tự nguyện của các ngành các cấp là đáng trân trọng, song sự đôn đốc rốt ráo của Bộ tư lệnh là quyết định.
Cho đến nay vẫn còn ngần ngại nói thẳng ra lạm phát hiện nay có nguồn gốc sâu xa từ cơ cấu kinh tế và hệ thống điều hành vĩ mô, mà chỉ nói nhiều về tiền tệ, giá cả, tác động của kinh tế thế giới .Sự thật không chỉ có lạm phát hiện nay nóng, mà lạm phát đang làm bộc lộ một cuộc khủng hoảng lớn hơn đang thai nghén từ lâu.
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM
Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam
Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam là đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa. Xét về mặt tác dụng thì hướng về xuất khẩu không mâu thuẫn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho thay thế nhập khẩu. Bởi vì, các sản phẩm sản xuất ra, cho dù không đủ điều kiện để xuất khẩu thì cũng đã có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước, từ đó góp phần hạn chế nhập khẩu.
Mở rộng thị trường ngoài nước là một yêu cầu cấp thiết của thương mại Việt Nam. “Đẩy mạnh xuất khẩu”, “hướng về xuất khẩu” đang là khẩu hiệu rất quen thuộc của mỗi doanh nghiệp. Thế nhưng, trong lúc chúng ta mải mê theo đuổi tìm kiếm cho mình một chỗ đứng nào đó trên sân người thì chúng ta lại đánh mất một phần chỗ đứng của mình trên chính sân nhà, hay nói một cách khác là thua ngay trên sân nhà... trong khi Vinatex đang cố gắng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU thì hàng dệt may Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam. Trong khi Tổng công ty chè Việt Nam đang tìm lời giải cho bài toán thị phần ngoài nước bị thu hẹp thì Chè Lipton, Dihma, Qualitea...có mặt mọi lúc, mọi nơi ở Việt Nam . Sản phẩm chất tẩy rửa của Việt Nam. cũng nhường chỗ cho hàng ngoại... Nhiều mặt hàng khác nữa cũng đang mất dần thị trường nội địa. Trong xu thế tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư, cạnh tranh để giành giật thị trường sẽ diễn ra ngày càng quyết liệt hơn. Để hội nhập thành công, mở rộng thị phần, khẳng định vị trí của hàng chúng ta cần kết hợp mở rộng thị trường ngoài nước với củng cố và phát triển thị trường trong nước.
Vấn đề đặt ra là, mở rộng thị trường ngoài nước được thực hiện ra sao cho có thể kết hợp giữa thu hút vốn đầu tư bên ngoài, xuất khẩu và nhập khẩu, bảo đảm được quan hệ hài hoà giữa hai quá trình ưu tiên hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, kết hợp tốt lợi ích có được khi mở rộng thị trường ngoài nước với yêu cầu củng cố và phát triển thị trường trong nước. Giải pháp cho vấn đề này là: tất cả hàng hoá của ta đều phải có chất lượng cao, chi phí thấp, đạt trình độ xuất khẩu. Những hàng hoá đó nếu xuất khẩu sẽ mở rộng thị trường ngoài nước, nếu không xuất khẩu, sẽ cạnh tranh được với các hàng ngoại nhập, nhằm củng cố và phát triển thị trường trong nước.
Phải tích cực khuyến khích đầu tư vào công nghiệp trong nước, và hướng đầu tư này vào các ngành công nghiệp chủ yếu phục vụ cho sự tăng trưởng trong tương lai của đất nước. Phải chọn ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu, đồng thời có khả năng tạo ra nhiều ngành công nghiệp khác trong nước. Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia, nhưng phải khôn khéo “lái” để các công ty này hướng sản phẩm của họ vào xuất khẩu và dành cho phía Việt Nam việc đáp ứng nhu cầu nguyên liệu đầu vào để tăng cường khai thác các tiềm năng sẵn có.
Mở rộng thị trường ngoài nước là phù hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH hướng mạnh về xuất khẩu.
Tiến trình thực hiện chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu đòi hỏi hàng hoá của Việt Nam phải lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho sản xuất trong nước. Quá trình hướng về xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước đòi hỏi phải đặt cơ cấu sản xuất trong mối quan hệ cạnh tranh với thị trường thế giới, sản xuất phải luôn luôn nâng cao trình độ công nghệ và năng suất lao động, đáp ứng nhu cầu của thị trường với giá rẻ ở trong nước và ở nước ngoài, làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh, tạo điều kiện để mở rộng quy mô sản lượng và nâng cao hiệu quả của sản xuất xã hội. Sự đòi hỏi này rất có lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 là bước đầu quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 – Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Một trong những mục tiêu của công nghiệp Việt Nam mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra là, tới năm 2010, giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70-75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Có mở rộng thị trường ngoài nước mới tận dụng được những lợi thế của Việt Nam so với các quốc gia khác.
Vấn đề phân công hợp tác lao động quốc tế bắt nguồn từ nguyên lý cho rằng sản xuất hàng loạt là cơ sở của mức sống hiện đại, còn chuyên môn hoá tạo ra khả năng nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm tiền vốn, nguyên liệu và lao động. Đó cũng chính là cơ sở tạo ra khả năng cạnh tranh cho sản phẩm .Trong trao đổi thương mại quốc tế, tất cả các bên tham gia đều có lợi ngay cả đối với những nước có năng suất lao động thấp hơn. Những nước này nếu biết chuyên môn hoá vào những lĩnh vực sản xuất có lợi nhất hoặc ít bất lợi nhất với chi phí cơ hội thấp nhất, thì dù trong điều kiện nào đều có thể nhờ ngoại thương mà tiết kiệm chi phí.
Trong tương lai, nền ngoại thương thế giới tiếp tục biến động mạnh, mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng sôi động và gay gắt. Sự biến động giá cả vẫn theo chiều hướng không thuận lợi cho các nước đang và chậm phát triển. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ cùng với quá trình quốc tế hoá và mở rộng giao lưu giữa các nền kinh tế của từng nước, từng khu vực, sẽ có thêm nhiều cơ hội để các sản phẩm của Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào thị trường thế giới, đồng thời cũng đặt các doanh nghiệp trước nhiều thách thức.
Cần phải khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh của đất nước trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, làm cho sản phẩm của Việt Nam ngày càng gắn với thị trường thế giới, thu hút được nhiều vốn, tranh thủ được công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Căn cứ vào các nguồn lực phát triển của đất nước, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam có những lợi thế sau:
Về lao động
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ. Nguồn nhân lực Việt Nam cần cù, thông minh, có khả năng tiếp thu công nghệ mới tương đối nhanh. Tuy nhiên, tiềm năng lao động vẫn chưa được khai thác đầy đủ. Theo tính toán sơ bộ còn khoảng hơn 8 triệu lao động quy đổi có thể bố trí việc làm mở mang ngành nghề, phát triển kinh tế, sản xuất hàng xuất khẩu. Nguồn lao động dồi dào với giá nhân công thấp là một lợi thế để tham gia vào phân công lao động quốc tế. Mở rộng thị trường ngoài nước, các doanh nghiệp sẽ góp phần tích cực thực hiện mục tiêu về sử dụng lao động, đồng thời, nguồn lao động của đất nước là một trong những lợi thế tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm Việt Nam.
Về tài nguyên
Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam đa dạng, phong phú. Đây là một lợi thế quan trọng. Điều kiện đất đai, khí hậu, tài nguyên sinh vật cho phép phát triển nông- lâm-ngư nghiệp đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của dân cư và có nhiều loại sản phẩm nhiệt đới xuất khẩu. Tiềm năng phát triển cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè, tiêu, dâu tằm,... hàng năm còn khá lớn. Dự báo trữ lượng có khả năng khai thác về dầu khí là 2,8 tỷ tấn dầu và 500tỷ m3 khí, trữ lượng than khoảng 3,6 tỷ tấn , bôxit khoảng 12 tỷ tấn quặng nguyên khai với hàm lượng quặng tinh trên dưới 40%, quặng sắt ước tính 700 triệu tấn, thiếc ước tính 86 nghìn tấn, đồng khoảng 600 nghìn tấn, đất hiếm 10 triệu tấn,...
Bờ biển nước ta dài 3260 km nên hải phận khá rộng với nhiều hòn đảo lớn nhỏ, vùng vịnh và cảng biển. Cho đến nay, kinh tế biển còn khai thác ở mức rất thấp chưa xứng với tiềm năng. Hải sản khai thác và nuôi trồng có thể đạt tới 2 triệu tấn/năm. Việt Nam còn có thể cung cấp nhiều nguyên liệu khác cho phát triển sản xuất công nghiệp như dầu khí, muối, cát thuỷ tinh ...
Về vị trí địa lý
Nằm trong khu vực châu á- Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho giao lưu quốc tế. Đây là một khu vực phát triển năng động của thế giới… Các nước ven Thái Bình Dương đã có tổng sản phẩm quốc dân bằng 1/6 thế giới, tổng mức ngoại thương cũng đã chiếm 1/4, có 6 trong số 8 cảng lớn nhất thế giới và 1/2 hàng hoá vận tải bằng đường hàng không qua Thái Bình Dương. Đầu tư của Nhật Bản vào các nước ven bờ Thái Bình Dương tăng 30%/năm. Sau một thời gian dài phát triển liên tục, kinh tế vùng châu á-Thái Bình Dương đã lớn mạnh, thu nhập đầu người tăng nhanh tạo ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá lớn
Mở rộng thị trường ngoài nước-các doanh nghiệp không chỉ sản xuất cho thị trường trong nước mà còn sản xuất cho thị trường thế giới rộng lớn.
Khi các doanh nghiệp tham gia thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là đã tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, không chỉ sản xuất cho nhu cầu của chính mình mà còn sản xuất cho nhu cầu của thị trường thế giới rộng lớn hơn.
Xuất khẩu có ý nghĩa lớn đối với các quốc gia có thu nhập thấp so mức trong khu vực và so với mức chung của thế giới. Trong bối cảnh hội nhập, không phải chỉ sản phẩm xuất khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Song, ở các nước đang và chậm phát trển, do có mức thu nhập thấp nên sức mua yếu, làm cho thị trường nội địa chật hẹp, không đủ trang trải cho các chi phí sản xuất các mặt hàng theo đúng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Điều này khiến sản xuất trong nước khó phát triển. Vì thế, mở rộng thị trường ngoài nước giúp cho các nước này lợi dụng thu nhập cao, thị hiếu đa dạng... của người nước ngoài để làm gia tăng nhu cầu về hàng hoá. Từ đó đẩy mạnh sản xuất ( tận dụng các nguồn lực, nguyên vật liệu sẵn có trong nước và rẻ hơn...) để đáp ứng nhu cầu đó. Chỉ có như vậy sản xuất trong nước mới có thể phát triển được.
Cũng như ở các nước đang phát triển khác, ở Việt Nam , hiện nay, mức thu nhập của người dân còn thấp. Cái giá mà người mua trong nước có thể trả cho số lượng hàng hoá mà họ cần, theo chất lượng mà họ muốn chưa tương xứng với cái giá mà người sản xuất phải chi phí để sản xuất ra số lượng hàng hoá đó. Vì thế, hiện nay, việc mở rộng thị trường trong nước còn không ít khó khăn, mặc dù thị trường trong nước là thị trường quen thuộc và dễ tính hơn so với thị trường bên ngoài. Còn ở thị trường quốc tế, mức thu nhập của người nước ngoài cao, nhu cầu lại đa dạng và số lượng người có khả năng mua lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước. Cho nên, muốn đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá nhằm phát triển sản xuất cần tích cực đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước. Đối với sản xuất công nghiệp nặng thì tầm quan trọng của mở rộng thị trường ngoài nước càng rõ hơn. Một nền công nghiệp nặng thay thế nhập khẩu thường đem lại chi phí cao cho nền kinh tế, bởi lẽ nhu cầu trong nước có hạn, nếu sản xuất vừa đủ cho nhu cầu trong nước thì không hiệu quả. Chằng hạn, ở Việt Nam, lắp ráp xe ôtô vừa cho nhu cầu trong nước chỉ khoảng 30.000 xe/năm, song thực tế, công suất lắp ráp xe ôtô phải 100.000 xe/năm mới hiệu quả. Như vậy, nếu nói riêng về công nghiệp thì nhiệm vụ đặt ra cho phát triển công nghiệp nặng là khi sản xuất công nghiệp nặng tiêu dùng trong nước phải nghĩ ngay đến khả năng xuất khẩu, và khi xem xét thành lập khu công nghiệp cần xác định phương hướng mặt hàng, sản phẩm chủ yếu trong khu công nghiệp đó có phù hợp với định hướng phát triển ngành kinh tế-kỹ thuật tương ứng hay không, xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường ngoài nước.
Các giải pháp cần và đủ .
Tăng lượng cung tiền và tăng tín dụng chỉ là một trong các nguyên nhân gây ra lạm phát ở nước ta. Có xác định đúng nguyên nhân mới có thể có giải pháp đúng và giá phải trả cho kiềm chế lạm phát mới thấp.Chính sách thắt chặt tiền tệ như đang thực hiện có làm giá lương thực, giá xăng dầu giảm không. Từ đó, phải kết hợp đồng bộ các chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá cùng với việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, kể cả của doanh nghiệp nhà nước.
Thắt chặt tiền tệ: Bao gồm hạn chế lưọng tiền trong lưu thông (M2) và hạn chế mức tăng tín dụng. Đây là biện pháp thường được áp dụng khi xảy ra lạm phát xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, mặc dầu đây không phải là nguyên nhân duy nhất. Ngân hàng Nhà nước cũng đang áp dụng chính sách này.Việc làm đó là cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, thắt chặt quá mức sẽ hạn chế tăng trưởng (thông qua đó cũng là hạn chế nguồn cung) đồng thời làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Đến lượt nó, sẽ đẩy giá thành và giá bán hàng hoá và dịch vụ lên, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu; việc làm cũng giảm.Vì vậy, theo ý chúng tôi, cần áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mềm dẻo hơn so với các biện pháp đang áp dụng hiện nay. Ví dụ mở rộng thời gian mua trái phiếu theo từng đợt với hạn mức được chia nhỏ; quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng.
Chính sách tài khóa: Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả.Theo các số liệu thống kê, tỉ trọng tài sản cố định và đầu tư tài chính của các doanh nghiệp nhà nước lớn hơn nhiều các thành phần kinh tế khác trong khi chỉ số phát triển tổng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước lại thấp hơn chỉ số phát triển tổng sản phẩm của các thành phần kinh tế khác. Số việc làm tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư từ khối doanh nghiệp nhà nước cũng thấp hơn. Điều đó chứng tỏ hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn thấp .Đây là lĩnh vực còn nhiều dư địa và nằm trong tầm tay của chính phủ, vừa với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất vừa là chủ sở hữu nhà nước đối với doang nghiệp nhà nước nhưng chưa được nhấn mạnh trong các giải pháp tổng thể chống lạm phát. Mặt khác, cũng phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng.Đương nhiên, việc việc thắt chặt chi tiêu chính phủ và đầu tư công cũng không làm giảm sự tăng giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu. Sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ là để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Đây là một giải pháp cần được tính đến. Tuân thủ nguyên tắc tỉ giá hối đoái giữa đồng USD và VND phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ. Theo đó, nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Bởi lẽ, trừ nông sản và thuỷ sản, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu khác giá trị nguyên liệu nhập khẩu đã chiếm 60 đến trên 70%. Trong điều kiện đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và một số đồng tiền các nước ASEAN khác - những đối thủ cạnh tranh xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - tăng giá so với đồng đô la Mỹ thì việc tăng nhẹ giá trị VND càng ít bị ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta so với các nước này. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.
Trong bối cảnh lạm phát đang thao túng thị trường, để đạt được và duy trì sự cân bằng cho những yếu tố nêu trên, cần ngay một chính sách và công cụ kiểm soát lạm phát mới, được sử dụng trong một thập niên vừa qua tại nhiều nước tiến bộ cũng như đang phát triển hay chậm tiến. Chính sách và công cụ kiểm soát lạm phát mới này được gọi là “Inflation Targeting’’, tạm dịch là chính sách ‘’xác định hạn mức lạm phát”.
Xác định “ hạn mức lạm phát” là một chính sách tiền tệ mới, được đưa ra sử dụng gần đây, gồm có nhiều đặc điểm:
Chính phủ công bố các hạn mức lạm phát có thể chấp nhận được trong khoảng thời gian trung hạn;
Việc cam kết ổn định giá của Chính phủ được lấy làm mục tiêu cho chính sách tiền tệ và tất cả các mục tiêu khác sẽ được coi là thứ yếu;
Chiến lược về chính sách tiền tệ trên đây được thông báo đầy đủ cho công chúng và các thị trường (chứng khoán, tiền tệ, tài chính, hối đoái, v.v.). Các quyết định về mục tiêu, chương trình hành động của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hay Nhà nước, các tổ chức tài chính tiền tệ, phải được công khai minh bạch trên các kênh thong tin đại chúng;
Quy định trách nhiệm rõ ràng của Ngân hàng Trung ương hay Nhà nước về việc duy trì hạn mức và mục tiêu kiềm chế lạm phát; và
Chiến lược thông tin sử dụng mọi chính sách vĩ mô về tiền tệ, hối đoái... để đưa ra được các công cụ kiểm soát lạm phát.
Nhìn vào những yếu tố nói trên chúng ta thấy ngay việc Chính phủ chỉ thông báo về hạn mức hay chỉ tiêu lạm phát trong phạm vi cho phép sẽ không đủ để kiềm chế lạm phát.Trong một thập kỷ qua từ khi chính sách “xác định hạn mức lạm phát” được đưa vào sử dụng, đã có một số quốc gia phát triển cũng như chậm tiến đã thành công trong việc sử dụng công cụ này để kiềm chế lạm phát, như New Zealand, Anh, Thụy Điển, Australia, đặc biệt tại nhiều quốc gia có khủng hoảng tài chính như Hàn Quốc, Thái Lan năm 1997-1998, Brazil, Chi Lê, và các nước xã hội chủ nghĩa chuyển đổi sang kinh tế thị trường như Ba Lan, Hungary, và Cộng hòa Czech. Sự ổn định về giá cả là nền tảng của chính sách “xác định hạn mức lạm phát”. Sự ổn định về giá cả trong chính sách kiềm chế lạm phát này được xem như thành công nếu lạm phát ở trong khoảng mà người dân có thể chịu được, có nghĩa là lạm phát không phải là yếu tố chính trong các quyết định liên quan đến cuộc sống và thói quen mua bán hàng ngày của dân chúng.
“Xác định hạn mức lạm phát” quá thấp hoặc bằng không thường không phải là điều lý tưởng hoặc cần thiết, vì như vậy thường là dấu hiệu của tình trạng thất nghiệp gia tăng, kinh tế giảm phát, thụt lùi hoặc chững lại. Để ổn định giá và kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Trung ương phải có trách nhiệm đầu tiên trong việc cam kết làm mọi thứ để ổn định giá cả, cần chia sẻ thông tin mau lẹ và chính xác cho cộng đồng dân chúng, công khai mọi chính sách tiền tệ và tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Ngân hàng Trung ương một cách nào đó phải là “của dân, do dân, và vì dân” trong việc kiểm soát và kiềm chế lạm phát. Sự tin tưởng của dân chúng vào Ngân hàng này sẽ giúp người dân và doanh nghiệp tránh tình trạng hoảng loạn, mua bán bất thường hay đầu cơ tích trữ kéo theo lạm phát phi mã.
Chúng ta thấy quá rõ tình trạng này trong những tháng gần đây, khi thị trường chứng khoán tưởng như bị đổ vỡ và lạm phát phi mã tưởng chừng không thể nào dừng lại được. Nhiều nước đang phát triển như Argentina, Thái Lan, Indonesia, Brazil, Hàn Quốc... đã thấy quá rõ tai hại của lạm phát sau khi trải qua kinh nghiệm xương máu này, khi hàng triệu người trắng tay vì thị trường chứng khoán sụp đổ, ngân hàng mất tính thanh khoản và đồng tiền mất giá. Gần đây nhất, Zimbabwe đã cho thế giới thấy thế nào là lạm phát phi mã: Tỷ lệ lạm phát 100.000% (một trăm nghìn phần trăm). Người dân Zimbabwe bây giờ ai cũng là tỷ phú đô la… Zimbabwe. Với tờ giấy bạc mệnh giá 10 triệu đôla, người dân đủ ăn một bữa sáng có bánh mì và cà phê. Vậy mà chỉ một thời gian trước đây, Zimbabwe còn tự hào là thiên đàng của Châu Phi, được coi là đứa con cưng của lục địa đen và của các nhà đầu tư thế giới. Chính phủ nước này đang nỗ lực, nhưng rất tiếc mọi sự đã muộn rồi.
Để góp thêm vào việc ổn định kinh tế, giúp phát triển bền vững, Chính phủ cần giảm bớt một số lệ thuộc hay ràng buộc, đặc biệt là tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào một ngoại tệ, như tình trạng đôla hóa hiện nay của nền kinh tế Việt nam. Các biến đổi về tỷ giá trong thị trường ngoại tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tức thời trên nền kinh tế và trên doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước tạo nên các làn sóng lạm phát khi các doanh nghiệp này tăng giá bán ra để bù vào chi phí chuyển đổi hay mua bán ngoại tệ. Chính phủ cũng cần giảm thiểu sự áp đảo của các tập đoàn kinh tế hay Tổng công ty Nhà nước trên thị trường tài chính cũng như ngân hàng. Doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng khoảng 80% lượng vốn tín dụng của các ngân hàng trong nước, cộng với khoảng 70% vốn vay từ các ngân hàng hay tổ chức tín dụng nước ngoài, trong khi chỉ tạo ra gần 40% tổng sản phẩm quốc gia (GDP). Việc này tạo nên sự mất cân đối trong kinh tế, làm giảm sự tin tưởng của người dân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay khu vực tư nhân vào chính sách vĩ mô của Chính phủ.
Chiến lược đầu tư tràn lan để chứng minh khả năng đa dạng hóa ngành nghề và sức mạnh của các Tập đoàn kinh tế hay Tổng công ty Nhà nước gần đây đã cho thấy một lỗ hổng rất lớn trong chính sách điều hành doanh nghiệp của Chính phủ. Các Tập đoàn hay Tổng công ty thay vì chú trọng xây dựng doanh nghiệp dựa trên sức mạnh cốt lõi của mình thì lại mở rộng sang các ngành nghề khác để theo đuổi chính sách lợi nhuận ngắn hạn, vô hình chung làm yếu đi thế mạnh của mình trong chiến lược phát triển lâu dài. Nhiều chuyên gia tin rằng chỉ khoảng trên dưới 30% các Tập đoàn hay Tổng công ty Nhà nước đang kinh doanh trong ngành có thế mạnh của mình, còn lại khoảng 70% tham gia vào thị trường đem đến lợi nhuận ngắn hạn, như chứng khoán, nhà đất... Điều này giải thích tại sao doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam không có thương hiệu nào khả dĩ có tiếng trong vùng và trên thế giới.
Tình trạng thiếu điện trầm trọng hiện nay trong dân chúng và cho doanh nghiệp khiến người ta phải nhìn đến các khoản đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước trong ngành điện sang các sân khác. Nếu quả thực doanh nghiệp ngành điện của Nhà nước theo đuổi thành công mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn trong việc đầu tư vào các lĩnh vực khác, thì ai sẽ chịu trách nhiệm khi người dân và các doanh nghiệp khác bị thiệt thòi vì thiếu điện để sản xuất. Đây là hiện tượng trong thuật ngữ kinh tế gọi là “khôn ngoan được lợi tiền xu nhưng thiệt hại thì tiêu tan tiền đồng”.
Những giải pháp cụ thể cần thiết
Đấu thầu và cho thuê là hình thức chủ yếu để thu hẹp khu vực kinh tế quốc doanh
Thành lập các hội đồng đấu thầu trung ương và địa phương, Hội đồng này có nhiệm vụ xác định danh mục các cơ sở kinh tế quốc doanh phải thu hẹp, phải đưa ra đấu thầu (trước hết là các xí nghiệp nhỏ , các cơ sở nghiệp vụ, thương nghiệp bán lẻ….) Kiểm kê giá trị tài sản của các cơ sở đó, xác định mức giá đấu thầu tối thiểu, lập bản thông báo về tình hình kinh doanh của xí nghiệp, tìm người đấu thầu và tổ chức đấu thầu.
Có thể áp dụng hình thức bán đấu thầu toàn bộ xí nghiệp hoặc một phần. Với hình thức này nhà nước chuyển quyền sở hữu cho tập thể và tư nhân.
Có thể không bán đấu thầu mà cho thuê các cơ sở kinh doanh, trong hình thức này nhà nước vẫn là chủ sở hữu.
Những người tham gia đấu thầu hoặc thuê gồm đủ các thành phần kinh tế - quốc doanh, tập thể, tư nhân, tư bản nước ngoài hoặc Việt kiều, nghĩa là bất kì ai có thể cải tổ cơ sở đó để làm ăn có lãi
Giá đấu thầu về nguyên tắc phải theo giá thị trường có trích khấu hao, có tính phần trăm khuyến khích những người đấu thầu nhận thầu.
Những cơ sở được đấu thầu có thể xem xét miễn thu thuế trong thời hạn 3-6 tháng để họ cải tổ xí nghiệp
Những người nhận thầu có quyền tiệp nhận hoặc không tiếp nhận các cán bộ công nhân của cơ sở đó, nhà nước phải chuyển họ thành cán bộ công nhân của khu vực tập thể hoặc tư nhân ( đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho họ trong thời gian đã làm cho nhà nước) đồng thời thực hiện chính sách trợ cấp xã hội đối với những cán bộ công nhân trong thời gian chờ đợi bố trí công việc mới .
Những người nhận thầu có toàn quyền sắp xếp lại bộ máy điều hành quản lý xí nghiệp, sắp xếp nhân sự
Các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng ở đây chỉ làm chức năng lãnh đạo chính trị tư tưởng
Chính quyền các cấp không được can thiệp vào hoạt động kinh doanh hợp pháp của họ
Một vấn đề đặt ra là : liệu có người đứng ra đấu thầu các cơ sở quốc doanh yếu kém không . Chắc chắn là số người tham gia đấu thầu lúc đầu sẽ rất ít, vì họ còn bỡ ngỡ, chưa tin và không có vốn, nhưng chắc là có.Nha nước cần tạo điều kiện, khuyến khích những người có năng lực đứng ra đấu thầu, hỗ trợ cho họ về tài chính , về kỹ thuật về điều kiện kinh doanh .Chúng ta đã có thể quốc doanh hóa được một nền kinh tế lạc hậu, thì cũng có thể thu hẹp nó lại được, mặc dú đó là công việc rất phức tạp.
Công ty cổ phần các loại sẽ là hình thức kinh doanh phổ biến trong nước
Cần nghiên cứu cơ chế vận hành của các công ty cổ phần hiện có trên thế giới và từ đó thiết kế ra các mô hình công ty cổ phần đa thành phần, trong đó thành phần quốc doanh là chính cũng có thể hợp tac xã và tư nhân là chính; các công ty cổ phần chuyên ngành là chính, hay kinh doanh tổng hợp là chính ….
Do có sự xuất hiện của các công ty cổ phần nên cần tính đến việc thành lập các thị trường chứng khoán, trước mắt là các cơ sở giao dịch – giúp cho việc lưu thông chứng khoán, di chuyển vốn từ các cơ sở hiệu quả sang các cơ sở có hiệu quả cao hơn.
Cần ban hành một đạo luật về công ty cổ phần và bảo vệ quyền tư hữu, kinh doanh của các công dân.
Vấn đề phát hành và kinh doanh tiền tệ
Việc phát hành tiền tệ phải theo nhu cầu cần thiết của lưu thông tiền tệ. Công thức của Mac về số lượng tiền cần cho lưu thông chỉ có thể áp dụng cho lưu thông tiền tệ cò bản vị là vàng .Ngày nay tiền tệ nói chung đã không lấy vàng làm bản vị.Nhiều lý thuyết tiền tệ đã lấy tốc độ tăng thu nhập quốc dân để tính nhịp độ tăng của tiền tệ .Nếu nhịp độ tăng lượng tiền tệ cho lưu thông vượt quá nhịp độ tăng thu nhập quốc dân là lạm phát đã có thể vượt quá sự kiểm soát. Với cách tính này ta hoàn toàn không cần tăng lượng tiền tệ cho lưu thông vì mức tăng này đã quá cao so với mức tăng thu nhập quốc dân của ta. Nhưng tại sao ở nước ta lại luôn thấy thiếu tiền, vị tất cả người vay ngân hàng đều có lợi , vay càng nhiều, càng lâu lợi càng lớn.Chính họ đang lớn tiếng đòi tiền tệ, kêu thiếu tiền tệ. Nhưng chính họ lại găm hàng nhà nước lại càng lâu càng lãi.Họ vay tiền ném ra thị trường mua hàng, giữ lại kiếm lãi.Vậy là các cơ sở quốc doanh đã trở thành những cơ sở đầu cơ tiền tệ và hàng hóa lớn , tiền và hàng lưu thông trên” thị trường tự do” cho đến khi đồng tiền mất giá 1 vài lần thì họ mới tung hàng ra bán để thu tiền về trả nợ ngân hàng và kiếm lời. Nếu một xí nghiệp quốc doanh trong năm 1987 vay của ngân hàng 10 triệu đồng sau một năm họ đã kiếm lợi khoảng 6 triệu và kiềm chế vòng quay của đồng tiền về ngân hàng.
Do vậy giải pháp cho tình trạng thiếu tiền không phải chỉ bằng cách ném tiền thêm nữa cho lưu thông đã đầy ắp tiền mất giá. Thực tế cho thấy là càng ném thêm tiền, càng thiếu tiền.Theo chúng tôi, chính việc nâng cao lãi suất ngân hàng sẽ làm giảm nhu cầu về tiền tệ, tăng khối lượng tiền tệ thu về ngân hàng – sẽ là giải pháp chính cho việc thiếu tiền.Đương nhiên có thể phải phát hành thêm một lượng tiền nào đó nhưng không thể xem đó là giải pháp chính. Còn như nếu cứ để tình trạng lãi suất thấp như hiện nay thì ném thêm bao nhiêu tiền nữa thì vẫn thiếu.
Để giảm việc phát hành tiền, phải tiến hành kiên quyết việc cải tổ hệ thống ngân hàng quốc gia. Theo chúng tôi, hướng cải tổ chủ yếu là:
Giới hạn chức năng của ngân hàng quốc gia Việt Nam trong 4 chức năng chủ yếu sau: phát hành tiền tệ; dự trữ tiền tệ; cấp tín dụng lớn với lãi suất chỉ đạo; nhận ký thác tiền.
Chức năng kinh doanh tiền tệ trao cho các ngân hàng kinh doanh, cho phép các thành phần kinh tế được mở ngân hàng kinh doanh kể cả tư nhân và được phép kinh doanh cả vàng và ngoại tệ.
Tỷ giá đồng tiền của ta với các đồng tiền khác được xác định theo giá thị trường, thay đổi hàng ngay, do các ngân hàng kinh doanh quyết định dưới sự kiểm soát và điều tiết của ngân hàng quốc gia
Ban hành ngay một đạo luật về tiền tệ và tín dụng quy định từ nay các ngân hàng phải có trách nhiệm bảo vệ quyền tư hữu giá trị tài sản của công dân gửi tiền vào ngân hàng, quy định viêc đổi tiền phải được tiến hành công khai và bảo vệ giá trị tài sản bằng tiền của các công dân khi đổi tiền
Về vấn đề xác định giá cả
Điều quan trọng trong việc xác định giá cả là phải có 1 cơ chế định giá sao cho giá cả có thể phản ánh được chi phí kinh doanh, cung cầu, giá trị tiền tệ và có tác dụng khuyến khích các hướng kinh doanh có hiệu quả. Cơ chế nhà nước định giá hiện nay dù đã phân quyền bớt cho các bộ và chính quyền các địa phương vẫn không đáp ứng được các yếu cầu trên. Tính quan liêu và hành chính trong việc định giá không giảm mà tăng lên, chỉ khác là căn bệnh này chuyển từ trung ương xuống các cấp dưới. Các cơ sở kinh doanh chưa có quyền định giá .Do vậy cơ chế định giá, theo chúng tôi phải cải tổ theo hướng :
Trao quyền định giá cho những người kinh doanh và tiêu dùng, chứ không phải là cho các bộ và uỷ ban nhân dân địa phương, nhà nước chỉ định một số giá.
Để ngăn chặn tình trạng độc quyền định giá nâng giá, phải mở rộng cạnh tranh,mà giá cả sẽ hạ xuống.
Việc ổn định giá cả từng đợt rồi lại tăng giá , nếu bằng cách đó mà ép được các xí nghiệp giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu qua thì đó là biện pháp lý tưởng. Nhưng thực tế những năm qua cho thấy , những đợt ổn định giá rồi bất ngờ tăng giá vùn vụt đã gây ra những “cơn co giật” bất thần của nền kinh tế, vừa không ép được các xí nghiệp nâng cao hiệu quả kinh tế , vừa đẩy họ vào tình trạng bế tắc và phải đối phó với nhà nước. Do vậy, không nên áp dụng biện pháp này nữa. Hơn nữa khi trao quyền định giá cho những người kinh doanh và tiêu dùng, họ sẽ không làm như vậy.Các nước TBCN cũng đã từng áp dụng biện pháp “đông giá”, nhưng khi tăng giá, họ cũng chỉ dám tăng 5-10% chứ chưa có nước nào mỗi đợt tăng giá lại cao tới 2-3 lần như nước ta. Biện pháp chủ yếu ngăn việc tăng giá là giảm việc ném tiền vào lưu thông.
Vai trò kiểm soát và điều tiết giá cả của nhà nước rất quan trọng . Nhà nước phải có trách nhiệm thông báo về tình hình giá cả trong nước và thế giới hàng ngày, xác định các chính sách kiểm soát và điều tiết thông qua chế độ thuế , thông qua các biện pháp chống đầu cơ và ấn định một số giá.
Về chế độ tiền lương phải được cải tổ theo hướng
Nhà nước chịu trách nhiệm trả lương cho bộ máy hành chính, an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục…và tạm thời nâng mức lương của họ lên mức tối thiểu và điều chỉnh mức đó cùng với lạm phát. Còn những người làm việc trong các xí nghiệp kinh doanh , do các xí nghiệp đó tự trả, xoá bỏ chế độ bao cấp qua lương
Nhà nước chuyển phần chi cho một số quỹ phúc lợi xã hội như : giáo dục, y tế…vào quỹ lương và mọi công dân phải trả các phí giáo dục và y tế…..
Thành lập các công ty kinh doanh bảo hiểm sức khoẻ, việc làm….
Thành lập quỹ từ thiện và cứu tế xã hội có thể của nhà nước, cũng có thể của tư nhân.
Ban hành chính sách thuế thu nhập để điều tiết các thu nhập bất hợp lý
Nghiên cứu thi hành chính sách xoá bỏ bao cấp về nhà ở và các bất động sản khác.
Về chính sách tài chính
Cần cải tổ công tác tài chính theo hướng tăng thu giảm chi nuôi dưỡng và phát triển các nguồn thu và giảm các nhu cầu chi.Những biện pháp cần chú ý :
Chấm dứt việc phát hành tiền bù cho bội chi cho ngân sách .Sự thiếu hụt trong ngân sách chỉ được bù bằng cách nhà nước phải vay các ngân hàng và nhân dân với lãi suất cao hơn mức lạm phát
Cải tổ các hệ thống thuế sao cho người tự kiểm soát lẫn nhau và buộc nhau phải nộp thuế cho nhà nước, nên đánh thuế thu nhập.
Tính đến việc thu phí giáo dục, y tế giải trí, sách báo văn nghệ…
Thu về chênh lệch hối suất.
Theo ước tính tổng số tăng thu này có thể lên tới 722 tỷ.Ta cứ giả định là chỉ tăng thu được một nửa thì đã là 361 tỷ vượt quá mức thiếu hụt ngân sách .
Các biện pháp giảm chi có thể kể ra là :
Giảm chi bù giá lương thực; nếu nhà nước không bù giá lương thực cho những người làm trong khu vực sản xuất mà giao cho các xí nghiệp phải bù (60% lao động) , đã có thể giảm chi khoảng 177 tỷ.
Nếu chuyển được 20% lao động thuộc khu vực nhà nước sang cho các khu vực khác, đã giảm được khoảng 1.3 triệu, do vậy giảm chi cho quỹ lương khoảng 300-400 tỷ.
Giảm chi cho thu mua lương thực, nhà nước hàng năm phải chi cho thu mua lương thực cả trăm tỷ .Để giảm khoản chi này, nhà nước phải bãi bỏ chế độ độc quyền kinh doanh lương thực. Nhà nước chỉ tạm giữ độc quyền kinh doanh việc nhập khẩu lương thực, còn việc mua bán lương thực trong nước sẽ trao cho các thành phần kinh tế tham gia. Để điều tiết giá lương thực, nhà nước phải có 1 số lương thực dự trữ va có 1 chính sách trợ giá. Nhà nước trợ giá để giữ giá thị trường, chứ không tìm giá thoát ly khỏi giá thị trường. Nhà nước phải thi hành chính sách bù giá vào lương thực , khi giá gạo tăng, chứ không nên thi hành chính sách 2 giá
Giảm chi tiêu quốc phòng, an ninh và các chi tiêu cho khu vực hành chính, thi hành chính sách tiết kiệm chống tham ô lãng phí
Cho phép tự do di chuyển lao động và tiền vốn
Để cho các khu vực kinh doanh có hiệu quả của nền kinh tế nước ta có thể mở rộng và thu hẹp được các khu vực kinh doanh kém hiệu quả, phải có các quy định cho phép tự do di chuyển lao động và tiền vốn .Chính sách hộ khẩu, bao cấp lương thực, cấp giấy phép kinh doanh “hiện hành” ở nước ta đang cột chặt người lao động vào một cơ sở, ở một địa phương, tiền vốn cũng bị chôn chặt ở một chỗ. Người lao động hay các chủ kinh doanh thấy bị chèn ép, kinh doanh kém hiệu quả cũng không thể chuyển đi chỗ khác. Do vậy , họ đành kéo dài tình cảnh làm việc kém hiệu quả. Chính quyền địa phương và lãnh đạo cơ sở kinh doanh không bị một sức ép kinh tế nào đòi phải cải tổ . Để chấm tình trạng này, có thể áp dụng các biện pháp sau :
Bãi bỏ chế độ hộ tịch hiện hành, cho phép mọi công dân chỉ cần có giấy chứng minh thư có đủ quyền cư trú và kinh doanh ở mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam.
Giấy phép kinh doanh sẽ cấp cho mọi công dân, chỉ cần họ phải thường trú ở nơi kinh doanh .
Vốn của mọi công dân được phép tự do di chuyển từ công ty này sang công ty khác, từ địa phương này sang địa phương khác.
Mọi người lao động có quyền chuyển nơi công tác, khi họ có yêu cầu.
Lập quỹ dự trữ tài chính và hàng hóa
Để tiến hành chương trình chống lạm phát này, cần lập 1 quỹ dự trữ tài chính và hàng hóa để ứng phó với những tình thế cấp bách xảy ra do thực thi các giải pháp trên.
Quỹ này có thể vay từ các nước XHCN, có thể vay của các tổ chức quốc tế và chủ yếu là bằng cách vay của nhân dân với lãi suất cao hơn lạm phát.
Bộ tài chánh có thể phát hành công trái thời hạn 1 năm với mức lãi suất cao hơn lạm phát.
KẾT LUẬN
Lạm phát là hệ quả tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Chống lạm phát cũng phải áp dụng nhiều giải pháp tổng hợp để giá phải trả cho việc chống lạm phát là thấp nhất.Hơn nữa, chống lạm phát thường là sự khảo nghiệm thực chứng. Vì vậy, “trên phương hướng đúng cứ làm đi rồi thực tiễn sẽ cho thấy dần”. Điều quan trọng là thường xuyên theo dõi, đánh giá phản ứng của thị trường để kịp thời điều chỉnh đi đôi với việc hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường.
Giờ đây, cần phải thiết lập được sự cân bằng giữa (1) nhu cầu phát triển kinh tế bền vững, (2) việc sử dụng các chính sách và công cụ mới để kiểm soát lạm phát, (3) sự có mặt và tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong việc kiểm soát lạm phát, (4) việc tái cấu trúc hay tái xác định chiến lược phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước hay có vốn của nhà nước, và đặc biệt (5) việc quản lý vĩ mô minh bạch có giám sát và điều chỉnh của Chính phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] TS. Nguyễn Trọng Hoài ( Khoa kinh tế phát triển) : Ảnh hưởng của lạm phát đến sản xuất và tiêu dùng , Ổn định lạm phát
[2] Báo cáo công tác của chính phủ , thủ tướng chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007
[3] Tăng trưởng và phát triển kinh tế ; Trường đại học kinh tế quốc dân
[4] PGS.TS. Trần Ngọc Thơ và TS. Nguyễn Ngọc Định ; Giáo trình sách tài chính quốc tế
[5] Nguyễn Thị Thu ; Lạm phát cơ bản từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam
[6] Trương Quang Hùng & Nguyễn Hoài Bảo ; Nhìn lại lý thuyết truyền thống về lạm phát và phân tích trường hợp Việt Nam
[7] Thời báo kinh tế Sài Gòn
[8] Báo tuổi trẻ online
[9] www.vneconomy.com.vn
[10] www.thanhnien.com.vn
[11] www.saga.vn
[12] www.sggp.org.vn
[13] www.tuoitre.com.vn
[14] www.eps.com.vn
[15]
[16]
[17] www.Sbv.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và các giải pháp kiềm chế lạm pháp ở Việt Nam.doc