LỜI MỞ ĐẦU
Trong vài năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam phát triển rất nhanh, đặc biệt thị trường tài chính đã có những sự đổi mới và chuyển mình rõ rệt.Vì vậy, tìm hiểu về các hoạt động có liên quan đến cơ chế thị trường tài chính nói chung và hoạt động cụ thể của các công ty tài chính nói riêng là một yêu cầu cần thiết để góp phần thúc đẩy các hoạt động này, tạo đà cho sự phát triển hơn nữa nên kinh tế Việt Nam, đồng thời hoà nhập dược với thị trường tài chính thế giới.
Sự phát triển của thị trường tài chính phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển của các tổ chức tài chính và phi tài chính.Sự phát triển của các tổ chức này có ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính và xa hơn nữa là sự phát triển của cả nền kinh tế.Trong quá trình hội nhập quốc tế, với xu hướng đẩy mạnh tự do hoá thương mại, các hoạt động tài chính diễn ra ngày càng sôi động.Các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu rất lớn về vốn cho đổi mới công nghệ, thiết bị, đổi mới tổ chức quản lý.Song nguồn vốn tự có của doanh nghiệp là có hạn, vì thế doanh nghiệp buộc phải nghĩ đến những nguồn vốn huy động từ bên ngoài.Tuy nhiên nhiều khi có sự mâu thuẫn về lợi ích giữa bên cung cấp vốn và đơn vị nhận vốn đầu tư.Chính vì thế hoạt động Uỷ thác đầu tư ra đời với mục đích nhằm cân bằng lợi ích giữa các bên có liên quan.Đây là một nghiệp vụ còn tương đối mới mẻ đối với các công ty tài chính ở Việt Nam nhưng ngày càng được phát triển và mở rộng ra đối với các tổ chức tài chính trung gian khác.Riêng vốn Uỷ thác đầu tư được coi là một trong những nguồn tạo vốn cơ bản cho các công ty, làm đầu mối trong quá trình chu chuyển vốn hoạt động đầu tư.
Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam ( PVFC) là một tổ chức tài chính trung gian lớn ở Việt Nam.Từ khi thành lập đến nay, Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể trong phát triển các công cụ tài chính cũng như sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, góp phần nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, đồng thời tạo nguồn thu ngân sách.
Trong thời gian thực tập tìm hiểu nghiên cứu hoạt động thực tế của Tổng công ty, tác giả nhận thấy hoạt động Uỷ thác đầu tư là một hoạt động có nhiều tiềm năng phát triển, là một trong những hoạt động huy động vốn cho thị trường rất hiệu quả.Dựa trên những kiến thức đã được học trong những năm qua ở nhà trường, từ sự tìm hiểu thực tế về nghiệp vụ Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam, nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp cho hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam.” làm chuyên đề thực tập
Nội dung chính của chuyên đề là về nghiệp vụ nhận Uỷ thác đầu tư tại công ty và một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này.
Bố cục chuyên đề: Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 2 chương:
Chương I
Thực trạng hoạt động Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty Tài chính dầu khí Việt Nam (PVFC)
Chương II
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Uỷ thác đầu tư tại công ty Tài chính dầu khí
57 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2538 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng hợp sự thành công của từng nhân viên trong nghiệp vụ này. Quá trình nhận Uỷ thác đầu tư đòi hỏi nhân viên không chỉ có chuyên môn đánh giá thẩm định, lựa chọn và quản lý tốt các cơ hội đầu tư có tiềm năng để tạo ra uy tín cho công ty mà cần phải có sự nhạy bén linh hoạt, sáng tạo và thích nghi được với xu hướng diễn biến của thị trường, sự cập nhật những thay đổi của chính sách và tiến bộ kỹ thuật cũng như thị hiếu của khách hàng.
Vì thế, bộ phận nhân sự có chất lượng không những chỉ mang lại lợi nhuận đơn thuần từ những giao dịch kinh tế trên thị trường mà còn mang lại uy tín cho công ty, giúp công ty ngày càng lớn mạnh
Chất lượng đánh giá và thẩm định dự án
Công tác thẩm định dự án chính là việc kiểm tra, đánh giá lại mức độ hợp lý, tính hiệu quả tính khả thi của dự án mà công ty tài chính dự định đầu tư. Việc tiến hành rà soát này cần tiến hành một cách có hệ thống, toàn diện, khoa học và khách quan vì nếu chỉ cần một đánh giá sai có thể sẽ gây thiệt hại cho công ty về mặt tài chính không những thế đánh mất sự tín nhiệm từ khách hàng, ảnh hưởng tới uy tín của công ty. Khó khăn mà các công ty tài chính thường gặp phải trong quá trình thẩm định dự án là số lượng người tham gia tương đối nhiều do cần nguồn thu nhập và xử lý dữ liệu đầu vào lớn đồng thời nhân viên phải có chuyên môn và kinh nghiệm.
Là một công ty tài chính, hoạt động đầu tư của PVFC không phải là đầu tư trực tiếp mà là đầu tư tài chính vào các dự án- tức là công ty chỉ đóng vai trò là nhà cung cấp vốn cho dự án.Vì vậy việc kiểm tra, thẩm định hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư là yêu cầu hàng đầu của công ty.Hiện nay, tại PVFC việc tiến hành thẩm định các dự án đầu tư cũng như nhận Uỷ thác đầu tư cũng chưa được thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ, phòng thẩm định độc lập mới thành lập được 3 năm ( từ năm 2005) và đang ngày càng hoàn thiện
Hoạt động marketing
Không có một dịch vụ nào muốn nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường mà không cần đến hoạt động marketing. Đặc biệt với Uỷ thác đầu tư thì marketing đóng vai trò đặc biệt hơn vì Uỷ thác đầu tư không phải là một sản phẩm thông thường mà nó mang tính chất của dịch vụ, hơn nữa nó trong lĩnh vực đầu tư nên cũng mang tính chất như sản phẩm đầu tư, đó là thời hạn đầu tư kéo dài.Muốn biết được kết quả đầu tư có chính xác không thì không thể chỉ trong thời gian ngắn có thể xác định được.Vì thế hoạt động Marketing là nhân tố quan trọng để giúp cho các nhà đầu tư có thể hiểu rõ hơn về hoạt động Uỷ thác đầu tư và cũng chỉ thông qua hoạt động Marketing mới có thể nâng cao hình ảnh và uy tín của công ty cũng như thu hút được sự chú ý của mọi đối tượng khách hàng nhiều hơn.Hoạt động Marketing bao gồm những cả việc nghiên cứu đánh giá thị trường, thị phần chiếm lĩnh của công ty trên thị trường, thị trường mục tiêu, những lợi thế của sản phẩm dịch vụ của mình, các đối thủ cạnh tranh của công ty…. để từ đó đặt ra những chiến lược quảng bá hình ảnh cho phù hợp cũng như tìm ra hướng phát triển cho dịch vụ Uỷ thác đầu tư của công ty mình. Ngoài ra cũng cần quan sát đánh giá xem đối thủ cạnh tranh của mình có những lợi thế gì và đâu là điểm bất lợi, những nhược điểm còn tồn tại trong Công ty tài chính.
Với hàng loạt các hoạt động quảng bá, Marketing tại các đợt Hội chợ chuyên ngành Tài chính Ngân hàng, tổ chức hội thảo tại các đơn vị trong và ngoài ngành Dầu khí, giới thiệu sản phẩm dịch vụ UTĐT thông qua tờ rơi, mạng nội bộ, Website PVFC, báo, tạp chí chuyên ngành và đặc biệt việc mở ra chuyên mục “Cơ hội đầu tư cùng PVFC” được cập nhật thường xuyên trên Website và hơn hết là uy tín của PVFC khi lần lượt cung cấp cho các khách hàng UTĐT cá nhân và tổ chức các cơ hội đầu tư tốt với giá uỷ thác thấp hơn giá trúng thầu bình quân trên thị trường … PVFC đã thực sự chiếm được niềm tin của khách hàng và xác định được vị thế trên thị trường TC Việt Nam trong hoạt động nhận UTĐT.
Như vậy, hoạt động Uỷ thác đầu tư tại các Công ty tài chính phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố và nhân tố nào cũng có tầm ảnh hưởng nhất định tới kết quả và hiệu quả của hoạt động này. Ngoài ra chính cấu trúc và hoạt động của mỗi một công ty tài chính lại khác nhau. Điều này cũng là yếu tố khiến mức độ ảnh hưởng của các nhân tố là khác nhau.
4.Thực trạng tình hình nhận Uỷ thác đầu tư tại PVFC
4.1.Thực trạng cơ cấu vốn UTĐT tại PVFC
Theo quy định về đảm bảo an toàn của Ngân hàng nhà nước, các công ty tài chính không được sử dụng quá 40% vốn điều lệ vào hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, sau 7 năm phát triển, nguồn vốn đầu tư huy động từ hoạt động Uỷ thác đầu tư đang dần chiếm tỉ trọng chính trong cơ cấu nguồn vốn của PVFC và được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây
BẢNG 3: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA PVFC GIAI ĐOẠN 2006 – 2008
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Tính đến
31/12/2006
Tính đến
31/12/2007
% tăng giảm 2007 so với 2006
Tính đến
17/3/2008
Tính đến
31/08/2008
1. Tiền gửi
1.809.948
11.759.205
549,7%
5.685.269
659.964
- Tiền gửi có kỳ hạn của các TCTD khác
1.513.614
11.615.643
667,4%
5.555.101
384.952
- Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, Tiền gửi khác
296.334
143.562
(51,5%)
130.168
275.012
2. Tiền vay
14.264.535
28.565.612
100,3%
29.199.608
33.910.370
- Vay của các TCTD khác
3.131.032
2.370.940
(24,3%)
1.408.100
4.049.900
- Vốn nhận tài trợ, ủy thác đầu tư
8.118.879
18.140.253
123,4%
23.000.230
29.660.470
- Vay khác
3.014.624
8.054.419
167,2%
4.791.278
200.000
3. Phát hành giấy tờ có giá
665.215
2.192.285
229,6%
2.190.394
2.199.948
Tổng cộng
16.739.698
42.517.102
154%
37.075.271
36.770.282
(Nguồn: BCTC đã kiểm toán năm 2006 và 2007, BCTC đã kiểm toán cho giai đoạn từ 01/01/2007 đến 17/3/2008 và BCTC đến 31/08/2008 của Công ty)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong 3 năm nguồn vốn từ Uỷ thác đầu tư luôn chiếm đa số trong cơ cấu nguồn của toàn bộ công ty. Nguồn tiền gửi của các TCTD chiếm vị trí thứ 2 trong cơ cấu vốn của PVFC với tỉ trọng trên dưới 30%, và trong 3 năm gần đây đang có xu hướng giảm dần. Việc phát hành TPKD mới chỉ xuất hiện trong 2 năm nên đóng góp của nó còn khá nhỏ, từ 6% đến 7%. Cũng giống như phát hành TPKD, các kênh huy động vốn khác như tiền gửi của TCKT, cá nhân hay Vốn quỹ của công ty, tài sản nợ cũng chỉ chiếm tỉ trọng khá khiêm tốn tuy các hình thức hành hình thành khá sớm.
Năm 2006 và 2007 là các năm tăng trưởng mạnh của hoạt động huy động vốn nói chung và kênh phát hành giấy tờ có giá nói riêng. Trong giai đoạn 2005-2007, thị trường tiền tệ có nhiều biến động như thay đổi về lãi suất trong nước và quốc tế, tình hình lạm phát, sự cạnh tranh về huy động vốn giữa các tổ chức tín dụng trong nước… gây ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các tổ chức tín dụng và phi tín dụng nói chung và PVFC nói riêng.
Trước các biến động về lãi suất vốn trên thị trường, PVFC đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, tích cực cải thiện chênh lệch lãi suất cho vay - huy động và chênh lệch lãi suất giữa các chi nhánh. Các biện pháp trên cùng với sự hỗ trợ vốn rất lớn của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam với thời hạn dài và lãi suất ưu đãi đã góp phần giảm thiểu tác động của thị trường đối với việc huy động vốn, nâng cao hệ số sử dụng vốn, chất lượng quản trị vốn và hiệu quả kinh doanh
Việc chiếm tỉ trọng lớn của vốn Uỷ thác đầu tư thể hiện tầm quan trọng của nguồn vốn này đối với PVFC tuy nhiên nó cũng phản ánh sự thiếu ổn định do còn phụ thuộc rất nhiều vào một số khách hàng truyền thống của công ty như PTSC, VSP, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các cá nhân riêng lẻ...
4.2.Phân loại vốn nhận Uỷ thác theo sản phẩm
Sản phẩm và dịch vụ nhận uỷ thác đầu tư của PVFC vẫn tập trung vào các dịch vụ đã có từ trước và chưa đưa ra dịch vụ nào mới trong 3 năm qua (2005-2007) . Các sản phẩm này vẫn là những sản phẩm chiến lược và hấp dẫn một số lượng khách hàng lớn.
Dịch vụ nhận UTĐT được PVFC triển khai vào cuối năm 2003 tới các khách hàng các nhân và tổ chức trong nước.Cho đến thời điểm hiện tại, các loại hình của dịch vụ đã cung ứng tới khách hàng bao gồm:
BẢNG 4: CÁC LOẠI HÌNH NHẬN UTĐT TẠI PVFC
STT
C¸c lo¹i h×nh dÞch vô
Khách hàng cá nhân
Khách hàng tổ chức
Cha ¸p dông
§· ¸p dông
Cha ¸p dông
§· ¸p dông
1
Nhận UTĐT chỉ định lĩnh vực, lãi suất cố định
x
x
2
Nhận UTĐT chỉ định chia sẻ rủi ro
x
x
3
Nhận UTĐT chỉ định, không chia sẻ rủi ro, góp vốn chậm.
x
x
4
Nhận UTĐT trước đấu giá
x
x
(Nguồn: công ty Tài chính Dầu khí)
Trong số các loại hình dịch vụ UTĐT nói trên, dịch vụ nhận UTĐT chỉ định, không chia sẻ rủi ro, góp vốn chậm và dịch vụ nhận UTĐT trước đấu giá được các khách hàng cá nhân và tổ chức trên thị trường đánh giá rất cao. Đặc biệt trong tiến trình cổ phần hoá mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, dịch vụ nhận UTĐT trước đấu giá được PVFC tung ra đã đáp ứng được những mong đợi của thị trường, riêng năm 2006 dịch vụ này đã đóng góp vào 74% tổng giá trị nhận UTĐT của PVFC
4.3.Phân loại vốn nhận Uỷ thác theo khách hàng
Trong hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư của mình, khách hàng của PVFC được chia ra thành khách hàng cá nhân và khách hàng theo tổ chức.Việc đàm phán kí kết các hợp đồng với từng loại khách hàng có những quy định nhất định. Đối với khách hàng cá nhân thì PVFC dựa trên việc nghiên cứu nhu cầu chung của thị trường để từ đó đưa ra được những sản phẩm cố định, phù hợp với nhu cầu của phần lớn khách hàng. Đối với khách hàng là các tổ chức thì PVFC tổ chức đàm phán trực tiếp, những quy định hình thức chỉ mang tính chất khung cho nghiệp vụ, những quy định cụ thể được thống nhất qua quá trình đàm phán
Từ cuối năm 2005 tới nay, các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá mạnh mẽ, nên việc đầu tư vào các chứng từ có giá đang là kênh thu hút hấp dẫn nhất những cá nhân và tổ chức Uỷ thác. Với uy tín hoạt động hiệu quả trên lĩnh vực đầu tư này việc nhận Uỷ thác đầu tư của Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư luôn trong tình trạng quá tải, số lượng khách hàng Uỷ thác tại PVFC tăng lên hàng năm. Năm 2005, khi chưa có một tổ chức nào thực hiện nghiệp vụ Uỷ thác tại PVFC thì năm 2006, PVFC đã thu hút được 5 tổ chức, đến năm 2007 con số này tăng 2,5 lần. Năm 2006, số dư nhận Uỷ thác đầu tư trước đấu giá trên toàn hệ thống của PVFC đạt 523 tỷ đồng, tăng 275% so với năm 2005, số lượng khách hàng giao dịch trong năm đạt gần 10.000 lượt khách hàng. Trong đó, nhận uỷ thác từ nhóm khách hàng cá nhân trên toàn hệ thống năm 2006 đạt 511 tỷ đồng và từ nhóm khách hàng tổ chức đạt 10,4 tỷ đồng.
Đến năm 2007, số lượng hợp đồng Uỷ thác đầu tư cá nhân tại PVFC là 22.000 trong đó có 12.891 hợp đồng phát sinh mới là trong năm này.Năm 2008 do tình hình kinh tế không được ổn định và biến động theo chiều hướng không tốt nên số lượng hợp đồng Uỷ thác tăng lên không đáng kể, chỉ đạt 24.856 hợp đồng. Số lượng về khách hàng Uỷ thác đầu tư tại PVFC thực tế nhỏ hơn số lượng hợp đồng Uỷ thác đầu tư vì một khách hàng có thể kí nhiều hợp đồng Uỷ thác đầu tư với PVFC tuỳ thuộc và thời gian cũng như sản phẩm mà PVFC đưa ra. Tuy nhiên, hiện tại PVFC vẫn chưa có một hệ thống để lọc và thống kê ra số lượng khách hàng cụ thể mà mới chỉ cộng dồn số lượng hợp đồng theo cách đơn thuần. Vì vậy, không có con số chính xác về số lượng khách hàng mới mà PVFC thu hút trong 1 năm cũng như số lượng khách hàng Uỷ thác đầu tư nhiều hợp đồng với PVFC. Đây là một hạn chế của PVFC vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc chăm sóc khách hàng của bản thân PVFC.
Xu hướng tăng lên từ vốn Uỷ thác cá nhân và tổ chức là dấu hiệu tốt cho việc bắt đầu rút dần sự phụ thuộc vào một số nguồn vốn Uỷ thác nhất định của PVFC. Nếu 2005 vốn Uỷ thác từ cá nhân và tổ chức mới là 15% và 5% thì năm 2006 là 19% và 15.5%, năm 2007 là 27.3% và 10%. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy vẫn có xu hướng giảm từ vốn Uỷ thác đầu tư tổ chức, vì thế trong phương hướng hoạt động Uỷ thác đầu tư sắp tới, các nhà hoạch định chiến lược của PVFC muốn tập trung phát triển nhiều hơn các sản phẩm liên quan đến Uỷ thác đầu tư cá nhân và tổ chức, đặc biệt là Uỷ thác đầu tư tổ chức nước ngoài, quan tâm tới kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công ty.
Biểu đồ 1: TỶ LỆ NHẬN VỐN UTĐT PHÂN THEO
KHÁCH HÀNG TẠI PVFC
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: công ty Tài chính Dầu khí)
Nếu nhìn vào con số tổ chức thì đây chưa phải là nhiều nhưng thực tế, số vốn mà các tổ chức này đem lại lại chiếm tỉ trọng không nhỏ trong cơ cấu vốn nhận Uỷ thác đầu tư. Chính vì vậy, trong chiến lược sắp tới, PVFC muốn hướng tới thu hút các khách hàng là các tổ chức nhiều hơn là các khách hàng cá nhân
Ngoài ra, nếu xét theo lĩnh vực nhận uỷ thác đầu tư thì PVFC nhận uỷ thác đầu tư theo những lĩnh vực như:
- Lĩnh vực dầu khí năng lượng và khoáng sản
- Lĩnh vực tài chính tín dụng , ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm
- Lĩnh vực đầu tư kinh doanh đô thị mới, văn phòng cho thuê, chung cư cao cấp
- Lĩnh vực du lịch cao cấp
- Các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ chủ chốt khác
PVFC hiện đang chỉ tập trung nhận ủy thác đầu tư cổ phiếu của một số công ty thủy điện, nhiệt điện, dầu khí, tập trung vào ngành dầu khí. Đây là ưu tiên hàng đầu của công ty.Chính vì vậy, phần vốn nhận UTĐT của PVFC chủ yếu được hình thành trong lĩnh vực dầu khí năng lượng
5.Đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động Uỷ thác đầu tư tại PVFC
5.1.Những kết quả đạt được
Trải qua quá trình thử nghiệm hoạt động gần 5 năm tại phòng Đầu tư, dịch vụ nhận Uỷ thác đầu tư của PVFC không chỉ định hình được rõ ràng mà còn gặt hái được những thành tựu đáng kể ban đầu, tạo ra một chỗ đứng vững chắc trong hoạt động kinh doanh của PVFC. PVFC là công ty tài chính đầu tiên triển khai dịch vụ Uỷ thác đầu tư dành cho khách hàng là công nhân viên trong ngành dầu khi vào cuối năm 2003 với hợp đồng Uỷ thác đầu tư đầu tiên là dự án Tàu FPSO. Từ đó tới nay, sau 5 năm hoạt động và phát triển, hoạt động Uỷ thác đầu tư trở thành một dịch vụ quan trọng đối với PVFC
Vốn Uỷ thác mà PVFC thu hút về thường được đầu tư theo hai hình thức chính là đầu tư vào thị trường chứng khoán và đầu tư vào dự án. Đối với đầu tư theo danh mục đầu tư
BẢNG 5:VỐN GÓP VÀ CƠ CẤU VỐN CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI PVFC GIAI ĐOẠN 2006 – 2008
Đơn vị:tỷ đồng,%
STT
Lĩnh vực đầu tư
Vốn tự có
Vốn uỷ thác
Tổng VĐT
1
Dầu khí,năng lượng,khoáng sản
119.763
896.184
1015.947
2
Phục vụ trực tiếp
39.4
239.844
279.244
3
Dịch vụ du lịch cao cấp
36.652
134.265
170.917
4
Đầu tư và KD khu đô thị mới,khu CN,VP cho thuê
183.865
446.290
630.155
5
Tài chính,ngân hàng
-
5
5
6
Kinh tế biển
-
156.809
156.809
7
Các ngành CN &Dv khác
163.456
361.491
479.947
TỔNG CỘNG
543.136
2239.883
2738.019
(Nguồn: công ty Tài chính Dầu khí)
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rằng nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động đầu tư của công ty lấy từ nguồn vốn Uỷ thác.Nguồn vốn Uỷ thác gấp khoảng 4 lần nguồn vốn tự có. Điều này cho thấy vốn Uỷ thác là nguồn vốn thực sự quan trọng trong việc thực hiện các chiến lược đầu tư của công ty.Nguồn vốn Uỷ thác là nguồn vốn đầu tư chủ yếu, là nguồn lực mạnh để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế có sự cạnh tranh cao như : dầu khí năng lượng, dịch vụ du lịch, kinh tế biển…. Khi đầu tư vào các lĩnh vực này, nguồn vốn Uỷ thác thường hơn nguồn vốn tự có gấp 7.5 lần (đầu tư vào lĩnh vực dầu khí năng lượng), 3.6 lần ( trong lĩnh vực dịch vụ du lịch)…..Trong các lĩnh đầu tư thì lĩnh vực dầu khí năng lượng là chiếm tỉ trọng đầu tư nhiều nhất do đây là thế mạnh của công ty.Với thế mạnh là công ty thành viên của Petro Việt Nam nên PVFC có nhiều lợi thế trong việc đầu tư vào lĩnh vực dầu khí năng lượng, vì thế nên nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này chiếm đa số ( tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực này là 1015.947 tỉ đồng, chiếm một nửa so với tổng vốn đầu tư của công ty)
Hơn nữa trong bảng trên ta có thể thấy rõ cơ cấu các nguồn Uỷ thác đầu tư, chiếm tỉ trọng lớn nhất vẫn là vốn Uỷ thác từ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam . Xu hướng vốn Uỷ thác từ tập đoàn đã giảm dần xuống, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc giảm đi sự phụ thuộc vào vốn đầu tư từ tập đoàn vì vốn điều lệ của công ty luôn có chiến lược tăng dần trong các năm điều đó đồng nghĩa với việc 40% vốn điều lệ dành cho đầu tư cũng tăng lên. Cụ thể năm 2005, tỉ trọng vốn đầu tư từ vốn điều lệ chiếm gần 8% thì năm 2006 đã là 16.62% và tiếp tục tăng trong năm 2007 là 27.27%. Có thể thấy sự biến động về nguồn vốn Uỷ thác đầu tư của PVFC đều nằm trong tầm kiểm soát của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam .
Doanh thu hoạt động đầu tư từ vốn Uỷ thác đem lại cũng tăng lên tỉ lệ thuận với sự tăng lên về quy mô vốn thu hút được từ hoạt động Uỷ thác đầu tư. Chiều hướng tăng lên này cho thấy dịch vụ chiến lược mà PVFC đã chọn là hoàn toàn có cơ sở và hoạt động đầu tư từ vốn Uỷ thác là đầu tư có hiệu quả.
Doanh thu năm 2005 thu về từ hoạt động Uỷ thác đầu tư mới chỉ hơn 2000 tỉ thì năm 2006, con số này đã tăng lên hơn 2 lần, và đến năm 2007 thì tăng gấp 4 lần so với năm 2005. Đây là sự tăng lên khá ấn tượng với một dịch vụ còn mới mẻ ở Việt Nam .
Biểu đồ 2:DOANH THU TỪ HOẠT ĐỘNG NHẬN UTĐT TẠI PVFC
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: công ty Tài chính Dầu khí)
Doanh thu mà PVFC thu được từ hoạt động Uỷ thác đầu tư bao gồm phí Uỷ thác đầu tư và phần lãi trả chậm.
Năm 2008 là một năm đầy khó khăn cho hoạt động đầu tư tài chính của PVFC cũng như của khách hàng Uỷ thác đầu tư.Thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế sụt giảm đã khiến nhiều sản phẩm Uỷ thác đầu tư có trả chậm của PVFC phải đối mặt với nguy cơ khách hàng từ bỏ Hợp động Uỷ thác đầu tư, PVFC không có khả năng thu hồi vốn và phí Ủy thác đầu tư trả chậm. Do vậy, bên cạnh nhiệm vụ định hướng thu hẹp sản phẩm Ủy thác đầu tư cá nhân, đẩy mạnh hoạt động sản phẩm nhận Ủy thác đầu tư với tổ chức thì một nhiệm vụ quan trọng khác mà Phòng phải thực hiện đó là xây dựng các phương án xử lý đối với các Hợp đồng Uỷ thác đầu tư để nâng cao khả năng thu hồi vốn và phí Uỷ thác đầu tư trả chậm cho PVFC. Với những nỗ lực của nhóm Hợp đồng Uỷ thác đầu tư, năm 2008 Phòng Uỷ thác đầu tư cũng đã đạt được nhiều kết quả khả quan như sau:
- Xử lý các sản phẩm Ủy thác đầu tư nhằm thu hồi hoặc tăng khả năng thu hồi vốn và phí Ủy thác đầu tư trả chậm thông qua hàng loạt các nghiệp vụ: thanh lý, Uỷ quyền bán, gia hạn thời hạn trả phí trả chậm, chuyển quyền đầu tư trực tiếp, thực hiện quyền mua cổ phần phát hành tăng vốn, gia hạn thời hạn Ủy thác đầu
- Thu hẹp sản phẩm nhận Uỷ thác đầu tư cá nhân, phát triển sản phẩm nhận Ủy thác đầu tư với tổ chức.
Số liệu cụ thể như sau:
BẢNG 6: TÌNH HÌNH NHẬN UTĐT TẠI PVFC 2007- 2008
Đơn vị: tỷ đồng
TT
HĐ
Số dư đến 31/12/2007
Số dư đến 31/11/2008
Giá trị vốn UTĐT giảm
Vốn UTĐT trả chậm thu hồi
Giá trị UTĐT
Giá trị trả chậm
Giá trị UTĐT
Giá trị trả chậm
I
Nhận UTĐT cá nhân
2.247,9
1.164,2
1.527,5
862,9
720,4
301,3
II
Nhận UTĐT tổ chức
262,4
99,9
489
329,7
2.510,3
1.264,1
2.026,4
1.192,7
(Nguồn: công ty Tài chính Dầu khí)
5.2.Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những thành công đã đạt được, PVFC cũng còn tồn tại nhiều hạn chế như:
-Hạn chế trong danh mục đầu tư và đối tượng khách hàng.
Các hoạt động đầu tư mới chỉ tập trung vào các lĩnh vực trong ngành dầu khí và khác hàng cũng chỉ là cán bộ công nhân viên trong ngành.Có thể nói dầu khí là một trong nhưng ngành quan trọng của nền kinh tế nên các lĩnh vực để đầu tư xung quanh ngành này tương đối nhiều, đồng nghĩa với việc danh mục cho hoạt động đầu tư cũng khá phong phú.Tuy nhiên, đây không phải là hướng đi lâu dài vì như vậy việc đầu tư phụ thuộc nhiều vào sự biến động xung quanh.Nếu đa dạng hoá trong danh mục đầu tư có thể hạn chế được rủi ro và tăng lợi nhuận cho công ty.
- Lĩnh vực nhận uỷ thác đầu tư còn hạn chế
Trong phần thực trạng hoạt động nhận uỷ thác đầu tư tại PVFC ta đã thấy rằng, PVFC chủ yếu nhận vốn uỷ thác trong lĩnh vực năng lượng, dầu khí, là lĩnh vực trong ngành với công ty mẹ là Tổng công ty dầu khí Việt Nam.Chính vì thế, lĩnh vực nhận uỷ thác đầu tư của PVFC còn hạn chế, chưa mở rộng thị trường.
- Sản phẩm nhận uỷ thác đầu tư của PVFC chưa được triển khai hết và đầy đủ.
PVFC hiện tại mới tung ra 6 sản phẩm nhận uỷ thác đầu tư với ba hình thức: nhận UTĐT trước đấu giá (IPO), nhận UTĐT sau khi PVFC sở hữu khoản đầu tư, nhận UTĐT kinh doanh theo danh mục.Tuy nhiên, mới chỉ có sản phẩm nhận UTĐT trước đấu giá là được khách hàng đánh giá cao. Đây là một thuận lợi cho PVFC nhưng đồng thời cũng cho thấy yếu điểm trong việc hoàn thiện các sản phẩm nhận uỷ thác của PVFC và công ty cần chú trọng hơn nữa trong việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để có thể hoàn thiện các sản phẩm của mình.
- Việc đầu tư cho việc quảng bá các hoạt động đầu tư của công ty tuy đã có bước phát triển song vẫn chưa theo kịp được so với sự phát triển của nhu cầu thị trường.Chính điều này làm cho hoạt động đầu tư chưa có tính năng động.
Mặc dù nền kinh tế tăng trưởng cao trong năm 2007 nhưng lạm phát cũng ở mức rất cao (trên 12%) đã làm giảm đáng kể niềm tin của các nhà đầu tư và người dân. Cùng với việc giá nhiên liệu liên tục tăng cao đã làm tăng thêm áp lực lạm phát lên nền kinh tế. Kết quả là sản xuất và chi tiêu trong nước có nguy cơ giảm và tín dụng cũng giảm theo.
Bên cạnh đó, lãi suất VNĐ và USD hiện cũng không ổn định khiến các ngân hàng nói chung và PVFC nói riêng sẽ phải có các chính sách thay đổi linh hoạt để đảm bảo huy động được nguồn vốn cần thiết trong khi vẫn phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng khốc liệt đòi hỏi mọi tổ chức phải có các chính sách phù hợp, linh hoạt về sản phẩm, lãi suất cũng như phải không ngừng đổi mới từ hoạt động kinh doanh đến quản lý điều hành.
Nguyên nhân khách quan
Do những quy định về phân cấp đầu tư của Tập đoàn dầu khí Việt Nam , PVFC bị hạn chế về quy mô và ngành nghề đầu tư, việc đầu tư vào các ngành khác chỉ được tham gia các dự án vừa và nhỏ, khả năng mở rộng đầu tư ra các ngành khác vô cùng hạn chế. Vì thế chưa thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và số lượng khách hàng trong các lĩnh vực khác.
Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách của nhà nước đối với các tổ chức tài chính và một doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập như PVFC còn chưa rõ ràng và chống chéo. Đây là rào cản lớn đối với việc mở rộng các dịch vụ Uỷ thác đầu tư, gây khó khăn cho hoạt động đầu tư ở từng lĩnh vực cũng như sự thiếu rõ ràng trong quy chế tổ chức, hoạt động của PVFC. Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong chính các điều khoản quy định trong luật mà còn xuất hiện khi tuỳ từng khía cạnh áp dụng điều luật nào đối với. Ví dụ như đầu tư và thị trường chứng khoán sẽ phải tuân theo Luật chứng khoán, tuy nhiên là một doanh nghiệp nhà nước, PVFC còn phải áp dụng cả Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư,... điều này làm cho hoạt động đầu tư vào chứng khoán gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý, gây tâm lý lo lắng cho các nhà Uỷ thác. Tuy đã xuất hiện hoạt động Uỷ thác này được 5 năm, tuy nhiên vẫn chưa có một văn bản cụ thể nào hướng dẫn hoặc quy định các cụ thể vấn đề này. Độ trễ của pháp luật so với sự phát triển của hoạt động Uỷ thác đầu tư khiến PVFC gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý, hạn chế và làm chậm sự phát triển của dịch vụ này khi vừa phải đi vừa phải lựa chọn đường.
Nguyên nhân chủ quan
Những hạn chế về nhân sự, sự bó hẹp về lĩnh vực đầu tư hay hoạt động marketing xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan khác nhau nhưng nguyên nhân chính số lượng cán bộ triển khai nghiệp vụ Uỷ thác đầu tư ít, chất lượng cán bộ thì chưa đáp ứng được hoàn toàn yêu cầu công việc do số cán bộ đã được tập huấn hay điều chuyển công tác khác hoặc một cán bộ được giao kiêm nhiệm nhiều nghiệp vụ,... do vậy không có điều kiện nâng cao kĩ năng chuyên môn nghiệp vụ của mình. Điều này khiến cho số lượng nhân viên liên quan đến hoạt động này luôn trong tình trạng khá khiêm tốn. Nhân tố này ảnh hưởng cũng hạn chế khả năng mở rộng hoạt động Uỷ thác đầu tư theo chiều rộng, nói cách khác, việc kéo dài danh mục đầu tư và danh sách khách hàng trong các lĩnh vực khác không phải dầu khí là chưa thể thực hiện. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho việc quảng bá rộng. Việc hạn chế về nhân sự triển khai hoạt động marketing cũng như do hiện tại, hoạt động Uỷ thác mới tiến hành nội bộ trong ngành dầu khí nên hoạt động marketing chưa được mở rộng và chưa thực sự được sự quan tâm trong thời gian vừa qua.
Bên cạnh đó, phần mềm Uỷ thác chưa được hoàn thiện chủ yếu vì xây dựng theo phương thức vừa làm vừa sửa nên còn phức tạp với cán bộ Uỷ thác cũng như mục đích quản lý hoạt động Uỷ thác đầu tư, chưa thực sự là công cụ có thể làm giảm gánh nặng một số nghiệp vụ trong quy trình Uỷ thác đầu tư. Một lý do khác khiến hệ thống phần mềm này chưa hoàn tất vì khối lượng công việc nhiều, cán bộ xây dựng phần mềm của trung tâm thông tin và công nghệ lại thiếu và phải đảm trách việc xây dựng phần mềm của nhiều nhiệm vụ khác nên các yêu cầu đối với phần mềm Uỷ thác đầu tư tới nay vẫn chưa thoả mãn được yêu cầu.
Cuối cùng, quy trình Uỷ thác đầu tư tuy được sửa đổi bổ sung, cụ thể hoá các bước tiến hành trong hoạt động nhận Uỷ thác tuy nhiên các bước này liên quan tới nhiều bộ phận khác nhau và quy trình thực hiện hoạt động Uỷ thác đầu tư thường kéo dài, nên không tránh khỏi chậm trễ khi tiến hành một hoạt động Uỷ thác nói riêng và cả quá trình nhận Uỷ thác nói chung. Điều này xảy ra khi ngừng trệ ở 1 bộ phận hay thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận có liên quan tới quá trình Uỷ thác sẽ là nguyên nhân của việc chậm trễ này.
Chương II: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhận uỷ thác đầu tư tại công ty Tài chính dầu khí
I. Định hướng phát triển hoạt động nhận UTĐT đến năm 2010 tại Việt Nam của PVFC
PVFC là người tiên phong tung ra dịch vụ nhận UTĐT và dịch vụ nhận UTĐT trước đấu giá dành cho các tổ chức và cá nhân trên thị trường Tài chính Việt Nam . Tuy nhiên sức ép cạnh tranh đã xuất hiện trong lĩnh vực nhận UTĐT cá nhân trước đấu giá khi một số Công ty chứng khoán trong nước đã cung cấp sản phẩm này cho một số cơ hội đầu tư trong thời gian gần đây như PTSC, Xi măng Bút Sơn và Vinaconex, PV In, PV Trans…
Đặc thù là các Công ty Chứng khoán do vậy, mục đích kinh doanh của các tổ chức tài chính này cũng khác PVFC, họ tung ra các sản phẩm nhận UTĐT trước đấu giá dành cho khách hàng cá nhân với mức phí dịch vụ và các điều kiện về thời hạn uỷ thác, chuyển nhượng, chuyển quyền đầu tư trực tiếp … rất cạnh tranh nhằm tập trung thu hút nhóm khách hàng cá nhân.
Trong khi đó, PVFC với quan điểm nhận UTĐT nhằm mở rộng hạn mức đầu tư, tăng vị thế của PVFC tại các đơn vị cổ phần hơn là mục tiêu lợi nhuận thì PVFC sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các tổ chức tài chính này ở mảng thị trường dịch vụ nhận UTĐT trước đấu giá - cá nhân. Như vậy, trong thời gian tới PVFC cần xác định rõ mảng thị trường mục tiêu và loại hình nhận UTĐT trọng điểm để giải quyết vấn đề sức ép cạnh tranh đồng thời phát huy thế mạnh của PVFC trong mảng dịch vụ nhận UTĐT.
Hơn nữa sau khi Việt Nam gia nhập WTO, việc tham gia của các tổ chức tài chính tín dụng, các Quỹ đầu tư liên doanh và 100% vốn nước ngoài vào thị trường Việt Nam đã tạo ra một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường tài chính, tín dụng Việt Nam nói chung và đối với PVFC nói riêng. Các tổ chức này có tiềm lực tài chính mạnh, có công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và một hệ thống các loại hình dịch vụ đầu tư tài chính đa dạng… Đây chính là một thách thức rất lớn đối với PVFC trong giai đoạn tới, nó đòi hỏi PVFC phải sớm nâng cao chất lượng dịch vụ, xây dựng tính chuyên nghiệp trong hoạt động, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong toàn công ty, không ngừng cải tiến dịch vụ, học hỏi các sản phẩm, dịch vụ của quốc tế và đưa ra các sản phẩm mới trong lĩnh vực tài chính nói chung và lĩnh vực đầu tư tài chính nói riêng.
Xu hướng phát triển của hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư tại PVFC chú trọng vào những mục tiêu sau:
1. Nâng cao chất lượng dịch vụ nhận UTĐT trên toàn hệ thống:
Đây là một đòi hỏi cấp thiết cần được sớm triển khai, thường xuyên duy trì và phát triển, theo đó PVFC cần giải quyết được các vấn đề sau:
- Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ cho dịch vụ nhận UTĐT.
- Ban hành và cập nhật thường xuyên hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động nhận UTĐT của toàn bộ hệ thống PVFC như Quy chế, quy trình, hướng dẫn quy trình, các biểu mẫu kèm theo và thống nhất áp dụng trong toàn hệ thống.
- Bổ sung nhân sự, đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ nghiệp vụ.
- Phát huy những sáng kiến, cải tíến nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, và đưa ra những sản phẩm đầu tư tài chính mới.
2. Chiến lược về thị trường mục tiêu và sản phẩm:
Nhằm tránh sức ép về cạnh tranh với các tổ chức tài chính trong nước trong lĩnh vực nhận UTĐT cá nhân, đồng thời để đón đầu và khai thông mảng thị trường mới rất tiềm năng và phát huy những thế mạnh của PVFC, Phòng xác định:
Vị trí sản phẩm
Khách hàng
Thị trường mục tiêu
Sản phẩm
I/ Sản phẩm chiến lược
Tổ chức
Trong nước
+ DN có vốn nhàn rỗi và hoạt động đầu tư tài chính chưa phát triển.
+ Tổ chức TCHN
+ Nhận UTĐT lãi sất cố định, thưởng kết quả kinh doanh.
+ Nhận UTĐT có chỉ định theo danh mục/sản phẩm.
+ Nhận UTĐT có chỉ định vào các dự án của PVFC.
+ Các sản phẩm tài chính phái sinh.
Quốc tế
+ Tổ chức Tài chính, ngân hàng, Quỹ đầu tư ..
Cá nhân
Trong nước
Nhận UTĐT các khách hàng do đối tác chỉ định theo các Hợp đồng cung cấp dịch vụ :
+ Với các đơn vị trong ngành Dầu khí.
+ Với các đối tác chiến lược của PVFC.
+ Nhận UTĐT theo giỏ sản phẩm, lãi suất cố định, chia thưởng kết quả kinh doanh.
+ Các sản phẩm tài chính phái sinh
Quốc tế
+ Mọi cá nhân có nhu cầu.
II/ Sản phẩm cơ bản
Tổ chức
Trong nước
+ Tổ chức TCHN
+ Các tổ chức
+ Nhận UTĐT chỉ định lĩnh vực, lãi suất cố định+ Nhận UTĐT có chỉ trước đấu giá.
+ Nhận UTĐT có chỉ định vào các dự án của PVFC
Quốc tế
+ Tổ chức Tài chính, ngân hàng, Quỹ đầu tư ..
Cá nhân
Trong nước
+ CBCNV trong ngành.
+ CBCNV của đối tác chiến lược của PVFC
+ Cá nhân khác
+ Nhận UTĐT có chỉ định trước đấu giá.
+ Nhận UTĐT có chỉ định vào các dự án/cổ phần thuộc sở hữu của PVFC hoặc của đơn vị chủ quản.
Quốc tế
+ Mọi cá nhân có nhu cầu.
+ Nhận UTĐT có chỉ định trước đấu giá.
+ Nhận UTĐT có chỉ định vào các dự án/cổ phần thuộc sở hữu của PVFC.
Trong đó:
- Mức độ ưu tiên được sắp xếp theo thứ tự giảm dần.
- Sản phẩm chiến lược sẽ giúp PVFC có những bước đột phá trong hoạt động nhận UTĐT. Trong giai đoạn chuẩn bị và thử nghiệm để đưa ra sản phẩm chiến lược, vấn đề lợi nhuận, doanh thu không được coi trọng bằng vấn đề thiết lập quan hệ, niềm tin với các đối tác và thử nghiệm các sản phẩm mới.
- Sản phẩm cơ bản là những sản phẩm đem lại nguồn thu ổn định cho hoạt động nhận UTĐT nhưng sẽ dần bị thay thế bởi các sản phẩm chiến lược khi các sản phẩm chiến lược bước vào giai đoạn phát triển.
II.Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động nhận UTĐT tại PVFC
1.Giải pháp mang tính nghiệp vụ
1.1.Giải pháp về nguồn vốn
Thực tế cho thấy rằng vốn được huy động cho hoạt động đầu tư dự án của Công ty tài chính Dầu khí hiện nay chủ yếu là từ hai nguồn: vốn tự có và vốn uỷ thác đầu tư. Thế nhưng, với việc sử dụng vốn tự có vào hoạt động đầu tư, Công ty tài chính Dầu khí sẽ vướng phải hạn mức về đầu tư do Ngân hàng Nhà nước quy định cho các Công ty tài chính. Còn với nguồn vốn uỷ thác, Công ty tài chính Dầu khí có thể huy động bao nhiêu tuỳ theo khả năng của công ty mà không vướng phải hạn mức nào cả. Do vậy, hoạt động đầu tư tài chính vào dự án của công ty hiện nay phần lớn dựa vào nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của Tổng công ty, của các Đơn vị thành viên trong Tổng công ty, của các tổ chức và cá nhân khác.
1.2.Đầu tư hoàn thiện các loại hình sản phẩm nhận UTĐT
Hiện tại PVFC đang có 6 sản phẩm nhận uỷ thác đầu tư nhưng chưa triển khai áp dụng hết tất cả các sản phẩm.Sản phẩm và dịch vụ nhận uỷ thác đầu tư của PVFC vẫn tập trung vào các dịch vụ đã có từ trước và chưa đưa ra dịch vụ nào mới trong 3 năm qua (2005-2007). Các sản phẩm này vẫn là những sản phẩm chiến lược và hấp dẫn một số lượng khách hàng rất lớn vì vậy, trong thời gian tới, PVFC vẫn chưa cần chú trọng tới việc tăng thêm số lượng sản phẩm và dịch vụ Uỷ thác đầu tư mới
Có thể thấy, hầu hết các dịch vụ này PVFC đều mới áp dụng riêng lẻ theo lựa chọn ban đầu của khách hàng. Vì thế với những sản phẩm mà PVFC chưa triển khai thì cần có chiến lược đúng đắn trong việc phát triển các sản phẩm này. Đối với sản phẩm nhận UTĐT chỉ định lĩnh vực, lãi suất cố định, PVFC chủ yếu dành để triển khai với khách hàng mục tiêu là các cá nhân và sản phẩm nhận UTĐT chỉ định, chia sẻ rủi ro áp dụng cho các tổ chức thì PVFC nên có chính sách lãi suất cạnh tranh và danh mục đầu tư mở rộng trên nhiều lĩnh vực.
Còn đối với các sản phẩm đang áp dụng tại PVFC, PVFC cần mở rộng đối tượng khách hàng cũng như tăng tính hấp dẫn đối, hoàn thiện với từng loại hình dịch vụ bằng cách tạo tình thanh khoản cao hơn cho hợp đồng Uỷ thác, tăng tính chuyên nghiệp của chuyên viên Uỷ thác khi nhận Uỷ thác để tạo sự tin tưởng từ phía khách hàng, tư vấn thường xuyên cụ thể cho khách hàng trong quá trình nhận Uỷ thác đầu tư
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho khách hàng dễ dàng chuyển nhượng và cầm cố Hợp đồng Uỷ thác đầu tư, Công ty tài chính Dầu khí nên triển khai việc cấp cho khách hàng Sổ chứng nhận Uỷ thác đầu tư kèm theo Hợp đồng đã ký. Giấy chứng nhận này sẽ có tác dụng như một bản tóm tắt cơ hội Uỷ thác đầu tư của khách hàng, giúp cho khách hàng có căn cứ hợp pháp để cầm cố, chuyển nhượng Hợp đồng mà không cần phải tiến hành nhiều thủ tục phức tạp để chứng minh số vốn Uỷ thác đầu tư của mình
1.3.Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư có hiệu quả
Việc đinh hướng đầu tư đúng đắn của Công ty tài chính Dầu khí là hết sức quan trọng và cần thiết. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả Uỷ thác đầu tư trong các dự án. Công ty tài chính Dầu khí với rất nhiều hoạt động, nếu không có sự định hướng cụ thể sẽ dẫn đến việc thực hiện đầu tư một cách đại trà, dàn trải, kém hiệu quả. Mặt khác, với việc định hướng ngay từ đầu, kèm theo một danh mục đầu tư đã được lên danh sách từng năm thì hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư sẽ được tiến hành trọng tâm, trọng điểm hơn dẫn đến hiệu quả đầu tư cao hơn.
Có được một danh mục đầu tư rồi, cùng với việc ban hành một cơ chế đầu tư hợp lý thì Công ty tài chính Dầu khí không những đảm bảo an toàn được nguồn vốn tham gia Uỷ thác đầu tư mà còn làm cho nguồn vốn đó sinh sôi nảy nở. Muốn thực hiện điều đó, cần phải:
· Chú trọng thực hiện nhận Uỷ thác đầu tư vào những hợp đồng trong ngành. Với những kinh nghiệm tích luỹ qua các hợp đồng Uỷ thác đầu tư đã tham gia trước đây, công ty sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu, xem xét có nên đầu tư hay không và khi đã quyết định rồi thì phải làm thế nào để quản lý hoạt động đầu tư cho có hiệu quả. Điều đó góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư đồng thời tránh được những dự án xấu, nhiều rủi ro. Mặt khác, với những đối tác thuộc lĩnh vực dầu khí, Công ty tài chính Dầu khí khi tham gia thực hiện nhận Uỷ thác không những an tâm hơn về tư cách của đối tác mà còn có tác dụng duy trì và phát triển mối quan hệ đối với những khách hàng truyền thống của công ty.
· Công ty tài chính Dầu khí cũng nên mở rộng hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư vào những dự án ngoài ngành. Nó giúp cho công ty tăng khả năng cạnh tranh và có thêm thu nhập. Đồng thời với việc mở rộng khả năng hoạt động Uỷ thác của Công ty tài chính trong các lĩnh vực, Công ty tài chính Dầu khí sẽ có dịp đầu tư vào nhiều ngành, lĩnh vực. Qua đó kiến thức, kinh nghiệm mà công ty tích luỹ được là rất lớn.
1.4.Xây dựng hệ thống thông tin hoàn chỉnh
Công ty tài chính Dầu khí ,do mới đi vào hoạt động, lại là một mô hình tổ chức tín dụng không mấy phổ biến như loại hình ngân hàng thường thấy. Hơn nữa, hệ thống văn bản pháp quy cho hoạt động của loại hình công ty này vẫn còn nhiều thay đổi. Do vậy, với nhiều khách hàng, niềm tin của họ vào công ty chưa lớn lắm. Vì thế, nghiệp vụ uỷ thác đầu tư chưa hẳn được nhiều người biết đến. Do vậy, giải pháp cho vấn đề này là xây dựng một chiến lược Marketting hoàn chỉnh, có sự phối hợp, thống nhất của các cá nhân và bộ phận có liên quan. Cụ thể, trong việc xác định thị trường mục tiêu cho dịch vụ uỷ thác đầu tư, bên cạnh việc tiếp tục duy trì quan hệ với các khách hàng là CBCNV trong ngành dầu khí thì Công ty tài chính Dầu khí nên xây dựng phương án tiếp cận các khách hàng là tổ chức. Bởi các khách hàng này thường sẵn sàng ký kết các Hợp đồng Uỷ thác đầu tư với quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án của Công ty tài chính Dầu khí. Mặt khác, khi tập trung vào đối tượng khách hàng này, Công ty tài chính Dầu khí sẽ giảm được thời gian và chi phí quản lý Hợp đồng thay vì quản lý một số lượng đáng kể các Hợp đồng Uỷ thác đầu tư cá nhân với lượng vốn uỷ thác nhỏ. Trong đó, đối tượng khách hàng tiềm năng cho loại hình này là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, các doanh nghiệp bảo hiểm và các Tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
1.5.Nâng cao trình độ của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực UTĐT
Hạn chế lớn nhất mà PVFC gặp phải chính là sự thiếu đội ngũ nhân viên có tính chuyên môn cao và kinh nghiệm trong hoạt động Uỷ thác đầu tư. Đây là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế khác của PVFC. Chính vì vậy, trong quá trình làm việc, cán bộ công nhân viên vừa tự tích luỹ kinh nghiệm và cần tổ chức các buổi họp nhóm trao đổi chuyên môn giữa các nhân viên.
Về phía PVFC, cần có những cơ chế, chính sách cũng như ngân sách cho việc đào tạo chuyên môn và khuyến khích cán bộ công nhân viên làm việc lâu dài tại PVFC. Trước hết, cơ chế phối hợp hoạt động cần xuyên suốt quy trình Uỷ thác đầu tư, vì quy trình thực hiện một nghiệp vụ Uỷ thác đầu tư không chỉ liên quan tới Phòng Vốn Uỷ thác đầu tư mà còn các phòng, ban khác trong Ban đầu tư và trong công ty như Phòng kế toán, Phòng thông tin tổng hợp,... Cơ chế này sẽ thúc đẩy tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống. Tiếp theo , chính sách nhân sự của PVFC như về lương bổng, thăng tiến, cơ hội học tập ... nên hoàn thiện và bổ sung thêm để phù hợp với từng giai đoạn khác nhau điều này sẽ tạo động lực cho cán bộ công nhân không chỉ hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà còn tích cực đóng góp sáng kiến trong việc phát triển nghiệp vụ nói chung và công việc của mình nói riêng. Cuối cùng, ngoài ngân sách PVFC dành cho việc đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên, ngân sách này có thể trích ra một khoản nhất định dùng cho việc khuyến khích nhân viên sáng tạo, học hỏi cũng như sự chia sẻ kinh nghiệm với nhau.
Ngoài ra, từ phía Tập đoàn Dầu khí có thể xem xét hỗ trợ công ty tài chính trong vấn đề này bằng nhiều cách khác nhau như điều chuyển một số cán bộ có kinh nghiệm hoạt động trong các lĩnh vực mà Công ty tài chính đang cần sang công ty hoạt động một thời gian. Điều này sẽ giải quyết phần nào vấn đề thiết hụt nhân viên của PVFC trong một số thời điểm nhất định, hoặc liên hệ tổ chức các khoá đào tạo mà Tổng công ty có sẵn, cung cấp hay hỗ trợ một phần chi phí cho những khoá đào tạo do công ty tài chính tự liên hệ tổ chức.
2.Giải pháp mang tính quản trị
2.1.Hoàn thiện bộ máy tổ chức và cơ cấu bộ máy điều hành công ty
Hoàn thiện các Quy chế thực hiện hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư
Quy chế nhận UTĐT đã được sửa đổi bổ sung năm 2006, tuy nhiên sau một thời gian đã xuất hiện những vấn đề chưa hợp lý nhất là khi PVFC mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch đến nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Đối với nguyên tắc xác định sản phẩm đầu tư chiến lược mà PVFC muốn nắm giữ hay chủ trương của PVFC trong hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư đối với các sản phẩm đầu tư này hiện tại vẫn mang tính chung chung và chưa có một quy chế cụ thể cho từng vấn đề. Việc xác định sản phẩm đầu tư chiến lược mới mang tính chủ quan, vì thế nếu PVFC có thể đưa ra một văn bản hướng dẫn chi tiết, thì việc xác định này sẽ mang tính khách quan, điều này sẽ mang lại tính chính xác hiệu quả cao hơn.
Đối với quy chế về phối hợp cung cấp dịch vụ nhận uỷ thác đầu tư giữa đơn vị chủ trì (Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư hoặc Phòng dịch vụ tài chính và đầu tư cá nhân tại các Chi nhánh) với các bộ phận triển khai dịch vụ nhận UTĐT tại các Phòng giao dịch trên toàn hệ thống PVFC nên chặt chẽ và thống nhất hơn. Bên cạnh những quy chế chung cần có các quy định và văn bản hướng dẫn cho từng đơn vị, trong đó đưa ra những nhiệm vụ và công việc mà đơn vị đó phải thực hiện trong quy trình thực hiện đó. Vì đây là quy chế mang tính bắt buộc cao nên PVFC nên thường xuyên chú ý điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kì.
Đối với nguyên tắc phân chia kết quả kinh doanh giữa bộ phận chủ trì Uỷ thác đầu tư với các phòng có bộ phận triển khai dịch vụ Uỷ thác đầu tư cũng như quy định chung về mức phí chuyển nhượng cần phải rõ ràng hơn vì đây là vấn đề nhạy cảm liên quan đến tài chính. Việc chưa quy định rõ ràng sẽ gây sự thiếu công bằng giữa các phòng trong Ban cũng như giảm sự tin tưởng của khách hàng đối với công ty. PVFC có thể dựa vào những số liệu thực tế để thực hiện cũng như để xem mức độ hài lòng của từng đối tượng ra sao hoặc tìm hiểu thông qua kinh nghiệm hoạt động Uỷ thác đầu tư tại các nước phát triển hoặc đối thủ trong nước để điều chỉnh quy định cho hợp lý hơn. Điều này mang tính tương đối và tính bất định, do vậy PVFC nên thường xuyên phải cập nhật và thay đổi.
2.2.Hoàn thiện các quy chế thực hiện hoạt động nhận UTĐT
Để dịch vụ Uỷ thác đầu tư của công ty tài chính Dầu khí có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, công ty nên đầu tư vào mạnh vào công tác nghiên cứu và phát triển dịch vụ này sao cho các điều khoản trong Hợp đồng Uỷ thác đầu tư phải thực sự xuất phát từ nhu cầu thị trường và phải phù hợp với: khả năng tài chính của khách hàng mục tiêu, khả năng tiếp nhận và quản lý vốn của công ty, đặc điểm phân cấp đầu tư của Tập đoàn dầu khí.Vì vậy để tạo điều kiện cho khách hàng dễ dàng chuyển nhượng và cầm cố Hợp đồng Uỷ thác đầu tư, Công ty tài chính Dầu khí nên triển khai việc cấp cho khách hàng Sổ chứng nhận Uỷ thác đầu tư kèm theo Hợp đồng đã ký. Giấy chứng nhận này sẽ có tác dụng như một bản tóm tắt cơ hội Uỷ thác đầu tư của khách hàng, giúp cho khách hàng có căn cứ hợp pháp để cầm cố, chuyển nhượng Hợp đồng mà không cần phải tiến hành nhiều thủ tục phức tạp để chứng minh số vốn Uỷ thác đầu tư của mình.Thực ra, Hợp đồng Uỷ thác đầu tư dạng sổ đã được Phòng Quản lý vốn Uỷ thác đầu tư nghiên cứu đưa ra áp dụng từ giữa năm 2006 thay thế việc in ấn Hợp động từ phần mềm Uỷ thác. Đây là một bước tiến đáng kể trong dịch vụ nhận UTĐT của PVFC bởi nó hướng tới phương thức quản lý và thực hiện các giao dịch chuyển nhượng Hợp đồng Uỷ thác đầu tư như đối với sổ cổ đông. Cải tiến này đã góp phần tạo ra tính chuyên nghiệp của PVFC trong dịch vụ Uỷ thác, tạo ra hình ảnh tốt trong con mắt khách hàng, tạo thuận lợi cho quá trình tác nghiệp và quản lý các Hợp đồng Uỷ thác đầu tư tại PVFC đồng thời hạn chế tối đa sự phụ thuộc vào phần mềm Uỷ thác đặc biệt trong điều kiện hệ thống phần mềm UTĐT của PVFC chưa được hoàn thiện như hiện nay.
2.3.Tận dụng tối đa lợi thế ngành
Xu thế chung của sự phát triển hiện nay là ngành dịch vụ đang ngày càng chiếm tỉ trọng lớn và là nguồn mang lại lợi nhuận lớn cho nền kinh tế, nhất là dịch vụ tài chính.Ngành dịch vụ tài chính hiện nay đang có những bước phát triển nhanh chóng với đa dạng các sản phẩm, mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế.Chính vì thế mà đây là một trong những ngành được các chính phủ quan tâm.Hơn nữa, thị trường tài chính luôn có những biến động bất ngờ và bất cứ một biến động nào cũng có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Điều này buộc các chính phủ phải luôn luôn quan tâm chú ý và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển bằng những chính sách hỗ trợ ưu đãi và linh hoạt.Vì thế nên các công ty tài chính cũng cần tận dụng những cơ hội được tạo ra để nhằm phát triển cho riêng bản thân mình.
Ngoài ra, bất cứ một công ty con nào nếu có được sự quan tâm,chỉ đạo và tạo điều kiện của toàn bộ Tổng công ty mẹ sẽ có được nhiều yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công trong mọi hoạt động của mình. PVFC cũng như thế. Tổng công ty tài chính Dầu khí là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng mạnh chỉ khi với tư cách là một định chế tài chính thực sự của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam . Điều đó chỉ thực hiện được khi có sự quan tâm,tạo điều kiện hỗ trợ và thực sự được toàn Tổng công ty quan tâm ,tạo dựng. Mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, toàn diện vì lợi ích của nhau với các các đơn vị thành viên trong Tập đoàn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho PVFC vươn cao và bay xa không chỉ trên con đường hội nhập mà đó cũng là yếu giúp PVFC vượt qua mọi thử thách ban đầu trong chặng đường vừa qua.
2.4.Tăng cường sự phối hợp giữa các công ty tài chính khác nhằm nâng cao sức cạnh tranh cũng như tăng khả năng và uy tín trên thị trường
Nền kinh tế không phải là một thực thể tĩnh mà luôn luôn thay đổi không ngừng từng ngày từng giờ.Thị trường tài chính cũng như bao thị trường khác trong nền kinh tế luôn có nhưng biến động bất ngờ và rất khó đoán biết chính xác.Các thành phần trong nền kinh tế luôn chịu ảnh hưởng tác động từ nền kinh tế và có ảnh hưởng lẫn nhau.Chính vì thế khi thị trường có bất cứ biến động gì đều gây ra ảnh hưởng đến từng thành phần trong nền kinh tế chứ không chỉ riêng bất cứ một công ty nào. Điều này buộc các công ty hoạt động trong cùng lĩnh vực phải có sự liên kết hợp tác với nhau, hỗ trợ nhau trong việc chia sẻ thông tin và giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn vì một thành phần nào đó yếu kém có thể dẫn đến sự suy giảm của cả thị trường.Hơn nữa, trong thời buổi thông tin bùng nổ như hiện nay, bất cứ hoạt động nào cũng cần rất nhiều thông tin.Nếu không có sự tham gia chia sẻ giữa các công ty trong cùng ngành thì sẽ rất khó khăn trong hoạt động, công ty có thể bị cô lập và dĩ nhiên là hoạt động sẽ giảm hiệu quả.
Thực tế cho thấy rằng,Tổng công ty tài chính Dầu khí sau hơn 2 năm đi vào hoạt động mặc dù đã đạt được những thành tựu ban đầu đáng kể nhưng cũng đã gặp phải không ít những khó khăn. Kể từ trước khi Nghị định số 79/NĐ-CP của chính phủ ra đầu năm 2002 quy định về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty tài chính Dầu khí thì từ khi ra đời năm 2000,PVFC chỉ hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật Tổ chức tín dụng và Luật Doanh nghiệp nhà nước.Trong hoạt động và bước đi của mình đều phải dò dẫm và các sản phẩm của PVFC đi vào hoạt động còn mang tính thử nghiệm. Đến nay, đã bước vào ổn định thì vấn đề khó khăn gặp phải không ít đó là những hạn chế và yếu kém trong hoạt động kinh doanh như hoạt động về huy động vốn,nhận uỷ thác đầu tư,cho vay,phát triển các dịch vụ với quy mô còn quá nhỏ bé.Do vậy,PVFC nói riêng cũng như các công ty tài chính nói chung cần tăng cường quan hệ,xây dựng một cơ chế phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau về vốn,về các hoạt động uỷ thác, đầu tư, đồng tài trợ…để tăng sức mạnh tài chính, tănghiệu quả sử dụng vốn và tăng khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong hệ thống tài chính cũng làm tăng khả năng của mỗi doanh nghiệp vì thị trường vốn luôn rất khốc liệt và sẵn sàng loại bỏ những kẻ yếu. Điều này tạo ra sức ép buộc các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì phải có sự đổi mới phát triển không ngừng để không bị tụt hậu.Tăng sự gắn kết giữa các công ty tài chính trong toàn hệ thống chính là để tăng sức mạnh cạnh tranh của từng cá nhân trong hệ thống và cũng chính là tăng sức cạnh tranh của toàn hệ thống trong bối cảnh hội nhập như hiện nay.
Kết luận
Trong 8 năm hoạt động, PVFC không ngừng lớn mạnh và trở thành một trong những công ty tài chính lớn và có uy tín nhất Việt Nam . Là công ty tài chính đầu tiên đưa hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư vào thử nghiệm, sau 4 năm nghiệp vụ này không chỉ đạt được những thành tựu đáng kể và trở thành một hoạt động chiến lược của PVFC mà còn trở thành một dịch vụ cơ bản tại các công ty hoạt động trong thị trường tài chính Việt Nam.
Trong khuôn khổ bản chuyên đề này, tác giả đã đi sâu vào phân tích một số vấn đề:
- Khái quát hoạt động của Tổng công ty tài chính Dầu khí trong vai trò một định chế tài chính của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, từ đó làm rõ những vấn đề về hoạt động đầu tư tài chính nói chung của Tổng công ty.Nêu bật thực trạng hoạt động nhận uỷ thác đầu tư tại PVFC cũng như những kết quả mà Tổng công ty tài chính Dầu khí đạt được,những hạn chế tồn tại và nguyên nhân của các hạn chế đó.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng đó, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị dựa trên những chiến lược của Tổng công ty tài chính Dầu khí nói riêng và chiến lược của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nói chung như một số giải pháp về nguồn vốn, giải pháp nhằm hoàn thiện các sản phẩm uỷ thác đầu tư để từ đó nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nhận uỷ thác đầu tư tại công ty
Một lần nữa,em xin chân thành cảm ơn sự định hướng và chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo TS Đinh Đào Ánh Thuỷ cùng sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo và các anh chị Phòng dự án-Ban đầu tư của Tổng công ty tài chính Dầu khí đã giúp đỡ em hoàn thành bản chuyên đề này
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trính kinh tế đầu tư- PGS.TS Từ Quang Phương,PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt –ĐHKTQD,Bộ môn Kinh tế Đầu tư,NXB Thống kê
2. Điều lệ và tổ chức hoạt động của TCT TC Dầu khí ban hành kèm theo quyết định số 4098/QĐ-HĐBT ngày 12/10/2000 của HĐQT Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
3. Quy chế tài chính của TCT TC Dầu khí ban hành kèm theo quyết định số 55/QĐ-HDQT ngày 04/01/2000 của HĐQT Tập đoàn Dầu kí Việt Nam
4. Quy chế tạm thời về hoạt động đầu tư của TCT TC Dầu khí
5. Quy trình đầu tư Dự án, đầu tư chứng từ có giá và quy trình quản lý sau đầu tư của TCT TC Dầu khí.
6. Báo cáo kết quả hoạt động đầu tư giai đoạn 2005-2008 của TCT TC Dầu khí.
7. Chiến lược phát triển của TCT TC Dầu khí trong giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2025
8. Website: www.pvfc.com.vn; www.petrovietnam.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp cho hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam.doc