LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế khu vực, hoạt động đầu tư không chỉ của các ngành, địa phương mà đặc biệt là của doanh nghiệp ngày càng được chú trọng hơn. Đầu tư phát triển đã được các doanh nghiệp coi đó là hướng phát triển lâu dài của mình, bởi đầu tư chính là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết quả, mục tiêu nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, đầu tư vào đâu, đầu tư như thế nào là một vấn đề không hề đơn giản. Mặt khác, để đầu tư được thì phải có các nguồn lực như: nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ nhưng một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp thường thiếu vốn khi tiến hành đầu tư. Để giải quyết khó khăn đó thì một trong những giải pháp thường được các doanh nghiệp chú trọng tới chính là việc vay vốn của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại tồn tại trong nền kinh tế thị trường với sứ mệnh chính là “đi vay và cho vay”, trong đó hoạt động cho vay có thể hiểu chính là một hoạt động đầu tư. Hoạt động cho vay tức là hoạt động tín dụng muốn đạt được hiệu quả cao, đảm bảo an toàn về nguồn vốn thì phụ thuộc rất nhiều vào kết quả của công tác thẩm định. Thẩm định tốt sẽ tạo tiền đề để hoạt động tín dụng diễn ra thuận lợi, sẽ giúp cho ngân hàng đưa ra những quyết định phù hợp với từng dự án, từng doanh nghiệp trong những trường hợp cụ thể. Ngược lại, thẩm định không tốt có thể dẫn tới việc đưa ra những quyết định sai lầm về tín dụng, điều này ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đây chính là lý do để em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Đô”.
Để hoàn thành chuyên đề đúng thời hạn và đảm bảo về chất lượng, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Ths Đinh Đào Ánh Thủy và các cô chú, anh chị Phòng Thẩm định và quản lý tín dụng của chi nhánh Đông Đô đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong thời gian qua.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU1
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ2
1.1. Vài nét khái quát về NHĐT&PTVN chi nhánh Đông Đô. 2
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển- chi nhánh Đông Đô 2
1.1.2. Mô hình tổ chức của Chi nhánh. 3
1.1.3. Phạm vi thẩm định. 4
1.2. Quy trình và phương pháp thẩm định dự án đầu tư4
1.2.1. Quy trình thực hiện thẩm định dự án đầu tư. 4
1.2.2. Các phương pháp thẩm định dự án đầu tư. 6
1.2.2.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu. 6
1.2.2.2. Phương pháp thẩm định theo trình tự. 6
1.2.2.3. Phương pháp phân tích độ nhạy. 7
1.2.2.4. Phương pháp dự báo. 7
1.2.2.5. Phương pháp triệt tiêu rủi ro. 7
1.3. Nội dung thẩm định. 8
1.3.1. Kiểm tra những tài liệu, hồ sơ vay vốn. 8
1.3.1.1. Đề nghị vay vốn. 8
1.3.1.2. Hồ sơ khách hàng vay vốn. 8
1.3.1.3. Hồ sơ về dự án vay vốn. 10
1.3.1.4. Hồ sơ bảo đảm tiền vay. 10
1.3.2. Thẩm định khách hàng vay vốn. 10
1.3.2.1. Thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng. 10
1.3.2.2. Thẩm định năng lực và uy tín của khách hàng. 11
1.3.2.3. Thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng. 11
1.3.3. Thẩm định dự án đầu tư. 12
1.3.3.1. Xem xét đánh giá sơ bộ theo các nội dung chính của dự án. 12
1.3.3.2. Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án12
1.3.3.3. Đánh giá khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của dự án. 14
1.3.3.4. Đánh giá, nhận xét các nội dung về phương diện kỹ thuật14
1.3.3.5. Đánh giá về phương diện tổ chức, quản lý thực hiện dự án. 15
1.3.3.6. Thẩm định tổng vốn đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn. 15
1.3.3.7. Đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án. 16
1.4. Nghiên cứu quá trình thẩm định của dự án đầu tư “Dự án trung tâm thương mại và dịch vụ Ngọc Khánh”. 19
1.4.1. Thẩm định khách hàng vay vốn. 20
1.4.1.1. Năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn. 20
1.4.1.2. Tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của khách hàng. 24
1.4.2. Thẩm định dự án đầu tư. 26
1.4.2.1. Kiểm tra hồ sơ pháp lý của dự án. 26
1.4.2.2. Giới thiệu chung về dự án đầu tư. 27
1.4.2.3. Giới thiệu chủ đầu tư. 27
1.4.2.4. Mục tiêu và sự cần thiết phải đầu tư. 28
1.4.2.5. Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra, giá bán sản phẩm28
1.4.2.6. Khả năng cung cấp nguyên vật liệu và yếu tố đầu vào của dự án. 33
1.4.2.7. Đánh giá, nhận xét các nội dung về phương diện kỹ thuật34
1.4.2.8. Về tổ chức, quản lý và thực hiện dự án. 37
1.4.2.9. Tổng mức vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư, suất đầu tư. 37
1.4.2.10. Nhận định những rủi ro. 39
1.4.2.11. Đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. 40
1.4.2.12. Hiệu quả kinh tế. 42
1.4.2.13. Hiệu quả xã hội42
1.4.2.14 Tác động môi trường. 43
1.4.2.15. Những thuận lợi và khó khăn của dự án. 43
1.4.3. Kết luận của tổ thẩm định về dự án. 44
1.4.3.1.Về doanh nghiệp vay vốn:. 44
1.4.3.2.Về dự án đầu tư. 44
1.4.4. Đánh giá công tác thẩm định dự án đầu tư “Dự án TTTM và dịch vụ Ngọc Khánh”46
1.4.4.1. Những kết quả đạt được. 46
1.4.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân. 47
1.5. Đánh giá chung về công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh trong thời gian qua48
1.5.1. Những kết quả đạt được. 48
1.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân.50
1.5.2.1. Những tồn tại50
1.5.2.2. Những nguyên nhân. 51
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ53
2.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của chi nhánh trong năm 2007. 53
2.1.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của toàn chi nhánh. 53
2.1.2. Định hướng và mục tiêu phát triển của hoạt động thẩm định. 55
2.2. Về phía Nhà nước và cơ quan hữu quan. 56
2.2.1. Xây dựng một hệ thống luật pháp ổn định lâu dài56
2.2.2. Xây dựng một hệ thống kiểm toán và kế toán hoàn chỉnh, có hiệu lực. 56
2.2.3. Xây dựng một môi trường kinh doanh đồng nhất và cạnh tranh. 58
2.3. Về phía NHĐT & PT Việt Nam chi nhánh Đông Đô. 58
2.3.1. Công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ thẩm định. 58
2.3.2. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin. 60
2.3.3. Hiện đại hóa công nghệ, trang thiết bị và phương tiện làm việc. 61
2.3.4. Thành lập quỹ hỗ trợ, tăng kinh phí cho công tác thẩm định. 62
2.3.5. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định dự án đầu tư. 63
2.3.6. Cải tiến quá trình tổ chức và điều hành công việc. 65
2.3.7. Nâng cao chất lượng quản lý rủi ro của dự án. 66
2.4. Những kiến nghị67
2.4.1. Đối với những cơ quan quản lý nhà nước. 67
2.4.1.1. Quy hoạch tổng thể nền kinh tế. 67
2.4.1.2. Củng cố và phát triển cơ quan tư vấn và hoạt động tư vấn. 68
2.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam68
2.4.2.1. Nắm bắt các thông tin kinh tế xã hội và định hướng cho các ngân hàng. 68
2.4.2.2. Hướng dẫn thống nhất về nội dung và chỉ tiêu thẩm định cho các ngân hàng thương mại69
2.4.3. Đối với NHĐT&PTVN69
2.4.4. Đối với chủ đầu tư. 70
KẾT LUẬN71
77 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2537 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
*Thứ ba: tình hình thị trường giá cả nói chung, thị trường giá cả tiền tệ nói riêng tuy đã tương đối ổn định nhưng vẫn còn không ít những bất ổn, thêm vào đó các hình thức của thị trường tài chính chưa được phát triển mạnh ở Việt Nam, tâm lý và thói quen đầu tư chưa hình thành rõ nét và thường theo phong trào, giá cả của đồng tiền, vốn vay chưa được quan tâm đúng mức.
*Thứ tư: do trình độ năng lực của các chủ đầu tư trong việc lập và quản lý dự án chưa cao, do đó các dự án lập nên thường không bám sát thực tế và có nhiều biến động khi đi vào thực tế.
*Thứ năm: công tác thẩm định tài chính dự án cần có sự trao đổi thông tin giữa các ngân hàng , giữa ngân hàng và doanh nghiệp… nhưng hiện nay sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bên liên quan còn nhiều hạn chế.
b. Nguyên nhân chủ quan
*Thứ nhất: trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định ít được tiếp xúc với những thông tin chính xác. Những thông tin thu thập được chủ yếu là từ khách hàng, những thông tin khác thu thập được chỉ mang tính chắp vá, chưa cập nhật.
*Thứ hai: phần mềm thẩm định còn chưa hỗ trợ được nhiều cho công viêc. Xu hướng ngày nay yêu cầu việc thẩm định cần được tiêu chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống phần mềm trong phân tích, trong quản lý và dự báo. Chi nhánh trong tương lai cần áp dụng hơn nữa những ứng dụng khoa học vào công tác thẩm định
*Thứ ba: đội ngũ cán bộ thẩm định thường gặp khó khăn trong viêc tiến hành thẩm định các khía cạnh thị trường, khía cạnh kỹ thuật, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án.
*Thứ tư: hệ thống tổ chức quản lý, thực hiện thẩm định còn yếu. Ngoài ra, công tác thẩm định đòi hỏi có sự phối hợp giữa các phòng, tuy nhiên sự phối hợp đó còn chưa đồng bộ, thống nhất.
CHƯƠNG 2
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
2.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của chi nhánh trong năm 2007
2.1.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của toàn chi nhánh
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá đầy đủ, toàn diện hoạt động kinh doanh năm 2006 về những kết quả đạt được, những tồn tại và thách thức đối với toàn chi nhánh và dự báo tình hình phát triển kinh tế- xã hội đất nước năm 2007- năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết WTO. Đồng thời căn cứ vào định hướng phát triển của toàn bộ hệ thống NHĐT&PT, chi nhánh Đông Đô đã nghiên cứu và đưa ra định hướng mục tiêu phát triển trong năm 2007- năm thứ 3 thực hiện kế hoạch 3 năm 2005-2007, là năm thứ 2 thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010 như sau:
a. Mục tiêu tổng quát
- Tăng tốc vươn lên, khẳng định ưu thế cạnh tranh, nắm bắt thời cơ thực hiện hội nhập sâu rộng để tạo nền tảng cho toàn bộ chi nhánh phát triển bền vững.
- Tạo bước chuyển cách mạng trong hoạt động kinh doanh từ tư duy đến hành động trong quản trị, tác nghiệp gắn liền với đầu tư, khai thác và ứng dụng các công nghệ tiên tiến và nguồn lực sẵn có đảm bảo chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế.
- Tạo bước đột phá lớn về mạng lưới ATM, hoàn thành tốt việc triển khai các dự án hiện đại hóa ngân hàng, nghiên cứu phát triển các loại sản phẩm dịch vụ hiện đại tiện ích đưa vào thị trường trong năm 2007.
- Hoàn thành chiến lước phát triển thương hiệu, triển khai đồng bộ quảng bá thương hiệu, chiến lược tiếp thị, đưa hình ảnh BIDV (NHĐT&PTVN) đến khách hàng, đối tác trong và ngoài nước một cách chuyên nghiệp và có đẳng cấp.
- Tập trung khai thác nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo lại, đào tạo mới để tạo bước chuyển đổi về chất lượng trong quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ của chi nhánh.
b. Định hướng và mục tiêu cụ thể
*Về công tác huy động vốn:
- Chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định chỉ đạo của NHĐT&PTVN trong công tác huy động vốn.
- Nâng cao tỷ trọng huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng cho vay đầu tư phát triển. Đa dạng hóa sản phẩm huy động nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
- Mở rộng danh mục khách hàng như: khách hàng ngoài quốc doanh, các công ty cổ phần, các công ty TNHH… Đặc biệt chú trọng tới việc thu hút những khách hàng có tiềm năng lớn về tiền gửi qua chính sách ưu đãi về phí, lãi suất. Đồng thời tiếp tục duy trì mối quan hệ với những khách hàng truyền thống của chi nhánh.
- Điều chỉnh mức lãi suất theo diễn biến thị trường, đảm bảo được khả năng cạnh tranh về lãi suất. Tăng dần tỷ trọng tiền gửi thanh toán, tăng thu dịch vụ.
- Đẩy mạnh kinh doanh tiền tệ trên hệ thống liên ngân hàng đảm bảo công tác dự trữ sơ cấp, thứ cấp an toàn, hiệu quả, mua bán ngoại tệ để tăng chu chuyển vốn và tạo các khả năng sinh lời của vốn, tăng thu nhập cho hoạt động kinh doanh vốn.
- Tiếp tục đưa các sản phẩm tiện ích, hấp dẫn phù hợp với đặc điểm từng khu vực trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại để tăng cường huy động vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế xã hội, từ các doanh nghiệp.
*Về hoạt động tín dụng
- Tăng cường cho vay ngắn hạn tập trung vào những ngành nghề có khả năng cạnh tranh. Tăng tỷ trọng cho vay hỗ trợ sản xuất, kinh doanh với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tăng cường tối đa dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm bằng nhiều hình thức khác nhau, kiểm soát rủi ro tín dụng, an toàn nguồn vốn.
- Thực hiện phân loại nợ, chuyển nợ, gia hạn nợ. Rà soát, hoàn thiện lại thủ tục và hồ sơ pháp lý của các khoản vay, để có sự điều chỉnh quản lý hợp lý.
- Thành lập Ban chỉ đạo của chi nhánh, kết hợp với toàn hệ thống để tập trung chỉ đạo công tác thu nợ xấu ngoại bảng để tăng tiềm lực tài chính cho hệ thống.
- Tăng cường phân tích, đánh giá phân loại khách hàng để có định hướng quan hệ tín dụng, chính sách lãi suất phù hợp.
- Quán triệt tới từng cán bộ tín dụng định hướng hoạt động của ngân hàng, đồng thời thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ quy trình, quy chế cho vay. Đảm bảo tính minh bạch, tuân thủ nghiêm các quy định về tín dụng.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, kiên quyết xử lý kịp thời những hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu, thoái hóa, tham ô trong công tác tín dụng.
- Thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho khách hàng vay vốn.
* Về phát triển mạng lưới, phát triển dịch vụ của chi nhánh
- Tiếp tục mở rộng thêm số lượng các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm.
- Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển các hoạt động dịch vụ bao gồm dịch vụ gắn với tín dụng và phi tín dụng, coi trọng chất lượng dịch vụ.
- Thực hiện bán chéo các sản phẩm dịch vụ, nhanh chóng đưa các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao phục vụ nhóm khách hàng đối tác chiến lược, khách hàng mục tiêu.
- Khai thác tối đa cơ sở hạ tầng công nghệ hiện có để nghiên cứu, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ có chất lượng và tiện ích cao.
- Hoàn thiện và chuẩn hóa các dịch vụ cung ứng cho các loại hình doanh nghiệp để thực sự cung cấp dịch vụ trọn gói, tạo sự gắn bó lâu dài giữa chi nhánh và doanh nghiệp.
2.1.2. Định hướng và mục tiêu phát triển của hoạt động thẩm định
- Đánh giá đúng vai trò hết sức quan trọng của công tác thẩm định đối với hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Thẩm định chính xác sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn được dự án có hiệu quả, và đưa ra quyết định tài trợ hợp lý đối với dự án.
- Tăng cường công tác thu thập, phân tích lựa chọn thông tin về các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của cả nước, của thành phố, kế hoạch đầu tư của các bộ, ngành…để làm cơ sở dữ liệu cho công tác thẩm định sau này.
- Tiếp tục hoàn thiện quy trình thẩm định theo hướng ngày càng hợp lý, khoa học, đồng bộ đảm bảo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng, và các cán bộ.
- Nội dung thẩm định: đảm bảo được tính khách quan, toàn diện và đồng bộ khi phân tích và đánh giá các khía cạnh của dự án. Đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia về những lĩnh vực liên quan tới dự án.
- Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà còn cả những hiểu biết về kinh tế- xã hội.
- Đảm bảo thời gian thẩm định dự án: nếu thẩm định theo đúng thời gian đã quy định thì đảm bảo cho dự án được tiến hành đúng như tiến độ đã dự kiến. Nếu thời gian thẩm định kéo dài có thể làm mất đi cơ hội chiếm lĩnh thị trường của dự án đã đề ra. Theo như quy định chỉ tiêu chất lượng của NHĐT&PTVN: đối với dự án nhóm A tổng thời gian xem xét là 25 ngày, trong đó thời gian thẩm định là 19 ngày; đối với dự án nhóm B tổng thời gian xem xét là 18 ngày, trong đo thời gian thẩm định là 14 ngày; đối với những dự án còn lại tổng thời gian xem xét là 9 ngày, thời gian thẩm định là 4 ngày.
2.2. Về phía Nhà nước và cơ quan hữu quan
2.2.1. Xây dựng một hệ thống luật pháp ổn định lâu dài
Để hoạt động của các Ngân hàng nói chung, và hoạt động thẩm định nói riêng đạt được hiệu quả cao, thì vai trò của Nhà nước và các cơ quan hữu quan đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nước ta đã ra nhập WTO và đang thực hiện chính sách mở cửa.
Tại sao lại phải cần tới sự ổn định của luật pháp. Khi một khách hàng vay vốn, đặc biệt vay vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, thì họ thường vay vốn trung và dài hạn tức là tối thiểu là từ 3 (hoặc 5 năm) trở lên. Đối với một dự án đầu tư, thời gian tồn tại của dự án thường kéo dài, trong quá trình thẩm định thường giả định các quy định của pháp luật là không thay đổi. Như vậy, khi có sự thay đổi của các quy định, thì căn cứ để tính toán các chỉ tiêu cũng khác nhau, thậm chí cách xác định hiệu quả của dự án cũng khác nhau. Điều đó có thể dẫn tới dự án nếu như căn cứ vào các quy định trước kia là hiệu quả, nhưng so với quy định mới thì có thể lại trở nên kém hiệu quả, thậm chí không được chấp nhận. Đặc biệt, khi có sự thay đổi về các quy định lãi suất, hạn mực tín dụng, chính sách thuế có thể dẫn tới sự thay đổi lớn về kế hoạch trả nợ của dự án, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó mà yêu cầu đặt ra lúc này là Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu để xây dựng được một hệ thống luật pháp ổn định, để đảm bảo cho các chủ đầu tư dễ dàng trong việc lập dự án, đảm bảo chất lượng của công tác thẩm định. Điều này đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đã gia nhập WTO, đây chính là một trong những điểm nổi bật để thu hút những nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Ngoài ra, cũng cần phải có những văn bản quy định cụ thể trách nhiệm của các bên tham gia vào quá trình thẩm định như: Ngân hàng thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ chủ quản, chủ đầu tư…để tránh sự chồng chéo trong hoạt động thẩm định, cũng như quản lý dự án đầu tư, và cũng là nâng cao chất lượng của công tác thẩm định.
Đồng thời, các bộ ngành cũng cần phải đưa ra các chỉ tiêu định mức chung về kỹ thuật, các chỉ tiêu về tài chính để đánh giá doanh nghiệp thuộc ngành mình. Qua đó, làm cơ sở cho các cán bộ thẩm định dễ dàng hơn trong việc đánh giá năng lực của doanh nghiệp.
2.2.2. Xây dựng một hệ thống kiểm toán và kế toán hoàn chỉnh, có hiệu lực
Trên thực tế hiện nay hệ thống kế toán và kiểm toán của nước ta chưa thực sự có hiệu lực, phát huy hết được vai trò của nó. Hiện nay đang tồn tại một thực trạng đó là, đa phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp nhỏ lẻ đang áp dụng chế độ kế toán hết sức sơ sài và tùy tiện. Trong một công ty có thể tồn tại rất nhiều sổ kế toán được lập ra với nhiều mục đích khác nhau như là: để trốn thuế, để chống lại sự kiểm tra của các cơ quan kiểm toán, đảm bảo tính hợp pháp hóa của hoạt động kế toán, và có thể để làm đẹp các kết quả tài chính của doanh nghiệp đảm bảo có thể vay vốn của ngân hàng một cách dễ dàng…Chính điều này đã làm cho hoạt động tài chính của các doanh nghiệp trở nên kém minh bạch, các số liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng để thẩm tra đôi khi là không đúng với thực tế, thậm chí được thổi phồng lên, nhằm mục đích cuối cùng là được vay vốn. Do đó, khi tiến hành thẩm định cán bộ thẩm định sẽ không thể căn cứ hoàn toàn vào những kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp gửi tới cho mình. Nhưng để có được con số chính xác là một điều rất khó khăn, điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của công tác thẩm định.
Mặt khác, các công ty kiểm toán ở nước ta đang còn khá non trẻ, thiếu kinh nghiệm. Thêm vào đó là các quy định, cơ chế chính sách về họat động kế toán và kiểm toán của Nhà nước chưa cụ thể, chặt chẽ, nên các doanh nghiệp không mấy quan tâm và tự nguyện thực hiện kiểm toán tài chính của đơn vị mình. Ngoài ra, khi thực hiện kiểm toán tài chính, thì doanh nghiệp lại mất đi một khoản chi phí tương đối nhất là khi muốn mời các công ty tên tuổi. Đồng thời do sổ sách của doanh nghiệp không được khách quan, minh bạch nên doanh nghiệp rất ngại khi tiến hành kiểm toán sẽ phát hiện ra những “việc làm” của mình.
Cũng chính do sự lỏng lẻo trong các quy định cộng với lại sự thiếu kinh nghiệm của các công ty kiểm toán, nên kết quả kiểm toán của doanh nghiệp được gửi tới Ngân hàng đôi khi không được hoàn toàn tin tưởng. Ngân hàng chỉ coi đó như một tài liệu tham khảo, và bản thân cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng sẽ tự tiến hành phân tích, đánh giá căn cứ vào kinh nghiệm, căn cứ vào những tài liệu thu thập được.
Vấn đề đặt ra lúc này đó là nhà nước cần thảo luận và đưa những quy định chung thống nhất, chặt chẽ về chế độ kế toán và kiểm toán. Đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định về kế toán, kiểm toán. Khuyến khích hình thành và phát triển các công ty kiểm toán tư nhân, các công ty kiểm toán nước ngoài có chất lượng. Ngoài ra, nhà nước cũng cần đổi mới những qui định về chứng từ và sổ sách kế toán theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng nhằm bảo đảm tiền đề cho việc giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Khi nhà nước đã xây dựng được một hệ thống kế toán, kiểm toán hoàn chỉnh và có hiệu lực, thì các doanh nghiệp sẽ phải chú ý và quan tâm tới hoạt động kế toán, kiểm toán của mình. Chính điều này sẽ góp phần làm cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp trở nên minh bạch hơn. Qua đó tạo điều kiện cho việc thẩm định doanh nghiệp, thẩm định tài chính tiến hành dễ dàng và hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, giúp cho ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng một cách chính xác nhất.
2.2.3. Xây dựng một môi trường kinh doanh đồng nhất và cạnh tranh
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và cũng đang từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Để hòa nhập được với nền kinh tế thế giới thì trước hết nền kinh tế của ta phải đảm bảo được tính phát triển ổn định, bền vững có như vậy khi tham gia hòa nhập chúng ta mới không bị thua thiệt. Một trong những điều kiện quan trọng để nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững đó chính là phải có môi trường kinh doanh đồng nhất và cạnh tranh.
Nhà nước nên ban hành Luật cạnh tranh nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, khuyến khích tất cả thành phần tham gia đầu tư, phát triển nền kinh tế. Khi Luật cạnh tranh có hiệu lực, sẽ không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân, tập thể hay nước ngoài. Đồng thời, các chính sách về tín dụng, cho vay vốn, hay quy định về cấp giấy phép kinh doanh cũng sẽ không có sự phân biệt đối xử.
Đẩy mạnh việc xây dựng hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tích cực tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra các doanh nghiệp thực hiện các quy định của pháp luật, đảm bảo luật được ban ra là phù hợp và nghiêm minh. Ngoài ra, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung luật hiện hành cho phù hợp với yêu cầu phát triển và xu thế hội nhập.
2.3. Về phía NHĐT & PT Việt Nam chi nhánh Đông Đô
2.3.1. Công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ thẩm định
Con người là một tài sản vô giá của bất cứ một doanh nghiệp nào, đối với Ngân hàng cũng vậy, đặc biệt đối với hoạt động thẩm định thì con người chính là nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định. Mặt khác, vì đặc thù của công tác thẩm định nên đòi hỏi cán bộ thẩm định ngoài những kiến thức chuyên môn còn phải có một kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực. Trước hết là sự hiểu biết về những định hướng phát triển của cả nước, của địa phương và của ngành, tiếp đến là việc nắm bắt được những quy định mới có liên quan tới hoạt động thẩm định. Ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng phải hiểu biết về các lĩnh vực như: thị trường, tài chính, những kiến thức cơ bản về kỹ thuật. Cán bộ thẩm định cũng chính là người quyết định đến khả năng cho vay đối với một dự án, do vậy họ phải chịu áp lực lớn trong công việc. Chính vì thế đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có bản lĩnh, tư cách đạo đức, lập trường vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao. Do vậy, đầu tư nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thẩm định chính là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động tín dụng diễn ra một cách có hiệu quả. Mặt khác, tín dụng lại là một trong những hoạt động cơ bản của Ngân hàng, nên đầu tư nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định chính là đầu tư cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vậy để tạo ra được một đội ngũ cán bộ thẩm định năng động, nhiệt tình, có năng lực, ngân hàng có thể thực hiện các biện pháp sau:
- Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ, mà còn mở các lớp bồi dưỡng tin hoc, ngoại ngữ, các lớp phổ biến các quy định mới nhất của nhà nước, của Ngân hàng Trung Ương về công tác thẩm định, tín dụng. Qua đó, giúp cho cán bộ thẩm định, tín dụng có điều kiện nắm bắt được những kiến thức mới nhất về nghiệp vụ, quy trình thực hiện. Đồng thời, thông qua các lớp bồi dưỡng cũng tạo điều kiện cho các cán bộ thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, giao lưu học hỏi để giải quyết những vướng mắc trong công việc.
- Khuyến khích các cán bộ đi học để nâng cao thêm kiến thức chuyên môn, và các kiến thức khác phục vụ cho công việc, các kiến thức về thị trường chứng khoán, trái phiếu, cổ phiếu. Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích bằng cách: tạo điều kiện về thời gian, cung cấp kinh phí…
- Đồng thời có những chính sách để thu hút những người tài, những chuyên gia về làm việc, hoặc làm cố vấn, hoăc làm cộng tác cho ngân hàng. Họ chính là những người có nhiều kinh nghiệm về mọi lĩnh vực của kinh tế, hiểu biết các quy định của pháp luật, đồng thời họ có một tầm nhìn xa và rộng, có thể dự đoán được xu thế phát triển của nên kinh tế, của ngành trong tương lai. Điều này là rất quan trọng cho công tác thẩm định, vì nhờ vào đó mà khi tiến hành thẩm định một dự án cán bộ thẩm định có thể thấy được xu thế biến động của dự án trong tương lai, từ đó có những tính toán hợp lý, và xác định liệu dự án còn có hiệu quả không khi những dự đoán đó xảy ra. Từ đó có thể gợi ý cho chủ đầu tư các biện pháp phòng ngừa giảm thiểu rủi ro, hoặc tận dụng được lợi thế trong tương lai.
- Thường xuyên tổ chức nhiều buổi thảo luận, trao đổi, báo cáo về tình hình tài chính, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước và khu vực để thấy được thực trạng hiện tại, cũng như dự báo xu hướng tương lai, để mở rộng thêm tầm nhìn cho không chỉ cán bộ thẩm định mà còn cho cả các cán bộ trong ngân hàng.
- Trong quá trình tuyển dụng đầu vào, cần có một biện pháp kiểm tra khoa học, hợp lý để tuyển chọn được những người có kiến thức phù hợp với vị trí công việc yêu cầu. Ngân hàng cũng cần có những chính sách thu hút nhân tài, các chuyên viên hợp tác và làm việc với chi nhánh.
Một điểm hạn chế trong công tác thẩm định, đó là cán bộ thẩm định đa phần là những người tốt nghiệp các trường kinh tế, do đó khi thẩm định về phần kỹ thuật chủ yếu là chỉ xem xét về giá cả chứ không thể kiểm tra được đặc tính của nó. Để khắc phục hạn chế này Ngân hàng có thể hợp tác với các tổ chức kinh tế, cộng tác với các chuyên gia về kỹ thuật, hoặc thuê tư vấn. Họ là những người có kiến thức chuyên sâu về kỹ thuật do đó sẽ đảm bảo cho hoạt động thẩm định có chất lượng hơn.
Ngoài việc quan tâm tới việc nâng cao năng lực, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Ngân hàng cũng thường xuyên quan tâm tới đời sống vật chất, đời sống tinh thần của các cán bộ. Bằng cách tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng, tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều có quyền phát huy năng lực của mình, đồng thời có một cơ chế thưởng phạt phân minh. Ngoài ra, Chi nhánh cũng quan tâm tới đời sống tinh thần của cán bộ bằng cách: tổ chức các buổi liên hoan, giao lưu văn nghệ, thể thao, tổ chức các kỳ nghỉ không chỉ cho chính các cán bộ mà còn cho cả gia đình của họ. Qua đó tạo ra một sự thoải mái, giảm bớt căng thẳng sau một quá trình làm việc. Chi nhánh cũng nên có những khu tập thể dục thể thao cho cán bộ sau những giờ làm việc căng thẳng. Bên cạnh đó cũng có những chính sách đãi ngộ khuyến khích kịp thời những người có thành tích cao trong học tập cũng như công tác.
2.3.2. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin
Thông tin là một yếu tố rất quan trọng đối với công tác thẩm định, nó quyết định tới chất lượng của công tác thẩm định. Khi tiến hành thẩm định các cán bộ thường lấy thông tin chủ yếu từ những tài liệu mà khách hàng chuyển đến, những thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ mối quan hệ đã có với chi nhánh… từ đó có những phân tích để đưa ra kết luận hợp lý nhất. Nhưng trên thực tế những thông tin chưa đảm bảo được độ chính xác cao, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng thu thập thông tin là rất quan trọng.
Để nâng cao chất lượng thu thập thông tin, thì thông tin đó phải được lấy từ nhiều nguồn không chỉ từ khách hàng, từ thông tin đại chúng, từ mối quan hệ với chi nhánh mà đó còn là thông tin từ mối quan hệ với các chi nhánh, ngân hàng khác, và lấy từ quá trình điều tra khảo sát.
Chi nhánh sẽ xây dựng một kho lưu trữ các thông tin đã được xử lý, phân tích sau khi được thu thập. Các thông tin đó nên được bảo mật, song cũng nên thường xuyên cung cấp cho các cán bộ thẩm định để họ có những cơ sở phục vụ cho công việc của mình. Ngoài ra, kho lưu trữ thông tin này cũng cần phải thường xuyên được đổi mới cập nhật, bổ sung.
Các thông tin phục vụ cho công tác thẩm định đa phần là lấy từ nguồn khách hàng cung cấp. Vậy thì cần phải yêu cầu các chủ đầu tư phân tích cụ thể các thông tin đưa ra, đồng thời phải có cam kết đảm bảo tính chính xác, trung thực của các thông tin đó. Bên cạnh đó, với những kinh nghiệm đã có của các cán bộ thẩm định, cùng với sự khôn khéo, linh hoạt của mình trong quá trình thẩm định họ sẽ phát hiện ra những điều sai sót bất hợp lý trong các báo cáo tài chính, kế toán của doanh nghiệp.
Đồng hành với các nguồn thông tin ở trên là nguồn thông tin thu thập từ môi trường xung quanh. Đây là nguồn thông tin đa dạng, phong phú và khách quan nhất, chính vì thế mà nó sẽ là nguồn thông tin thực sự bổ ích và cần thiết đối với các cán bộ thẩm định khi muốn đánh giá khách hàng của mình một cách chính xác hơn. Để có được nguồn thông tin này thì các cán bộ thẩm định có thể đi khảo sát thực tế thị trường để xác định giá cả thực tế, cung-cầu thị trường, các nguồn cung cấp yếu tố đầu vào, công suất thực tế, phản ứng của khách hàng với sản phẩm của dự án ...nhằm đối chiếu và so sánh với dự án mà khách hàng đã nộp.
Ngoài ra cán bộ thẩm định có thể thu thập thông tin của khách hàng vay vốn thông qua các tổ chức tín dụng, các ngân hàng khác, các đối tác khác...mà khách hàng có quan hệ. Qua đó mà ngân hàng nắm được các thông tin cần thiết về tình hình sản xuất kinh doanh, lịch sử quan hệ với các tổ chức tín dụng, uy tín ...của doanh nghiệp vay vốn. Đồng thời thông qua các công ty kiểm toán cán bộ thẩm định có thể đánh giá một cách chính xác hơn về tình hình tài chính thực tế của các khách hàng.
Để bổ sung cho lượng thông tin thì cán bộ thẩm định có thể phối hợp, và tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới dự án như: kỹ thuật, công nghệ, kiến trúc, đất đai, thị trường hay các cơ chế chính sách, kế hoạch phát triển ngành, vùng, địa phương. Qua đó mà có một cái nhìn tổng quát nhất về dự án cũng như khách hàng để đưa ra một quyết định đúng đắn xem dự án có phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế, của ngành và địa phương hay không. Để từ đó đưa ra quyết định hợp lý.
2.3.3. Hiện đại hóa công nghệ, trang thiết bị và phương tiện làm việc
Thẩm định là hoạt động đòi hỏi phải giải quyết một khối lượng giấy tờ lớn, nhưng trên thực tế tại chi nhánh máy phô tô phòng thẩm định được cung cấp là không có, mà phải dùng chung với các phòng khác. Mặc khác, để phục vụ cho công tác thẩm định thì lượng thông tin đòi hỏi phải được thu thập đầy đủ và thường xuyên, ngoài thông tin do khách hàng cung cấp thì thông tin trên mạng cũng là một nguồn thông tin khá phổ biến và hữu ích cho công tác thẩm định. Để đảm bảo cho các cán bộ thẩm định được tiếp nhận các thông tin một cách kịp thời, thì mỗi cán bộ thẩm định nên được cung cấp một máy tính có nối mạng Internet.
Trước thực tế phát triển của nền kinh tế như hiện nay, để đảm bảo cho hoạt động của chi nhánh không bị lac hậu so với các Ngân hàng khác, và tụt hậu so với nền kinh tế, thì Ngân hàng cần phải đầu tư, mua sắm các thiết bị và các phần mềm công nghệ tiện ích nhằm hỗ trợ cho quá trình tính toán, phân tích dự án đầu tư được tiến hành một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Các cán bộ thẩm định có thể tiến hành phân tích dự báo bằng việc sử dụng các công cụ hiện có như: phần mềm kinh tế lượng, mô hình toán…kết hợp với phương pháp phân tích độ nhạy. Điều này sẽ góp phần nâng cao tính chính xác và hiệu quả của dự án đầu tư, giúp cho chi nhánh giảm thiểu rủi ro trong quá trình đi đến quyết định đầu tư. Ngoài ra, chi nhánh cũng nên thuê các chuyên gia có kinh nghiệm về công nghệ đến để hướng dẫn cho các cán bộ những thao tác để thực hiện công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả cao. Đồng thời, cũng cần phải nghiên cứu tới khả năng, thuê các chuyên gia về công nghệ kết hợp với các cán bộ tin học và các cán bộ thẩm định, tín dụng của ngân hàng cùng nhau hợp tác nghiên cứu để tạo ra một phần mềm chuyên dụng cho họat động thẩm định.
2.3.4. Thành lập quỹ hỗ trợ, tăng kinh phí cho công tác thẩm định
Thẩm định dự án là một công việc đòi hỏi phải có thời gian, thường kéo dài, không thể hoàn thành ngay trong một thời gian ngắn. Và cũng do đặc tính của công tác thẩm định cho nên để hiểu biết thêm về khách hàng, cán bộ thẩm định phải thường xuyên trao đổi tiếp xúc với khách hàng. Thậm chí để có được các thông tin về khách hàng, các thông tin về dự án phục vụ cho quá trình thẩm định thì cán bộ thẩm định còn phải tiến hành điều tra. Nhất là với những dự án lớn, liên quan tới nhiều lĩnh vực cán bộ thẩm định đôi khi phải tiến hành điều tra về thị trường, giá cả sản phẩm của dự án, đặc tính đã có của các sản phẩm tương tự, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào…do đó chi phí cần cho hoạt động này là rất lớn. Bởi vậy, Ngân hàng phải thành lập quỹ hỗ trợ, tăng kinh phí cho công tác thẩm định.
Mặt khác, quá trình thẩm định không chỉ dừng lại ở việc cho vay vốn mà nó còn kéo dài trong suốt thời gian tồn tại của dự án, khi dự án đi vào hoạt động sản xuất và khi ngân hàng thu hồi đủ số vốn ban đầu và số tiền lãi. Sau đó, khi thẩm định dự án đã kết thúc ngân hàng còn tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để làm cơ sở cho các dự án sau này. Như vậy, cũng có nghĩa là quá trình thẩm định luôn song song tồn tại cùng với quá trình sản xuất kinh doanh của dự án. Thực tế hiện nay số dự án muốn vay vốn ngày càng nhiều, và độ phức tạp của dự án cũng ngày một nâng cao. Bởi vậy, công tác thẩm định ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, và độ phức tạp của công tác này cũng ngày một nhiều. Để bảo đảm được hiệu quả của công tác thẩm định, thì kinh phí hỗ trợ cho hoạt động này cần phải bổ sung nhiều hơn.
2.3.5. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định dự án đầu tư
Trong số những phương pháp được sử dụng để thẩm định dự án đầu tư, có một phương pháp rất hiệu quả nhưng thường hay bị bỏ qua, đó là phương pháp phân tích độ nhạy của dự án. Đây là phương pháp giúp cho cán bộ thẩm định thấy được hiệu quả của dự án khi thị trường có những biến động. Đó có thể là chi phí của các yếu tố đầu vào thay đổi như giá nguyên vật liệu tăng, tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu trong nước dẫn đến việc phải nhập khẩu từ nước ngoài, hoặc có thể đó là do sự điều chỉnh mức lương tối thiểu của nhà nước. Đó cũng có thể là giá cả của sản phẩm đầu ra thay đổi, nhu cầu của người tiêu dùng tăng làm doanh thu của dự án tăng lên, hoặc cũng có thể do sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh có sự cải tiến mới thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng dẫn tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án bị giảm sút…Bằng việc cho một yếu tố thay đổi hoặc chi phí hoặc doanh thu, cho cả hai yếu tố thay đổi, cán bộ thẩm định sẽ tiến hành phân tích lại hiệu quả của dự án để xác định độ ổn định của dự án. Bởi một lẽ đương nhiên là dự án tồn tại trong một khoảng thời gian dài do đó sự biến động của thị trường là không thể tránh khỏi. Chính vì tầm quan trọng của phương pháp này cho nên ngân hàng cần phải thường xuyên sử dụng nó trong việc phân tích dự án. Đặc biệt với những dự án có quy mô lớn, độ phức tạp cao thì sự kết hợp của các phương pháp cần phải linh hoạt hơn để đánh giá một cách chính xác về dự án.
Trong nội dung thẩm định gồm có thẩm định khách hàng và thẩm định dự án đầu tư, để nâng cao chất lượng của công tác thẩm định thì nội dung thẩm định cần phải được hoàn thiện hơn.
- Trước hết là về thẩm định khách hàng vay vốn, ngoài những hồ sơ tài liệu mà khách hàng gửi tới ngân hàng và qua những thông tin đã thu thập được về khách hàng. Để đánh giá một cách toàn diện hơn, cán bộ thẩm định cần chú trọng tới việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, qua đó đánh giá được động cơ vay vốn, khả năng nắm bắt thị trường, cũng như hiểu biết của họ về dự án đầu tư.
- Đối với thẩm định dự án đầu tư, một thực tế hiện nay là hầu hết ở tất cả các Ngân hàng thương mại trong quá trình thẩm định chỉ quan tâm tới việc thẩm định tài chính, còn các lĩnh vực khác như thị trường, kỹ thuật thì hầu như bị bỏ qua. Nhưng cũng phải thấy rằng, dự án đầu tư là một tổng thể gắn kết với nhau, khi tiến hành lập một dự án chủ đầu tư đã phải nghiên cứu kỹ về thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, đối thủ cạnh tranh cũng như sự đảm bảo của những yếu tố đầu vào… Để từ đó lựa chọn được một phương án kỹ thuật hợp lý đảm bảo sản xuất ra sản phẩm có chất lượng, mẫu mã và thảo mãn công suất đã dự tính. Tương ứng với từng phương án kỹ thuật thì sẽ có một phương án tài chính, và kế hoạch khấu hao cụ thể. Như vậy có thể nói rằng, mỗi nội dung của dự án đầu tư có quan hệ mật thiết với nhau, nội dung sau được lập trên cơ sở của nội dung trước. Điều đó càng chứng tỏ thực tế hoạt động thẩm định của các Ngân hàng chỉ quan tâm tới thẩm định các chỉ tiêu tài chính là không hợp lý. Để thay đổi cách thẩm định này, như đã được đề cập ở trên các Ngân hàng có thể thuê các chuyên gia về kỹ thuật cộng tác thẩm định. Tuy nhiên trong nội dung thẩm định tài chính của dự án còn mang tính chất liệt kê là chủ yếu. Để hoàn thiện hơn nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư thì cần phải chú trọng tới một số mặt như sau:
+ Thẩm định kỹ lưỡng vốn đầu tư của dự án: cần tiến hành phân tích cụ thể nhu cầu vốn lưu động, nhu cầu vốn cố định của dự án trong từng giai đoạn, giai đoạn xây dựng, giai đoạn đi vào vận hành sản xuất. Đối với những dự án mua sắm máy móc thiết bị, cần phải quan tâm tới giá cả của thiết bị trên thị trường, chi phí vận chuyển, bảo dưỡng, bảo hành, khả năng thay thế khi hết thời gian sử dụng hoặc bị hỏng… đối với máy móc thiết bị mua từ nước ngoài còn phải tính đến thuế nhập khẩu, tỷ giá. Trong giai đoạn sản xuất, vận hành còn phải tính đến chi phí sửa chữa, thay thế… Do đó, cán bộ thẩm định ngoài việc căn cứ vào những tài liệu khách hàng gửi đến, còn phải tham khảo giá cả thị trường, tham khảo các dự án tương tự. Việc xác định chính xác vốn đầu tư ban đầu là một điều rất quan trọng không chỉ đối với chủ đầu tư, mà nó còn rất quan trọng với Ngân hàng trong việc quyết định tài trợ cho dự án.
+ Chú trọng tới yếu tố tỷ giá, lạm phát, tỷ suất chiết khấu. Đối với những dự án mà phải nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào, hay những dự án sản phẩm của nó phục vụ mục đích xuất khẩu thì sự biến động của tỷ giá là rất quan trọng. Điều này sẽ làm thay đổi chi phi cũng như doanh thu, dẫn tới việc thay đổi cả lợi nhuận của dự án, lợi nhuận thay đổi chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nguồn trả nợ của dự án. Sự ảnh hưởng của yếu tố lạm phát cũng vậy, nó cũng sẽ có tác động rất lớn tới doanh thu và chi phí do dự án đem lại. Dưới sự ảnh hưởng của yếu tố lạm phát cùng một lượng tiền nhưng lượng hàng hóa cùng loại mua ở giai đoạn sau sẽ nhỏ hơn ở giai đoạn trước, điều này biểu thị sự giảm giá trị của đồng tiền. Tỷ suất chiết khấu cũng có tác động không nhỏ tới hiệu quả tài chính của dự án, để xác định tỷ suất này phải xuất phát từ những điều kiện cụ thể của từng dự án. Tỷ suất chiết khấu được xác định dựa vào chi phí sử dụng vốn, mỗi nguồn vốn có giá trị sử dụng riêng. Hiện nay, tỷ suất này được tính từ lãi suất bình quân của các nguồn tài trợ cho dự án, hoặc được tính theo lãi suất của trái phiếu kho bạc nhà nước cộng thêm một mức bù rủi ro tương ứng của từng lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh.
+ Cần chú trọng đến việc lập các bảng thông số cho dự án như các bảng tính chi phí, doanh thu, khấu hao, giá thành sản phẩm… những bảng tính này sẽ là căn cứ cho các cán bộ thẩm định theo dõi sự biến động về giá cả sản phẩm, các yếu tố đầu vào của dự án, tránh tình trạng bỏ sót hay nhầm lẫn trong tính toán. Đây cũng chính là căn cứ để cho cán bộ thẩm định tính toán và phân tích các chỉ tiêu tài chính của dự án. Các cán bộ thẩm định cần phải tìm hiểu các quy định của pháp luật: của Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh và xã hội, các quy định của ngành…để từ đó xác định lại chi phí quản lý, chi phí lương, chi phí bảo hiểm, chi phí thuê đất…làm căn cứ để xác định chính xác các khoản chi phí phát sinh của dự án. Riêng đối với chi phí khấu hao, cần phải tìm hiểu các quy định mới nhất của Bộ Tài chính về cách xác định khấu hao, từ đó xác định chính xác chi phí khấu hao của dự án.
+ Ngoài các chỉ tiêu sử dụng để phân tích hiệu quả tài chính của dự án như NPV, IRR, DSCR, thời gian thu hồi vốn cần đưa thêm một số chỉ tiêu vào phân tích như chỉ tiêu điểm hòa vốn, chỉ tiêu tỷ số lợi ích chi phí…Sau khi đã tính toán các chỉ tiêu này của một dự án, cần phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu để đưa ra đánh giá chính xác về hiệu quả tài chính của dự án.
- Đối với việc thẩm định khía cạnh thị trường: cán bộ thẩm định cần nắm vững phương pháp dự báo cung cầu thị trường, vận dụng cho phù hợp với điều kiện của từng dự án, đánh giá kỹ thị trường mục tiêu, các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra của dự án. Cụ thể như sau:
+ Thẩm định sự biến động của các chi phí đầu vào: Đối với những loại nguyên vật liệu đầu vào của dự án, cán bộ thẩm định cần tìm hiểu giá cả trên thị trường, so sánh với giá cả của các dự án tương tự để đánh giá sự phù hợp cũng như phát hiện ra những bất hợp lý để có sự điều chỉnh kịp thời..
+ Thẩm định sự biến động của các sản phẩm đầu ra: đầu ra của dự án chính là nguồn đem lại doanh thu cho dự án, sự thành bại của dự án căn cứ vào khả năng tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Để xác định được cách tính toán doanh thu hàng năm của dự án có hợp lý hay không, cán bộ thẩm định cần phải tìm hiểu nghiên cứu khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, cung cầu sản phẩm trên thị trường, thị phần của doanh nghiệp, những đánh giá của người tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp…
2.3.6. Cải tiến quá trình tổ chức và điều hành công việc
Quản lý và tổ chức điều hành công việc đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thẩm định dự án đầu tư. Dù có một quy trình hoàn thiện với phương pháp thẩm định phù hợp, nhưng nếu như sự phân công công việc, phối hợp giữa các phòng ban không được tốt thì điều đó sẽ dẫn tới kết quả của công việc không cao. Nếu phân công chồng chéo thì sẽ dẫn tới lãng phí nguồn lực, ngược lại nếu phân công rời rạc thì sẽ dẫn tới sự thiếu thống nhất, không tập trung được ý kiến của tất cả tập thể. Do đó để công tác thẩm định đạt được hiệu quả cao thì cần phải thực hiện một số biện pháp như:
- Sau khi nhận được dự án của khách hàng, cần bố trí cho cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực mà dự án đang định thực hiện tiến hành xem xét, thẩm định. Đồng thời, phải quy rõ ràng trách nhiệm của từng người với kết quả mà mình thẩm định, nhằm tạo ra tính tự chủ, có trách nhiệm cao với công việc của họ.
- Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các phòng trong chi nhánh, giữa phòng thẩm định, phòng tín dụng, phòng kế hoạch nguồn vốn, để tận dụng được lợi thế của mỗi phòng trong việc thẩm định khách hàng vay vốn. Qua đó, cũng giảm thiểu được những rủi ro có thể xảy ra do sự cấu kết giữa cán bộ thẩm định với khách hàng.
- Ngoài sự đôn đốc kiểm tra của trưởng phòng đối với các cán bộ thẩm định trong quá trình thẩm định dự án, cũng cần phải có sự đôn đốc kiểm tra của Ban lãnh đạo, và của tổ kiểm tra trong chi nhánh để từ đó kịp thời phát hiện những sai sót, và có biện pháp phù hợp.
2.3.7. Nâng cao chất lượng quản lý rủi ro của dự án
Hoạt động thẩm định không thể nói là có chất lượng khi dự án sau một thời gian đi vào hoạt động không trả được nợ. Do đó, công tác thẩm định không chỉ dừng lại ở việc thẩm định dự án và đi đến các quyết định tín dụng, mà cón kéo dài đến giai đoạn sau khi dự án đi vào sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn hiện nay số lượng dự án vay vốn ngày càng nhiều, quy mô của dự án ngày càng lớn, tính phức tạp của dự án ngày một tăng, nên khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn. Một thực tế hiện nay phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ hoạt động tín dụng, đứng trước quyết định cho vay cần phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro. Trước thực trạng đó, yêu cầu đối với quản lý rủi ro là rất lớn, để thực hiện được điều đó Ngân hàng cần phải có những biện pháp đảm bảo cho hoạt động thẩm định, và tín dụng có chất lượng, nâng cao công tác quản lý tín dụng, quản lý rủi ro. Để hạn chế sự phát sinh các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn nợ khó đòi, ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp như :
- Rủi ro đối với một dự án cần được phân tích và đánh giá ngay từ giai đoạn thẩm định dự án. Những phương pháp mà các ngân hàng thường dùng để phân tích rủi ro đó là: phương pháp điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu và phương pháp phân tích độ nhạy. Trong đó phương pháp điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu là cộng thêm vào lãi suất một mức bù rủi ro cần thiết, sau đó tính toán lại các chỉ tiêu tài chính NPV, IRR…và đưa ra quyết định dựa trên những tính toán mới này. Ngoài những phương pháp truyền thống trên, ngân hàng có thể sử dụng thêm phương pháp khác như phương pháp hệ số tin cậy. Đây là phương pháp điều chỉnh các giá trị dòng tiền dự kiến bằng cách đưa vào các hệ số điều chỉnh đặc biệt đối với từng thời kỳ thực hiện dự án. Các cán bộ thẩm định có thể căn cứ vào những dự án tương tự đã thực hiện trước để đưa một hệ số điều chỉnh cho phù hợp với từng loại dự án.
- Ngân hàng có thể nghiên cứu để ban hành các quy định, cẩm nang tín dụng, cẩm nang quản lý rủi ro, để tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ thẩm định, tín dụng khi thực hiện thẩm định cũng như quản lý dự án. Quy trình phân tích tín dụng, quán lý rủi ro cần được xây dựng một cách chi tiết và quán triệt xuống từng cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng. Đồng thời cũng cần phải giám sát sự tuân thủ các quy định đó để đảm bảo tính nghiêm minh, cũng như tính phù hợp của các quy định.
- Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong các nghị định của Ngân hàng Nhà nước.
- Cần xác định trước những loại rủi ro có thể xảy ra đối với từng nhóm khách hàng, để có sự nghiên cứu phân tích ngay từ khi tiến hành thẩm định và đi đến quyết định cho vay. Đối với các doanh nghiệp, rủi ro chủ yếu xảy ra là do những tác động của thị trường như: giá hàng bán giảm sút, giá nguyên vật liệu tăng, thiên tai, cạnh tranh… Ngân hàng cần thu thập thông tin cả trong quá khứ lẫn tương lai về doanh nghiệp, đồng thời cũng luôn tìm hiểu về thị trường của doanh nghiệp để có những đánh giá phù hợp. Cần xem xét tới những tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng khi cho vay.
2.4. Những kiến nghị
2.4.1. Đối với những cơ quan quản lý nhà nước
2.4.1.1. Quy hoạch tổng thể nền kinh tế
Nhà nước cần phải công bố những quy hoạch phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng, miền trong từng thời kỳ. Trước hết, đó là cơ sở để các nhà đầu tư có kế hoạch và căn cứ để lập dự án đầu tư, tranh thủ sự ưu đãi của Nhà nước. Và đây cũng là cơ sở để các Ngân hàng có chiến lược phát triển kinh doanh, cũng như có kế hoạch tín dụng trung và dài hạn, để đảm bảo khả năng cung cấp vốn kịp thời cho nhà đầu tư, phục vụ cho nhu cầu phát triển của ngành, vùng, địa phương, đồng thời cũng tránh được những rủi ro do đầu tư sai hướng. Đồng thời là cơ sở để cán bộ thẩm định xem xét dự án có phù hợp với tổng thể chung của nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu phát triển của từng vùng, từng ngành hay không.
2.4.1.2. Củng cố và phát triển cơ quan tư vấn và hoạt động tư vấn
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, đặc biệt khi nước ta đã gia nhập WTO, cần phải nhìn lại vai trò của hoạt động tư vấn vì các cơ quan tư vấn sẽ góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với chủ đầu tư, khi họ đã bỏ công sức và tiền bạc ra để tiến hành lập nên một dự án, họ luôn mong muốn dự án đó là hiệu quả và mang lại những mục đích cho họ. Một điều dễ nhận thấy là không phải nhà đầu tư nào cũng am hiểu luật pháp, cũng như mọi lĩnh vực. Do đó, sự cần tới những tham mưu của các công ty tư vấn là rất quan trọng ví dụ như tư vấn về kỹ thuật, thị trường, tư vấn về luật pháp…Đặc biệt khi nước ta đã ra nhập WTO, khi một dự án ra đời mà với mục đích là sản xuất ra sản phẩm để xuất khẩu, thì chủ đầu tư cần phải tìm hiểu kỹ thị trường nước ngoài, về đặc tính sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, thị hiếu người tiêu dùng, và đồng thời cũng phải tìm hiểu những quy định pháp luật của nước sở tại. Điều này là không dễ dàng với các chủ đầu tư, do đó giải pháp nhờ đến sự trợ giúp của các công ty tư vấn là rất cần thiết, đồng thời nó cũng góp phần nâng cao chất lượng của công tác lập dự án, và thuận lợi cho các cán bộ tín dụng trong việc thẩm định dự án.
Đối với các ngân hàng, sự trợ giúp của các công ty tư vấn cũng rất quan trọng, bởi lẽ các cán bộ tín dụng, thẩm định cho dù là người am hiểu về luật pháp thế nhưng họ cũng không thể nắm vững những quy định như những người chuyên về luật. Trong quá trình thẩm định, các cán bộ cũng rất cần đến sự tư vấn của các công ty này để đảm bảo cho sự đánh giá về kỹ thuật, thị trường của các dự án đang xem xét là chính xác. Do đó, nhà nước cần phải có những chính sách để khuyến khích sự phát triển của các công ty nhưng đồng thời cũng có những quy định để xác định rõ phạm vi và quyền hạn, cũng như giám sát hoạt động của các công ty này.
2.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.4.2.1. Nắm bắt các thông tin kinh tế xã hội và định hướng cho các ngân hàng
Với vai trò là người quản lý, thống nhất các hoạt động của các Ngân hàng trong cả nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải có trách nhiệm cung cấp những thông tin về tín dụng, về kinh tế phục vụ cho hoạt động thẩm định. Với vai trò quản lý ở tầm vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước sẽ rất dễ dàng trong việc phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan quản lý khác chuyên cung cấp thông tin. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một hệ thống cơ chế, báo cáo từ các ngân hàng thương mại, lấy Ngân hàng Nhà nước làm đầu mối nhận và cung cấp các thông tin. Trên cơ sở các thông tin thu và nhận, ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm tổng hợp lại rồi sau đó tính toán chuẩn hóa các thông tin, và đưa các thông tin đó lên mạng để tất cả các Ngân hàng thương mại đều có thể tham khảo.
Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu sắp xếp lại trật tự hệ thống mạng lưới các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo có sự quản lý và điều hành của Ngân hàng nhà nước trong việc sắp xếp, phân bố hệ thống các mạng lưới các tổ chức tín dụng một cách hợp lý tạo sự bình đẳng và lành mạnh trong kinh doanh. Sau mỗi một giai đoạn, Ngân hàng nhà nước cần tiến hành tổng kết việc đầu tư của các ngân hàng thương mại đối với từng lĩnh vực, từng nghành nghề trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng của các ngân hàng thương mại. Đồng thời, cũng là để các Ngân hàng thương mại chia sẻ và học hỏi những kinh nghiệm của nhau trong quá trình kinh doanh và đặc biệt trong công tác thẩm định.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải thông báo những kế hoạch định hướng phát triển của toàn hệ thống trong từng năm, từng thời kỳ và cũng như là đề ra các chỉ tiêu, biện pháp để thực hiện kế hoạch đã đề ra. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại sẽ xây dựng kế hoạch phát triển riêng cho mình, và có những chỉ tiêu phù hợp với khả năng cũng như tiềm lực của mình.
2.4.2.2. Hướng dẫn thống nhất về nội dung và chỉ tiêu thẩm định cho các ngân hàng thương mại
Hiện nay, quy trình cũng như nội dung thẩm định giữa các ngân hàng thương mại là không thống nhất, thường là do các Ngân hàng tự quy định. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghệ, Bộ xây dựng… để nghiên cứu và đưa ra một quy trình thẩm định thống nhất đảm bảo tính phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, cũng như phù hợp với điều lệ chung của quốc tế.
2.4.3. Đối với NHĐT&PTVN
Ngân hàng cần tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ thẩm định và tín dụng. Tổ chức thường xuyên các buổi tổng kết, báo cáo toàn ngân hàng để các cán bộ có điều kiện trao đổi kinh nghiệm với nhau. Đồng thời Ngân hàng cũng nên thu thập những ý kiến của các cán bộ để hoàn thiện hơn nữa quy trình và nội dung thẩm định.
NHĐT&PT là đầu mối để cung cấp thông tin về kinh tế xã hội cũng như những thông tin về doanh nghiệp cho các chi nhánh để đảm bảo hoạt động thẩm định mang lại hiệu quả cao.
2.4.4. Đối với chủ đầu tư
Kết quả thẩm định có chính xác hay không phụ thuộc vào rất nhiều những thông tin mà chủ đầu tư cung cấp cho ngân hàng. Bởi tầm quan trọng của nó do vậy khi gửi hồ sơ dự án đến ngân hàng để xin vay vốn, chủ đầu tư cần phải xác định tính chính xác của các thông tin mà mình cung cấp.
Trước hết chủ đầu tư cần tuân thủ các quy trình lập dự án đầu tư theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình lập dự án, để đảm bảo cho dự án chính xác và mang tính khả thi cao, chủ đầu tư cần phải nghiên cứu kỹ thị trường, kỹ thuật nếu không tự thực hiện được thì chủ đầu tư có thể thuê các chuyên gia. Bởi vì dự án đầu tư cũng là do công sức của chủ đầu tư đóng góp, và là người được hưởng lợi khi dự án đi vào hoạt động, nên càng thực hiện cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì, hiệu quả của dự án càng cao. Khi gửi dự án đến xin vay vốn ở ngân hàng, chủ đầu tư cũng cần chú ý cung cấp đầy đủ những giấy tờ theo quy định, điều đó sẽ góp phần đảm bảo về thời gian thẩm định cho dự án.
Một yêu cầu nữa cũng phải đặt ra đó là, chủ đầu tư cần phải cung cấp chính xác và càng chi tiết cụ thể về tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp, thì hiệu quả của thẩm định càng được nâng cao. Đồng thời đây cũng là điều kiện cần để thẩm định theo đúng thời gian quy định, điều này sẽ có lợi trước hết cho chủ đầu tư vì khi thẩm định theo đúng thời gian thì dự án sẽ nhanh chóng được đưa vào thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra.
KẾT LUẬN
Trong xu thế tất yếu hiện nay khi nền kinh tế càng phát triển, khi các doanh nghiệp càng chú trọng tới hoạt động đầu tư thì đồng nghĩa với việc hoạt động tín dụng càng diễn ra mạnh mẽ và càng phức tạp hơn. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng thương mại là vừa phát triển kinh doanh, gia tăng lợi nhuận nhưng cũng phải đảm bảo an toàn nguồn vốn tín dụng. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho công tác thẩm định chính là đầu tư cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng.
Thẩm định là một công việc rất khó khăn vì đối với mỗi dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau lại có một đặc điểm riêng, nên khi tiến hành thẩm định đòi hỏi cán bộ thẩm định phải vận dụng linh hoạt các phương pháp. Mặt khác, khi thẩm định cần phải vận dụng rất nhiều kiến thức thực tế không thể chỉ dựa nguyên vào lý thuyết, kết quả của thẩm định có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định của Ban lãnh đạo. Chính vì tầm quan trọng của công tác thẩm định nên việc đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng của công tác này là rất cần thiết.
Tuy nhiên, do còn những hạn chế về kiến thức thực tế cũng như về thời gian, nên những giải pháp và kiến nghị mà em đưa chỉ là những đóng góp rất nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định tại NHĐT&PT chi nhánh Đông Đô. Đồng thời bài viết của em sẽ không tránh khỏi những sai sót, em kính mong sẽ nhận được sự đóng góp của các thầy cô trong bộ môn và của các anh chị trong Phòng Thẩm định và quản lý tín dụng của chi nhánh. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
NHĐT&PTVN: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
HĐQT: Hội đồng quản trị
TTTM: Trung tâm thương mại
Công ty CPĐTĐD: Công ty cổ phần Đầu tư Đông Dương
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
*Sơ đồ:
- Sơ đồ1: Cơ cấu bộ máy của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô
- Sơ đồ 2: Quy trình thực hiện thẩm định dự án đầu tư
- Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức của Công ty CPĐTĐD
*Bảng:
- Bảng 1: Các thành viên và số vốn góp tại Công ty CPĐTĐD năm 2003
- Bảng 2: Các thành viên và số vốn góp tại Công ty CPĐTĐD năm 2006
- Bảng 3: Bảng cân đối kế toán của Công ty CPĐTĐD
- Bảng 4: Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty CPĐTĐD
- Bảng 5: Thống kê loại phòng và diện tích tương ứng của dự án
- Bảng 6: Thống kê số lượng căn hộ cho thuê tại Hà Nội năm 2006
- Bảng 7: Thống kê quy cách và mức giá cho thuê tương ứng đối với các loại căn hộ tại địa bàn Hà Nội
- Bảng 8: Giá thuê tại một số TTTM
- Bảng 9: Giá bán sản phẩm của TTTM Ngọc Khánh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2005) - Giáo trình Lập dự án đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê
TS.Từ Quang Phương (2005) - Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê
TS. Phan Thị Thu Hà (2004) - Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê
NHĐT&PTVN (2001) - Cẩm nang tín dụng
NHĐT&PTVN (2001) - Quy trình thẩm định- tín dụng
NHĐT&PTVN Chi nhánh Đông Đô (2006) - Báo cáo hoạt động của Phòng Thẩm định và quản lý tín dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Đô.docx