Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với sự kiện gia nhập Tổ chức thương mại
WTO, nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như ngành nông nghiệp và nông
thôn nói riêng đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Các doanh nghiệp
nông nghiệp Việt Nam cũng đang từng bước đi lên, khẳng định vị thế và năng
lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ trong khu vực và trên toàn thế giới.
Tuy nhiên , do xuất phát điểm thấp , lại là nước đi sau, các doanh nghiệp nông
nghiệp của chúng ta còn gặp không ít những khó khăn trên con đường hội nhập.
Chính vì thế, để có thể đứng vững, không thể là gì khác ngoài việc cả Nhà nước
và doanh nghiệp đều cần phải cố gắng nỗ lực hết mình để nâng cao sức cạnh
tranh, trước hết là cho các mặt hàng nông sản, kế đến là nâng cao các nghiệp vụ
khác trong kinh doanh quốc tế. Am hiểu về luật chơi và khẳng định được tên tuổi
của mình, các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam sẽ sớm thu được những
thành quả mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, góp phần thúc đẩy nhanh tăng
trưởng của ngành và của cả nền kinh tế.
83 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3538 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp
đối với khách hàng bao gồm người cung cấp nguyên liệu chế biến như người
nuôi bò sữa, người trong mía, trồng dứa, v.v... Trên thông tin đại chúng trong
những năm qua đã đưa ra nhiều trường hợp do sự mất uy tín của doanh nghiệp
trong việc thu mua nguyên liệu người nông dân mang cả sữa, dứa đến tận nhà
máy để đổ hay không chịu bán nguyên liệu cho nhà máy, v.v... Tất cả những
trường hợp đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp. Trên thị trường xuất khẩu cũng không ít trường hợp đã xảy ra và thiệt
hại là không nhỏ. Ví dụ, Công ty TNHH Hàm Long (Tây Ninh) bị Công ty Ultra
Trading International của Mỹ kiện và phong tỏa 2 container hạt điều trị giá trên
125.000 USD khi xuất khẩu sang thị trường này, đồng thời buộc Hàm Long phải
bồi thường cho họ 165.500 USD. Theo Công ty Ultra Trading International,
trong năm 2004 họ có ký hợp đồng mua điều nhân với Công ty Hàm Long, hàng
được giao trong tháng 7/2004. Tuy nhiên, đến thời điểm giao hàng, do giá thế
giới tăng, Hàm Long không giao hàng theo hợp đồng mà mang hàng bán cho
53
doanh nghiệp khác, vi phạm hợp đồng mua bán. Không riêng gì Công ty Hàm
Long, Công ty Ninh Sơn (Bình Dương) cũng bị khách hàng nước ngoài kiện
buộc phải bồi thường hơn 100.000 USD và nhiều doanh nghiệp khác cũng phải
đối phó với trường hợp tương tự.
Cách cư xử như vậy là đi ngược lại các tiêu chuẩn thương mại quốc tế ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín của các doanh nghiệp trong ngành cũng như ngành
kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản, thể hiện trình độ văn hóa kinh doanh thấp.
Xét một cách tổng quát về vấn đề quan hệ khách hàng, các doanh nghiệp
nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do chưa có kinh nghiệm trong hợp tác quốc
tế. Các công ty liên doanh nhìn chung là đi đầu trong vấn đề này, còn các doanh
nghiệp Nhà nước địa phương gặp nhiều khó khăn hơn cả.
Kết luận:
Có thể khẳng định rằng, bức tranh về năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp nông nghiệp nông thôn việt Nam còn có phần nhiều khó khăn thách thức.
Sự chuẩn bị của các doanh nghiệp chưa được nhiều thậm chí cả về nhận thức,
còn nhiều bất cập về năng lực cán bộ, đội ngũ quản lý, cơ cấu tổ chức, v.v..., đòi
hỏi phải có sự nỗ lực hơn nữa để bắt kịp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO.
Thông qua các số liệu đã đưa ra, có thể thấy, đi đầu trong các loại hình doanh
nghiệp nông nghiệp Việt Nam về các chỉ số cạnh tranh là các doanh nghiệp liên
doanh. Đầy là loại hình doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, có tiềm lực về vốn
và công nghệ đồng thời biết nhanh chóng nắm bắt những biến động của thị
trường trong thời kì hội nhập nên đã có được phương hướng hoạt động hiệu quả
và năng lực cạnh tranh cao hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Các
doanh nghiệp Nhà nước Trung ương đứng thứ hai về năng lực cạnh tranh do có
lợi thế về quy mô lớn và được đầu tư nhiều vốn trong việc mở rộng sản xuất và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Các công ty TNHH tuy là loại hình
doanh nghiệp mới nhưng cũng là những đơn vị tích cực trong cải thiện các chỉ số
cạnh tranh và có xu hướng phát triển nhanh trong thời gian tới. Công ty cô phần,
54
doanh nghiệp tư nhân có năng lực cạnh tranh thấp hơn do còn hạn chế về kiến
thức, kinh nghiệm cũng như quy mô, nhưng đây cũng là những loại hình doanh
nghiệp có khả năng tiếp tục phát triển và phù hợp với môi trường kinh doanh
mới. Đáng thất vọng nhất là các doanh nghiệp Nhà nước địa phương. Các doanh
nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO
và hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới do có năng lực cạnh
tranh thấp nhất khi phân tích các chỉ số cạnh tranh. Trong thời gian tới, các
doanh nghiệp này phải nỗ lực nhiều hơn cả để có thể tồn tại và phát triển được.
Đánh giá này cũng đã được kiểm chứng thông qua nghiên cứu của Viện
Chính sách và chiến lược phát triên nông thôn. Trong quá trình khảo sát về nâng
cao năng lực hội nhập của các doanh nghiệp nông nghiệp, cơ quan này đã tiến
hành cho điểm và đưa ra các kết luận tương tự về chỉ số cạnh tranh phân theo
loại hình của các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay:
Đồ thị 3. Chỉ số cạnh tranh phân theo loại hình doanh nghiệp
37.5
41.3
45.3
50.2
50.4
68.7
DN NN địa phương
DN tư nhân
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
DN Nhà nước TƯ
DN liên doanh
0 10 20 30 40 50 60 70 80
Nguồn: Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
Đồ thị trên cho thấy, chỉ số cạnh tranh của các doanh nghiệp nông nghiệp
Việt Nam không phải là cao, mức bình quân chung đạt 46,4 điểm, tức là dưới
55
mức trung bình. Với mức điểm 68,7 điểm doanh nghiệp liên doanh có chỉ số
tổng hợp cao nhất, tiếp đó là doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và công ty
TNHH có mức gần như nhau, ở mức hơn 50 điểm. Thấp nhất là chỉ số của các
doanh nghiệp Nhà nước địa phương, chỉ đạt 37,5 điểm, thấp hơn 4 điểm so với
các doanh nghiệp tư nhân.
Ở giác độ ngành hàng, các doanh nghiệp của ngành hồ tiêu, cao su và hạt
điều có chỉ số cao nhất trong các doanh nghiệp được. Các doanh nghiệp kinh
doanh hồ tiêu đạt gần 69 điểm, lớn hơn tới gần 30 điểm so với các doanh nghiệp
có điểm thấp nhất là chăn nuôi. Các doanh nghiệp cà phê và lúa gạo là những
ngành chủ lực của nền kinh tế nhưng có chỉ số không cao.
Đồ thị 4. Chỉ số cạnh tranh phân theo ngành hàng
40
42.9
43.4
44.6
47.1
47.4
51.9
58.5
68.7
Chăn nuôi
Lương thực
Cà phê
Lâm sản
Rau quả
Chè
Hạt điều
Cao su
Hồ tiêu
0 10 20 30 40 50 60 70 80
Nguồn: Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn
Tóm lại, năng lực cạnh tranh hiện tại của các doanh nghiệp nông nghiệp còn
nhiều vấn đề phải bàn kể cả về bản thân chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp như
một đơn vị sản xuất kinh doanh và sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp trong quá
trình đáp ứng nhu cầu của hội nhập. Nghiên cứu những khía cạnh của doanh
nghiệp trong khung cảnh hội nhập kinh tế là một vấn đề lớn và phức tạp. Việc đề
ra các giải pháp chiến lược nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của DN nông
nghiệp càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp phát huy những thế mạnh và hạn chế những yếu điểm để có thể hội nhập
có hiệu quả hơn.
56
CHƢƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM
GIA NHẬP WTO
Khi gia nhập WTO, ngoài cam kết về mở cửa thị trường, Việt Nam còn cam
kết mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, quyền phân phối cho các doanh
nghiệp nước ngoài. Các công ty đa quốc gia vốn rất mạnh về tài chính, hệ thống
phân phối, thông tin, trình độ quản lí… khi vào kinh doanh tại Việt Nam sẽ là
những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp nội địa, đòi hỏi các doanh
nghiệp nông nghiệp phải nhanh chóng đổi mới, vươn lên để tồn tại và hoạt động
có hiệu quả!
Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp đòi hỏi phải có
sự chung sức của cả Nhà nước và doanh nghiệp. Ở cấp độ quản lí, trách nhiệm
chủ yếu thuộc về Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và một số các cơ quan
có liên quan khác. Về phía chính phủ , trước hết cần đề ra các giải pháp hỗ trợ
cho việc hội nhập của ngành Nông nghiệp để có thể tạo ra những tiền đề cơ bản
và nền tảng cho doanh nghiệp Nông nghiệp dựa vào đó để từng bước đi lên. Bộ
Nông nghiệp có trách nhiệm kiến nghị và triển khai các giải pháp ở tầm vĩ mô để
áp dụng cho doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp phải đổi mới từ bên trong, nội
tại của mình để có thể nâng cao sức cạnh tranh.
1. Các giải pháp từ phía Chính phủ
Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất
các sản phẩm có thị trường, có thế mạnh về kỹ thuật, tay nghề, chất lượng cao và
chi phí thấp; đổi mới công nghệ, áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến trong sản xuất và quản lý kinh doanh, quản lý chất lượng sản
phẩm và quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Hoàn thiện hệ thống luật
pháp, tạo hành lang pháp lí an toàn và môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi
doanh nghiệp. Xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp. Thị
57
trường nông sản quốc tế rộng lớn và đa dạng, để cạnh tranh có hiệu quả cần
nhiều doanh nghiệp năng động và có năng lực, vì thế, cùng với các doanh nghiệp
Nhà nước xuất khẩu hàng nông lâm sản, Chính phủ khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Thực hiện
việc sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp Nhà
nước.
Cụ thể :
1.1. Minh bạch hóa chính sách thuế quan và phi thuế quan
1.1.1. Thuế quan
Việt Nam nên cung cấp thông tin rõ ràng về mức thuế ảnh hưởng đến hàng
nhập khẩu, trong đó có hàng nông sản. Đôi khi, các doanh nghiệp bị nhầm lẫn về
mức thuế hiện tại và những thay đổi về mức thuế thậm chí đến mức vào bất kỳ
thời điểm nào, họ có thể không chắc chắn về mức thuế hiện đang áp dụng do sự
thay đổi diễn ra thường xuyên.
1.1.2.Các biện pháp phi thuế
Các biện pháp phi thuế thường tạo sự hấp dẫn cho các Chính phủ bởi vì
chúng tạo ra ấn tượng là có thể kiểm soát tức thì về đầu ra, trong trường hợp này
như là dòng chảy hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, chúng thường có một số tác
động không dự đoán trước được, thiếu minh bạch, không ổn định và tạo ra mức
độ bảo hộ cao cho ngành sản xuất được hưởng bảo hộ. Trong khi điều này có thể
làm lợi những nhà sản xuất trong ngành hàng này, thì nó còn có nghĩa là không
hạn chế về chi phí mà nền kinh tế có thể phải gánh chịu do việc sử dụng nguồn
lực không hiệu quả. Từ quan điểm của các nhà kinh tế, đối với lợi ích cho đất
nước nói chung, hàng rào phi thuế nên được dỡ bỏ và được thay thế bằng thuế
quan để làm cho việc bảo hộ được rõ ràng hơn.
Khi không còn bất kỳ hàng rào phi thuế nào, để bảo hộ những nhà sản xuất
trong nước từ dòng chảy bất ngờ của hàng nhập khẩu vào thị trường trong nước,
Việt Nam nên cải tiến những qui định của mình về các biện pháp chống phá giá,
các biện pháp tự vệ cũng như biện pháp đối kháng.
58
1.2. Đẩy mạnh cải cách hành chính và quản lý nông thôn, tạo mặt bằng cho
kinh doanh cho doanh nghiệp nông nghiệp nông thôn
Hiện nay, chức năng của nông nghiệp nông thôn đã và đang có sự thay đổi
sâu sắc. Vấn đề quản lí nông thôn cũng cần được thay đổi. Cải cách hành chính
và quản lý nông thôn phải thể hiện 2 mặt: (i) Cải cách phương thức xây dựng
pháp luật và chính sách nhất là chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn
trong đó việc phát triển doanh nghiệp nông nghiệp nông thôn; (ii) Cải cách thực
hành pháp luật và quản lí xã hội ở nông thôn: Cần phải ban hành quay định về
thái độ ứng xử của chính quyền trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp.
Các văn bản pháp luật hiện nay liên quan đến doanh nghiệp nông nghiệp là
khá đầy đủ bao gồm Luật doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp năm 2005 (đồng thời
thay thế Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003), Luật Hợp
tác xã năm 1996 (sửa đổi bổ sung năm 2003), Nghị định 88/2002/NĐ-CP về phát
triển các hội và hiệp hội nghề nghiệp và nhiều thông tư, hướng dẫn khác. Điều này
tạo nên môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện đối với sự phát triển của doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng.
Trong cải cách phương thức xây dựng luât pháp liên quan đến phát triển
doanh nghiệp nông nghiệp, quan trọng nhất là tìm mọi hình thức để thu hút thật
rộng rãi sự tham gia của doanh nhân, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà khoa
học, để văn bản thể hiện đầy đủ tư duy đổi mới, sát hợp với thực tiễn và có tính
khả thi cao, khắc phục tình trạng "khép kín" trong việc soạn thảo văn bản. Trong
cải cách phương thức quản lí nông thôn, phải quán triệt quan điểm bộ máy nhà
nước và mỗi công chức phải toàn tâm, toàn ý thực thi công vụ với ý thức phục
doanh nghiệp, khắc phục cho được tệ nhũng nhiễu đang khá phổ biến tại công
sở.
Để khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, các địa phương nên kéo dài
thời gian thuê đất, áp dụng mức thấp nhất trong khung giá thuê. Áp dụng biện
pháp miễn và giảm tiền thuê đất, hỗ trợ một phân chi phí giải phóng mặt bằng,
59
kinh phí di dời doanh nghiệp ra khỏi nội thị, v.v... Giải pháp cho xây dựng thêm
nhiều khu, cụm công nghiệp nhỏ và vừa, của một số địa phương đang làm hiện
nay là cần thiết nhưng tốc độ xây dựng và đưa vào sử dụng còn chậm, mới đáp
ứng được hơn 10% có nhu cầu về mặt bằng sản xuất. Việc hình thành các khu,
cụm công nghiệp nhỏ và vừa cho doanh nghiệp nông nghiệp là cần thiết, vì nó
vừa bảo đảm mặt bằng cho doanh nghiệp, tránh ô nhiễm, hình thành bộ mặt mới
cho nông thôn. Tuy nhiên, khi xây dựng các khu cụm công nghiệp nhỏ cần phải
có quy hoạch căn cơ, bài bản, tránh chạy theo phong trào dẫn đến chiếm dụng
quá nhiều đất mà chưa sử dụng đến, gây ra lãng phí đất đai, thiệt hại cho người
dân.
1.3.Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn
Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm đường giao thông, hệ thống thủy
lợi, cơ sở hạ tầng thông tin, điện lưới …
Chất lượng của cơ sở hạ tầng của một đất nước có thể tác động quan trọng
đến chi phí điều chỉnh trong quá trình hội nhập, nhất là chi phí điều chỉnh của
các công ty. Về nguyên tắc, chi phí giao dịch và thông tin cao hơn khi đầu tư sẽ
có tác động tiêu cực đến phản ứng của người sản xuất đối với quá trình tự do hóa
thương mại. Thông thường, các công ty ở các nước đang phát triển phải chịu chi
phí giao dịch và thông tin cao hơn bởi vì cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém cũng
như dịch vụ công cộng chưa đầy đủ. Cụ thể hơn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ công
có thể xem như vốn bổ sung, ví dụ như vốn tạo ra các dịch vụ hỗ trợ cần thiết
cho sự hoạt động của vốn đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn bổ sung này
thông thường bao gồm cơ sở hạ tầng giao thông và viễn thông và các dịch vụ
công cơ bản như điện, nước.
Để tăng cường cơ hội gặp gỡ giữa người nông dân, nhà kinh doanh và doanh
nghiệp Nhà nước trên thị trường, Chính phủ cần xúc tiến thành lập các chợ bán
buôn ở nông thôn hay những sàn giao dịch hiện đại ở những vùng sản xuất hàng
hóa tập trung.
60
Liên quan đến vấn đề cơ sở hạ tầng, Việt Nam đã có Quyết định
132/2001/QĐ-TTg ngày 7/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chương
trình phát triển đường giao thông thông nông thôn và cơ sở hạ tầng cho làng
nghề, hay Quyết định 184/2004/QĐ-TTg ngày 22/10/2004 của Thủ tướng Chính
phủ về sử dụng vốn tín dụng Nhà nước cho các chương trình kiên cố hóa kênh
mương, Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8 năm 2006 về hướng dẫn thi hành
Luật bảo vệ môi trường. Vấn đề hiện nay là cần có lộ trình triển khai các quyết
định nghị quyết trên một cách hiệu quả nhất.
1.4. Hỗ trợ nghiên cứu nông nghiệp và khuyến nông
Cụ thể là hỗ trợ nghiên cứu, đưa khoa học công nghệ vào sản xuất kinh
doanh. Bởi vì nông dân và các doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu cầu
của thị trường trong nước và nhất là thị trường thế giới về giá trị gia tăng cao và
chất lượng cao của các nông sản nếu không được tiếp cận với những công nghệ
mới. Đôi khi, những công nghệ mới này được thể hiện trong cả các yếu tố đầu
vào và vốn. Trong trường hợp khác, chúng được thể hiện ở các phương pháp
quản lý hay quá trình sản xuất. Dù trong trường hợp này thì người dân và các
doanh nghiệp cần phải được tiếp cận với kiến thức để cải thiện quá trình sản xuất
và tiếp thị của họ, đồng thời để có được mức thu nhập cao.
Hiện tại, Chính phủ đã có Nghị định 56/2005/ NĐ-CP về tổ chức hoạt động
khuyến nông, khuyến ngư.
Trong thời gian tới, cần tăng cường hơn nữa trợ giúp kỹ thuật cho các doanh
nghiệp nông nghiệp. Cụ thể, trong thời gian tới, các Bộ, ngành liên quan sẽ phải
tập trung thành lập các “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ”.
Cần phải xây dựng sớm cơ sở dữ liệu quốc gia để cung cấp thông tin về công
nghệ, thiết bị, các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xúc tiến nghiên cứu mô hình doanh nghiệp công
nghệ, cơ chế khuyến khích việc liên kết, hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu và cơ
sở sản xuât của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để các sản phẩm khoa học, công
nghệ được mua bán, trao đổi như các hàng hóa khác. Đồng thời, phải hoàn chỉnh
61
cơ chế trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thực hiện đăng ký và bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp cho sản phẩm và dịch vụ, mua bán, trao đổi, góp
vốn và hợp tác đầu tư bằng giá trị tài sản vô hình là quyền sở hữu trí tuệ.
1.5. Hỗ trợ tiếp thị và hỗ trợ xuất khẩu
1.5.1.Hỗ trợ tiếp thị
Ở Việt Nam, mối liên hệ giữa tín hiệu thị trường và các nhà sản xuất còn rất
hạn chế cũng như sự thiếu vắng các dịch vụ kinh doanh, do đó các tín hiệu thị
trường cũng như nhu cầu của người tiêu dùng thường không đến được các nhà
sản xuất nông sản. Tình hình sẽ tạo ra các chi phí đáng kể đối với ngành nông
nghiệp nếu không nhanh chóng được cải thiện khi đất nước ngày càng hội nhập
vào nền kinh tế thế giới. Để giúp các doanh nghiệp và nhà sản xuất giải quyết
tình hình này, Chính phủ có thể tăng cường những hỗ trợ cụ thể về marketing,
như các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng mạng lưới thông tin thị
trường, v.v.
Xúc tiến xuất khẩu
Mở rộng hoạt động xuất khẩu có thể khó khăn khi nó liên quan đến việc
chuyển sang một hoạt động xuất khẩu hoàn toàn mới. Người ta cho rằng việc bắt
đầu một hoạt động xuất khẩu mới thường phức tạp hơn và tạo ra nhiều chi phí
đối với các công ty hơn là mở rộng các ngành đang có. Với những chi phí và rủi
ro liên quan đến việc chuyển sang các hoạt động mới, các nhà sản xuất thường
gặp phải hạn chế về tín dụng hơn là nếu họ chỉ đơn giản mở rộng các hoạt động
hiện hành. Trong những trường hợp như vậy, vai trò của Chính phủ là cần thiết
vì lý do là xuất khẩu sẽ có lợi hơn cho toàn bộ nền kinh tế chứ không chỉ các nhà
xuất khẩu đơn lẻ vì những tác động lan truyền. Điều này có nghĩa là Chính phủ
Việt Nam nên củng cố và tăng cường các chương trình xúc tiến xuất khẩu như
tạo điều kiện thuận lợi hơn về tiếp cận tín dụng đối với các nhà sản xuất sản
phẩm cho xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại như cấp một phần
kinh phí cho hỗ chợ, triển lãm thương mại, nghiên cứu thị trường và các dạng
thưởng xuất khẩu không liên quan đến giá. Đồng thời, Chính phủ cũng không
62
nên cung cấp các trợ cấp xuất khẩu trực tiếp không những bởi vì chúng mâu
thuẫn với các qui định của WTO mà còn vì chúng thường không có hiệu quả.
Mặt khác, thực tế hiện nay, các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm
quốc gia được phê duyệt vẫn chưa cân đối với nhu cầu của các doanh nghiệp,
chủ yếu tập trung vào các hoạt động như tham gia hội chợ, triển lãm, tổ chức các
chuyến khảo sát thị trường nước ngoài (chiếm đến 78%), trong khi các hoạt động
như đào tạo kỹ năng xúc tiến xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ xúc tiến
xuất khẩu, tổ chức tìm kiếm thông tin thị trường rất cấp thiết đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm có 22%. Đáng quan tâm nữa là đối tượng tham gia
các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia theo quy định là các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng thực tế có chương trình chủ
yếu mới nhằm đối tượng là các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn rất khó khăn tiếp cận, trên thực tế là chưa
được hưởng sự hỗ trợ này. Do vậy, vấn đề đặt ra là các cơ quan liên quan, nhất là
Bộ Thương mại cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi các cơ chế, chính sách xúc tiến
thương mại trọng điểm quốc gia, đồng thời thống nhất chỉ đạo triển khai các
chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu để nâng cao tính hiệu quả
và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Đồng thời, tăng cường thu thập và phổ biến thông tin về thị trường, mẫu
mã, giá cả, v.v... giúp cho việc dự báo, định hướng kinh doanh của các doanh
nghiệp này.
1.5.2. Hỗ trợ sản xuất và trợ giá
Hỗ trợ sản xuất và trợ giá là những dạng trợ cấp bóp méo thương mại nhiều
nhất của hỗ trợ trong nước và do đó bị khống chế bởi Hiệp định Nông nghiệp
của WTO. Dù sao, là một nước đang phát triển, Việt Nam có cơ hội để có thể trợ
cấp sản xuất và trợ giá ít nhất đến mức trần tối thiểu là 10% của giá trị sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên các hỗ trợ này cần được sử dụng một cách linh hoạt để
không gây ra sự bóp méo, tâm lí trông chờ ỷ lại của doanh nghiệp, khiến cho
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút.
63
Các chương trình nhằm mục đích cải thiện cạnh tranh có thể bao gồm hỗ trợ
nhà sản xuất trực tiếp và/hay hỗ trợ toàn ngành nói chung. Hỗ trợ trực tiếp thông
thường bao gồm việc trợ cấp không hoàn lại một lần để tạo thuận lợi cho tái cơ
cấu nông trại, đào tạo quản lý kinh doanh, áp dụng công nghệ mới, v.v. Điều
kiện để được hưởng phải được áp dụng sao cho hỗ trợ nhằm đúng những người
cần trợ giúp nhất. Hỗ trợ gián tiếp thường liên quan đến cấp kinh phí cho các dự
án để cải thiện vị trí cạnh tranh của toàn ngành hàng vì lợi ích của tất cả các nhà
sản xuất.
1.6. Chính sách về thị trường tín dụng
Bởi vì thị trường tín dụng nông thôn hiện nay vẫn chưa hoạt động suôn sẻ,
các doanh nghiệp gặp phải những hạn chế khi vay vốn và không thể có đủ vốn
để thực hiện những mục đích đầu tư của mình, ngay cả khi họ có đủ khả năng để
thanh toán. Ưu ái của các ngân hàng thương mại Nhà nước đối với các doanh
nghiệp nhà nước thực tế vẫn đang diễn ra. Khi các công ty đến vay vốn đầu tư,
thông thường các doanh nghiệp tư nhân qui mô nhỏ sẽ gặp phải những khó khăn
về vay vốn nhiều hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước.
Những bóp méo trên thị trường tín dụng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trong
chính sách của Chính phủ. Trước tiên, Chính phủ phải nỗ lực hơn nữa trong các
cố gắng hiện nay để phát triển một thị trường tín dụng nông thôn lành mạnh và
cạnh tranh, điều này sẽ đóng vai trò rất quan trọng để đảm bảo được những lợi
ích của hội nhập.
Trên thực tế, Bộ Tài chính đã có một số thông tư quy định về sử dụng vốn tín
dụng đầu tư cho phát triển ngành nghề nông thôn, tín dụng xuất khẩu… Điển
hình là thông tư 113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 về các nội dung sử dụng
ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn.Tuy nhiên, việc triển
khai theo các thông tư này cũng vấp phải nhiều khó khăn.
Hiện nay giải pháp xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng đã được triển khai ở một
số tỉnh thành. Quỹ bảo lãnh tín dụng là một tổ chức tài chính hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận, chỉ bảo toàn vốn, bù đắp chi phí, do vậy, không khuyến
64
khích các doanh nghiệp đầu tư góp vốn để thu lợi nhuận. Đối tượng được bảo
lãnh từ quỹ là doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 90/2001 là rất lớn, trong
khi đó nguồn vốn của quỹ có hạn, theo quy định hiện hành thì những đối tượng
được bảo lãnh cũng như mục đích bảo lãnh, tỷ lệ bảo lãnh và phí bảo lãnh chưa
được phân loại chi tiết. Quy trình xin cấp bảo lãnh cũng chưa được thuận tiện. Vì
thế, cơ chế thành lập và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ cần được xem xét, hoàn chỉnh, để đẩy nhanh việc thành lập Quỹ ở
các địa phương, bảo đảm cho quỹ này thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu
trợ giúp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tìm kiếm vốn cho sản xuất,
kinh doanh.
1.7. Chính sách về thị trường đất đai
Điều chỉnh liên quan đến việc chuyển các nguồn lực ra khỏi một ngành trong
nông nghiệp hay khỏi ngành nông nghiệp nói chung nhằm cải thiện khả năng
cạnh tranh của nhà sản xuất. Các nhà sản xuất có thể tăng qui mô hoạt động và
cải thiện năng suất canh tác với việc áp dụng công nghệ mới và các biện pháp
quản lý cải tiến, đa dạng hóa hoạt động nông trại của họ cũng như tăng thu nhập
từ ngành nghề phi nông. Trong tương lai, Chính phủ không nên áp dụng những
biện pháp hành chính để kiểm soát giá đất, có như vậy thì một thị trường đất đai
thực sự cạnh tranh mới có thể được hình thành.
1.8. Chính sách về thị trường lao động
Chính phủ phải có các biện pháp đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn kĩ
thuật để cung cấp cho thị trường lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Thúc
đẩy khuyến khích các trung tâm thông tin việc làm ở nông thôn để tạo thuận
lợi cho việc cân băng nhu cầu và nguồn cung về lao động ở các vùng nông
thôn khác nhau trên cả nước.
Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực, ngoài việc tăng cường,
mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường, lớp (của nhà nước và
của các tổ chức khác thành lập), nên khuyến khích mở rộng việc đào tạo theo
hướng gắn cơ sở đào tạo với doanh nghiệp có nhu cầu như: liên kết đào tạo, đào
65
tạo theo đơn đặt hàng; doanh nghiệp liên kết với nơi đào tạo (kể cả các trường
đại học, các viện nghiên cứu). Cũng đã có những doanh nghiệp nâng cao được
trình độ công nghệ, học tập kỹ năng quản lý thông qua liên doanh, liên kết giữa
các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp lớn và doanh
nghiệp FDI, bằng các hình thức như gia công, đặt hàng, làm vệ tinh ... trong các
khâu sản xuất, thương mại, dịch vụ.
Nhiệm vụ quan trọng cần đặt ra cho việc tăng cường nhân lực trong lĩnh vực
nông nghiệp là phải cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục, đào tạo nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất, ý thức phục vụ cao.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai có hiệu quả Quyết định
81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ dạy nghề
ngắn hạn cho lao động nông thôn.
1.9. Đổi mới triệt để khu vực doanh nghiệp nhà nước và khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn
Khi Chính phủ giảm bớt các biện pháp bảo hộ đường biên và các hỗ trợ tài
chính mang tính bóp méo thương mại trong ngành nông nghiệp thì các doanh
nghiệp nhà nước sẽ là thành phần bị tác động lớn nhất hay nói cách khác họ sẽ là
người bị thua thiệt nhiều nhất, đơn giản chỉ bởi vì hiện nay họ là người được
hưởng lợi chủ yếu từ hàng rào bảo hộ cũng như hỗ trợ của Chính phủ. Do đó,
tiếp tục đổi mới những doanh nghiệp Nhà nước này cần phải liên hệ trực tiếp với
quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng hơn. Đảm bảo ngành nông nghiệp có thể điều
chỉnh nhanh chóng với những thách thức và cơ hội mới nảy sinh sẽ đỏi hỏi các
doanh nghiệp Nhà nước phải nhanh nhẹn định hướng thương mại và không gây
trở ngại cho khu vực kinh tế phi Nhà nước trong cạnh tranh về các nguồn lực.
Về các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, Chính phủ đã có Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 quy định
về việc trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hay nghị định 87/2002/NĐ-
CP về cung cấp và sử dụng các dịch vụ tư vấn….
66
Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn thiếu trầm trọng các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SMEs) hoạt động ở các vùng nông thôn. Các SME sử dụng một số
lao động thuê bên ngoài và rất linh hoạt đối với những yêu cầu của thị trường về
sản phẩm cũng như các qui định về hợp đồng và thường có chi phí sản xuất thấp
hơn khiến các doanh nghiệp này cạnh tranh hơn và nhanh nhẹn hơn so với các
doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn hơn. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng,
sự tăng trưởng của thành phần này sẽ tạo ra những động lực cho nền kinh tế
nông thôn thông qua sự liên kết ngược với sản xuất nông nghiệp và liên kết xuôi
với các ngành khác không trong nền kinh tế.
Hiện nay, những trở ngại chủ yếu đối với sự hình thành và phát triển của SMEs
là liên quan đến vốn, tiếp cận về đất và thiếu sự cơ sở hạ tầng và các thể chế giúp
đỡ. Trong những năm tới, Chính phủ cần ưu tiên hơn nữa cho việc giải quyết
những trở ngại này, nhất là liên quan đến tiếp cận vốn vay và môi trường chính
sách đất đai.
1.10. Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp
Để có môi trường cạnh tranh lành mạnh và đáp ứng những quy định của
WTO thì tự thân thị trường và các doanh nghiệp không thể tạo ra, mà phải có vai
trò can thiệp của Nhà nước khi trên thị trường xuất hiện các hành vi kinh doanh
sai luật và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong điều kiện ở nông thôn của một nền kinh tế như Việt Nam hiện nay, các
doanh nghiệp còn yếu và hạn chế về các hoạt động thị trường (vốn, đất đai, lao
động), chưa hiểu được các nguyên tắc cơ bản của cạnh tranh trong kinh tế thị
trường, giữa những doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác có sự cách biệt rất xa và sự khác biệt giữa các doanh
nghiệp còn tăng lên theo khoảng cách gần, xa với các thành phố, trung tâm công
nghiệp, dịch vụ. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước vào từng khu vực sẽ không
giống nhau và phải theo các đặc thù của từng nhóm doanh nghiệp. Trong thời
gian tới, Nhà nước sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến độ cải cách các doanh nghiệp Nhà
67
nước trong nông nghiệp, nông thôn theo đúng các quy luật của kinh tế thị
trường.
Theo đó, các doanh nghiệp Nhà nước trong nông, lâm, thuỷ sản được quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của thị trường trên các nguồn lực mà
Nhà nước giao và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh trước pháp luật. Các chính sách hỗ trợ đối với sản xuất nông, lâm, thuỷ
sản sẽ được triển khai chung theo vùng hoặc theo ngành sản phẩm dựa trên quy
hoạch do Nhà nước xác định, đồng thời, xoá bỏ những ưu đãi đối với doanh
nghiệp Nhà nước trong việc tiếp nhận các khoản hỗ trợ của Nhà nước như hiện
nay.
Đối với khu vực hợp tác xã và các tổ chức kinh tế hợp tác nhỏ ở nông thôn,
Nhà nước cần triển khai đồng bộ những quy định về các chính sách khuyến
khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã, Luật hợp tác xã để giúp khu vực này có đủ
năng lực tham gia cạnh tranh trên thương trường, nâng cao năng lực hợp tác
trong các hoạt động dịch vụ và sản xuất, kinh doanh.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, cần phải tiếp tục triển khai những công việc
như: tổ chức nối mạng hệ thống thông tin đăng ký kinh doanh doanh nghiệp
trong cả nước và bãi bỏ quy định doanh nghiệp chỉ được đăng ký thành lập ở cơ
quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh; từng tỉnh hoặc một số tỉnh trong vùng cần
phối hợp tổ chức định kỳ hàng năm hội nghị gặp mặt các chủ doanh nghiệp
thuộc mọi loại hình ở nông thôn để trao đổi kinh nghiệm và đối thoại với các cơ
quan quản lý Nhà nước có liên quan...
Bên cạnh đó, cần tiếp tục xây dựng và duy trì các điều kiện cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch giữa các loại hình doanh nghiệp trên mỗi vùng sản xuất ở nông
thôn bằng cách quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, vùng chuyển đổi sang
công nghiệp, dịch vụ cụ thể và mang tính dài hạn, tạo cơ sở pháp lý ổn định để
các loại hình doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển kinh doanh lâu dài.
Ngoài ra, Nhà nước nên chú trọng vào việc khuyến khích phát triển các hội,
hiệp hội doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức xã hội dân sự
68
như hội, hiệp hội doanh nghiệp, v.v... có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng,
được coi như một trong “ba trụ cột của nền kinh tế thị trường”. Trước mắt Nhà
nước cần xúc tiến hoàn chỉnh Dự thảo Luật về Hội. Cơ quan nhà nước cần chú
trọng hơn nữa vị trí và vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, khuyến khích
thành lập nhiều hội, hiệp hội doanh nghiệp, nhất là các hội ngành nghề; có thái
độ tôn trọng tiếng nói của đại diện cộng đồng doanh nghiệp, cùng hiệp hội tổ
chức những cuộc đối thoại thẳng thắn, giải quyết các vướng mắc, tạo thuận lợi
đến mức cao nhất cho doanh nghiệp phát triển đồng thời bảo đảm sự quản lý cần
thiết của Nhà nước.
Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất, chất lượng, vệ
sinh-an toàn thực phẩm đối với từng loại sản phẩm của nông, lâm, thuỷ sản,
công nghiệp chế biến, sản phẩm làng nghề... và những hạn chế trong sử dụng
nguồn lực, tài nguyên trên mỗi vùng sản xuất ở nông thôn cần sớm ban hành cho
mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt thành phần, quy mô, tạo cơ sở để
các loại hình doanh nghiệp và tư nhân xem xét, quyết định đầu tư tham gia kinh
doanh và cạnh tranh trên những điều kiện và tiêu chuẩn do Nhà nước ban hành.
Tóm lại, vai trò của Chính phủ chính là đề ra đường lối chính sách nhằm định
hướng, hỗ trợ cho sự phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng và các doanh
nghiệp nông nghiệp nói chung. Các Bộ , ban ngành có liên quan chịu trách
nhiệm triển khai chủ trương chính sách ấy.
2. Các giải pháp từ phía Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc
định hướng cho các doanh nghiệp nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh gia nhập
WTO . Đây là cơ quan phải chịu trách nhiệm chính trong việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của ngành và của doanh nghiệp. Những việc mà Bộ cần triển khai
sớm đó là:
Một là, rà soát các chính sách áp dụng trong ngành, kiến nghị Nhà nước tiếp
tục hỗ trợ cho nông nghiệp theo các nhóm chính sách phù hợp với quy định của
69
WTO ( các chính sách trong nhóm hộp xanh hoặc các chính sách mà các nước
đang phát triển được phép áp dụng) nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa
nông lâm sản Việt Nam, chủ yếu thông qua nghiên cứu và chuyển giao khoa học
kĩ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hai là, cải cách hành chính, giảm thiểu các thủ tục phiền hà cho các doanh
nghiệp. Nâng cao năng lực thực thi phấp luật trong quản lí chuyên ngành nông
nghiệp.
Ba là, theo dõi sát sao tình hình thực hiện các hiệp định tự do hóa thương mại
đề phòng trường hợp hàng nhập khẩu tràn vào quá nhiều gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sản xuất trong nước để có các biện pháp tự vệ chính đáng, kịp thời (
quyền tự vệ, chống bán phá giá hoặc chống gian lận thương mại, …)
Bốn là, đẩy mạnh quá trinh sắp xếp, tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp nhà
nước trong ngành nông nghiệp. Triển khai mạnh công tác cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Trong những năm vừa qua, quá trình đổi mới các doanh nghiệp
Nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn diễn ra hết sức chậm
chạp vì nhiều lý do khác nhau, ví dụ như quá trình đánh giá tài sản chưa phù hợp
và không rõ ràng, sự chống đối trong bản thân nhiều doanh nghiệp. Dù sao, để
đổi mới triệt để doanh nghiệp Nông nghiệp, Bộ cần phải có những hành động
quyết liệt hơn để không còn phải quản lý trực tiếp những doanh nghiệp này với
mục tiêu cơ bản là thay đổi về quyền sơ hữu. Trước tiến, MARD nên đánh giá lại
hoạt động của các doanh nghiệp nông nghiệp. Dựa trên những đánh giá đó, Bộ
có thể xác định những chiến lược phù hợp nhất đối với từng doanh nghiệp bao
gồm cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê hay giải thể. Cùng với quá trình này, Bộ
phải bỏ những trợ cấp đối với các doanh nghiệp Nhà nước từ nguồn ngân sách.
Từng bước tiến tới thông nhất giữa Luật doanh nghiệp Nhà nước và Luật Doanh
nghiệp thành một Luật doanh nghiệp chung để không còn bất kỳ một đối xử đặc
biệt nào đối với bất kỳ doanh nghiệp nào dựa trên quyền sở hữu. Chính sách này
cũng dẫn đến một hệ thống cạnh tranh hơn, cho phép mọi doanh nghiệp, dù là tư
70
nhân hay Nhà nước sở hữu, được cạnh tranh bình đẳng và hợp tác để từng bước
tiến tới hình thành một ngành nông nghiệp cạnh tranh, đa dạng và định hướng thị
trường.
Năm là, xây dựng và triển khai chương trình đào tạo cán bộ quản lí, lãnh đạo
doanh nghiệp nhằm nâng cao kiến thức luật pháp quốc tế, quản trị kinh doanh,
thương mại điện tử…
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động phổ biến thông tin thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế trong toàn ngành để các doanh nghiệp và bà con nông dân nắm bắt được
các cơ hội và thách thức làm cơ sở cho việc định hướng sản xuất kinh doanh của
mình, xúc tiến xây dựng sàn giao dịch tập trung cho các ngành hàng để minh
bạch hòa các thông tin về thị trường và tạo thuận lợi hơn cho quá trình giao dịch.
Cuối cùng, phối hợp với Bộ Thương mại trong Chương trình xúc tiến thương
mại quốc gia để hỗ trợ cho các hiệp hội ngành hàng tổ chức các hoạt động xúc
tiến thương mại hàng nông lâm sản (khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển
lãm, xây dựng hệ thống thông tin, tư vấn thị trường, thương hiệu…), tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia để được hưởng lợi từ các chương
trình này.
Như vậy, vai trò của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chính là cụ thể
hóa các quan điểm. chính sách của Nhà nước trong việc tạo điều kiện năng lực
cạnh tranh cho các doanh nghiệp nông nghiệp.
3. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp nông nghiệp
Bên cạnh những cải cách từ phía cơ quan quản lí, bản thân các doanh nghiệp
nông nghiệp Việt Nam cần tích cực cải thiện hoạt động của mình mới mong đủ
sức cạnh tranh trong nền kinh tế hội nhập, nơi mà có không ít các đối thủ lớn với
kinh nghiệm và các tiềm lực khác.
3.1. Đào tạo nguồn nhân lực
71
Con người là yếu tố tối quan trọng tạo nên thành công của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên
trên các mặt chuyên môn, vi tính, ngoại ngữ cũng như tần suất được cập nhật
kiến thức thông qua việc làm việc với chuyên gia bên ngoài, tham quan/làm việc
tại nước ngoài …, nâng cao nhận thức và hiểu biết cho các nhà quản lí doanh
nghiệp về sân chơi lớn WTO và các quy định của nó, để tránh những thua thiệt
có thể gặp phải do không am hiểu về luật chơi.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nông nghiệp cũng nên có những chính sách thu
hút, đãi ngộ đối với nhân tài để có thể cải thiện được chất lượng nguồn nhân lực
trong đơn vị mình, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.2. Nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật, trang thiết bị trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp nên có chiến lược đầu tư dài hạn vào các trang thiết bị kĩ thuật
phục vụ cho sản xuất nhằm nâng cao năng suất cũng như chất lương sản phẩm
của doanh nghiệp mình. Những dây chuyền sản xuất cũ, lỗi thời có thể có giá
mua rẻ nhưng hiệu quả không cao, thậm chí có thể làm phát sinh nhiều chi phí
cho việc sửa chữa, mà chất lượng hàng nông sản lại không được đảm bảo.
Bên cạnh đó, ở khía cạnh quản lí, việc đưa vào sử dụng máy vi tính, cũng như
các phần mềm quản lí doanh nghiệp là hết sức cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn
công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão hiện nay. Việc đầu tư vào hệ
thống phần mềm kế toán, quản lí nguyên vật liệu, kho bãi…, internet cũng mang
lại hiệu quả cao, nhanh chóng trong việc tìm kiếm nguồn hàng, mối tiêu thụ từ
nước ngoài. Hơn thế nữa, các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng có thể được kiểm soát chặt chẽ và khoa học hơn.
3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ
Các doanh nghiệp nông nghiệp cần có kế hoạch đa dạng hóa các sản phẩm
kinh doanh của mình cả trong chiều rộng và chiều sâu nhằm tránh được những
rủi ro trong kinh doanh và sử dụng nguồn lực có hiệu quả. Nhất là khi đặc thù
của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi thường đòi hỏi khoản đầu tư ban
72
đầu và chu kì sản xuất kinh doanh dài. Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ sẽ giúp
doanh nghiệp bớt lúng túng hơn khi vấp phải những biến đổi về giá cả và nhu
cầu của thị trường.
Về giá thành, các doanh nghiệp cần phải nắm được khả năng cạnh tranh hiện
tại về giá các sản phẩm, dịch vụ của mình so với các doanh nghiệp khác. Đồng
thời có chiến lược tốt trong cắt giảm chi phí sản xuất, để có đưa ra mức giá cạnh
tranh hơn so với đối thủ.
Về chất lượng sản phẩm: đây là một đòi hỏi quan trọng. Sản phẩm, dịch vụ
có chất lượng tốt, người tiêu dùng mới quan tâm, doanh nghiệp mới khẳng định
được tên tuổi của mình. Để có thể nâng cao được chất lượng, doanh nghiệp cần
đầu tư nhiều hơn vào công nghệ, giống, quy trình kĩ thuật, kiểm soát chặt chẽ
việc thu hoạch cũng như gom hàng từ nông dân và các thương lái…
Ngoài ra, trong điều kiện hội nhập, việc khẳng định thương hiệu cho sản
phẩm cung hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp nông nghiệp nên quan tâm
nhiều hơn đến đăng kí nhãn hiệu sản phẩm cũng như có chiến lược xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm của mình cả trong thị trường nội địa và quốc tế.
3.4. Cải thiện và sử dụng có hiệu quả hệ thống thông tin thị trường
Đây là một giải pháp quan trọng cho khâu tiêu thụ của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp cần đưa vào ứng dụng hệ thống thông tin tiên tiến và các công cụ
dự báo thị trường chứ không phải chỉ dựa trên kinh nghiệm.
Việc này có thể được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin hiện đại,
các thương vụ qua tham tán thương mại, thành lập văn phòng đại diện ở nước
ngoài, thuê chuyên gia tư vấn….Ở cáp độ ngành hàng, nên hỗ trợ các doanh
nghiệp qua việc thành lập các sàn giao dịch, cung cấp cho doanh nghiệp nhiều
hơn nữa các thông tin rõ ràng, minh bạch về thị trường.
3.5. Tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại
Không phải khi không bán được hàng, doanh nghiệp mới quan tâm đến việc
quảng bá, mà ngay từ đầu, các doanh nghiệp nông nghiệp cần quan tâm nhiều
hơn đến đầu tư cho quảng cáo và nghiên cứu phát triển . Không chỉ quảng cáo
73
thông qua các phương tiên thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình…, các
hội chợ triển lãm do Bộ ngành tổ chức cũng là cơ hội tốt để doanh nghiệp quảng
bá cho sản phẩm của mình. Các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa mang tính
quốc tế cũng là cơ hội xúc tiến thương mại rất tốt. Doanh nghiệp nông nghiệp
cần chú trọng và tích cực tham gia vào các hoạt động này.
3.6. Xây dựng hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp hợp lí và có hiệu quả
Hệ thống này bao gồm từ khâu thu mua nguyên liệu, sản xuất đến tiêu thụ…
doanh nghiệp nên chú trọng vào tìm kiếm nguồn cung cấp ổn định cho sản xuất
của doanh nghiệp mình. Các hình thức thu mua cũng nên được đa dạng hóa, có
thể chủ động xây dựng vùng nguyên liệu, mua trực tiếp từ người nông dân, qua
thương lái hoặc hợp tác với doanh nghiệp khác…
Về kênh tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần chú ý không nên chỉ tập trung
vào xuất khẩu mà bỏ qua thị trường tiêu thụ trong nước.Các doanh nghiệp có thể
tiêu thụ sản phẩm dựa vào hệ thống phân phối của chính mình hoặc dựa trên
mạng lưới tiêu thụ của các doanh nghiệp khác , việc hợp tác giữa nhiều doanh
nghiệp để mở rộng mạng lưới phân phối cũng là vấn đề nên được lưu tâm xem
xét.
3.7. Tăng cường mối quan hệ khách hàng, liên kết, hợp tác và nâng cao uy tín
của doanh nghiệp đối với các đối tác và khách hàng
Các doanh nghiệp có thể tham gia các Hiệp hội để tìm kiếm cơ hội hợp tác
làm ăn, quảng bá thương hiệu, cũng như tìm kiếm thị trường, đồng thời tạo ra sự
gắn kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành hàng, hạn chế hiện tượng tranh
mua tranh bán, làm giảm sức cạnh tranh so với các đối thủ nước ngoài.
Thực tế cho thấy, hiện nay đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô
nhỏ, vốn ít, trình độ học vấn, kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (nhất là
luật pháp quốc tế) không cao, trình độ tay nghề của người lao động thấp... Trong
điều kiện này, để thực hiện chiến lược cạnh tranh cần phải và nhất thiết phải thực
hiện phương châm liên kết và hợp tác để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng
cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp tác không phải là phép tính
74
cộng tổng số các doanh nghiệp, mà chính là tạo ra sức mạnh bội phần của các
nhóm, các tập đoàn kinh tế cùng sản xuất kinh doanh một (hoặc một số) sản
phẩm nhất định và cùng thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương mại
và quảng bá sản phẩm trên thị trường.
Vấn đề giữ chứ tín cũng là một yếu tố sống còn đối với không chỉ riêng các
doanh nghiệp nông nghiệp. Các trường hợp bất tín thường xảy ra giữa doanh
nghiệp đối ới các khách hàng là người cũng cấp nguyên liệu chế biến, dẫn đến
mất niềm tin, gây khó khăn cho chính các doanh nghiệp do vấp phải sự phản đối
từ các nguồn cung cấp, nhiều khi có thể dẫn đến ngưng trệ hoạt động và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong hoạt động xuất khẩu, giá cả
luôn có sự biến đổi, nhưng các doanh nghiệp cần xác định cho mình tâm lí hợp
tác là lâu dài chứ không phải làm ăn chụp giật, sẵn sàng hủy hợp đồng để làm ăn
với doanh nghiệp khác khi giá sản phẩm có chiều hướng đi lên. Đây là một cách
cư xử rất kém gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của doanh nghiệp và về
lâu dài, việc tìm kiếm đối tác là rất khó khăn.
3.8. Ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin và thương mại điện
tử vào hoạt động kinh doanh
Internet là một công cụ hữu hiệu đưa doanh nghiệp ra với thế giới, góp phần
kéo gần hơn khoảng cách giữa doanh nghiệp và đối tác , đồng thời cũng mở ra
nhiều cơ hội hơn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, đầu tư cho thương mại điện tử là
một hướng đi mới có nhiều lợi ích và phù hợp với xu hướng trên thế giới. Các
doanh nghiệp nông nghiệp nên quan tâm nhiều hơn đến phương thức kinh doanh
mới này.
3.9. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp và tăng cường năng lục của chủ doanh
nghiệp cũng như các cán bộ quản lí
Văn hóa doanh nghiệp, nói một cách khái quát là "đạo làm giàu", tức là làm
giàu một cách có văn hóa: Làm giàu cho bản thân, làm giàu cho doanh nghiệp,
làm giàu cho xã hội và cho đất nước. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải và tính
năng động sáng tạo là những giá trị xã hội mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh
75
nghiệp phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh nghiệp tạo ra môi trường văn
hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc đẩy sức sáng tạo và sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực của các chủ doanh nghiệp và các cán bộ
quản lí của doanh nghiệp là đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao sức cạnh tranh so
với các đối thủ. Đầu tiên là nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế - xã
hội, văn hóa, luật pháp...Tiếp theo là năng lực về quản trị kinh doanh, quản trị
chiến lược. Trong mọi điều kiện, doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức
mới, những kỹ năng cần thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo
doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm
phán và giao tiếp v.v...) để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tiếp cận nền
kinh tế tri thức.Để làm được việc này, các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến
lược phát triển bền vững. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến chiến lược cạnh tranh
và những kỹ năng mang tính chiến lược như: Quản trị chiến lược, quản trị rủi ro,
và tính nhạy cảm trong quản lý, phân tích kinh doanh, dự báo và định hướng chiến
lược phát triển...
Tựu chung lại, có thể thấy, “biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”,
nâng cao nhận thức, hiểu biết về sân chơi, luật chơi mới và không ngừng hoàn
thiện mình chính là chìa khóa cho các doanh nghiệp nông nghiệp trong môi
trường cạnh tranh khắc nghiệt mà hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra.
76
KẾT LUẬN
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với sự kiện gia nhập Tổ chức thương mại
WTO, nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như ngành nông nghiệp và nông
thôn nói riêng đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Các doanh nghiệp
nông nghiệp Việt Nam cũng đang từng bước đi lên, khẳng định vị thế và năng
lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ trong khu vực và trên toàn thế giới.
Tuy nhiên , do xuất phát điểm thấp , lại là nước đi sau, các doanh nghiệp nông
nghiệp của chúng ta còn gặp không ít những khó khăn trên con đường hội nhập.
Chính vì thế, để có thể đứng vững, không thể là gì khác ngoài việc cả Nhà nước
và doanh nghiệp đều cần phải cố gắng nỗ lực hết mình để nâng cao sức cạnh
tranh, trước hết là cho các mặt hàng nông sản, kế đến là nâng cao các nghiệp vụ
khác trong kinh doanh quốc tế. Am hiểu về luật chơi và khẳng định được tên tuổi
của mình, các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam sẽ sớm thu được những
thành quả mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, góp phần thúc đẩy nhanh tăng
trưởng của ngành và của cả nền kinh tế. Tin rằng, cùng với sự quan tâm sâu sát
của các cấp, các ngành, cùng với sự năng động, sáng tạo và nỗ lực hoàn thiện
của bản thân các doanh nghiệp, rồi đây, các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
sẽ đứng vững và đủ sức cạnh tranh với các tên tuổi lớn khác trong một sân chơi
nhiều lợi ích mà cũng lắm gian nan như WTO.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, NXB Thống kê (2002), Hà Nội.
2. CIEM và UNDP(2003), Năng lực cạnh tranh quốc gia, NXB Giao thông vận
tải 3. PTS Lê Đăng Doanh, Ths Nguyễn Thị Kim Dung, PTS Trần Hữu
Vân(1998) , Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước, NXB
Lao động.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Báo cáo: Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp nông
nghiệp - Đặng Kim Sơn, Phạm Minh Trí , Viện Chính sách và Chiến lược phát
triển nông nghiệp nông thôn, T10/2006.
5. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch năm 2007 – Bộ NN và PTNT
6. Viện kinh tế và chính trị thế giới : VN sẵn sàng gia nhập WTO ( NXB KH-
XH)
7. Việt Nam - WTO, Những cam kết liên quan đến nông dân, nông nghiệp nông
thôn và doanh nghiệp
(Tài liệu hỏi - đáp phục vụ học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hànhTrung ương Đảng khoá X)
8. Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2002, Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh
công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
9. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Kinh tế VN hội nhập và phát triển bền vững-
Trường ĐH Kinh tế TP HCM(2006)
10. Biên bản Hội nghị toàn thể ISG 2006 : Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
và WTO ngày 25/10/2006.
Bài phát biểu của ngài Bill Tweedell, Đại sứ ĐMTQ Australia tại VN
11. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Dự án “ Tăng cường năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp
và phát triển nông thôn – SCARD II”
12. Chuyên đề : Các nội dung yêu cầu về hội nhập KTQT với WTO khu vực
Nông nghiệp , Trường ĐH Kinh tế TP HCM, Viện nghiên cứu và phát triển,
T4/2007.
13. Nông nghiệp và nông thôn VN : 20 năm đổi mới và phát triển – NXB chính trị
QG
14. Các tạp chí
- Nông nghiệp và phát triển nông thôn
- Kinh tế và phát triển
- Phát triển và hội nhập
- Thời báo kinh tế VN
15. Websites
www.mpi.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.mot.gov.vn
www.agroviet.gov.vn
www.gso.gov.vn
www.isgmard.org.vn
www.vietbao.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4157_9232.pdf