LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt những thập kỷ vừa qua, bên cạnh sự gia tăng về sản lượng sản xuất và đời sống của người dân ngày càng được cải thiện là xu hướng tăng lên của giá cả trên phạm vi toàn thế giới.
Lạm phát được hiểu là sự gia tăng mức giá chung qua thời gian. Bên cạnh một số ít tác động tích cực thì lạm phát có rất nhiều các ảnh hưởng không có lợi cho nền kinh tế, chính vì vậy mà lạm phát luôn là một vấn đề kinh tế vĩ mô được sự quan tâm của tất cả các quốc gia và của nhiều nhà kinh tế lớn.
Khi bàn về lạm phát, mỗi nhà kinh tế đưa ra những quan điểm, những nội dung riêng, và lạm phát ở mỗi quốc gia trong từng thời kỳ khác nhau là không giống nhau.
Chúng ta có thể khẳng định: ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2008 có sự biến động lớn về giá cả (từ thiểu phát vào năm 2000 đến lạm phát 2 con số vào năm 2008). Việc tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân, giải pháp về lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008 là một vấn đề quan trọng, giúp các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp, cũng như từng người dân hiểu rõ thực trạng lạm phát ở nước ta trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất ra các giải pháp, lựa chọn thực hiện các hành vi kinh tế theo hướng tích cực để nước ta đạt được mục tiêu đã đề ra theo Nghị quyết 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 của Chính phủ: "Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững” trong thời gian tới".
Để trả lời một phần của câu hỏi đó, tác giả nghiên cứu đề tài: "Thực trạng và giải pháp về vấn đề lạm phát của Việt Nam trong những năm vừa qua (2000 - 2008) "
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá và làm rõ những lý luận cơ bản về lạm phát.
- Đánh giá thực trạng về lạm phát của nước ta trong thời gian vừa qua. - Đề xuất hệ thống các giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam trong thời gian vừa qua (2007 -2008).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận:
+ Lý thuyết về lạm phát.
+ Các thông tin liên quan đến lạm phát trong giai đoạn (2000 -2008)
+ Quan điểm của nhà nước ta về lạm phát.
- Về thực trạng:
+ Thực trạng về lạm phát của nước ta trong thời gian qua.
+ Những phương án để khắc phục tình trạng lạm phát của nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân loại và hệ thống hoá, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh .
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Cung cấp cho các nhà nghiên cứu hệ thống các lý luận cơ bản về lạm phát, kết quả đánh giá về thực trạng lạm phát của Việt Nam trong các năm gần đây (2000-2008). Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá về thực trạng, đưa ra hệ thống các giải pháp để tác giả tiểu luận và các nhà nghiên cứu quan tâm cùng xem xét, lựa chọn và có đề xuất với các cơ quan hữu quan để áp dụng khi thấy giải pháp tác giả là phù hợp nhằm khắc phục tình trạng lạm phát cao ở nước ta trong các năm 2000-2008.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về lạm phát
Chương 2: Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2000-2008
Chương 3:Những kiến nghị và hoàn thiện các giải pháp.
42 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4063 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp về vấn đề lạm phát của Việt Nam trong những năm vừa qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhân tố sản xuất (lao động, tư bản hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên) và trình độ công nghệ hiện tại. Nhưng vì tiền có tính trung lập, nên nó không ảnh hưởng đến sản lượng.
Với sản lượng phụ thuộc vào các nhân tố sản xuất và công nghệ, thì khi NHTW thay đổi khối lượng tiền tệ và gây ra những thay đổi tương ứng trong giá trị sản lượng danh nghĩa, thì những thay đổi này được phản ánh trong sự thay đổi của mức giá (P).
Như vậy, khi NHTW tăng cung tiền tệ một cách nhanh chóng thì kết quả là lạm phát sẽ tăng.
1.3.2.2. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái.
Việc tăng lên của tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy như đã phân tích ở trên.
1.4. Tác động của lạm phát tới nền kinh tế.
1.4.1. Tác động tích cực.
Nhà kinh tế học đoạt giải Nobel là James Tobin nhận định rằng tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ “dầu bôi trơn” để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi (tiền lương thực tế của người lao động giảm), điều này khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Như vậy việc làm được tạo thêm, tỷ lệ thất nghiệp giảm, sản lượng của nền kinh tế có sự gia tăng.
L
Y = F(L)
Y
Y=Y+a(P-Pe)
Y
P
P tăng
→ W/P giảm
→ Cầu lao động tăng
→ sản lượng tăng, Y tăng.
L
Ld (W/P)
W/P
Thị trường lao động
Hàm sản xuất
Tổng cung
1.4.2. Các hiệu ứng tiêu cực.
Thực tế các nền kinh tế cho thấy lạm phát có thể gây ra những tổn thất cho xã hội.
Thứ nhất, thuế lạm phát.
Theo Mankiw, khi chính phủ tăng nguồn thu bằng cách in thêm tiền, người ta nói chính phủ đánh thuế lạm phát. Song thuế lạm phát không hoàn toàn giống các loại thuế khác, vì không ai trong nền kinh tế nhận được hoá đơn thuế của chính phủ cả. Khi chính phủ in tiền, giá cả sẽ tăng và tiền người dân nắm giữ sẽ giảm giá trị. Do vậy, thuế lạm phát là loại thuế đánh vào những người giữ tiền.
Thứ hai, lạm phát gây ra chi phí thực đơn. Lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí cho sự tăng giá, được gọi là chi phí thực đơn. Chi phí này bao gồm chi phí quyết định giá mới, chi phí in bảng giá và catalô mới cho đối tác và khách hàng, chi phí quảng cáo giá mới và thậm chí cả chi phí giải thích cho khách hàng tại sao có sự thay đổi giá.
Thứ ba, lạm phát làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn. Trong trường hợp lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn), còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
Thứ tư, sự biến dạng của thuế do lạm phát gây ra. Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của các cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
Thứ năm, lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện. Tiền được sử dụng để đo lường và tính toán trong các giao dịch kinh tế. Khi có lạm phát cái thước này co lại. Điều này làm cho việc hạch toán lợi nhuận của các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn và việc lựa chọn đầu tư của các doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn. Nó cũng làm cho các giao dịch hàng ngày trở nên dễ nhầm lẫn hơn.
Thứ sáu, chí phí mòn giày. Lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền nhiều hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ “chi phí mòn giày” để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn không có lạm phát.
Đặc biệt đối với lạm phát không dự kiến được.
Đây là lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải trong xã hội một cách tuỳ tiện. Ví dụ, các điều kiện cho vay nói chung được tính theo các giá trị danh nghĩa dựa trên một tỷ lệ lạm phát dự kiến nhất định. Song nếu lạm phát cao hơn so với dự kiến, người đi vay hoàn trả tiền vay bằng những đồng tiền có sức mua thấp hơn dự kiến. Người đi vay được lợi, còn người cho vay bị thiệt. Ngược lại nếu lạm phát thấp hơn dự kiến, người cho vay được lợi, còn người đi vay phải trả tiền vay bằng những đồng tiền có sức mua cao hơn dự kiến. Nếu lạm phát được dự kiến một cách chính xác, thì hiện tượng tái phân phối thu nhập như vậy không xảy ra, cho dù quy mô lạm phát là bao nhiêu.
1.5. Giải pháp kiềm chế lạm phát.
Kiềm chế hay ổn định lạm phát là hành động của chính phủ và ngân hàng trung ương các quốc gia khi nền kinh tế có lạm phát để hạn chế thấp nhất các tác động tiêu cực của nó tới nền kinh tế. Ngân hàng trung ương có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập hệ thống lãi suất và thông qua các hoạt động khác (sử dụng các chính sách tiền tệ). Lãi suất cao và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ là cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, nhưng lại gây ra thất nghiệp và suy giảm sản xuất. Muốn kiềm chế lạm phát hiệu quả thì phải tìm ra nguyên nhân chính xác của lạm phát và từ đó có những chính sách phù hợp.
Nhìn chung theo các nhà kinh tế học thì có các giải pháp kiềm chế lạm phát sau:
- Thứ nhất, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền trong nền kinh tế, hạn chế phát hành tiền vào lưu thông. Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ, nhằm giảm tổng cầu của nền kinh tế, làm đường AD dịch chuyển sang trái dẫn đến giá cả chung giảm.
- Thứ hai, thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, như tạm hoãn những khoản chi chưa thực sự cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được. Biện pháp này có tác động làm giảm tổng cầu của nền kinh tế, đường AD dịch chuyển sang trái dẫn đến giảm lạm phát.
- Thứ ba, tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào. Biện pháp này có tác động làm tăng tổng cung trong nền kinh tế, làm đường AS dịch chuyển sang phải, qua đó làm giảm mức giá chung.
1.6. Những biện pháp chiến lược.
- Thúc đẩy sản xuất và mở rộng lưu thông hàng hoá làm tăng cung hàng hoá, đảm bảo cân đối tiền – hàng.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, hiệu quả đầu tư đối với nền kinh tế để tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
- Tăng cường công tác dự báo, quản lý và điều hành vĩ mô nhằm ổn định tâm lý dân cư, hạn chế tình trạng lạm phát do tâm lý, kỳ vọng.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2008
Diễn biến lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000-2008 diễn ra khá phức tạp. Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế, nên lạm phát của Việt Nam không chỉ bị tác động bởi các nhân tố trong nước mà còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố từ ngoài nước, và có diễn biến phức tạp, các yếu tố tác động đan xen nhau, nên việc phân tích, đánh giá và tìm ra nguyên nhân để có giải pháp phù hợp là rất cần thiết.
Qua dãy số liệu về chỉ số giá CPI tại biểu đồ trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay có thể được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 2000-2001 là giai đoạn thiểu phát; Giai đoạn 2002-2006 là giai đoạn lạm phát vừa phải; và giai đoạn 2000-2008 là giai đoạn lạm phát tăng cao. Việc chia ra làm 3 giai đoạn để phân tích xác định những nguyên nhân chủ yếu và giải pháp đối với lạm phát của mỗi giai đoạn.
Mặc dù có nhiều phương pháp phân tích nguyên nhân của lạm phát như đã nêu ở Phần I, nhưng nhóm phân tích lựa chọn cách tiếp cận dựa trên mô hình tổng cung - tổng cầu là phương pháp cơ bản để phân tích và đánh giá. Đồng thời, do hệ thống thống kê số liệu của Việt Nam còn nhiều hạn chế, nên nhóm phân tích coi CPI là chỉ tiêu lạm phát và coi dãy số liệu CPI là thuần nhất, mặc dù trên thực tế, rổ hàng hoá và tỷ trọng của từng nhóm hàng trong CPI có nhiều thay đổi qua các thời kỳ.
2.1. Tình hình lạm phát giai đoạn 2000 – 2001.
2.1.1. Thực trạng.
Trong khi tốc độ tăng GDP đã được cải thiện, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 6,77%, cao hơn so với mức 5,3% của bình quân 2 năm trước đó, nhưng nền kinh tế trong thời gian này lại rơi vào trạng thái thiểu phát. Trong nhiều tháng của 2 năm này chỉ số giá tiêu dùng CPI giảm so với tháng trước. Đây là hiện tượng chưa từng xảy ra đối với nền kinh tế Việt Nam.
Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng năm 2000, 2001
Tháng
Năm
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
2000
0,4
2,0
0,9
0,2
-0,4
-1
-1,6
-1,5
-1,7
-1,6
-0,7
-0,6
2001
0,4
0,7
0
-0,5
-0,7
-0,7
-0,9
-0,9
-0,4
-0,4
-0,2
0,8
2.1.2 Nguyên nhân của lạm phát.
2.1.2.1. Các nguyên nhân tác động đến tổng cầu:
P ASSR
P0 A
P1 B
AD0
AD1
Y1 Y0 Y
- Nền kinh tế thế giới ở thời kỳ suy thoái do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ liên tiếp xảy ra ở các khu vực Châu Á (1997-1998), một số nước Châu Âu (1998) và Châu Mỹ La tinh (1999), đặc biệt sau sự kiện ngày 11/9/2001 ở Mỹ, làm thị trường hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp. Việc xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tuy tăng lượng nhưng giá thế giới lại giảm làm giảm giá trị xuất khẩu, như cà phê tăng 24% về lượng nhưng giảm 23% về giá trị, gạo tăng 2,1% về lượng nhưng giảm 11,8% về giá trị. Việc giảm giá trị xuất khẩu tác động đến xuất khẩu ròng, đường tổng cầu dịch trái và giá cả giảm.
LM*2 LM*0 LM*1
r
r
IS*1 IS*o
Y2 Yo Y1 Y
- Đồng thời, trong giai đoạn này, lãi suất trên thế giới tăng, nhiều khi cao hơn lãi suất trong nước, làm giảm đầu tư (năm 2000 thâm hụt 754 triệu USD), đường IS* dịch chuyển sang trái, r* tăng làm giảm cầu tiền, đường LM* dịch phải. Tỷ giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khuyến khích xuất khẩu, NHNN vẫn cần thực hiện duy trì tỷ giá ổn định nên phải can thiệp thị trường làm LM* dịch trái. Thu nhập giảm và tỷ giá không đổi. Điều này tác động làm giảm tổng cầu, giá cả giảm.
- Chi tiêu của Chính phủ chậm do nhiều dự án chậm được giải ngân, trong khi đó chi ngân sách của Chính phủ vượt dự toán trong 4 năm liên tiếp (1998-2001) cũng là những nhân tố làm đường tổng cầu dịch trái và giá cả giảm.
2.1.2.2. Các nguyên nhân tác động đến tổng cung:
P AS0 AS1
P0 A
P1 B
AD
Y0 Y1 Y
- Giá cả các nguyên liệu đầu vào trên thế giới như giá dầu mỏ, giá lương thực thực phẩm giảm mạnh do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Đặc biệt là chỉ số giá lương thực thực phẩm trong 2 năm này liên tục âm như Biểu đồ CPI ở trên, trong khi tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm đến 47,9% trong “giỏ” hàng hoá tiêu dùng của Việt Nam. Giá dầu cũng liên tục giảm, từ mức khoảng 30 USD/thùng đầu năm 2000 xuống còn 19,5 USD/thùng vào cuối năm 2001. Giá cả chi phí đầu vào giảm là nhân tố tác động làm tăng tổng cung, đường AS dịch phải, nền kinh tế di chuyển từ điểm A tới điểm B, kết quả là giá cả giảm.
- Việc áp dụng các chính sách thuế mới như VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp đã loại trừ được chồng chéo trong tính toán, điều tiết thu nhập khoa học, từng bước khuyến khích các thành phần kinh tế điều tiết sản xuất kinh doanh, làm tăng cung, đường AS dịch chuyển phải và giá cả giảm nhưng nền kinh tế đạt mức tăng trưởng (đồ thị trên).
2.1.3 Giải pháp.
Nền kinh tế thiểu phát sẽ kéo theo sản suất đình trệ và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Vì vậy, trong giai đoạn này, Chính phủ đã thực hiện các giải pháp để khắc phục tình trạng thiểu phát, cụ thể:
2.1.3.1. Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua một loạt các biện pháp:
Tác động của tăng cung tiền
r LM0 LM1
r0 A
r1 B
IS
Yo Y1 Y
P AS
P1 A
P0 B
AD1
AD0
Y0 Y1 Y
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 5% xuống còn 3% vào tháng 5/2001 để khuyến khích tăng lãi suất huy động VND. Đồng thời, trong khoảng thời gian từ tháng 11/2000 đến tháng 5/2001, để hạn chế tác động của lãi suất quốc tế đối với thị trường Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (sau đây viết tắt là NHNN) đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD 3 lần từ 5% lên 15%. Đến tháng 12/2001, do tình trạng lãi suất VND thấp hơn lãi suất ngoại tệ, NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ xuống 10%.
- Liên tục điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng (sau đây viết tắt là TCTD) xuống còn 0,4%/tháng. Thực hiện 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 0,75%/tháng xuống còn 0,6%/tháng. Điều chỉnh giảm mạnh 2 lần đối với trần lãi suất huy động ngoại tệ của pháp nhân tại các TCTD từ mức 3,5%/năm loại trên 6 tháng xuống mức 1%/năm.
2.1.3.2. Thực hiện các biện pháp kích cầu của Chính phủ:
- Điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu, qua đó làm tăng thu nhập khả dụng của dân cư, tăng tổng cầu làm đường AD dịch phải, làm tăng thu nhập và tăng mức giá cả chung. Đồng thời, việc điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu cũng làm tăng chi phí sản xuất, tác động làm đường AS dịch trái làm tăng giá.
- Bên cạnh việc điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu, Chính phủ thực hiện biện pháp giảm giờ làm từ 48 tiếng/tuần xuống còn 40 tiếng/tuần. Như vậy, chi phí thực tế trả lương cho người lao động tăng lên, làm tăng chi phí sản xuất chung, đường IS dịch trái làm tăng giá.
2.2. Tình hình lạm phát giai đoạn 2002-2006.
Trong giai đoạn 2002-2006, lạm phát Việt Nam duy trì mức tăng 1 con số. Đây là mức tăng trưởng có thể nói là phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhờ vậy đã góp phần tích cực làm kinh tế Việt Nam giai đoạn này duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2002-2006 là 7,7%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6,45% của 5 năm trước 1997-2001.
Bảng 2: Tốc độ tăng CPI và GDP 2000-2006
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
CPI
-0,6
0,8
4,0
3,0
9,5
8,4
6,6
GDP
6,75
6,84
7,04
7,24
7,69
8,43
8,17
2.2.1. Nguyên nhân.
Có thể phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát trong thời kỳ này theo mô hình tổng cung- tổng cầu cụ thể như sau:
2.2.1.1. Các nhân tố tác động tổng cầu:
- Trước hết, khi xem xét các nhân tố tác động đến tổng cầu của nền kinh tế thì các chỉ tiêu tiền tệ, trong đó có cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng là những nhân tố quan trọng. Trong giai đoạn 2002-2006, do nguồn vốn đầu tư tư nhân trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân hàng thì tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đã đóng góp đáng kể để tăng đầu tư, góp phần làm tăng cầu của nền kinh tế, ảnh hưởng nhất định đến lạm phát. Mức tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) bình quân đạt 27,25% và tín dụng tăng ở mức bình quân 26% mỗi năm được coi là tương đối phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng, nhưng cũng có tác động nhất định đến mức lạm phát vừa phải trong giai đoạn này. Qua biểu đồ trên cho thấy mặc dù trong giai đoạn 2000-2003, CPI và các chỉ tiêu tiền tệ hầu như không có mối quan hệ, nhưng trong giai đoạn 2004-2006, CPI và các chỉ tiêu tiền tệ có quan hệ khá chặt chẽ. Và tốc độ tăng trưởng cao của M2 và tín dụng trong giai đoạn 2004-2006 đã có tác động nhất định đến tăng tổng cầu và tăng chỉ số giá tiêu dùng.
- Một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm tăng tổng cầu góp phần làm tăng GDP và đưa Việt Nam từ giai đoạn thiểu phát 2000-2001 sang lạm phát thấp vào giai đoạn này là do diễn biến kinh tế quốc tế diễn ra khá thuận lợi. Kinh tế thế giới trong giai đoạn phục hồi mạnh sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu theo báo cáo của IMF tăng mạnh từ mức 1,2% của năm 2001 lên mức 1,9% năm 2002; 2,5% năm 2003; 5,1% năm 2004; 4,3% năm 2005; 5,1% năm 2006. Kinh tế thế giới tăng trưởng tạo điều kiện cho thúc đẩy xuất khẩu, cũng như việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cải thiện cán cân thanh toán, nhất là trong năm 2006. Luồng vốn nước ngoài vào nhiều, nhưng các biện pháp trung hoà của Ngân hàng Nhà nước chưa được thực hiện kịp thời đã góp phần làm tăng M2 gây ra lạm phát.
- Cùng với diễn biến kinh tế thế giới khá thuận lợi, việc thực hiện các hiệp định thương mại Việt-Mỹ và lộ trình cắt giảm thuế để gia nhập AFTA, cùng với việc ký kết hiệp định EU trong năm 2003 và các Hiệp định song phương khác đã tác động tích cực làm tăng tổng cầu nền kinh tế.
- Thu nhập của dân cư đã tăng lên đáng kể, tác động không nhỏ đến tăng tiêu dùng và tăng tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng mạnh, từ mức 440 USD/người năm 2002 lên mức 725 USD/người năm 2006. Thêm vào đó, việc cải cách chế độ tiền lương của Chính phủ đã được thực hiện cùng với các biện pháp kích cầu khác của Chính phủ, như giảm giờ làm từ 48 tiếng/tuần xuống còn 40 tiếng/tuần, một mặt làm tăng tiêu dùng của nền kinh tế, nhưng mặt khác cũng làm gia tăng chi phí sản xuất, đã có tác động làm gia tăng giá cả.
- Chi tiêu của Chính phủ là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng giá cả. Chi ngân sách thường xuyên tăng vượt dự toán trên 6%, riêng năm 2004 lên tới trên 20%. Nguồn chi của Chính phủ, đặc biệt là chi vào các công trình dự án lớn như Thuỷ điện Yaly, đường Hồ Chí Minh đã góp phần tích cực trong việc kích cầu và tăng trưởng kinh tế, đồng thời khắc phục tình trạng thiểu phát của Việt Nam.
- Tuy nhiên, trong các nhân tố tác động đến tổng cầu, trong giai đoạn này cũng có nhân tố làm giảm tổng cung. Đó là cán cân thương mại của Việt Nam bắt đầu chuyển từ trạng thái thặng dư sang thâm hụt lớn, tức là xuất khẩu ròng của Việt Nam bị giảm sút.
Như vậy, xét về các yếu tố bên cầu trong giai đoạn 2002-2006, nền kinh tế xuất hiện cả những yếu tố làm tăng cầu và những yếu tố làm giảm cầu, nhưng nhìn chung những yếu tố tăng cầu là chủ yếu, làm cho đường AD dịch chuyển phải, dẫn đến lạm phát tăng.
2.2.1.2. Các nhân tố tác động đến tổng cung:
Qua biểu Tốc độ tăng GDP 2000-2006 nêu trên, có thể nhận thấy tốc độ tăng CPI năm 2004 có mức gia tăng đột biến và tiếp tục duy trì trong những năm tiếp theo. Bên cạnh những nhân tố tác động đến bên cầu làm tăng lạm phát như đã nêu trên, việc tăng CPI năm 2004 còn có những tác động từ phía cung. Đó là:
- Giá nguyên liệu đầu vào như dầu thô, thép, nhựa, phân bón... trên thị trường thế giới tăng cao, làm chi phí sản xuất tăng, ảnh hưởng đến tổng cung của nền kinh tế và làm tăng giá. Giá dầu thế giới tăng từ mức 32 USD/thùng vào đầu năm 2004 lên đến mức kỷ lục 56 USD/thùng vào tháng 10/2004 và tăng dần trong những năm tiếp theo. Trong nước, Bộ Tài chính đã 2 lần điều chỉnh tăng giá xăng dầu vào tháng 2 và tháng 6/2004.
- Giá lương thực thực phẩm cũng tăng mạnh, chủ yếu là do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và do tăng giá phân bó, dầu thô. Chỉ số giá lương thực thực phẩm so với cùng kỳ năm trước đã có lúc lên đến 17% (vào tháng 9/2004) và cũng là mức tăng cao nhất trong 5 năm trước đó. Trong rổ hàng hoá tính CPI của Việt Nam, quyền số đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm lên đến 47,9% theo điều tra năm 2000 (đến cuộc điều tra năm 2005, quyền số đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm giảm xuống còn 42,85%). Do vậy, việc tăng giá nhóm hàng lương thực thực phẩm đã có ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng giá trong năm này.
Do lương thực thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong rổ hàng hoá tiêu dùng của Việt Nam, nên việc tăng giá hàng lương thực thực phẩm sẽ có những ảnh hưởng “dây chuyền” đến nhu cầu tăng lương, tăng chi phí sản xuất. Cùng với việc tăng giá các nguyên liệu đầu vào khác đã gây nên tác động “tâm lý” đối với kỳ vọng về lạm phát, làm giá cả tiêu dùng tăng mạnh.
2.2.2. Các giải pháp kiềm chế lạm phát.
Tác động của giảm cung tiền
r LM1 LM0
r1 B
r2 A
IS
Y1 Y0 Y
P AS
P1 A
P2 B AD0
AD1
Y1 Y0 Y
Trước tình hình chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2004 có xu hướng tăng cao, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát đồng bộ, bằng việc ban hành chỉ thị số 30/2004/CT-TTg ngày 05/8/2004 về các biện pháp kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường trong thời gian trước mắt, cụ thể:
Tác động giảm thuế đến CPI
r LM0
r2 B
r1 A
IS0 IS1
Y0 Y1 Y
P AS0 AS1
P1 A
P2 B
AD0
Y0 Y1 Y
- Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, tích cực, chặt chẽ như điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong tháng 7/2004 từ mức 2% lên 5% đối với tiền gửi huy động bằng VND và tăng từ mức 4% lên 8% đối với tiền gửi huy động bằng ngoại tệ, đồng thời không trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc để tăng hiệu quả sử dụng vốn của các TCTD; tăng cường thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Các biện pháp này có tác động làm hạn chế cung tiền (đường LM dịch trái sang LM1), giảm tổng cầu (đường AD dịch trái sang AD1) và kiềm chế lạm phát như biểu đồ bên.
- Thực hiện tăng cường quản lý chặt chẽ chi tiêu tài khoá. Cắt giảm 10% kinh phí chi thường xuyên, nâng cao hiệu quả công tác tiết kiệm trong đầu tư. Việc cắt giảm chi tiêu chính phủ có tác động làm đường IS dịch trái, tổng cầu của nền kinh tế giảm và tác động làm giảm lạm phát nhưng cũng làm giảm thu nhập.
- Điều chỉnh thuế giảm đối với các mặt hàng nguyên liệu đầu vào như phôi thép, clanke phù hợp. Ngày 01/3/2004, thuế phôi thép được điều chỉnh giảm xuống 0%, nhưng đến ngày 15/6/2004 tăng lên 10% và đến ngày 31/8/2004 giảm xuống còn 5%. Thuế clanke để sản xuất xi măng cũng được giảm từ 40% xuống còn 10%. Việc điều chỉnh giảm thuế có tác động làm tăng đầu tư, đường IS dịch phải sang IS1, tăng tổng cung (đường AS dịch phải sang AS1) và kiềm chế lạm phát.
- Thực hiện bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu như ban hành Nghị định số 169/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 hướng dẫn việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực giá nhằm ngăn chặn các hoạt động đầu cơ tăng giá; tăng cường kiểm soát thị trường đối với các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là mặt hàng tân dược. Đây là biện pháp để ổn định tâm lý của người dân (tác động theo lý thuyết kỳ vọng hợp lý của lạm phát).
Với những biện pháp trên, chỉ số giá tiêu dùng sang năm 2005 và 2006 đã giảm. Tuy nhiên, qua phân tích diễn biến lạm phát trong giai đoạn 2002-2006 cho thấy có những vấn đề nổi lên.
* Thách thức cho những năm tiếp theo:
Một là, về chính sách tiền tệ, tốc độ tăng M2 trong những năm 2004-2006 thường xuyên ở mức trên dưới 30%, trong ngắn hạn có tác động nhất định khuyến khích cho phát triển kinh tế nhưng về dài hạn sẽ có ảnh hưởng đến lạm phát của những năm tiếp theo, nhất là khi các yếu tố tiền tệ có tác động trễ đến lạm phát.
Hai là, về chính sách tài khoá, mặc dù trong giai đoạn 2002-2006, GDP tăng trưởng mạnh và liên tục, nhưng bội chi ngân sách nhà nước hàng năm luôn ở mức 5% GDP. Việc ngân sách thâm hụt kéo dài và với khối lượng ngày càng lớn, có khi phải dùng đến tiền phát hành của Ngân hàng Nhà nước để bù đắp. Theo Frederic S.Mishkin, các trường phái trọng tiền của Friedman và quan điểm của Keynes đã chỉ ra rằng lạm phát cao không thể chỉ do một mình chính sách tài chính thúc đẩy nên, nhưng thâm hụt ngân sách có thể là nguồn gốc gây nên lạm phát khi đó là nguồn thâm hụt dai dẳng mà không phải là tạm thời và khi chính phủ trang trải thâm hụt bằng tạo thêm tiền chứ không phải là phát hành trái khoán ra công chúng. Vì vậy, ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách liên tục trong nhiều năm có thể là một phần nguyên nhân dẫn đến lạm phát tăng cao trong năm 2000-2008.
Ba là, nền kinh tế của Việt Nam còn yếu, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thường “dễ bị tổn thương”. Mặc dù cán cân thanh toán tổng thể từ năm 2002-2006 bội thu cao, nhưng phân tích về cơ cấu thì cán cân vãng lai, đặc biệt là cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt ở mức cao và được bù đắp bằng cán cân vốn. Vì vậy, khả năng chống đỡ đối với các cú sốc bên ngoài, như cú sốc về giá dầu, lãi suất quốc tế, đối với lạm phát là khó khăn.
Bốn là, trong kinh tế vĩ mô, mục tiêu lạm phát và tăng trưởng trong ngắn hạn thường có mâu thuẫn nhau. Vì vậy, trong điều hành cần xác định rõ những mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn. Tuy nhiên, do trình độ dự báo cũng như điều hành còn hạn chế, nên Chính phủ chưa chủ động trong việc lựa chọn mục tiêu lạm phát hay tăng trưởng. Nhất là trong điều kiện tài chính quốc tế đang diễn biến phức tạp như hiện nay thì việc lựa chọn mục tiêu trong điều hành càng trở nên phức tạp.
2.3. tình hình lạm phát giai đoạn 2007 – 2008.
2.3.1. Thực trạng:
Đây là giai đoạn lạm phát tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 là 12,63% (cao nhất kể từ năm 1996 trở lại đây), và đến tháng 10/2008 tăng 21,64% so với tháng 12/2007, tăng 23,15% so với cùng kỳ năm ngoái (cao nhất kể từ năm 1992). Giá cả tăng cao do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Bảng 3: Tình hình tăng chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2007 và 2008
Tháng
Năm
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
2007
1,05
2,17
-0,22
0,49
0,77
0,85
0,94
0,55
0,51
0,74
1,23
2,91
2008
2,38
3,56
2,99
2,2
3,91
2,14
1,13
1,56
0,18
-0,19
2.3.2. Nguyên nhân.
Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2000-2008 là sự kết hợp giữa cả cầu kéo và chi phí đẩy.
2.3.2.1. Các nguyên nhân tác động đến tổng cầu:
Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu cho đầu tư của tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỷ USD, cao hơn 77% so với năm 2006.
Hai là, thu nhập của người dân tăng do tăng trưởng kinh tế liên tục trong các năm gần đây, tiền lương tăng và thu nhập tăng từ kiều hối, đầu tư tài chính và nguồn thu nhập khác, thể hiện ở Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả năm 2007 tăng hơn 20%. Thu nhập của người dân tăng làm cho thói quen tiêu dùng thay đổi và nhu cầu tiêu dùng tăng lên gây áp lực đối với giá hàng tiêu dùng trong khi GDP năm 2007 chỉ tăng 8,48%, cầu vượt cung dẫn đến lạm phát.
Ba là, chính sách tiền tệ được nới lỏng trong khoảng thời gian dài nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng khi bắt đầu xảy ra lạm phát lại chậm được điều chỉnh. Tốc độ tăng trưởng M2 và tín dụng từ năm 2004-2007 thường xuyên tăng ở mức cao, bình quân hàng năm M2 tăng 23%, tín dụng tăng 38%. Chính sách tiền tệ có tác động trễ làm lạm phát tăng cao vào năm 2007, 2008.
Bốn là, luồng vốn nước ngoài vào nhiều, đặc biệt trong năm 2006 và 2007 do môi trường đầu tư thuận lợi, nguồn vốn nước ngoài chảy vào lớn (cán cân vốn liên tục thặng dư ở mức cao). Việc luồng vốn nước ngoài vào nhiều nhưng chưa được NHNN áp dụng ngay các biện pháp trung hoà, hoặc các biện pháp đã áp dụng (như điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vào tháng 6/2007) chưa đủ liều lượng, dẫn đến M2 tăng nhanh, ảnh hưởng đến tổng cầu và lạm phát.
Năm là chi tiêu ngân sách ngày càng lớn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: xây dựng mới đường xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị; khôi phục lại các công trình nhằm khắc phục hậu quả thiên tai.... Thâm hụt ngân sách liên tục trong nhiều năm trong khi quy mô nền kinh tế ngày càng lớn nhưng chưa đặt ra kế hoạch phấn đấu giảm dần bội chi; do đó không tạo được áp lực đối với việc kiểm soát và tiết kiệm chi tiêu ngân sách. Những khoản chi ngân sách lớn nhưng hiệu quả không cao, thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm và một phần được bù đắp bằng việc phát hành thêm tiền dẫn đến hậu quả lạm phát tăng cao.
Sáu là do tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả thị trường tăng cao, dẫn đến hiện tượng "lạm phát kỳ vọng". Trong khi đó, vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường (trong đó có thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản) và quản lý giá cả, quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập, yếu kém; chậm đề ra các chính sách thích hợp, có hiệu quả để quản lý và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các hoạt động này. Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý điều hành. Công tác thông tin tuyên truyền, giải thích tình hình vẫn chưa kịp thời, chưa đủ rõ và thiếu nhất quán, nhất là trước những diễn biến mới và khi ban hành các chính sách, giải pháp có tính nhạy cảm, gây tâm tư lo lắng trong xã hội. Lạm phát kỳ vọng là một yếu tố mới xuất hiện, đẩy lạm phát ngày càng tăng cao, và gây khó khăn trong việc kiểm soát lạm phát của Chính phủ.
2.3.2.2. Các yếu tố bên cung làm tăng lạm phát:
- Trong hai năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu thế giới giá tăng rất cao như: dầu mỏ, than đá, sắt thép, phân bón nhựa...., kéo giá trong nước tăng theo. Đặc biệt, giá dầu mỏ đã liên tục tăng trong năm 2007 và đã lên tới mức trên 90 USD/thùng vào cuối năm 2007, và đạt đỉnh mới 125,96 USD vào ngày 09/5/2008. Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. Như vậy chi phí đầu vào sản xuất trong nước tăng mạnh, tất yếu dẫn đến tăng giá cả hàng hóa do chi phí đẩy.
- Nguồn cung lương thực, thực phẩm giảm mạnh do dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng bùng phát làm giá thực phẩm tăng mạnh. Các trận lũ lịch sử cũng làm nguồn cung lương thực thực phẩm giảm mạnh. Dịch bệnh, thiên tai, thời tiết và yếu tố đầu cơ đã làm cho giá hàng nông sản tăng vọt. Trên thế giới, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, giá cả lương thực tăng vọt đã tác động đến giá lương thực thực phẩm. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng trực tiếp làm cho giá cả và lạm phát tăng cao.
- Nhà nước chủ động thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số loại vật tư đầu vào cơ bản của nền kinh tế, từng bước xóa bỏ bao cấp qua giá đối với một số nhóm hàng (xăng, điện, than, xi măng, thép) đã tác động lên giá cả các mặt hàng tiêu dùng.
- Công nghệ sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng năng suất lao động chậm hơn tốc độ tăng thu nhập và tăng vốn đầu tư đã làm cho giá thành các sản phẩm, hàng hóa tăng lên.
2.3.3. Giải pháp.
Trước tình hình lạm phát liên tục tăng cao, Chính phủ đã đưa ra hàng loạt các chỉ đạo để kiềm chế tốc độ tăng giá của thị trường tại Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ngày 01/8/2007 về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá của thị trường; Công văn số 75/TTg – KTTH ngày 15/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ để đôn đốc thực hiện Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg nêu trên; Chỉ thị số 23/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bình ổn thị trường; văn bản số 319/TTg-KTTH ngày 03/3/2008 về tăng cường biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008; Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Các chỉ đạo của Chính phủ đều tập trung vào những nhóm giải pháp chính như sau:
(1) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục tạo điều kiện để huy động các nguồn vốn phục vụ phát triền kinh tế. Theo đó, NHNN đã thực hiện các giải pháp giảm cung tiền, đẩy đường LM dịch trái nhằm tăng lãi suất, giảm đầu tư, làm đường AD dịch trái và giảm lạm phát, cụ thể nêu một số chính sách như sau:
- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Từ tháng 6 năm 2007 NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp 1,5-2 lần đối với cả tiền gửi DTBB bằng VND và ngoại tệ. Trong tháng 2/2008, NHNN tiếp tục điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB từ 10% lên 11%, đồng thời mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là những biện pháp "mạnh" nhằm giảm cung tiền.
Năm
2004
2005
2006
2007
9/2008
1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
- Kỳ hạn tiền gửi < 12 tháng
2
5
5
10
11
- Kỳ hạn tiền gửi > 12 tháng
1
2
2
4
11
2. Lãi suất cơ bản
7.5
7.8
8.25
8.25
14
3. Lãi suất tái cấp vốn
5
6
6.5
6.5
15
4. Lãi suất chiết khấu
3.5
4
4.5
4.5
13
- Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc vào ngày 17/3/2008 với kỳ hạn 364 ngày nhằm rút bớt lượng tiền trong lưu thông, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng.
Tác động của giảm cung tiền
r LM1 LM0
r1 B
r0 A
IS
Y1 Y0 Y
P AS
P0 A
P1 B AD0
AD1
Y1 Y0 Y
- Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng từ 8,25%/năm - 8,75%/năm - 12%/năm - 14%/năm nhằm từng bước thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa các mức lãi suất điều hành của NHNN với lãi suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất. Đồng thời lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng cho phù hợp (lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm - 6%/năm - 11%/năm - 13%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm - 7,5%/năm - 13%/năm - 15%/năm). Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN áp dụng đối với các TCTD cũng tăng từ 10,8%/năm lên 15%/năm. Việc điều chỉnh tăng các mức lãi suất như trên làm giảm cầu tiền.
- Điều hành chính sách tỷ giá theo nguyên tắc linh hoạt và có kiểm soát, thông qua mở rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại (NHTM) so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ +1% lên +2% ; can thiệp trên thị trường ngoại hối, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường nhằm ổn định thị trường ngoại hối. Theo mô hình Mundell-Fleming, trong điều kiện nền kinh tế nhỏ, mở cửa như của Việt Nam, chính sách tỷ giá linh hoạt có điều tiết sẽ có hiệu quả hơn chính sách tỷ giá cố định. Vì vậy, việc điều chỉnh biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ, kết hợp với điều hành linh hoạt tỷ giá sẽ có tác động tăng hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ.
Sơ đồ thể hiện tác động của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế có tỷ giá hối đoái linh hoạt có hiệu quả cao hơn so với chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
e
Y
LM*
IS*
LM*'
+DM Þ
-De, +DY
Trong chế độ TGHĐ linh hoạt: khi NHTW tăng cung tiền (đường LM dịch phải) làm cho lãi suất trong nước giảm, dẫn đến tỷ giá của đồng nội tệ giảm, từ đó có tác dụng làm khuyến khích xuất khẩu làm tăng xuất khẩu ròng, như vậy tổng cầu tăng lên.
e
Y
LM*
IS*
+DM Þ DY=0
LM*'
Trong chế độ TGHĐ cố định: Khi NHTW tăng cung tiền (đường LM dịch chuyển sang phải), dẫn đến lãi suất giảm, làm cho tỷ giá của đồng nội tệ có xu hướng giảm.
Để duy trì tỷ giá hối đoái cố định, NHTW phải bán ngoại tệ từ nguồn dự trữ, đường LM trở lại trạng thái ban đầu, kết quả là sản lượng của nền kinh tế không đổi.
Biểu đồ: Điều chỉnh tỷ giá năm 2008
(2) Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chính sách tài khóa, phấn đấu tăng thu, quản lý chặt chẽ chi tiêu công, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, phấn đấu giảm bội chi ngân sách so với chỉ tiêu Quốc hội giao. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Tác động chính sách tài khoá thắt chặt đến CPI
r LM
r0 A
r1 B
IS0
IS1
Y1 Y0 Y
P AS0
P0 A
P1 B
AD0
AD1
Y1 Y0 Y
- Rà soát các dự án đầu tư, loại bỏ các dự án không hiệu quả; giãn tiến độ các dự án chưa khởi công hoặc mới khởi công để tập trung vốn cho các dự án sắp hoàn thành, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Xử lý các khó khăn vướng mắc trong đầu tư xây dựng cơ bản đối với các dự án, công trình đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, nhất là việc điều chỉnh đơn giá, hợp đồng xây dựng do yếu tố tăng giá đột biến đối với vật liệu xây dựng.
Việc kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chính sách tài khoá sẽ có tác động làm giảm tổng cầu nền kinh tế, đẩy đường IS dịch trái, đường AD dịch trái và có tác động kiềm chế lạm phát đồng thời cũng làm giảm tổng sản lượng của nền kinh tế.
(3) Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Đảm bảo cân đối cung cầu về hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Đây là biện pháp nhằm tăng cung hàng hoá, làm dịch chuyển AS về bên phải, làm giảm giá cả hàng hoá và tăng sản lượng.
(4) Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu. Về lý thuyết, khi xuất khẩu ròng tăng thì tổng cầu tăng, đường AD dịch phải làm giá cả tăng. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam được thực hiện bằng cách rà soát các thủ tục hành chính để giảm chi phí cho doanh nghiệp, nhằm giảm chi phí sản xuất, đẩy đường AS dịch phải làm giảm giá cả hàng hoá và tăng sản lượng. Đồng thời, việc tăng thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu sẽ làm giảm nhập khẩu, tăng xuất khẩu ròng nhưng không ảnh hưởng đến tổng cầu, do giảm tương ứng phần tiêu dùng trong nước.
(5) Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông, tăng hiệu quả đầu tư. Biện pháp này vừa làm giảm tổng cầu do giảm tiêu dùng, nhưng cũng có tác dụng làm tăng tổng cung, do chi phí sản xuất giảm, làm giá cả giảm xuống.
(6) Thực hiện các nhóm giải pháp nhằm ổn định tâm lý thị trường như tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, như hỗ trợ đối với bộ phận lao động có thu nhập thấp, rà soát cắt giảm các loại phí thu từ nông dân, chưa tăng giá điện, than, xăng dầu. Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận cao trong tất cả các ngành, các cấp, các địa phương. Việc ổn định tâm lý thị trường có tác động làm giảm kỳ vọng tăng giá, tránh tác động "vòng hai" của lạm phát.
un
P
u
PCLR (u=un)
15%
24%
PC1 (Pe=15%)
PC0 (Pe=24%)
A
B
Theo lý thuyết kỳ vọng hợp lý về lạm phát: Nếu chính phủ đưa ra cam kết đáng tin cậy là sẽ thực hiện các biện pháp để đạt lạm phát thấp, người dân tin tưởng vào cam kết của chính phủ, dẫn đến mọi người hành động hợp lý tới mức đủ để hạ thấp kỳ vọng của họ về lạm phát ngay lập tức. Đường Phillips ngắn hạn sẽ dịch chuyển từ đường PC0 đến đường PC1 và nền kinh tế nhanh chóng đạt tới mức lạm phát thấp và thất nghiệp đạt tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên mà không gây ra tổn thất dưới dạng thất nghiệp tạm thời cao và sản lượng tạm thời thấp như trong trương hợp người dân không tin vào Chính phủ.
Các biện pháp của Chính phủ để chống lạm phát trong những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008 đã phát huy tác dụng. Trong đó biện pháp thắt chặt tiền tệ có vai trò tương đối quan trọng và lạm phát đã có xu hướng giảm dần trong khi giá cả trên thế giới vẫn tiếp tục tăng cao; xuất khẩu đang tăng trưởng cao trong khi nhập khẩu đã có xu hướng tăng chậm lại, góp phần cải thiện tình trạng nhập siêu.
CHƯƠNG III
NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ HOÀN THIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Gần đây, thị trường quốc tế có nhiều biến động phức tạp ảnh hưởng đến kinh tế trong nước.
3.1. Diễn biến kinh tế.
Nền tài chính Mỹ bắt đầu xuất hiệu các dấu hiệu tiêu cực từ cuối năm 2007 do "bong bóng" tín dụng bất động sản, và đến tháng 9/2008 đã có những diễn biến xấu, lan rộng sang thị trường tài chính Châu Âu. IMF và các tổ chức tài chính quốc tế đều hạ thấp mức dự báo về tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Một số NHTW các đã giảm lãi suất điều hành, mặc dù lạm phát vẫn ở mức cao, do lo ngại nguy cơ suy thoái kinh tế hơn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trong nước, chỉ số giá tiêu dùng đã giảm, tháng 10 đã có mức âm 0,19%. Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng đã giảm và Quốc hội đã phải điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng GDP trong năm nay. Nhìn nhận những tác động của kinh tế thế giới đến lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới có những điểm chính như sau:
- Kinh tế thế giới suy thoái ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam, làm nhu cầu hàng hoá của Việt Nam giảm, xuất khẩu ròng giảm, tổng cầu giảm và lạm phát sẽ giảm nhưng sẽ làm giảm thu nhập.
- Giá dầu quốc tế giảm mạnh sẽ có động làm giảm chi phí sản xuất, làm tổng cung nền kinh tế tăng lên và có tác động giảm lạm phát. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý đối với nền kinh tế Việt Nam là thu từ xuất khẩu dầu thô là nguồn thu khá lớn trong ngân sách Nhà nước. Việc giá dầu giảm làm thu ngân sách giảm, nếu không kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn và về lâu dài sẽ có tác động lên lạm phát khi ngân sách không đủ trang trải phải sử dụng tiền phát hành của NHNN.
- Suy thoái kinh tế sẽ dẫn đến việc luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm, thậm chí rút vốn về nước, làm đầu tư giảm và VND mất giá, làm giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng, trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị đầu vào của sản xuất, làm lạm phát tăng do tổng cung giảm. Nếu NHNN can thiệp để ổn định tỷ giá thì phải bán ngoại tệ thu VND, làm tổng cầu giảm, kiểm soát lạm phát nhưng thu nhập giảm.
Vì vậy, trong điều hành kinh tế vĩ mô, để kiềm chế lạm phát và duy trì đà tăng trưởng, có thể thực hiện một số giải pháp sau:
3.2. Giải pháp cho thời gian tiếp theo.
3.2.1. Các giải pháp trước mắt:
Trên cơ sở những phân tích trên về diễn biến lạm phát và nguy cơ suy thoái, Việt Nam vẫn cần vừa phải thực hiện các giải pháp kiểm soát lạm phát, vừa phải thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ lan rộng đến thị trường Việt Nam. Đó là:
(1) Về chính sách tiền tệ: Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, ổn định hệ thống ngân hàng, ngăn chặn ảnh hưởng lan truyền của khủng hoảng nhằm đảm bảo vốn cho đầu tư phát triển, tăng tổng cầu và kiềm chế lạm phát.
- Trong thời gian vừa qua, NHNN đã thực hiện các biện pháp ổn định hệ thống ngân hàng như hỗ trợ tái cấp vốn ngắn hạn cho các TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác, tập trung ưu tiên vốn cho phát triển sản xuất, xuất khẩu, các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt từ cuối tháng 9, khi lạm phát tăng chậm lại và thậm chí là giảm trong tháng 10, để hỗ trợ một phần chi phí cho các TCTD, tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, ổn định lãi suất thị trường, NHNN đã tăng lãi suất cho tín phiếu NHNN bắt buộc (từ 7,8%/năm lên 13%/năm), tăng lãi suất cho tiền gửi DTBB (từ 1,2%/năm - 3,6%/năm - 5%/năm-10%/năm). Đến cuối tháng 10/2008, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, chủ động hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững, NHNN đã thực hiện giảm các mức lãi suất xuống 1% (lãi suất cơ bản: 13%/năm; lãi suất chiết khấu: 12%/năm; lãi suất tái cấp vốn: 14%/năm), đồng thời cho phép các TCTD được thanh toán tín phiếu NHNN bắt buộc trước hạn.
- Thực hiện điều hành tỷ giá linh hoạt. Trường hợp dòng vốn nước ngoài có xu hướng rút ra, ngoài việc bán ngoại tệ để ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, NHNN cần phải sử dụng các biện pháp hỗ trợ sản xuất, tránh để ảnh hưởng mạnh đến lãi suất trong nước và đầu tư cũng như sản lượng của nền kinh tế.
- Trong điều kiện lạm phát tiếp tục âm như trong tháng 10, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện ngay các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ để ổn định lạm phát và phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế như đã đặt ra (khoảng 7%/năm vào năm 2008). Các biện pháp có thể áp dụng là giảm các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đồng thời tiếp tục bơm vốn qua thị trường mở và tái cấp vốn.
(2) Về chính sách tài khoá: Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ ngân sách Nhà nước thông qua các biện pháp:
- Lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả, cắt giảm những công trình, dự án chưa thực sự cần thiết. Biện pháp này nhằm tăng cung hàng hoá, giảm lạm phát và tăng thu nhập.
- Thực hiện rà soát các khoản chi thường xuyên, tiết kiệm chi thường xuyên. Cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn đi nước ngoài bằng nguồn vốn ngân sách, giảm các chi phí cho các hoạt động kỷ niệm lễ hội, phấn đấu thu ngân sách nhà nước vượt dự toán để tăng cường cho các quỹ xã hội. Việc giảm chi ngân sách nhà nước có tác dụng làm giảm tổng cầu, và kiềm chế lạm phát.
- Rà soát các mức thuế xuất đối với các mặt hàng thiết yếu như sắt thép, xi măng trong trường hợp giá cả thế giới tăng cao. Tăng thuế đối với những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ phẩm, không thiết yếu cho đời sống kinh tế. Rà soát các loại phí để giảm chi phí cho doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư.
(3) Về chính sách thương mại đầu tư:
- Đảm bảo cân đối cung cầu hàng hoá, ngăn chặn kịp thời các hành động đầu cơ tăng giá, tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu thuế và buôn lậu. Tăng cường kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý giá.
- Rà soát các thủ tục hành chính trong việc cấp phép đầu tư, giảm thiểu các chi phí đầu tư cho doanh nghiệp; đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong các hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng cung hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm.
(4) Các biện pháp khác:
- Tăng cường công tác dự báo nhằm đưa ra các giải pháp có hiệu quả. Tạo lòng tin của dân chúng về các giải pháp của Chính phủ, qua đó giảm dần mức chênh lệch giữa lạm phát kỳ vọng và lạm phát thực tế để tăng sản lượng.
- Thực hiện thông tin thường xuyên để ổn định tâm lý người dân về mục tiêu và các biện pháp của Chính phủ, qua đó định hướng người dân và doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh, tiêu dùng, lượng hoá tỷ lệ lạm phát trong các hoạt động kinh tế nhằm giảm thiểu các hại của lạm phát tới nền kinh tế theo Lý thuyết kỳ vọng hợp lý về lạm phát.
3.2.2. Các giải pháp dài hạn:
Theo mô hình tổng cung, tổng cầu, ta có:
Y = Y + a (P-Pe) với a >0
Y sẽ chệch khỏi sản lượng tiềm năng nếu giá thực tế lệch so với giá kỳ vọng. Mục tiêu của Chính phủ luôn là đảm bảo nâng cao đời sống nhân dân, tức là đảm bảo sản lượng thực tế đạt mức sản lượng tiềm năng. Vì vậy, về dài hạn, chính phủ phải sử dụng các biện pháp để P - Pe = 0.
Để đạt được mục tiêu này, hiện nay nhiều nước như Khu vực đồng tiền chung Châu Âu, Hàn Quốc, Malaysia... đang áp dụng mô hình “lạm phát mục tiêu”. Theo đó, Chính phủ sẽ phải lựa chọn mục tiêu về lạm phát nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu được chọn là lạm phát mục tiêu thường là chỉ tiêu mà Chính phủ có thể tác động được như “lạm phát cơ bản”, theo đó đã loại bỏ các nhân tố ngoài khả năng tác động của Chính phủ (như biến động giá năng lượng thế giới, hoặc những mặt hàng có giá cả biến động đột biến do khách quan). Theo đó, định kỳ, Chính phủ dự báo mức lạm phát sắp tới và thông báo cho công chúng, đồng thời sử dụng các công cụ điều tiết của mình để điều tiết mức lạm phát như mong muốn.
Đối với Việt Nam, về lâu dài, để kiểm soát lạm phát, Chính phủ cần điều hành theo hướng “lạm phát mục tiêu”. Để thực hiện được điều này, Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống thông tin số liệu để làm cơ sở tính toán, phân tích và lựa chọn chỉ tiêu nào được đặt làm chỉ tiêu lạm phát thay cho chỉ tiêu CPI hiện nay. Chỉ với hệ thống thông tin đầy đủ mới có thể dự báo chính xác mức độ lạm phát và đề xuất các giải pháp kịp thời./.
KẾT LUẬN
Năm 2007 nước ta gia nhập WTO mở ra một chương mới trong sự phát triển về mọi mặt, cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục ... .Nhưng đồng thời nó cũng mang lại không ít khó khăn và thử thách. Lạm phát cũng là một thử thách không nhở khi nước ta đã hội nhập thì mọi biến động của thị trường, của thế giới đều anh hưởng đến nước ta.
Trong thời gian qua lạm phát không ngừng tăng cao. Nếu chính phủ không có biện pháp sử lý kịp thời thì nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển chung của đất nước. Mặt khác nếu chính phủ có biện pháp quá mức thì cũng không tốt. Nói tóm lại muốn kìm chế lạm phát thì phải dùng các biện pháp tổng hợp và mang tính ổn định cao.
Trong đề tài này tác giả mang đến cho người đọc cái nhìn tổng quát về lạm phát. Đi xem xét về nó trong các thời kỳ, các giai đoạn (2000-2008) của nước ta. Đồng thời tác giả đưa ra các nhóm giải pháp để kìm chế lạm phát cũng như nhiều kiến nghị tới các cơ quan chức năng về vấn đề này. Nói chung kìm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu trong thời gian gần đây. Nếu chúng ta biết tìm ra các giải pháp đúng đắn và áp dụng đúng thời điểm thì theo tác giả trong một thời gian không xa nền kinh tế nước ta sẽ ổn định và tiếp tục con đường xây dựng xã hội chũ nghĩa ở nước ta./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, 2006
2
TiÕn sÜ Lª Ngäc Th«ng, (2006), Bµi gi¶ng Ph¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc, Hµ Néi.
3
PGS.TS Nguyễn Văn Công, Bài giảng và thực hành lý thuyết kinh tế vĩ mô, NXB Lao động, 2008
4
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, Trường đại học Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê, 2002
5
Giáo trình Kinh tế Việt Nam, Trường đại học Kinh tế quốc dân, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2008
6
John Maynard Keynes, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, NXB Giáo dục, 1994
7
N.Gregory Mankiw, Nguyên lý kinh tế học tập I và II, NXB Thống kê, 2003
8
Báo cáo thường niên từ năm 2000 đến năm 2007 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
9
Các báo viết, báo hình, báo điện tử về kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp về vấn đề lạm phát của Việt Nam trong những năm vừa qua.doc