Tuy nhiên, thách thức đặt ra đối với công tác thị trường và tiêu thụ sản phẩm của Công ty chính là sự lớn mạnh và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh thuốc lá ở các địa phương trong cả nước. Năm 1993 -1994, cả nước mới chủ có 14 cơ sở sản xuất thuốc lá, thì đến đầu năm 2000, ngoài 5 nhà máy, công ty thuộc Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam là Thăng Long, Bắc Sơn, Thanh Hóa, Sài Gòn và Vĩnh Hội, còn có hơn 30 cơ sở sản xuất thuốc lá điếu trực thuộc các cấp từ tỉnh, thành phố, đến quận huyện, HTX, trong đó chỉ có 3 cơ sở là Bến Thành, Khánh Hoà và Hải Phòng là do UBND tỉnh và thành phố quản lý, còn lại hầu như bị buông lỏng hoàn toàn. Điều này đồi hỏi công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty thuốc lá Thăng Long phải có sự đầu tư nghiên cứu về chiều sâu, để ổn định và giữ vững thị phần, khách hàng của mình. Bên cạnh đó, việc áp dụng Công ước khung về kiểm soát thuốc lá cũng như lộ trình cắt giảm thuế quan khi hội nhập kinh tế khu vực đã làm hạn chế khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty. Thuế suất cao khiến cho sản phẩm thuốc lá trong nước giảm ưu thế cạnh tranh so với sản phẩm nhập ngoại. Việc kiểm soát và chống thuốc lá lậu cũng khó khăn hơn, cùng với nó là tình trạng thuốc lá giả, thuốc nhái nhãn mác quốc tế từ các nước lân cận và sản xuất trong nước. Theo Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam thì sản lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta hàng năm chiếm khoảng 20% sản lượng thuốc lá cả nước và tập trung chủ yếu ở miền Nam với 2 nhãn thuốc chủ yếu là Hero và Jet. Điều này có ảnh hưởng lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở sản xuất thuốc lá tuân thủ luật pháp nói chung và Công ty thuốc lá Thăng Long nói riêng do sự chênh lệch về giá.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6048 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về thị trường của công ty thuốc lá Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp hữu hiệu nhằm thúc đẩy sản xuát và tiêu thụ sản phẩm. Sau một thời gian thực tập và tìm hiểu thực tế tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty thuốc lá Thăng Long, Nội dung báo cáo thực tập của em gồm 2 phần:
Phần I. Giới thiệu chung về công ty thuốc là Thăng Long
Phần II. Thực trạng về thị trường của công ty thuốc lá Thăng Long
Phần I
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY THUỐC LÁ THĂNG LONG
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY THUỐC LÁ THĂNG LONG
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
Công ty thuốc lá Thăng Long là doanh nghiệp Nhà nước, thành viên thuộc Tổng công ty thuốc lá Việt Nam. Là một đơn vị kinh doanh hạch toán độc lập, công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.
Tên doanh nghiệp : Công ty thuốc lá Thăng Long.
Trụ sở : 235 – Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội.
Điện thoại : 04.8584342 – 8584441 Fax : 844 8584344
Tài khoản số : 300 – 033 Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
Diện tích mặt bằng : 66171 m2
Tổng số cán bộ : 1298 người.
Năng lực sản xuất : 451 triệu bao/ năm.
Tổng vốn kinh doanh : 114.950.320.522 đồng.
Trong đó : Vốn cố định : 82.758.192.746 đồng.
Vốn lưu động : 32.192.127.776 đồng.
Nộp ngân sách hàng năm : trên 200 tỷ đồng.
Nhà máy thuốc lá Thăng Long, tên gọi trước đây của Công ty thuốc lá Thăng Long, đã ra đời và chính thức đi vào hoạt động ngày 6 tháng 1 năm 1957 theo quyết định sản xuất thuốc lá số 978-CN/P2 ngày 18 tháng 6 năm 1956 của Cục Công nghiệp nhẹ thuộc Bộ Công nghiệp. Sau hơn một năm vừa khảo sát tình hình, vừa chuẩn bị, qua ba lần di chuyển địa điểm sản xuất, vượt qua muôn ngàn khó khăn, nhà máy thuốc lá quốc doanh có quy mô lớn đầu tiên đã được xây dựng, đáp ứng yêu cầu xây dựng CNXH ở miền Bắc, giải quyết những vấn đề cấp thiết của đời sống nhân dân và chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Thời kỳ 1955-1957 được coi là thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh, việc trồng và sản xuất thuốc lá ở miền Bắc chủ yếu diễn ra một cách tự phát, tồn tại trong thế khép kín, hạn hẹp, không đủ cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ ngày càng gia tăng của nhân dân. Mặt khác, một số hãng thuốc lá tư nhân lại nắm độc quyền sản xuất - kinh doanh, tự ý thao túng thị trường, gây không ít khó khăn. Trong gian khổ và thiếu thốn, phương tiện sản xuất lạc hậu, toàn thể cán bộ công nhân viên đã phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, sáng kiến, quyết tâm để những điếu thuốc đầu tiên ra đời. Đây chính là nền móng cho sự hình thành kỹ thuật thuốc lá cũng như sự hình thành một ngành công nghiệp thuốc lá của Việt Nam.
Nhà máy chính thức bước vào sản xuất khi đất nước ta đang trong những ngày đầu khôi phục kinh tế, xây dựng CNXH ở miền Bắc, thiếu thốn tri thức kỹ thuật, cơ sở vật chất cũng như lúng túng trước những bí quyết nghề nghiệp của một ngành công nghiệp vừa mới mẻ, vừa phức tạp này. Sau gần một năm lao động khẩn trương và sáng tạo, tháng 9 năm 1959, nhà máy đã hoàn thành khâu thiết kế cơ bản. Công nghiệp thuốc lá XHCN đã ra đời từ sự nỗ lực phi thường của cán bộ công nhân viên nhà máy. Thuốc lá không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của quần chúng lao động mà dần dần trở thành một trong những mũi nhọn phát triển kinh tế năng động và hiệu quả. Hàng xuất khẩu của Thăng Long đã được các bạn hàng tín nhiệm, tạo ra vốn ngoại tệ mạnh cho nhà máy, góp phần tháo gỡ những khó khăn về ngân sách do chiến tranh đưa lại. Những thành tích đó đã đưa Thăng Long trở thành đơn vị tiên tiến của Bộ Công nghiệp nhẹ trong nhiều năm liên tục.
Sang những năm đầu thập kỷ 80, nét nổi bật của Thăng Long là kết hợp một cách chặt chẽ giữa sản xuất và khoa học kỹ thuật nhằm đạt được hai mục tiêu cơ bản : nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường khối lượng sản phẩm xuất khẩu. Nghiên cứu khoa học đã trở thành một hoạt động quan trọng hàng đầu và không thể thiếu được của nhà máy. Dây chuyền sản xuất được hoàn thiện, năng suất lao động được nâng cao, trình độ kỹ thuật của người lao động được cải thiện đáng kể. Sản phẩm của Thăng Long vừa đa dạng về chủng loại, vừa tin cậy về chất lượng, trong đó các mặt hàng có đầu lọc xuất hiện ngày càng nhiều. Năm 1984, thuốc Sapa xuất khẩu được xếp hạng A1 trong Hội tuổi trẻ sáng tạo Thủ đô, tại Hội chợ triển lãm kinh tế toàn quốc, Du lịch đầu lọc và Điện Biên không đầu lọc đạt huy chương bạc. Đây thực sự là những thành quả đáng tự hào của người thợ Thăng Long.
Tháng 12 năm 2005, nhà máy thuốc lá Thăng Long đổi tên thành “Công ty thuốc lá Thăng Long”, một loại hình doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán kinh tế độc lập và là đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty thuốc lá Việt Nam. Sản xuất và kinh doanh trên địa bàn thành phố, Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như hệ thống các biện pháp bảo vệ môi trường nhằm đem lại an toàn và lợi ích cho người tiêu dùng. Đánh giá cao thành tích xuất sắc của cán bộ công nhân viên Công ty, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao tặng Thăng Long phần thưởng cao quý: Huân chương lao động hạng nhất trong công cuộc xây dựng CNXH và đổi mới đất nước.
Ngày nay, đứng trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, để ổn định và lớn mạnh, đạt mục tiêu kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra, Công ty thuốc lá Thăng Long đã và đang từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng toàn diện, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đem lại lợi ích tối đa cho người tiêu dùng.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty thuốc lá Thăng Long
Là doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị thành viên của Tổng công ty thuốc lá Việt Nam, chức năng quan trọng, chủ yếu của Công ty thuốc lá Thăng Long là sản xuất và kinh doanh thuốc lá điếu trên phạm vi cả nước cũng như các ngành nghề có liên quan theo đúng kế hoạch của Tổng công ty và quy định của Pháp luật. Đây là chức năng cơ bản của một doanh nghiệp sản xuất, đựoc cụ thể hoá thành các nhiêm vụ sau :
Thứ nhất, Công ty có nghĩa vụ nhận vốn, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực do Tổng công ty giao, thực hiện các quyết định của Tổng công ty về điều chỉnh vốn và các nguồn lực đầu vào, đầu ra phù hợp với các hoạt động của công ty trong từng giai đoạn phát triển cụ thể.
Thứ hai, tiến hành thu mua nguyên liệu đầu vào theo chỉ tiêu, quy định, kế hoạch của Tổng Công ty về số lượng, chất lượng, cách thức mua. Tiếp nhận và bảo quản nguyên vật liệu theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo vệ tốt nguyên vật liệu, đảm bảo dự trữ để sản xuất diễn ra bình thường, liên tục.
Thứ ba, tổ chức sản xuất theo đúng quy trình công nghệ sản xuất thuốc lá, thực hiện đầy đủ các quy định về chất lượng sản phẩm, các biện pháp an toàn lao động cũng như các giải pháp bảo vệ môi trường. Thiết lập một hệ thống kho hàng nhằm giữ gìn nguyên vẹn thành phẩm.
Thứ tư, thiết lập một mạng lưới kênh phân phối rộng khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước để tiêu thụ sản phẩm nhanh, đáp ứng có hiệu quả nhu cầu người tiêu dùng. Xây dựng hệ thống các đại lý, văn phòng đại diện nhằm đẩy mạnh tiêu thụ.
Thứ năm, trực tiếp thực hiện việc điều tra nghiên cứu thị trường, phát triển những thị trường mới đi đ”i với việc nghiên cứu chế tạo những sản phẩm mới để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Đồng thời, Công ty cũng có nhiệm vụ theo dõi việc phân phối, sử dụng thuốc lá, phát hiện những nhược điểm, thiếu sót cũng như những tiêu cực để có những đề nghị cải tiến, khắc phục kịp thời.
Thứ sáu, thực hiện công tác hậu cần vật tư phục vụ cho sản xuất : trực tiếp đến các địa phương khảo sát, xem xét, tìm hiểu khả năng thực tế trong việc khoanh vùng sản xuất nguyên liệu cho Công ty, lên kế hoạch đầu tư vốn, kỹ thuật để có thể chủ động nguồn đầu vào cho sản xuất. Mặt khác, Công ty tham gia đóng góp tích cực trong việc tìm kiếm nguồn hàng nhập khẩu từ nước ngoài.
Thứ bảy, xây dựng và vận dụng một hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế ISO, hệ thống tiêu chuẩn an toàn đối với môi trường. Đào tạo, nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, năng lực quản lý cho cán bộ công nhân viên Công ty phù hợp với tình hình mới.
Thứ tám, tham gia hoạt động xuất khẩu thuốc lá sang thị trường khu vực và quốc tế theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước.
Thứ chín, Công ty có nhiệm vụ trích nộp để hình thành các quỹ tập trung của Tổng công ty theo quy định của điều lệ và quy chế tài chính của Tổng Công ty.
3. Tổ chức bộ máy của Công ty thuốc lá Thăng Long
Kể từ khi thành lập cho đến nay, bộ máy tổ chức của Công ty đã có nhiều thay đổi để phù hợp với sự phát triển cũng như những biến động to lớn của nền kinh tế. Từ chỗ là một bộ máy quản lý đơn giản, mức độ chuyên môn hóa chưa cao trong nền kinh tế bao cấp, bước sang kinh tế thị trường cạnh tranh mạnh mẽ, Công ty đã có một cơ cấu quản lý đa dạng và thống nhất. Bộ máy tổ chức hiện nay của Công ty gồm : 1 Giám đốc, 2 Phó Giám đốc và các phòng ban chức năng :
Phòng kỹ thuật cơ điện
Phòng nguyên liệu
Phòng KCS
Phòng kỹ thuật công nghệ
Phòng kế toán – tài chính
Phòng hành chính
Phòng tiêu thụ
Phòng thị trường
Phòng kế hoạch
Phòng tổ chức
Các phân xưởng hoạt động và chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc Công ty :
Phân xưởng sợi
Phân xưởng bao mềm
Phân xưởng bao cứng
Phân xưởng Dunhill
Phân xưởng cơ điện
Phân xưởng chuẩn bị sản xuất
Đội xe
Đội bốc xếp
Đội bảo vệ
Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý và sản xuất của công ty
Đội bảo vệ
Đội bốc xếp
Đội xe
Phân xưởng chuẩn bị SX
Phân
Xưởng
Cơ
điện
Phân xưởng Dunhil
Phân xưởng bao cứng
Phân xưởng bao mềm
Phân xưởng sợi
Phó giám đốc
kỹ thuật
Phòng kỹ thuật cơ điện
Phòng nguyên liệu
KCS
Phòng kỹ
thuật CN
Phòng kế toán tài chính
Phòng hành chính
Phòng tiêu thụ
Phòng thị trường
Phòng kế hoạch
Phòng tổ chức
Phó Giám đốc kinh doanh
Giám đốc
4. Các nguồn lực của doanh nghiệp
4.1 Tài chính
Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng của hệ thống tài chính trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện các quan hệ tài chính của Công ty: quan hệ giữa Công ty với Nhà nước, với Tổng Công ty, với các thành viên khác trong và ngoài Tổng Công ty và quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp cũng như việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của Công ty. Đứng trước những khó khăn về thị trường cũng như hạn chế của Nhà nước trong những năm gần đây, Công ty thuốc lá Thăng Long vẫn duy trì một mức độ ổn định và tự chủ tài chính, sản xuất – kinh doanh có hiệu quả.
Công ty Thuốc lá Thăng Long hay còn gọi là Công ty TNHH 1 thành viên là 1 doanh nghiệp Nhà nước. Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty luôn chiếm trên 60% trong những năm qua.
Qua bảng số liệu trên cho thấy quy mô lớn vốn của công ty trong 3 năm qua với nhịp độ tăng đều đặn, năm sau tăng hơn năm trước. Năm 2005, tăng 3,162 tỷ đồng tương ứng tăng 2,828% so với năm 2004. Năm 2006, tăng 2,802 tỷ đồng, tương ứng 2,44% so với năm 2005. Công ty luôn giữ cơ cấu vốn ở mức ổn định, TSLĐ/TSCĐ là 30%/70%. Đây là kết cấu vốn tương đối hợp lý và an toàn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc lá trong tình hình hiện nay.
Bảng số liệu trên cho thấy qui mô vốn của Công ty trong 3 năm qua tăng với nhịp độ đều đặn, năm sau tăng hơn năm trước : năm 2005, vốn cố định là 82,758 tỷ đồng, tăng 4,15% so với năm 2003 và tăng 3,32% so với năm 2004. Qui mô vốn lưu động tăng chậm hơn so với vốn cố định, năm 2005 chỉ tăng 2,55% so với năm 2003 và 1,58% so với năm 2004. Vốn tự bổ sung tăng lên qua các năm thể hiện hoạt động kinh doanh của Công ty là có hiệu quả. Công ty đã chủ động được nguồn vốn cho kinh doanh và mở rộng sản xuất, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, giảm được chi phí và sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Công ty khai thác nguồn vốn bằng cách chủ yếu là sử dụng vốn chủ sở hữu, tăng các khoản phải trả, phải nộp…Trong tổng số nguồn vốn năm 2005 là 114,950 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 77,282 tỷ đồng, chiếm 67,23%. tỷ lệ này cho thấy Công ty có khả năng tài chính ổn định, độc lập tự chủ về vốn cao, ít lệ thuộc vào Tổng Công ty và các đơn vị khác.
Bảng 1: Cơ cấu vốn của Công ty qua 3 năm 2004 - 2006
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
So sánh tăng, giảm 2005/2004
So sánh tăng, giảm 2006/2005
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối
%
Số tuyệt đối
%
Tổng vốn
111,8
100
114,96
100
117,76
100
3,16
2,83
2,8
2,44
Chia theo sở hữu
- Vốn chủ sở hữu
62,17
55,61
77,28
67,22
78,49
66,65
15,11
24,30
1,21
1,56
- Vốn vay
49,63
44,39
37,68
32,78
39,27
33,35
-11,95
-24,08
1,59
4,21
Chia theo tính chất
- Vốn cố định
31,7
28,36
32,2
28
33,8
28,7
0,5
1,58
1,6
4,97
- Vốn lưu động
80,1
71,64
82,76
72
83,96
71,3
2,66
3,32
1,2
1,45
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán
4.2 Tình hình nhân lực
Trong quá trình phát triển, công ty thuốc lá Thăng Long luôn coi trọng yếu tố con người. Con người lao động có tri thức, được chăm lo chu đáo sẽ quyết định sự thành bại trong sản xuất, trong dt dm công nghệ. Trong công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo công ty luôn chú trọng tới tiêu chí trình độ. Đây chính là tầm nhìn về sự phát triển lâu dài và bền vững cảu công ty.
Hiện nay, tổng số lao động của công ty là 1244 người được chia làm 2 bộ phận:
- Công nhân trực tiếp sản xuất có 852 người, chiếm 68,5%.
- Cán bộ quản lý, nhân viên nghiệp vụ có 392 người, chiếm khoảng 31,5%.
Nhận xét: nhìn chung, Công ty Thuốc lá Thăng Long là một công ty có đội ngũ cán bộ có trình độ cao, năng động, sáng tạo. Hằng năm, toàn công ty c ó hàng nghìn sáng kiến để giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong đó khoảng một phần năm ý kiến được áp dụng đã giúp công ty tiết kiệm được hàng tỷ đồng.
Tuy nhiên, do hoạt động xuất khẩu của công ty mới được quay lại hoạt động trong 5 năm gần đây nên cán bộ nghiên cứu tt, đặc biệt là tt xuất khẩu còn thiếu cả về số lượng và chất lượng.
Bảng 2: Cơ cấu nhân lực của Công ty qua 3 năm 2004 - 2006
Đơn vị: người
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
So sánh tăng, giảm 2005/2004
So sánh tăng, giảm 2006/2005
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối
%
Số tuyệt đối
%
Tổng số lao động
1097
100
1169
100
1244
100
72
6,56
75
6,42
Phân theo giới tính
- Nam
380
34,64
438
37,47
468
37,62
58
15,26
30
6,85
- Nữ
717
65,36
731
62,53
776
62,38
14
1,95
45
6,16
Phân theo trình độ
- Đại học và trên đại học
119
10,86
122
9,59
132
10,6
3
2,52
10
8,19
- Cao đẳng và trung cấp
281
25,61
297
25,40
327
26,28
16
5,69
30
10,10
- PTTH hoặc trung học cơ sở
697
63,53
750
65,01
858
63,12
53
7,6
108
14,4
Nguồn: Phòng Hành chính - Nhân sự
4.3 Tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm những máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tang, văn phòng... trong công ty.
Trong nhiều năm qua công tác đầu tư khoa học công nghệ của Công ty Thuốc lá Thăng Long tiếp tục được đẩy mạnh. Hàng chục các loại các loại máy móc mới được bổ sung. Ta có thể qua bảng thống kê sau:
Bảng 3: Thống kê máy móc thiết bị của công ty
Năm đưa vào sản xuất
Tên máy móc thiết bị và các hoạt động đầu tư
Số lượng (cái)
Công suất thiết kê
Đơn vị
1993
Hệ thống điều hoà:
Máy DAIKIN FR40J
5
Là hơi Tây Đức
2
4,6
Tấn/giờ
Máy nén khí
2
10
cm2/phút
Hệ thống điện
Dây chuyền sợi Trung Quốc
1
3000
Kg sợi/giờ
Dây chuyền sản xuất thuốc lá Dunhill
1994
Máy đóng tút bao cứng
Lắp đặt hệ thống nồi hơi
Lắp đặt hệ thống điều hoá cho kho thành phẩm
2001
Máy nén khí
Máy ép sợi
1
6
2002
Trung tu, đại tu lại tất cả các máy chế biến sợi
Chế tạo máy cắt, in logo
2003
Lắp đặt thiết bị nén khí
Thi công mới đường dây điện cho phân xưởng cơ điện
2004
Dây truyền đóng bao 10 điếu đồng bộ
Máy cắt bong kính
Hệ thống băng tải rung cho phân xưởng sợi
Máy biến áp công suất lớn
Dây chuyền máy đóng túi bóng kính
1
1
2005
Sửa chữa bảo dưỡng 105 hạng mục tại các xưởng sản xuất chính
Dây chuyền đóng bao 10 điếu đồng bộ
2
Chiến lược đầu tư chiều sâu được thực hiện với phương châm: Đầu tư đúng hướng, có trọng điểm, đạt được hiệu quả, phù hợp với nhu cầu thị trường và phương hướng phát triển, khả năng tài chính như trình độ quản lý của đơn vị. Đầu tư đi đôi với việc quản lý, bảo dưỡng sửa chữa, chế tạo thiết bị theo kế hoạch phục vụ tốt nhất yêu cầu của sản xuất.
Nhận xét: Công ty Thuốc lá Thăng Long đã xác định hướng đi đúng đắn trong công tác đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật. Xác định được chính xác các yêu cầu, vấn đề quan trọng của 1 công ty sản xuất thuốc lá là đi vào nâng cao chất lượng thuốc bằng việc cải tiến, đầu tư vào dây chuyền sản xuất sợi - một yếu tố then chốt. Việc đầu tư có sự học hỏi, tính toán ở các quốc gia có nền khoa học cao và bằng tinh thần sáng tạo của chính những cán bộ mà đã có thể cải tiến, tiết kiệm hàng trục triệu USD cho công ty. Đặc biệt, trong những năm gần đây những máy móc được đưa vào hoạt động đều là những máy móc hiện đại để sản xuất thuốc lá phục vụ xuất khẩu. Đây là bước đi mạnh dạn và đúng đắn.
Tuy nhiên, hạn chế có thể thấy là đó là việc đưa ra và thay đổi nhiều mẫu mã của các thuốc làm việc cải tiến và thay thế máy móc phức tạp tốn kém. Ngoài ra, việc đưa những máy móc thiết bị mới vào để sản xuất phục vụ cho công tác xuất khẩu chủ yếu là sản xuất thuốc bao 10 điếu nên giá trị công nghiệp chưa cao.
4. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty những năm gần đây
Mặc dù kinh tế thị trường có nhiều biến động khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, nhưng nhờ sự phấn đấu nỗ lực hết mình của Ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên, nên trong 5 năm gần đây Công ty luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu của Công ty và Tổng Công ty giao cho, thực hiện đầy đủ các mục tiêu kinh tế – xã hội. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được thể hiện một cách khái quát trong bảng sau :
Bảng 4: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm 2004 - 2006
STT
Các chỉ tiêu chủ yếu
Đơn vị tính
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
So sánh tăng, giảm 2005/2004
So sánh tăng, giảm 2006/2005
Số tuyệt đối
%
Số tuyệt đối
%
1
Giá trị tổng sản lượng
Triệu đồng
756.565
937.677
992.236
181112
23,94
54.559
5,81
2
Doanh thu tiêu thụ
triệu đồng
778.030
909.520
953.030
131499
16,90
43510
4,78
3
Tổng số lao động
người
1097
1169
1244
72
6,56
75
6,42
4
Tổng vốn kinh doanh bình quân
4a. Vốn cố định bình quân
4b. Vốn lưu động bình quân
triệu đồng
111.800
80.100
31.700
115.000
82.800
32.200
117.760
83.960
33.800
3,16
2,66
0,5
2,83
3,32
1,58
2,8
1,2
1,6
2,44
1,45
4,97
5
Lợi nhuận
triệu đồng
15.090
20.060
21.100
4970
32,94
1040
5,18
6
Nộp ngân sách
triệu đồng
300.390
308.020
350.000
7630
2,54
41980
13,63
7
Thu nhập BQ 1 lao động (V)
1.000 đ/tháng
2050
2300
2600
250
12,2
300
13,04
8
Năng suất lao động BQ (W = 1/3)
triệu đồng
689,67
802,12
797,62
112,45
65,41
-4,5
-0.56
9
Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu tiêu thụ (5/2)
%
1,94
2,20
2,21
10
Tỷ suất lợi nhuận/vốn KD (5/4)
%
13,5
17,44
17,91
11
Số vòng quay vốn lưu động (2/4b)
vòng
24,54
28,25
28,2
12
Mối quan hệ giữa tốc độ tăng W và tăng V (8/7)
chỉ số
0,37
34,87
30,68
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán
Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế toàn cầu, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, các sản phẩm thuốc lá nhập lậu, hàng giả, hàng nhái vẫn là một yếu tố thường xuyên gây khó khăn cho công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, công ty Thuốc lá Thăng Long vẫn luôn tìm cách cải tiến mẫu mã, giữ vững chất lượng hàng hoá nhằm đảm bảo và giữ vững thương hiệu trên thị trường, tiếp tục phát triển, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, không ngừng nâng cao đời sống người lao động trong công ty và tham gia tích cực các công tác xã hội.
Trong 3 năm (2004 - 2006), Công ty Thuốc lá Thăng Long vẫn giữ được nhịp độ sản xuất, phát triển một cách bền vững: Sản lượng của công ty tăng gần gấp đôi, xuất khẩu thuốc lá bao tăng gần 6 lần, nộp ngân sách tăng 1,5 lần lợi nhuận tăng hơn 1,65. Đời sống và việc của người lao động được đảm bảo và không ngừng nâng cao. Đây là những điều kiện quan trọng để công ty tiếp tục thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo một cách hiệu quả.
Có thể nói, Công ty Thuốc lá Thăng Long đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn và thách thức trong nền kinh tế thị trường, hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, sản xuất và kinh doanh đạt hiệu quả cao. Mặc dù không mở rộng quy mô sản xuất nhưng bằng chiến lược đầu tư chiều sâu với nhiều thiết bị hiện đại nên sự phát triển của công ty trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã đạt được tính bền vững và trở thành doanh nghiệp hàng đầu của tổng công ty thuốc lá Việt Nam. Các sản phẩm của công ty đã xuất khẩu tới nhiều nước trên thế giới và thương hiệu thuốc lá Thăng Long đã trở thành một thương hiệu mạnh trên thị trường, đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài.
Phần II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY THUỐC LÁ THĂNG LONG
I. ĐẶC ĐIỂM SẢN PHẨM VÀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY
1. Đặc điểm sản phẩm thuốc lá của Công ty thuốc lá Thăng Long
Hiện nay, công ty thuốc lá Thăng Long đang tiến hành sản xuất và kinh doanh trên thị trường 23 nhãn hiệu thuốc lá khác nhau, trong đó có 15 nhãn mác được coi là sản phẩm điển hình với hiệu quả kinh tế vượt trội. Các nhãn hiệu đó được chia thành hai loại cơ bản là thuốc lá có đầu lọc và thuốc lá không có đầu lọc.
Các sản phẩm thuốc lá của Công ty tuy khác nhau về mức chất lượng song được đánh giá cao trên thị trường trong nước và phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam. Để đảm bảo sức khoẻ người tiêu dùng và tăng thu cho ngân sách Nhà nước, Công ty luôn coi trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Phòng KCS kiểm tra định kỳ các chỉ tiêu về độ ẩm, độ cháy suốt, màu tro, màu thuốc để đảm bảo mỗi sản phẩm làm ra đạt chỉ tiêu về chất lượng đã quy định. Đồng thời, xây dựng quy trình kiểm tra nguyên liệu theo tiêu chuẩn mới, thực hiện quy trình công nghệ trong sản xuất, đảm bảo chất lượng ổn định, tạo điều kiện cho một số sản phẩm có sức tăng trưởng trên thị trường. Bên cạnh đó, Công ty còn tổ chức bồi dưỡng cho các cán bộ công nhân viên kiến thức về ISO 9002 nh”m chuẩn bị cho con đường hội nhập khu vực và quốc tế.
Tuy vậy, nếu so sánh với các mác thuốc khác trong nước thì thuốc lá do Công ty sản xuất vẫn chưa đạt vị trí hàng đầu. Nếu đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế thì chất lượng sản phẩm thuốc lá của Công ty vẫn còn ở mức thấp. Ngoài những sản phẩm có chất lượng tốt như Dunhill, Vinataba… được sản xuất b”ng nguyên liệu ngoại nhập thì những sản phẩm còn lại của Công ty vẫn chưa đạt tiêu chuẩn về độ nặng, hương thơm cũng như mùi vị. Vì vậy, để có thể giành được vị trí cạnh tranh, nâng cao sản lượng tiêu thụ, cũng như mở rộng thị trường, Công ty phải không ngừng nâng cao, cải tiến, tăng sức hấp dẫn của sản phẩm. Song song với việc duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thống, Công ty cũng tiếp tục nghiên cứu, đưa ra thị trường một số sản phẩm mới, góp phần đa dạng hóa sản phẩm và từng bước thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về chống buôn lậu thuốc lá điếu.
Công tác nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm cũng luôn được Công ty chú trọng, vì vậy, liên tục trong 5 năm qua, hơn 10 nhãn thuốc lá mới đã được đưa ra thị trường và đạt mức doanh thu cao. Sản phẩm mới có kiểu dáng đẹp, hình thức phong phú (bao 10 điếu, 10 điếu) và hương thơm đặc biệt như hương vị cà phê, bạc hà…
Bảng 5 : Tình hình phát triển sản phẩm mới của công ty
Năm
Sản phẩm mới
2000
Tam Đảo các loại, M đỏ
2001
Sa Pa các loại, Phù Đổng bao cứng, Viland các loại
2002
Vialand đỏ bao cứng, Xuân mớí, Phù Đổng bao dẹt
2003
Hà Nội mới bao cứng, Hoàn Kiếm bao cứng
2004
Gold Fish
2005
Tex bao cứng 10 điếu và 20 điếu
Nguồn : Phòng Tiêu thụ - Công ty thuốc lá Thăng Long
Năm 2005, Công ty tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sử dụng nguyên liệu, đồng thời nghiên cứu đưa ra thị trường nhiều sản phẩm có chất lượng giá trị cao, bao bì đẹp, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Song song với việc duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thống Thăng Long, Điện Biên đầu lọc, Hoàn Kiếm…Công ty tiếp tục nghiên cứu và cải tiến nh”m góp phần đa dạng hóa sản phẩm và từng bước thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về chống nhập lậu thuốc lá điếu.
2. Công tác sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn 2004 - 2006, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng Công ty Thuốc lá Thăng Long đã hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bằng sự năng động của tất cả cán bộ nhân viên. Công ty đã duy trì được chất lượng của sản phẩm, giữ vững thị trường, đưa ra thị trường nhiều sản mới đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng và tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Năm 2002, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của công ty đã nghiên cứu phối chế thành công sản phẩm Empire và Fisher xuất khẩu. Việc này đánh dấu sự trở lại của Công ty Thuốc lá Thăng Long trong lĩnh vực xuất khẩu thuốc lá bao. Với gần 30 triệu bao thuốc lá xuất khẩu sang thị trường Trung Đông, công ty trở thành một trong những đơn vị dẫn đầu trong hoạt động xuất khẩu Thuốc lá bao của Tổng công ty thuốc lá Việt Nam . Một số sản phẩm có sản lượng tiêu thụ khá cao tại thị trường nội địa truyền thống như: sản phẩm Điện Biên đầu lọc, Thăng Long....
Thực hiện chỉ đạo của Tổng Công ty Thuốc lá Thăng Long, công ty thuốc lá Thăng Long tiếp tục đẩy mạnh công tác chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, từng bước giảm thiểu và ngừng sản xuất những sản phẩm cấp thấp và không có lãi, nâng cao tỷ trọng các sản phẩm trung cao cấp; tập trung chỉ đạo bộ phận kỹ thuật đẩy mạnh công tác nghiên cứu phối chế và đưa ra thị trường một số sản phẩm có chất lượng với giá bán phù hợp như: Hoàn Kiếm, Phù Đổng, Xuân Mới bao cứng, Hồng Hà bao dẹt, Thăng Long hộp chiếc.... bước đầu được thị trường chấp nhận.
Năm 2004, công ty đã phối chế được 9 sản phẩm phục vụ xuất khẩu, trong đó, loại sản phẩm Gold Seal tiêu thụ 24 triệu bao, góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch xuất khẩu của Tổng Công ty Thuốc lá Thăng Long giao.
Năm 2005, công tác chuyển đổi cơ cấu sản phẩm tiếp tục được công ty thực hiện. Việc chuyển đổi cơ cấu sản phẩm tiếp tục được công ty thực hiện. Việc nghiên cứu phối chế và đưa ra thị trường một số sản phẩm có chất lượng với giá bán phù hợp như: Hoàn Kiếm, Phù Đổng, Xuân Mới.... bước đầu được thị trường chấp nhận.
Năm 2006, công ty tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, tỷ lệ nội địa hoá trong sử dụng nguyên liệu, đồng thời nghiên cứu, đưa ra thị trường nhiều sản phẩm có chất lượng, giá trị cao, bao bì đẹp, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Công ty đang đầu tư dây chuyền cuốn đóng bao đồng bộ công suất 700 điếu/phút thay thế các thiết bị công nghệ lạc hậu để nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện chủ trương đa dạng hoá sản phẩm thuốc bao đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, công tác sản xuất kinh doanh của công ty đã đạt được kết quả đáng phấn khởi.
* Đánh giá công tác nghiên cứu thị trường.
Hiện nay, hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty là của các đoàn cán bộ nghiên cứu đi các địa phương để khảo sát tình hình và nhu cầu thị trường đồng thời công ty cũng tổ chức hội nghị khách hàng để xin ý kiến đóng góp và thu thập thông tin. Việc thu thập thông tin của công ty cũng đáng tin cậy hơn công ty còn sử dụng thêm phương pháp điều tra thị trường theo bảng câu hỏi, phỏng vấn khách hàng hoặc gửi kèm theo trong các bao thuốc, tút thuốc đề nghị khách hàng gửi phiếu trả lời cho công ty.
Hàng năm, công ty có thể dự đoán được một phần nhu cầu định lượng được và nhờ hình thức ký hợp đồng từ trước đối với khách hàng lớn, truyền thống.
Công ty cũng tiến hành hội chợ, tham gia hội chợ triển lãm nhằm thu hút được khách hàng, thu thập những thông tin hữu ích, phong phú, những biến động nhu cầu thị trường. Đây cũng là cách tiếp cận với trung gian thương mại là người nước ngoài. Công ty cũng cử cán bộ sang nước ngoài để khảo sát tình hình thị trường, đi chào hàng, giới thiệu sản phẩm và để học hỏi kinh nghiệm.
Ưu điểm của công tác nghiên cứu thị trường ở Công ty Thuốc lá Thăng Long là các phương pháp nghiên cứu được sử dụng khá đa dạng. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn, do đó thông tin chưa đầy đủ, hay đôi khi mang tính phỏng đoán do từng thương vụ mà chưa đưa ra dự báo cho quá trình kinh doanh của công ty trong thời gian đủ dài.
Mặt khác, mặc dù xuất của công ty trong những năm gần đây đem lại hiệu quả ngày càng to lớn với việc tiêu thụ trong nước nhưng nền móng cho nghiên cứu thị trường nước ngoài còn quá mỏng. Đó là do thị trường xuất khẩu mới được công ty quay lại từ năm 2001 cho đến nay. Việc xuất khẩu mang nặng tính thụ động, chủ yếu là do khách dự tìm đến công ty, hoạt động xuất khẩu chưa được quan tâm thoả đáng và chưa có hướng đi cụ thể.
* Chính sách sản phẩm:
Công ty Thuốc lá Thăng Long đã rất linh hoạt trong việc đưa ra một chiến lược sản phẩm phù hợp với thị trường tiêu thụ trong nước. Ngay từ khi mới thành lập Công ty Thuốc lá Thăng Long (trước đây là nhà Máy thuốc lá Thăng Long) đã định hướng cho mình một đa dạng hoá sản phẩm, (thuốc lá đầu lọc cứng, thuốc lá đầu lọc mềm, thuốc lá không đầu lọc) với nhiều nhãn mác khác nhau như: Hồng Hà, Sapa, Tex, Gold fish, Vina cigar, M metholl, Viland, Thăng Long.... Từ những loại thuốc chất lượng cao như: Thăng Long hộp thiếc, Vina Cigar... tới các thuốc có tầm trung bình như: Viland, Sapa, M metholl....
Sản phẩm mới khi tung ra thị trường sau một thời gian, thực tế kinh doanh cho thấy chưa phù hợp với thị trường, công ty đã rút ra nhiều kinh nghiệm, để chính sách sản phẩm phù hợp với sự biến động của thị trường thuốc lá.
Hiện nay, công ty chú trọng vào sản xuất các loại thuốc lá như : Vinataba, Thăng Long, Hồng Hà, Xuân Mới, Sapa, Viland, Tam Đảo. Đây là những loại thuốc được nhiều người yêu thích vì chất lượng tương ứng với túi tiền người tiêu dùng.
Không dừng lại ở những sản phẩm có sẵn, công ty luôn chú ý cho việc nghiên cứu cho ra đời những sản phẩm mới dựa trên đặc tính sản phẩm cũ, thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, hoàn thiện sản phẩm.
Hiện nay, công ty đang cố gắng nghiên cứu cải tiến sản phẩm mới, dùng các nguyên liệu mới giảm lượng Nicotin có trong thuốc lá để đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng như đầu lọc Bạc Hà tạo được hương vị mới (Hoàn Kiếm Metholl, Hồng Hà Metholl, Viantaba Metholl). Đây cũng là một cách để đưa sản phẩm của công ty có thể xâm nhập vào thị trường các nước khi đã đạt được yêu cầu về hàm lượng các chất có trong sản phẩm. Công ty tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm để phù hợp với mọi đối tượng tiêu dùng khác nhau từ người có thu nhập thấp đến người có thu nhập cao. Thoả mãn sở thích, khẩu vị thuốc lá của mỗi người.
Với chính sách đa dạng hoá sản phẩm công ty có rất nhiều lựa chọn để đưa ra sản phẩm của mình vào các vùng thị trường mới. Những năm gần đây, công ty xây dựng và lắp đặt những dây chuyền sản xuất hiện đại để phục vụ cho xuất khẩu. Những loại thuốc mẫu mã mới được ra đời với chất lượng được cải tiến đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của người tiêu dùng nhiều nước. Ngoài ra, công ty còn liên doanh, liên kết với nhiều sản xuất thuốc lá lớn trên thế giới để cho ra đời các sản phẩm chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu.
Nhìn chung, chính sách sản phẩm của công ty là tương đối tốt tuy nhiên những sản phẩm chất lượng cao còn phụ thuộc nhiều vào các hãng nước ngoài. Sản xuất những sản phẩm này còn có nhiều yếu tố bị động cả về máy móc, nguyên vật liệu, mẫu mã.... nên còn nhiều lãng phí, tốn kém và khó dự đoán trong thời gian đủ dài. Những sản phẩm dùng để xuất khẩu lại chủ yếu là thuốc lá bao loại 10 điếu nên giá trị công nghiệp chưa cao.
* Chính sách giá:
Chính sách giá của Công ty Thuốc lá Thăng Long luôn thay đổi nhằm phù hợp với nhu cầu biến đổi của thị trường qua từng giai đoạn, từng thời kỳ khác nhau. Chính sách của xây dựng chiến lược giá là căn cứ vào việc hạch toán chi phí mức lợi nhuận mong đợi và căn cứ vào điều kiện khách quan của thị trường tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Trong điều kiện thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc điều chỉnh giá linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường, có khả năng cạnh tranh với đối thủ khác, nhiều khi còn là đòn bẩy tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường.
Bên cạnh định giá cho sản phẩm Công ty Thuốc lá Thăng Long cũng có chính sách giá chiết khấu cho các doanh nghiệp thương mại, các đại lý, có thưởng xứng đáng cho các đại lý tiêu thụ với số lượng lớn.
Mức giá thuốc lá bán ra được công ty quy định dựa trên chi phí sản xuất và điều kiện khách quan của thị trường.
+ Thứ nhất: Giá bán ra phải bù đắp được chi phí bỏ ra và có lãi
+ Thứ hai: Vì công ty sản xuất nhiều loại thuộc lá khác nhau nên giá bán được hình thành trên cơ sở giá thành đơn chiếc của từng loại thuốc.
Bảng6: Giá một số thuốc trên 1 bao
Tên thuốc lá
Đơn giá (đồng)
Tên thuốc lá
Đơn giá (đồng)
Vina Cigar (5 điếu)
60.0000
Capital deluxe (10 điếu)
30.000
Thăng long hộp chiếc
12.000
Vinataba
9.000
Thăng Long bao mềm
3.000
Xuân mới bao cứng
3.000
Hà Nội bao cứng
4.000
Hồng hà bao cứng
4.000
Viland
3.000
Phù đổng bao cứng
3.500
Sapa
3.000
Tex (10 điếu)
3.000
Điện biên đầu lọc
2.500
Thủ đô
2.500
Tam đảo
2.500
Hoàn kiếm bao mềm
2.500
Đối với những bạn hàng lâu năm và người mua buôn đều được hưởng mức giá bán buôn thấp hơn mức giá bán lẻ và được hưởng chiết khấu từ 2 đến 5 %.
Ngoài ra còn có quà khuyến mại, dịch vụ chăm sóc khách hàng khác và vào mùa hè mức chiết khấu cũng được tăng thêm (do đây là mùa mà lượng tiêu thụ có xu hướng giảm thị trường).
Nhìn chung chính sách giá của công ty là phù hợp cho tiêu thụ nói chung và cho xuất khẩu nói riêng. Giá của công ty nói chung là tương đối thấp so với nhiều quốc gia khác do nguồn nguyên liệu trong nước là rẻ, nhân cũng rẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá trong các sản phẩm dùng để xuất khẩu là chưa cao đặc biệt là những sản phẩm chất lượng cao. Do đó chi phí để sản xuất những sản phẩm này là tương đối cao (do phải nhập ngoại nguyên liệu) nên cũng ảnh hưởng không nhỏ khi cạnh tranh trên thị trường thế giới.
II. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ TRONG NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY
1. Tình hình thị trường tiêu thụ thuốc lá của Công ty thuốc lá Thăng Long
Hiện nay Công ty thuốc lá Thăng Long đang sản xuất và kinh doanh hơn 20 nhãn hiệu thuốc là khác nhau, được chia thành thuốc lá có đầu lọc và không có đầu lọc. Sản phẩm của Công ty chủ yếu được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Còn lại một bộ phận được xuất khẩu sang các nước Đông Nam á như Lào, Campuchia và một số nước Đông Âu. Do mục tiêu kinh doanh hướng vào người tiêu dùng trong nước, nên Công ty cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc lá tại thị trường này. Một số nhãn hiệu mạnh của công ty như Dunhill, Vinataba, Hoàn Kiếm bạc hà, Thăng Long…(chiếm hơn 80% doanh thu) luôn luôn phải chạy đua với các sản phẩm tương tự của các công ty khác thuộc Tổng Công ty, chưa kể đến các hiện tượng gian lận thương mại như buôn lậu, hàng giả…
Thị trường tiêu thụ trong nước của công ty thuốc lá Thăng Long tập trung chủ yếu ở miền Bắc và khu vực Bắc Trung Bộ. Trong những năm tới, Công ty dự định xây dựng mới một mạng lưới tiêu thụ nhằm mở rộng thị trường vào khu vực miền Nam. Đồng thời, tăng cường công tác nghiên cứu, tìm kiếm thị trường để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ.
Có thể nói, trong những năm vừa qua, thị trường tiêu thụ thuốc lá của Công ty tương đối ổn định, mặc dù có sự tuyên truyền mạnh mẽ của các phương tiện th”ng tin đại chúng về tác hại của việc hút thuốc lá. Từ bỏ thuốc lá là rất khó khăn cho những người nghiện thuốc lá. Theo dự báo của Viện kinh tế kỹ thuật thuốc lá thì nhu cầu tiêu dùng thuốc lá trên cả nước có mức tăng bình quân là 3%/năm. Bộ Công nghiệp cũng cho biết sản lượng thuốc lá tiêu thụ đã tăng từ mức 2,7 tỷ bao (năm 2003) lên đến 3,8 tỷ bao (năm 2005). Đây là một tín hiệu tốt để các cơ sở sản xuất thuốc lá trong nước nói chung và Công ty thuốc lá Thăng Long nói riêng đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên, thách thức đặt ra đối với công tác thị trường và tiêu thụ sản phẩm của Công ty chính là sự lớn mạnh và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh thuốc lá ở các địa phương trong cả nước. Năm 1993 -1994, cả nước mới chủ có 14 cơ sở sản xuất thuốc lá, thì đến đầu năm 2000, ngoài 5 nhà máy, công ty thuộc Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam là Thăng Long, Bắc Sơn, Thanh Hóa, Sài Gòn và Vĩnh Hội, còn có hơn 30 cơ sở sản xuất thuốc lá điếu trực thuộc các cấp từ tỉnh, thành phố, đến quận huyện, HTX, trong đó chỉ có 3 cơ sở là Bến Thành, Khánh Hoà và Hải Phòng là do UBND tỉnh và thành phố quản lý, còn lại hầu như bị buông lỏng hoàn toàn. Điều này đồi hỏi công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty thuốc lá Thăng Long phải có sự đầu tư nghiên cứu về chiều sâu, để ổn định và giữ vững thị phần, khách hàng của mình. Bên cạnh đó, việc áp dụng Công ước khung về kiểm soát thuốc lá cũng như lộ trình cắt giảm thuế quan khi hội nhập kinh tế khu vực đã làm hạn chế khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ của Công ty. Thuế suất cao khiến cho sản phẩm thuốc lá trong nước giảm ưu thế cạnh tranh so với sản phẩm nhập ngoại. Việc kiểm soát và chống thuốc lá lậu cũng khó khăn hơn, cùng với nó là tình trạng thuốc lá giả, thuốc nhái nhãn mác quốc tế từ các nước lân cận và sản xuất trong nước. Theo Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam thì sản lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta hàng năm chiếm khoảng 20% sản lượng thuốc lá cả nước và tập trung chủ yếu ở miền Nam với 2 nhãn thuốc chủ yếu là Hero và Jet. Điều này có ảnh hưởng lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở sản xuất thuốc lá tuân thủ luật pháp nói chung và Công ty thuốc lá Thăng Long nói riêng do sự chênh lệch về giá.
Bảng 7: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty
Nhóm sản phẩm
Đơn vị tính
2003
2004
2005
2006
> 6000 đồng
Triệu bao
64,723
124,123
226,293
234,100
3000 - 6000
Triệu bao
7,1
8,6
8,8
10,2
<3000 đồng
Triệu bao
181,21
170,2
165,1
156,8
Tổng sản lượng
Triệu bao
283,042
302,923
100,193
401,100
Qua bảng trên cho thấy tình hình tiêu thụ từng nhóm sản phẩm của Công ty Thuốc lá Thăng Long là rất khác nhau. Điều này cũng dễ lý giải vì nhu cầu tiêu dùng về từng nhóm sản phẩm là khác nhau. Cụ thể là nhóm sản phẩm dưới 3000 đồng được tiêu thụ nhiều nhất song lại có xu hướng giảm dần. Nhóm sản phẩm trên 6000 đồng thì có xu hướng tăng đột biến. Từ năm 2003 đến 2006 nhóm sản phẩm này đã tăng hơn 2 lần. Chứng tỏ, người tiêu dùng ngày có xu hướng tiến đến sản phẩm chất lượng cao của công ty. Để biết cụ thể hơn ta phân tích bảng số liệu sau:
Bảng 8: Tình hình tiêu thụ sản phẩm phân bổ theo khu vực:
Khu vực
Đơn vị tính
2003
2004
20005
2006
Nội địa
Triệu bao
155,002
269,959
281,308
244,500
Xuất khẩu
Triệu bao
28,04
32,964
118,885
156,600
Tổng sản lượng
Triệu bao
283,042
302,923
400,193
401,100
Khu vực
Đơn vị tính
2003
2004
20005
2006
Nội địa
%
90,09
89,12
70,29
60,96
Xuất khẩu
%
9,91
10,88
29,71
39,04
Tổng sản lượng
%
100
100
100
100
Như vậy, qua 2 bảng trên ta có thể nhận thấy thị trường của công ty có xu hướng dịch chuyển ra thị trường nước ngoài. Xuất khẩu liên tục và với tốc độ cực nhanh trong suốt 4 năm qua. Cụ thể là tăng khoảng 5 lần (hay 128.56 triệu bao) từ năm 2003 đến năm 2006. Tiêu thụ trong nước nhìn chung cũng tăng song tỷ lệ tăng chậm hơn, chỉ tăng khoảng 1,1 lần từ năm 2003 đến 2005. Nhưng từ năm 2003 đến 2006 lại giảm tương đối mạnh, khoảng 1,15 lần.
Tuy nhiên, xét chung cho cả 3 bảng thì ta nhận thấy là: sản phẩm có giá cao luôn có xu hướng và thị trường hướng ra nước ngoài.
2. Tình hình thị trường xuất khẩu của công ty
Với phương châm coi trọng thị trường trong nước, coi thị trường trong nước là chính, ngày càng mở rộng thị trường xuất khẩu. Công ty Thuốc lá Thăng Long trong vài năm gần đây, đã gây dựng được mối quan hệ khá rộng lớn với tập đoàn thuốc lá British American Tobacco (BAT) - đây là một trong ba tập đoàn thuốc lá lớn nhất thế giới. Đặc biệt, Công ty Thuốc lá Thăng Long có lợi thế với các bạn hàng cũ như: Singapore, Nga và các nước thuộc Liên xô cũ, các nước Trung Đông (Tiệp Khắc), các nước khối ả Rập.
Phương thức xuất khẩu của Công ty Thuốc lá Thăng Long là xuất khẩu gián tiếp thông qua công ty của nước nhập khẩu hoặc qua tập đoàn thuốc lá bằng hình thức ký kết hợp đồng. Sơ đồ 2:
Công ty Thuốc lá Thăng Long
Tập đoàn Thuốc lá
Nhà phân phối
Tập đoàn Thuốc lá
Nước nhập khẩu
Mặt hàng xuất khẩu của công ty là thuốc lá điếu và nguyên liệu thuốc lá, nhưng chủ yếu vẫn là thuốc lá điếu.
Bảng 9: Thống kê chỉ tiêu tiêu thụ
Các chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
So sánh 2006/2005
Xuất khẩu
Triệu bao
28.040
32.964
118.885
156.600
131,72%
Sản lượng sản phẩm
Triệu bao
283.042
302.923
400.193
401.100
100,227%
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta nhận thấy: trong những năm gần đây số lượng sản phẩm xuất khẩu của công ty ngày càng tăng trong khi sản lượng tiêu thụ trong nước có chiều hướng giảm. Như vậy, cơ cấu tiêu thụ đang có xu hướng chuyển sang xuất khẩu. đây là một dấu hiệu khả quan cho công tác mở rộng thị trường xuất khẩu.
Nhìn chung, Công ty Thuốc lá Thăng Long đã nỗ lực nhiều trong xúc tiến bán hàng. Tuy nhiên, công ty chưa tận dụng hết cơ hội để đưa hình ảnh thương hiệu đến với người tiêu dùng. Đó là 5 lần được quảng cáo trong năm chưa được công ty chuẩn bị cẩn thận để có thể tạo thành chiến dịch quảng cáo, vừa nhắc lại thương hiệu công ty lại vừa giới thiệu sản phẩm mới. Đối với thị trường nước ngoài, do chưa được đầu tư đúng mức và do yếu tó thuốc lá là mặt hàng độc hại nên mọi hoạt động của công ty đều rất dè dặt.
* Đối với hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu
Công ty Thuốc lá Thăng Long là thương hiệu đứng đầu ở miền Bắc. Công ty đã ngày càng khẳng định được uy tín của mình đối với bạn hàng quốc tế. Công ty cũng xây dựng được lòng tin đối với tổng công ty thuốc lá vn nói riêng, với các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng nói chung bằng việc giữ gìn chất lượng và thực hiện các cam kết khác.
* Về chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Với việc đầu tư khoa học theo chiều sâu, Công ty Thuốc lá Thăng Long đã nhanh chóng cải tiến chất lượng sản phẩm. Vì thuốc là thì yếu tố nhiên liệu là rất quan trọng, nên công ty cũng rất quan tâm đến vấn đề nhập nguyên liệu đầu vào. Công ty đã tìm kiếm và xây dựng được mối quan hệ với nhà cung cấp có thể cung cấp được nguyên liệu có chất lượng cao và ổn định.
Tuy nhiên, vì thị trường quốc tế là thị trường rất khó tính nên việc cải tiến sản phẩm phải rất tốn kém và phải phát huy rất sáng tạo những nguồn lực sẵn có thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu mà vẫn có lãi. Công ty Thuốc lá Thăng Long đã rất nỗ lực trong vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng công ty vẫn phải đầu tư hơn nữa và đầu tư phải có tính toán ở cả trước mắt và lâu dài thì mới có thể theo kịp nhu cầu thường xuyên thay đổi của họ.
Về dịch vụ, do môi trường kinh tế đất nước ta nói chung là còn nhiều hạn chế và đặc biệt là môi trường kinh tế miền Bắc lại còn tụt hậu hơn ở miền Nam nên dịch vụ chưa thoả mãn được người nước ngoài. Công ty cần phải học hỏi nhiều trong vấn đề cung cấp dịch vụ, và đào tạo thêm đội ngũ chuyên về hoạt động xuất nhập khẩu để họ có thể đáp ứng tố nhất nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
3. Đánh giá chung về hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của Công ty Thuốc lá Thăng Long
* Những thành tựu đạt được.
Công ty đã luôn chú trọng đầu tư theo chiều sâu, nên đã xây dựng được một hệ thống trang thiết bị hiện đại có thể sản xuất những mặt hàng chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu.
Công tác nghiên cứu thị trường và xu thế biến động của thị trường quốc tế cũng được công ty ngày càng coi trọng nên đã giúp công ty có thể đáp ứng tốt ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường xuất khẩu.
Nhìn chung, tuy mới quay lại thị trường xuất khẩu từ năm 2001 nhưng công ty thuốc lá Thăng Long đã đạt được thành tựu khá rực rỡ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, năm 2006 chiếm tỷ trọng là 39% tổng sản lượng tiêu thụ.
* Hạn chế
Hoạt động chào hàng quảng cáo, xúc tiến bán hàng còn yếu, đặc biệt là khâu quảng cáo tìm kiếm bạn hàng. Công ty chưa tận dụng hết sự cho phép của Nhà nước về hoạt động quảng bá thương hiệu. Cụ thể là 5 lần được quảng cáo trong năm chưa được chuẩn bị cẩn thận. Các thông tin về công ty và sản phẩm của công ty chưa đưa được nhiều đến người tiêu dùng. Các hình thức khuyến mại tặng quà diễn ra còn buồn tẻ (khuyến mại thì chậm thay đổi cơ cấu, những vật dụng sử dụng làm quà tặng thì quá quen thuộc và không đặc sắc). Hoạt động hỗ trợ quảng cáo cho khách hàng mua buôn ở nước ngoài chưa có.
Mặc dù, công ty đã tích cực cải tiến sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm nhưng so với thị trường quốc tế thì còn đơn giản và kém phong phú. Các loại sản phẩm chất lượng cao dùng để xuất khẩu thì chủ yếu là do liên doanh với nước ngoài. Máy móc để sản xuất những sản phẩm này cũng chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Nguyên liệu để sản xuất thuốc lá cao cấp tuy đã được nội địa hoá nhưng tỷ lệ nguyên liệu nhập ngoại vẫn cao. Chính vì vậy, giá thành đội lên cao.
Giá nhiên liệu, nguyên liệu, giá dầu mở tăng, tỷ giá ngoại tệ tăng, chi phí đầu vào tăng lên giá bán cũng tăng lên và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm.
Công ty chưa có chiến lược mở rộng, phát triển thị trường xuất khẩu rõ ràng. Nên ngân sách cho hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu không đủ. Hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài chưa được quan tâm đúng lúc. Cán bộ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Các nguồn thông tin chưa được khai thác hết và việc đón bắt thông tin còn chậm chạp. Nhu cầu của khách hàng chưa được phản ánh một cách trung thực, nên công ty chưa đáp ứng được nhu cầu thay đổi của khách hàng.
Việc đầu tư khoa học của công ty: tuy phương hướng lựa chọn của công ty là đầu tư theo chiều sâu, không mở rộng quy mô nhưng việc đầu tư còn gây nhiều lãng phí. Đó là việc mẫu mã mới được đưa ra ồ ạt khi chưa có sự kiểm tra, tính toán cẩn thận, dẫn đến chuyện khi chuyển đổi ngừng sản xuất sản phẩm đó để sản xuất sản phẩm khác sẽ phải thay đổi linh kiện gây tốn kém, lãng phí.
Những sản phẩm dùng để xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thuốc lá bao loại 10 điếu nên giá trị công nghiệp không cao.
* Nguyên nhân
Khó khăn và thách thức của Công ty Thuốc lá Thăng Long là những tất yếu của quá trình toàn cầu hoá, của sự cạnh tranh gay gắt trên trường quốc tế mà không thể một sớm, một chiều khắc phục được. Do vậy, cần tính toán để "chung sống với khó khăn và thách thứcô và tìm cách vượt qua, tiếp tục đưa công ty phát triển trong thời kỳ đổi mới.
Nguyên nhân thứ hai là: do thuốc lá là mặt hàng tiêu thụ đặc biệt và do Nhà nước đã có những quy định nghiêm ngặt nên các hoạt động marketing luôn phải dè chừng. Hoạt động quảng cáo gần như bị cấm. Các quốc gia khác trên thế giới cũng có rất nhiều hành động làm thuốc lá của ta khó khăn trong việc xuất khẩu.
Nguyên nhân thứ ba: thị trường nước ngoài khó đoán biết, ở nhiều quốc gia lại khá "đỏng đảnh" trong việc quy định về hàm lượng các chất trong thuốc là và nghiêm ngặt trong các quy định khác (như việc chứng nhận về không sử dụng lao động là trẻ em...) nên việc xuất khẩu càng thêm khó khăn.
Nguyên nhân thứ tư: công tác nghiên cứu thị trường thì luôn là công tác phức tạp, khó khăn. Công ty lại chưa đủ kinh phí và con người giỏi trong lĩnh vực này. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu mới được quay lại từ năm 2001 nên còn non nớt, chưa có những cơ sở hậu thuẫn đủ mạnh ở nước ngoài. Môi trường marketing khác biệt hẳn với môi trường marketing trong nước bởi sự khác biệt về phát triển kinh tế, quan điểm chính trị, đặc điểm văn hoá xã hội của quốc gia mà công ty xuất khẩu hàng hoá vào đó.
Nguyên nhân thứ năm: máy móc, trang thiết bị của công ty đã quá cũ kỹ, mặc dù công ty đã nỗ lực cải tiến song vẫn chưa theo kịp trình độ khoa học của người nước ngoài. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của công ty chưa được đầu tư đủ nên trong nhiều năm chưa đưa ra được những sản phẩm mang tính đột phá để khẳng định được thương hiệu của mình.
Nguyên nhân thứ sáu: Các hoạt động liên quan đến nước ngoài đều phải được sự đồng ý của Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam, của Bộ Công nghiệp, của Thủ tướng Chính phủ. Nên các giao dịch đôi khi chậm trễ, gây lãng phí, khó khăn và là rào cản tâm lý cho cả hai bên.
Nguyên nhân thứ bảy: diễn biến phức tạp của thế giới như thiên tai, lũ lụt, chiến tranh, dịch bệnh... trong những năm gần đây làm cho các hoạt động giao thương với nước ngoài thêm khó khăn.
KẾT LUẬN
Mặc dù nền kinh tế đất nước đang chuyển mình một cách mạnh mẽ trong sự vận hành của cơ chế thị trường thì Công ty thuốc lá Thăng Long vẫn phải chịu sự bao cấp hoàn toàn về vốn kinh doanh của nhà nước, chịu sự điều tiết của một số chính sách đặc thù của nhà nước đối với ngành sản xuất thuốc lá và các chỉ tiêu kế hoạch tối thiểu do nhà nước đề ra. Chính vì điều này, việc tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Công tác sản xuất, việc nghiên cứu thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm dài hạn... gặp rất nhiều trở ngại.
Nhưng Công ty Thuốc lá Thăng Long đã ngày càng đầu tư để phát triển và mở rộng công tác tiêu thụ. Và trên con đường phát triển nhà máy đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu để làm sao đạt được kết quả cao nhất. Do đó một số biện pháp đưa ra trong đồ án hy vọng sẽ phần nào giúp nhà máy giải quyết được những tồn tại, đẩy mạnh những ưu thế sẵn có để đứng vững và phát triển không ngừng trong nền kinh tế thị trường đầy khắc nghiệt.
Quá trình thực tập tại Công ty đã tạo điều kiện cho em một mặt củng cố và áp dụng những kiến thức đã học trong nhà trường, mặt khác đạt được một số kết quả trong việc nghiên cứu điều kiện, phương pháp áp dụng lý luận vào thực tiễn.
Em xin chân thành cám ơn các Thầy Đỗ Quốc Bình đã hưỡng dẫn cặn kẽ, chỉ bảo tận tình, tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập, đồng thời giúp em hiểu biết thấu đáo hơn về những kiến thức trong quá trình học trong nhà trường và quá trình vận dụng vào thực tiễn của cuộc sống.
Đề tài dự kiến viết luận văn:
“Một số giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty thuốc lá Thăng long”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo thực tập tại công ty thuốc là Thăng Long.docx