Vẫn còn tình trạng thiếu ăn trong 1 – 2 tháng ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng lũ lụt, hạn hán, và vào khoảng trên 1 triệu lượt người mỗi năm thiếu ăn (tức là từ 200 000 – 220 000 lượt hộ) chiếm khoảng 5% hộ nghèo theo chuẩn mới và 1,2% số hộ toàn quốc. Điện sinh hoạt và nước sạch thiếu, tỷ lệ thiếu điện sinh hoạt là 21%, và còn 18,2% phải dùng nguồn nước tự nhiên từ sông, suối, hồ, ao không đảm bảo vệ sinh môi trường. Còn tỷ lệ cao người nghèo không có hoặc thiếu đất sản xuất. Năm 1993, có khoảng 8% hộ nông dân không có đất sản xuất. Năm 1998 con số nghèo khoảng 9% nhưng đến năm 2002 là 11% và tiếp tục tăng vào các năm tiếp theo. Tình trạng này tập trung ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long (39%), Đông Nam bộ (31%), Tây Nguyên (3%), Duyên hải miền Trung (9%). Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất còn kém phát triển, thiếu tị trường đầu ra, thiếu kiến thức sản xuất do trình độ văn hoá thấp, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật hoặc mù chữ. Còn phải kể tới các phong tục tập quán lạc hậu và phân biệt đối xử khiến trẻ em bỏ học và người ốm không được y tế chăm sóc, gây lãng phí và tốn kém và mất khả năng trả nợ các khoản vay. Theo báo cáo quốc gia của Việt Nam về tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, công bố tháng 9 năm 2005, cho thấy tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng xã hội giữa các vùng, giới tính và nhóm dân cư đang ngày càng gia tăng. Trong khi các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải cách và tăng trưởng kinh tế, thì tình trạng nghèo vẫn tồn tại dai dẳng ở nhiều vùng nông thôn của Việt Nam và ở mức độ rất cao ở các vùng dân tộc thiểu số - theo Tổng cục Thống kê là 69,3% vào năm 2002. Cách tính chuẩn nghèo theo chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006 – 2010 được tính theo mức giá của năm 2006 mà không tính tới tỷ lệ trượt giá tiêu dùng. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo còn gặp thiếu hụt về sai số thống kê, dẫn tới sự tính toán thiếu hiệu quả khi quy hoạch các dự án xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, còn có sự trông chờ ỷ lại của người dân vào nhà nước khiến các chương trình xoá đói giảm nghèo không thu được kết quả như mong muốn. Trình độ năng lựcc án bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo còn yếu và số lượng lại thiếu.
80 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7417 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I, giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn II. Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ ngành và các đại diện đoàn thể xã hội. Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là:
+ Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số;
+ Phát triển cơ sở hạ tầng;
+ Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch
+ Nâng cao đời sống văn hóa.
Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao gồm đầu tư trên diện rộng của nhà nước, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v... Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới làm phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên. Khi giai đoạn I kết thúc, Nhà nước đã chi khoảng 10 nghìn tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Sang giai đoạn II, Chính phủ đã xác định có 1644 xã thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135. Trong hai năm 2006-2007, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi đã được huy động được tổng vốn là 3.483 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước cùng với các nguồn huy động khác. Các địa phương đã đầu tư xây dựng 8.413 công trình hạ tầng phục vụ cho sản xuất và dân sinh.
2.3.2. Những thành tựu của công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Trong hơn 20 năm qua, kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới và mở cửa nền kinh tế (1986), Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc được quốc tế ghi nhận trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo. Những thành tựu của Việt Nam trong công tác xoá đói giảm nghèo là một trong những biểu tượng thành công nhất trong quá trình phát triển kinh tế. Dựa theo ngưỡng nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế thì thành công trong giảm nghèo của Việt Nam là rất đáng ghi nhận. Năm 1993, cả nước vẫn còn 58% dân số sống trong nghèo đói, từ đó giảm xuống còn 37% năm 1998 và 29% năm 2002. Điều này dẫn đến giảm một nửa tỷ lệ dân số sống dưới ngưỡng nghèo trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Hoặc nói một cách khác, gần 1/3 tổng dân số đã thoát khỏi nghèo đói trong vòng chưa đầy 10 năm (1993 – 2002). Các Mục tiêu phát triển của Việt Nam cũng như Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ cho thấy mức tiến triển liên tục của những chỉ số xã hội, từ số lượng học sinh được đi học đến tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. Mặc dù có một vài vùng và một số nhóm dân số có thành tựu cao hơn những vùng và nhóm khác, Việt Nam vẫn tiếp tục giảm được mức đói nghèo nhanh hơn những nước khác ở cùng mức độ phát triển tương tự. Trong những năm đầu cuả thập niên 1990, Việt Nam đã đuổi kịp các nước trung bình ở cùng mức độ phát triển và đã vượt xa vào năm 2002. Từ năm 1993 đến năm 2004, tỷ lệ nghèo của Việt Nam tính theo chuẩn nghèo 1 USD/ ngày/ người của WB đã giảm từ 50,8% năm 1990 xuống còn 10,6% năm 2004, giảm gần 4/5 trong vòng 14 năm. Nếu so sánh với một số nước khác có cùng trình độ phát triển hoặc có trình độ phat triển cao hơn thì thành tựu vượt trội trong xoá đói giảm nghèo của Việt Nam càng rõ nét hơn. Tính toán dựa trên báo cáo của WB năm 2003 cho thấy tỷ lệ nghèo theo ngưỡng 1 USD/ngày/người của Việt Nam là 13,3%, trong khi đó của Trung Quố là 16,1%, Ấn Độ là 34,7%, Philippines là 14,6%. Tính theo ngưỡng 2 USD thì mức giảm nghèo của Việt Nam có phần khiêm tốn hơn nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng người dân Việt Nam không còn nghèo cùng cực nữa. Sự phát triến và đổi thay đến từ sự biến đổi của thị trường lao động, tỷ lệ người tham gia lao động trực tiếp trên đồng ruộng của mình đã giảm xuống dưới 50%. Thay vào đó, nhiều người đang tham gia vào các ngành nghề có trả công trong lĩnh vực tư nhân, từ 19% năm 1998 đến 30% năm 2002 (2,5 triệu người). Trên thị trường nông sản, các hộ gia đình do chuyển hướng sản xuất theo hướng sản xuất cho thị trường hơn là sản xuất để tiêu dùng nên đã có tới trên 70% sản phẩm nông nghiệp của các hộ nông dân được bán ra thị trường so với 48% của năm 1993. Việc đa dạng hoá ngành nghề, các ngành nghề phụ, các ngành nghề thủ công nghiệp đã giúp người nông dân giảm được mức dễ bị tổn thương khi gặp phải rủi ro.
Bảng 2.11. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam theo chuẩn quốc tế
Năm
Chi tiêu trung bình đầu người (USD PPP/tháng)
Tỷ lệ dân số sống dưới mức (%)
1 USD PPP/ngày
2 USD PPP/ngày
1990
41,7
50,8
87,0
1993
48,9
39,9
80,5
1996
63,7
23,6
69,4
1998
68,5
16,4
65,4
1999
68,0
16,9
65,9
2000
71,3
15,2
63,5
2001
73,8
14,6
61,8
2002
78,7
13,6
58,2
2003
82,0
12,0
55,8
2004
85,5
10,6
53,4
(Nguồn: WB)
Tỷ lệ hộ thiếu đói đã giảm được gần 70%. Tính trung bình kể từ khi Đổi Mới tới 2007, mỗi năm, Việt Nam giảm được 2% số hộ nghèo đói. Tính theo chuẩn quốc gia (gồm cả nghèo về lương thực, thực phẩm và nghèo về phi lương thực, thực phẩm, tương đương 160 nghìn đồng/tháng/người), tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam đã giảm mạnh, từ 58,1 % năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và 28,9% năm 2002. Trong đó, tỷ lệ nghèo về lương thực, thực phẩm giảm từ 24,9% năm 1993 xuống 10,9% năm 2002. Xu hướng giảm nghèo cũng rõ rệt không những trên toàn quốc mà ở tất cả các vùng, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng có tốc độ giảm nghèo mạnh nhất (giảm từ 62,7% năm 1993 xuống còn 22,4% năm 2002). Khoảng cách nghèo cũng giảm nhanh, từ 18,5% năm 1993 xuống còn 9,5% năm 1998 và 6,9% năm 2002.
Bảng 2.12. Tỷ lệ nghèo theo Chuẩn quốc gia giai đoạn 1993 – 2002 phân theo vùng
Đơn vị: %
Vùng
1993
1998
2002
Nghèo chung
Nghèo lương thực, thực phẩm (2100 calo)
Khoảng cách nghèo
Nghèo chung
Nghèo lương thực, thực phẩm (2100 calo)
Khoảng cách nghèo
Nghèo chung
Nghèo lương thực, thực phẩm (2100 calo)
Khoảng cách nghèo
Tỷ lệ nghèo cả nước, trong đó:
58,1
24,9
18,5
37,4
15,0
9,5
28,9
10,9
6,9
- Thành thị
81,5
42,3
29,0
9,2
2,5
18,5
6,6
1,9
12,3
- Nông thôn
86,1
29,6
29,6
45,5
18,6
17,6
35,6
13,6
9,6
Miền núi phía Bắc
81,0
26,2
26,2
64,2
32,4
22,1
43,9
21,1
24,1
Đồng bằng sông Hồng
62,7
24,2
18,3
29,3
8,5
6,2
22,4
5,3
4,3
Bắc Trung Bộ
74,5
35,5
24,7
48,1
19,0
11,8
44,4
17,5
10,6
Duyên hải miền Trung
47,2
22,8
17,2
34,5
15,9
10,2
25,2
9,0
6,0
Tây Nguyên
70,0
32,0
26,3
52,4
31,5
19,1
51,8
29,5
16,7
Đông Nam Bộ
37,0
11,7
10,1
12,2
5,0
3,0
10,6
3,0
2,2
Đồng bắng sông Cửu Long
47,1
17,7
13,8
36,9
11,3
8,1
23,4
6,5
4,7
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Bảng 2.12 cho thây mức độ giảm nghèo của các vùng tuy khác nhau nhưng tỷ lệ nghèo về lương thực thực phẩm đều giảm: vùng Đồng bằng sông Hồng từ 8,5% năm 1998 giảm xuống còn 5,3% năm 2002. Tương tự, vùng Bắc Trung Bộ từ 19% xuống còn 17,5%; vùng Duyên hải miefn Trung từ 15,9% xuống còn 9%; Tây Nguyên từ 31,5% xuống 17,59%; Đông Nam Bộ từ 5% xuống 3%.
Bên cạnh đó, chỉ số Gini của Việt Nam cũng thuộc hạng tương đối bình đẳng (hệ số Gini thấp). Chỉ số Gini của Việt Nam theo Báo cáo về chỉ số phát triển con người (HDI) 2006 của UNDP là 37%, trong khi đó, chỉ số HDI của Thái Lan là 42%, Phillipines là 46.1%, Trung Quốc là 44,7%, Singapore là 42,5%, Nga là 39,9%.
Bảng 2.13. Hệ số Gini theo chi tiêu
Hệ số từ 0 đến 1
1993
1998
2002
Việt Nam
0,34
0,35
0,37
Thành thị
0,35
0,34
0,35
Nông thôn
0,28
0,27
0,28
Vùng núi phía Bắc
0,25
0,26
0,34
Đồng bằng sông Hồng
0,32
0,32
0,36
Bắc Trung Bộ
0,25
0,29
0,30
Duyên hải miền Trung
0,36
0,33
0,33
Tây Nguyên
0,31
0,31
0,36
Đông Nam Bộ
0,36
0,36
0,38
Đồng bằng sông Cửu Long
0,33
0,30
0,30
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Giai đoạn 10 năm từ 1990 – 2000 là giai đoạn mà Việt Nam thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1990 – 2000, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân khoảng 7%/năm, sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 330 kg năm1990 lên 455 kg năm 2000, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực trở thành nước đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới. Đây là điều kiện và tiền đề quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Toàn quốc đã giảm được trên 2 triệu hộ nghèo đói. Tỷ lệ hộ nghèo đói giảm nhanh, từ trên 30% vào năm 1992 xuống còn 10% vào năm 2000, bình quân mỗi năm giảm 250 000 hộ. Riêng giai đoạn 1996 – 2000, mỗi năm giảm 300 000 hộ nghèo đói, hoàn thành mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và được cộng đồng quốc tế đánh giá là mộ trong những nước giảm tỷ lệ nghèo đói nhanh nhất. Các cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ các cộng đồng dân cư nghèo cũng được tăng cường đầu tư xây dựng. Đến hết năm 2000, có gần 6000 công trình đã được đầu tư, trong đó hơn 4000 công trình đã được đưa vào sử dụng. Tổng số vốn đầu tư của Nhà nước cho các chương trình quốc gia có liên quan tới các mục tiêu xoá đói giảm nghèo đạt khoảng 21 000 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng từ các Ngân hàng phục vụ người nghèo tăng nhanh, đến hết năm 2000 đã huy động được hơn 5000 tỷ đồng cho gần 5 triệu lượt hộ nghèo vay, bình quân 1,82 triệu đồng/hộ. Các cộng đồng dân cư nghèo được hỗ trợ về y tế, giáo dục, văn hoá, thông tin, tín dụng,..v.v..
Giai đoạn 2001 – 2003, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng khá, biến động về giá cả là không lớn nên thu nhập bình quân được cải thiện hơn so với các năm trước. Theo VHLSS năm 2002, tính chung trên phạm vi cả nước, thu nhập bình quân đầu người 1 tháng giai đoạn 2001 – 2002 theo giá thực tế đạt 357 nghìn đồng, tăng trên 21% so với năm 1999, trong đó khu vực thành thị đạt 626 nghìn đồng, tăng 21%, khu vực nông thôn đạt 210 nghìn đồng, tăng 18%. Đặc biệt, tốc độ cải thiện một số mặt ở nông thôn đã nhanh hơn thành thị, nhất là nhóm hộ nghèo, nhờ đó mà đến năm 2002, trong nhóm hộ nghèo nhất, đã có khoảng 72,2% số hộ được sử dụng điện.
Bảng 2.14. Tỷ lệ nghèo theo Chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 – 2003
phân theo vùng
Đơn vị: %
Tỷ lệ nghèo
Cơ cấu nghèo cuối năm 2003
Đầu năm 2001
Cuối năm 2003
Toàn quốc
17,2
11,0
100,0
Trong đó
Đông Bắc
22,3
13,8
12,8
Tây Bắc
33,9
18,7
4,5
Đồng bằng sông Hồng
9,7
8,1
19,4
Bắc Trung Bộ
25,6
15,7
19,1
Duyên hải miền Trung
22,3
12,2
10,3
Tây Nguyên
24,9
17,4
8.2
Đông Nam Bộ
8,9
6,3
8,0
Đồng bằng sông Cửu Long
14,2
9,3
17,7
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Cùng với những thành tựu trong giai đoạn 2001 – 2003 đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 của Việt Nam cũng đã về đích trước thời hạn một năm. Vào cuối năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam chỉ còn ở mức trên 8%, trong khi kế hoạch Đại hội Đảng IX đề ra là năm 2005 hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%. Tình trạng tái đói kinh niên cơ bản đã không còn diễn ra. Người nghèo ngày càng được tiếp cận với các dịch vụ sản xuất và đời sống dân sinh, được vay vốn tín dụng, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi và trồng trọt, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế và giáo dục và nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, người nghèo cũng được thụ hưởng các chương trình văn hóa, phát thanh, truyền hình. Tổng nguồn lực huy động cho xóa đói giảm nghèo bao gồm cả chương trình 134 (Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn), chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn) và các dự án quốc tế trong 5 năm (2001-2005) khoảng 40.950 tỷ đồng. Riêng nguồn lực đầu tư cho chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo khoảng 21.000 tỷ đồng.
Giai đoạn 2003 – 2004, số hộ nghèo theo Chuẩn nghèo quốc gia đã giảm từ 1,7 triệu hộ năm 2003 xuống còn 1,4 triệu hộ dến cuối năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ khoảng 11% xuống còn khoảng 8,3%, bình quân mỗi năm giảm trên 2%. Trong 64 tỉnh, thành phố, có 36 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%, trong đó 11 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo dưới 5% và 4 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 20% (Bắc Kạn, Điện Biên, Lai Châu, Sóc Trăng). Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong cả nước và trên tất cả các vùng địa lý. Trong đó, các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao có xu hướng giảm nhanh hơn các vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp vì công tác xoá đói giảm nghèo được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, nhất là tại các tỉnh đặc biệt khó khăn, có tỷ lệ nghèo đói cao, nguy cơ tái nghèo lớn.
Giai đoạn 2004 – 2005, tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn nghèo quốc gia 2001 – 2005 giảm từ 17% năm 2000 xuống còn 8,3% năm 2004 và 7% năm 2055, trong đó, tất cả các vùng đều giảm được tỷ lệ nghèo. Việt Nam về đích trước một năm trong việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo thời kỳ 2001 – 2005. Tính đến cuối năm 2004, trong 64 tỉnh thành phố trên cả nước có 2 tỉnh cơ bản không còn hộ nghèo, 18 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 3 – 5%, 24 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 5 – 10%, 15 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 10 – 15%, 3 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 15 – 20% và chỉ có 2 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 20%. Việt Nam cũng hoàn thành vượt mức Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) trước 10 năm về giảm nghèo, từ 58,1% năm 1993 xuống 24,1% năm 2004 (tính theo Chuẩn nghèo quốc tế). Năm 2005, thu nhập bình quân của nhóm 20% nghèo nhất tăng khoảng 1,5 lần so với năm 2001. Chi tiêu bình quân của nhóm này tăng 8 – 9% trong giai đoạn 2002 – 2005.
Bảng 2.15. Tỷ lệ hộ nghèo theo Chuẩn qốc gia giai đoạn 2004 – 2005 phân theo vùng
Đơn vị: %
Năm 2004
Năm 2005
Toàn quốc
8,3
7,0
Đông Bắc
10,36
8,0
Tây Bắc
14,88
12,0
Đồng bằng sông Hồng
6,13
5,15
Bắc Trung Bộ
13,23
10,5
Duyên hải Nam Trung Bộ
9,56
8,0
Tây Nguyên
13,03
11,0
Đông Nam Bộ
2,25
1,7
Đồng bằng sông Cửu Long
7,4
6,78
(Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; báo cáo của các địa phương 2005)
Mặc dù chênh lệch giàu nghèo vẫn có xu hướng gia tăng, nhưng tốc độ gia tăng trong giai đoạn 2002 – 2004 chậm hơn so với giai đoạn 1993 – 2002, chủ yếu do các vùng nghèo hơn có tốc độ giảm nghèo cao hơn các vùng giàu. Theo Chuẩn nghèo mới, được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2005 thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng từ 200 000 đồng trở xuống đối với khu vực nông thôn và 260 000 đồng trở xuống đối với khu vực thành thị. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn hoặc bằng chuẩn nghèo được xác định là hộ nghèo. Do đó, cả nướ vào năm 2005 có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% tổng số hộ toàn quốc. Vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất vẫn là vùng Tây Nguyên (40%), thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%).
Căn cứ vào chuẩn nghèo của giai đoạn 2000 – 2005, ta có thể thấy rõ là qua từng năm đều đã có sự tiến triển vượt bậc về sự giảm tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta. Bình quân hàng năm cả nước ta đã giảm được từ 3 đến 4% số hộ nghèo, vượt mức kế hoạch đề ra. Cụ thể, nếu đầu những năm 1990 tỷ lệ các hộ nghèo trong cả nước còn ở mức rất cao, bình quân khoảng trên dưới 30 – 35%, thì đến năm 1995 đã giảm xuống còn 29%, năm 2000 còn 25%, và đến năm 2005 chỉ còn có 22% , năm 2006 còn 17%, thì đến năm 2007 chỉ còn 14,87%, giảm 6,28% so với cuối năm 2005 và năm 2008 chỉ còn khoảng 14,2%. Điều đáng quan tâm là chất lượng cuộc sống hộ nghèo đã được không ngừng nâng cao hơn. Thu nhập bình quân của 20% số các hộ nghèo năm 2007 được điều tra cho thấy đã tăng gần 1,5 lần so với năm 2005.
Việc triển khai các mô hình giảm nghèo từ năm 2000 đến 2005, đã tiến hành xây dựng được 83 mô hình giảm nghèo tại 83 xã thuộc 20 tỉnh với sự tham gia của 40.000 hộ, trong đó có 55 hộ nghèo. Đã có 64 xã trong cả nước xây dựng mô hình liên kết giữa các các doanh nghiệp với hộ nghèo và các xã phát triển vùng nguyên liệu, hàng năm thu nhập của các hộ tham gia dự án tăng 16 – 19%, và 20% số hộ tham gia dự án đã thoát nghèo. Từ những mô hình thành công giai đoạn 2000 – 2005, Chương trình Giảm nghèo 2006-2010 đang tiếp tục nhân rộng mô hình điểm đồng thời với chính sách khuyến khích nhà đầu tư vào các vùng nghèo, xã nghèo và nhận người nghèo vào làm việc, lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn hướng vào mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Tính riêng hai năm 2006-2007, Việt Nam đã có thêm 2,866 triệu hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất với mức vay từ 4 – 5 triệu đồng/hộ; hơn 1,330 triệu lượt người nghèo được tập huấn cách làm ăn về kỹ thuật nông nghiệp, nuôi trồng nông – lâm – thuỷ sản; 347 cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sinh hoạt cho các xã nghèo được xây dựng; 29 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí; 4,7 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí; 230 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở. Năm 2007 đã có khoảng hơn 1 triệu hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi, 450.000 lượt người nghèo hướng dẫn cách làm ăn thông qua trên 1000 mô hình trình diễn và 7000 lớp tập huấn kỹ thuật, 14,5 triệu nguời nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, 2,4 triệu học sinh nghèo được hỗ trợ về nhà ở.
2.3.3. Những hạn chế của công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam từ 1986 đến nay
Tuy công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, có thể gọi là thần kỳ và được các nước, các tổ chức trên Thế giới ca ngợi, nhưng bất kỳ công tác nào cũng có những điểm yếu, những mặt còn hạn chế, cần có thời gian để nhìn nhận và khắc phục.
2.3.3.1. Tốc độ giảm nghèo không đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại.
Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 – 0,7 trong những năm 1992 – 1998, giảm xuống còn khoảng 1 – 0,3 giai đoạn 1998 – 2005. Bình quân trước đó mỗi năm giảm 34 vạn hộ nghèo. Tốc độ giảm nghèo thể hiện rõ nhất là ở những vùng bị chia cắt về địa lý (vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, vùng bãi ngang ven biển) và ở một số nhóm đối tượng (dân tộc thiểu số), kết cấu hạ tầng và mặt bằng dân trí còn thấp. Trong khi tỷ lệ nghèo của vùng Đông Nam Bộ còn 6,1% và tỷ lệ nghèo của vùng đồng bằng sông Hồng còn 12,9% , thì vùng Tây Bắc vẫn còn tới 46,1%, tức là còn gần một nửa; vùng Bắc Trung Bộ và vùng Tây Nguyên tuy giảm nhanh nhưng vẫn còn gần một phần ba; vùng Đông Bắc vẫn còn 23,2%; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ vẫn còn 21,3%; ngay cả vùng ĐBSCL một vựa lúa của cả nước cũng vẫn còn 15,3%. Một số chính sách và giải pháp động lực cho xóa đói, giảm nghèo đã bộc lộ những hạn chế, không còn tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu, như các chính sách về đất đai, về giao đất, giao rừng, về khoán trong nông nghiệp,.v.v..
Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Điều đó cho thấy tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số chậm hơn tốc độ chung của cả nước. Nhóm dân tộc có tỷ lệ hộ nghèo cao là Vân Kiều chiếm 60,3%; Pa kô chiếm 58,5% và H’mông chiếm 35% vào năm 2003. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Còn khoảng 500 000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống trong các ngôi nhà tạm, đồ dùng lâu bền hầu như không có hoặc giá trị rất thấp. Hầu hết các họ nghèo dân tộc chỉ có tài sản ở mức 1 – 2 triệu đồng. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Bảng 2.16. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo trong tổng số hộ nghèo
Đơn vị:%
Dân tộc
1992
1998
2005
Dân tộc thiểu số
21
29
36
Dân tộc Kinh
79
71
64
Chung
100
100
100
(Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)
2.3.3.2.Chênh lệch về thu nhập có xu hướng gia tăng
Chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu hướng gia tăng (tỷ số Ghini giảm). Trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004. Sự gia tăng khoảng cách giàu – nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn. Mặc dù mức độ trầm trọng của đói nghèo ở Việt Nam đang giảm (qua số liệu về khoảng cách nghèo – độ sâu của đói nghèo) nhưng với tốc độ chậm dần, từ 18,5% năm 1993 xuống 9,5% năm 1998 và 6,9% năm 2002. Độ sâu của nghèo đói còn khá cao, thu nhập bình quân đàu người của nhóm hộ nghèo ở nông thôn theo chuẩn mới còn thiếu hụt khoảng 0,3 (chỉ số này dao động từ 0 đến 1, mức độ thiếu hụt càng lớn, mức độ nghèo càng gay gắt) tức là chỉ đạt 70% so với mức chuẩn nghèo mới.
2.3.3.3. Chất lượng kết quả xoá đói giảm nghèo chưa bền vững
Mặc dù công tác xoá đói giảm nghèo có tiến triển, nhưng vẫn còn một tỷ lệ lớn các gia đình vẫn có mức sống dưới mức nghèo đói (39% ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ và 51% ở Bắc Trung Bộ không có khả năng đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống), và một tỷ lệ lớn các gia đình cuộc sống vẫn còn rất bấp bênh, chỉ trên mức nghèo đói, sử dụng nhiều sinh kế để kiếm thêm thu nhập (Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 1999). Theo bảng số liệu 2.17 về Chi tiêu của dân cư theo 5 nhóm thì ta thấy còn một tỷ lệ khá lớn hộ gia đình nằm ngay sát trên chuẩn nghèo và nếu gặp thiên tai, rủi ro, sự thay đổi của cơ chế chính sách và tác động của quá trình hội nhập thì khả năng tái nghèo của nhóm này sẽ rất lớn.
Bảng 2.17. Chi tiêu của dân cư phân theo 5 nhóm
Phần trăm hoặc tỷ lệ
Năm
1993
1998
2002
Nghèo nhất (%)
8,4
8,2
7,8
Gần nghèo nhất (%)
12,3
11,9
11,2
Trung bình (%)
16,0
15,5
14,6
Gần giàu nhất (%)
21,5
21,2
20,6
Giàu nhất (%)
41,8
43,3
45,9
Tổng cộng (%)
100,0
100,0
100,0
Giàu nhất/Nghèo nhất (lần)
4,97
5,49
6,03
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Bảng 2.17 cho ta thấy mức chi tiêu phản ánh mức thu nhập của người dân, luôn có mọt tỷ lệ khá lớn chiêm hơn 10% dân số có mức chi tiêu cận nghèo nhất và cũng là những người dễ bị tổn thương nhất do các tác động của các biến số bên ngoài. Khoảng cách chênh lệch giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất ngày càng tăng từ 4,97 lần năm 1993 lên 6,03 lần năm 2002.
Vẫn còn tình trạng thiếu ăn trong 1 – 2 tháng ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng lũ lụt, hạn hán, và vào khoảng trên 1 triệu lượt người mỗi năm thiếu ăn (tức là từ 200 000 – 220 000 lượt hộ) chiếm khoảng 5% hộ nghèo theo chuẩn mới và 1,2% số hộ toàn quốc. Điện sinh hoạt và nước sạch thiếu, tỷ lệ thiếu điện sinh hoạt là 21%, và còn 18,2% phải dùng nguồn nước tự nhiên từ sông, suối, hồ, ao không đảm bảo vệ sinh môi trường. Còn tỷ lệ cao người nghèo không có hoặc thiếu đất sản xuất. Năm 1993, có khoảng 8% hộ nông dân không có đất sản xuất. Năm 1998 con số nghèo khoảng 9% nhưng đến năm 2002 là 11% và tiếp tục tăng vào các năm tiếp theo. Tình trạng này tập trung ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long (39%), Đông Nam bộ (31%), Tây Nguyên (3%), Duyên hải miền Trung (9%). Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất còn kém phát triển, thiếu tị trường đầu ra, thiếu kiến thức sản xuất do trình độ văn hoá thấp, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật hoặc mù chữ. Còn phải kể tới các phong tục tập quán lạc hậu và phân biệt đối xử khiến trẻ em bỏ học và người ốm không được y tế chăm sóc, gây lãng phí và tốn kém và mất khả năng trả nợ các khoản vay. Theo báo cáo quốc gia của Việt Nam về tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, công bố tháng 9 năm 2005, cho thấy tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng xã hội giữa các vùng, giới tính và nhóm dân cư đang ngày càng gia tăng. Trong khi các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải cách và tăng trưởng kinh tế, thì tình trạng nghèo vẫn tồn tại dai dẳng ở nhiều vùng nông thôn của Việt Nam và ở mức độ rất cao ở các vùng dân tộc thiểu số - theo Tổng cục Thống kê là 69,3% vào năm 2002. Cách tính chuẩn nghèo theo chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006 – 2010 được tính theo mức giá của năm 2006 mà không tính tới tỷ lệ trượt giá tiêu dùng. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo còn gặp thiếu hụt về sai số thống kê, dẫn tới sự tính toán thiếu hiệu quả khi quy hoạch các dự án xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, còn có sự trông chờ ỷ lại của người dân vào nhà nước khiến các chương trình xoá đói giảm nghèo không thu được kết quả như mong muốn. Trình độ năng lựcc án bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo còn yếu và số lượng lại thiếu.
Mặc dù, trong những năm qua số hộ nghèo trong cả nước đã giảm mạnh, song trên thực tế công cuộc xóa đói, giảm nghèo còn vô cùng gian nan. Nguy cơ tái nghèo có thể tăng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; do đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều; cơ hội về việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi mới công nghệ trong sản xuất, yêu cầu trình độ của người lao động ngày càng cao. Đói nghèo trở lại là vấn đề luôn rình rập một bộ phận khá lớn số hộ nghèo vừa vượt khỏi ngưỡng nghèo. Chỉ cần gặp thiên tai, dịch bệnh, đau ốm hoặc biến động giá cả, thì các hộ này lại dễ rơi vào tình trạng đói nghèo.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY THÀNH TỰU CŨNG NHƯ KHẮC PHỤC HẠN CHẾ CỦA CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI
3.1. Dựa trên sự tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm để nâng cao đời sống cho người nghèo
Bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững là điều kiện tiên quyết để giảm nghèo. Kinh nghiệm ở một số nước và thực tế Việt Nam cho thấy trong gần một thập kỷ vừa qua, nước ta đạt được thành tựu tích cực về giảm nghèo là dựa trên sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Để bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, vấn đề cải cách cơ cấu kinh tế và bộ máy quản lý nhà nước đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết trên tất cả các mặt chủ yếu như thể chế kinh tế, thúc đẩy thị trường phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện môi trường đầu tư, cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, xóa bỏ bao cấp, hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải cách hành chính và các hoạt động phục vụ đầu tư, sản xuất kinh doanh,v.v..
Phát triển kinh tế, xã hội đồng bộ từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng thuận lợi đến vùng sâu, vùng xa. Chú trọng giúp các địa phương nghèo phát triển kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp. Có được như vậy, mới tạo thêm nhiều việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Việc giảm tỷ lệ nghèo đói nghiêm trọng ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đòi hỏi có sự đầu tư mạnh mẽ, liên tục của Nhà nước và sự chủ động vượt lên của chính địa phương và người nghèo ở những nơi này.
Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế là điều kiện, tiền đề vật chất để giải quyết công bằng xã hội và ngược lại, giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội sẽ góp phần ổn định chính trị – xã hội, thực hiện tăng trưởng bền vững
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình Mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo và Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (Chương trình 135), từng bước nâng dần mức sống của hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực nông thôn miền núi. Nhà nước nên có chủ trương hợp nhất các chương trình, dự án giảm nghèo hiện nay về một đầu mối, nhằm tập trung nguồn lực, tránh lãng phí, dàn trải.
Quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bên cạnh đó tăng cường hợp tác quốc tế, tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động, một mặt vừa đáp ứng cho nhu cầu hội nhập, mặt khác vừa trang bị cho người lao động có điều kiện để tự tìm việc làm, nâng cao tay nghề, gia tăng thu nhập, giảm số lao động thất nghiệp – đối tượng tiềm ẩn nguy cơ biến thành nghèo.
3.2. Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các loại hình dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ môi trường
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, hệ thống điện, trường học, cơ sở khám chữa bệnh và các thiết chế văn hóa cho các địa phương nghèo để sớm khắc phục tình trạng thiếu điện, thiếu nước sạch, thiếu thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế nghèo nàn, lạc hậu, đồng thời thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt chú trọng đào tạo, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế và cung cấp đầy đủ thuốc chữa bệnh, phù hợp với thu nhập của người dân. Kết hợp chặt chẽ chương trình xóa đói, giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Giải pháp này nhằm nâng cao thiết thực mức sống và chất lượng cuộc sống nhân dân ở các xã nghèo, vùng nghèo, giảm dần khoảng cách giữa các vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cư; bảo đảm cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về chăm sóc y tế, giáo dục và kế hoạch hóa gia đình, sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt và nguồn gốc của nghèo đói. Nhà nước cũng cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho khu vực nông nghiệp, nông thôn cả về kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, năng lực cán bộ để khai thác tiềm năng, thế mạnh của khu vực này, nhất là tạo nhiều việc làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cũng cần có các chính sách như: miễn hoàn toàn học phí, hoặc giảm học phí và cộng thêm các khoản hỗ trợ cho các học sinh, sinh viên nghèo; Phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho các hộ gia đình nghèo; Xây dựng các mô hình trung tâm bảo trợ xã hội nhận nuôi dưỡng các đối tượng trẻ em mồ côi, người già neo đơn, những người có công với cách mạng gặp hoàn cảnh khó khăn không nơi nương tựa; Mở rộng mô hình các trường nội trú, trong đó, Nhà nước hỗ trợ hoàn toàn hoặc một phần cùng với sự đóng góp của nhần dân, để hỗ trợ toàn phần chi phí sinh hoạt và học tập cho các trẻ em thuộc các hộ gia đình vùng sâu, vùng xa, các hộ gia đình không có khả năng chi trả chi phí để con em mình duy trì việc tới trường học; Duy trì và phát triển các làng văn hoá cổ truyền thống, tạo dựng môi trường tốt để tạo cơ sở phát triển ngành du lịch địa phương với xu hướng tìm hiểu văn hoá, vừa để duy trì các giá trị văn hoá truyền thống, vừa tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư có thu nhập thấp, tạo dựng ý thức giữ gìn môi trường sống cho người dân.
3.3. Xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là về nguồn lực hướng tới phát triển bền vững
Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, nguồn lực của Nhà nước vừa có vai trò chủ đạo, vừa mang tính xúc tác, khơi nguồn, nguồn lực của cộng đồng, của quốc tế cũng có có vai trò rất quan trọng. Xây dựng và phát triển các quỹ chương trình hỗ trợ người nghèo của cộng đồng như "Những tấm lòng từ thiện"; "Nối vòng tay lớn"; "Quỹ tình thương"; "Nhà đại đoàn kết"...thu hút đông đảo các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế tham gia hỗ trợ người nghèo. Cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", "xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo", đã giúp cho hàng trăm nghìn hộ nghèo sửa chữa hoặc xây mới được nhà ở. Các mô hình tín dụng – tiết kiệm, nông dân sản xuất giỏi, thanh niên làm kinh tế, v.v.. đã góp phần cải thiện điều kiện sống cho nhiều thành viên của các tổ chức, các đoàn thể xã hội.
Ngoài các nguồn lực trong nước và nguồn hỗ trợ tài chính của cộng đồng quốc tế, điều quan trọng hơn là chúng ta đã và sẽ cần phải tiếp thu có hiệu quả sự trợ giúp kỹ thuật của bè bạn quốc tế và đã nhân rộng được nhiều bài học kinh nghiệm và mô hình tốt về xóa đói, giảm nghèo như: phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân, vấn đề giới trong xóa đói, giảm nghèo, cơ chế tăng cường phân cấp cho địa phương, đặc biệt là cấp xã,.v.v.. Những kinh nghiệm và bài học quý báu ấy đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Trong những năm tới, xã hội hóa các hoạt động xóa đói giảm nghèo cần được các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và mọi người tiếp tục quan tâm và thúc đẩy lên một tầm cao mới, nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của xã hội và của mọi người dân trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta. Mọi hỗ trợ vật chất như tài chính, các nhu yếu phẩm dù từ nguồn nào: nhà nước, nhân dân, tập thể cơ quan, đơn vị, các tổ chức trong nước, quốc tế.v.v… và dưới hình thức nào cho vay hay cho không.v.v... cũng đều cần thực hiện rõ ràng, công khai, minh bạch và đưa đến tận tay các hộ nghèo, kiên quyết không để kẻ xấu lợi dụng trục lợi, tham nhũng. Ngoài ra, riêng đối với các vùng có nhiều hộ nghèo do là địa bàn thưòng xuyên bị thiên tai bão lũ hàng năm thì ngoài việc kêu gọi sự tương trợ của cộng đồng thì vẫn cần phải trông cậy vào vai trò, sự hỗ trợ của Nhà nước là chủ yếu. Từ đó, cần nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật An sinh xã hội và Luật Bảo trợ xã hội kèm theo là thiết lập các quỹ dự trữ quốc gia với kinh phí đủ lớn từ nguồn thu ngân sách nhà nước để có đủ những cơ sở pháp lý và điều kiện vật chất để giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội thực sự bền vững. Muốn thực hiện được, đương nhiên là cần phải có kinh phí, cách tạo kinh phí bền vững duy nhất là phải huy động được tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước, với nguồn lực trong nước là chủ yếu để tạo ra tăng trưởng kinh tế cao – tiền đề vật chất cơ bản nhất cho việc thực hiện công bằng xã hội, trong đó giảm nghèo đang là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn, một nhiệm vụ bức xúc, quan trọng hàng đầu hiện nay của các cấp chính quyền Việt Nam mà tất cả cộng đồng dân tộc Việt Nam đều phải quan tâm thực thi với tình cảm và trách nhiệm cao nhất, phấn đấu vượt qua ngưỡng các quốc gia có thu nhập trung bình và tiến nhanh hơn sau đó thì mục tiêu phấn đấu đặt ra xét trên bình diện chung cho tất cả các vùng, miền lãnh thổ Việt Nam (nhất là ở những vùng sâu, vùng xa đang còn nghèo, thậm chí quá nghèo), công tác giảm nghèo thực sự phải có hiệu quả cao và bền vững – đó là một trong những mục tiêu định hướng quan trọng nhất của sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay và cả lâu dài nhiều năm tới.
3.4. Đổi mới công tác tổ chức, bảo đảm tính công khai, minh bạch và làm rõ trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tạo điều kiện để chính quyền địa phương chủ động, người dân bàn bạc, thảo luận, nhằm tạo ra sự đồng thuận và hợp tác, quyết tâm vượt nghèo, vươn lên làm giàu của các xã nghèo, vùng nghèo và chính bản thân người nghèo trong quá trình triển khai chương trình xóa đói, giảm nghèo
Trong những năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong công tác chỉ đạo, điều hành bảo đảm thực hiện có chất lượng các chương trình xóa đói, giảm nghèo. Cơ chế tự chủ về phân bổ ngân sách, tổ chức thực hiện và quản lý các chương trình trên cơ sở nhu cầu thực tiễn, lập kế hoạch và huy động nguồn lực trên địa bàn đã tạo điều kiện cho các cấp chính quyền chủ động, tự giải quyết và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của chương trình. Song trên thực tế, việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và ra quyết định tại cấp xã vẫn rất hạn chế. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện để phát huy tính năng động, chủ động của cơ sở, phát huy sức mạnh về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng để nâng cao hiệu quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Hai yếu tố quan trọng nhất để thực hiện giảm nghèo là, Nhà nước tạo động lực giảm nghèo thông qua các chính sách phát triển kinh tế xã hội và ý chí vượt nghèo của người nghèo. Các chương trình giảm nghèo và phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo bước đầu được nhân dân trong cộng đồng tham gia, thảo luận và quyết định. Người dân từng bước nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tham gia thực hiện các chương trình giảm nghèo. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" phải được thực hiện xuyên suốt trong các hoạt động của chương trình giảm nghèo ở địa phương.
Công tác xóa đói, giảm nghèo cần tập trung vào các địa bàn là các xã khó khăn nhất ở vùng căn cứ cách mạng, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng khó khăn nhất, trong đó, đặc biệt ưu tiên phụ nữ và trẻ em nghèo. Động viên cộng đồng người nghèo phát huy nội lực, tự vươn lên thoát nghèo, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các cộng đồng khác, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực, kết hợp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực quốc tế; có chính sách, cơ chế khuyến khích và các giải pháp có tính đột phá, áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, chuyển giao công nghệ thích hợp đến các xã nghèo, người nghèo, khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo nghề và tạo việc làm ổn định và tăng thu nhập cho người nghèo để xóa đói, giảm nghèo bền vững, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
3.5. Tiến hành đổi mới nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn và hướng tới thị trường.
Do đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam là mang nặng tính sản xuất tiểu nông, diện tích trồng trọt thấp (bình quân mỗi hộ chỉ có 0,8 ha), sức sản xuất kém, chất lượng sản phẩm thấp, nên giải pháp ở đây là “dồn điền đổi thửa”, dồn diện tích, tách lọc diện tích đất xấu, tạo ra việc làm phi nông nghiệp ở vùng nông thôn (tiểu công nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác).
Do nông dân hầu như không tiếp cận được các thông tin thị trường, họ hầu như không biết ý nghĩa của việc gia nhập các tổ chức kinh tế – chính trị thế giới và khu vực như WTO hay ASEAN đối với họ là gì, sản xuất thiếu định hướng chiến lược. Chính phủ và các hội đoàn phải cung cấp nhiều thông tin hơn về phát triển thị trường và điều kiện tiếp cận thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thông tin về tiêu chuẩn sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu. Nghĩa là rất cần sự hỗ trợ kỹ thuật để tiến hành tiêu chuẩn hoá chất lượng, tiến hành thử nghiệm và cấp chứng chỉ cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Tốc độ áp dụng kiến thức khoa học và phát triển kỹ thuật còn thấp mà xét đến các cơ hội xuất khẩu lớn trong điều kiện thị trường quốc tế hiện tại, và việc tận dụng quá ít cơ hội để đặt chân vào tầng giá cả tại các thị trường xuất khẩu với các sản phẩm chất lượng cao, nên chính phủ cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu nông nghiệp, cũng như quảng bá kết quả đối với các nhà sản xuất nông nghiệp. Các nhà hỗ trợ phát triển nhất lớn của quốc tế như Ngân hàng thế giới sẽ ủng hộ quá trình này.
Tình trạng nghèo vốn của các xí nghiệp nhỏ và thiếu khả năng tín dụng ở nông thôn gây khó khăn cho đầu tư và chuyên sâu trong sản xuất, các ngân hàng hợp tác xã có mộ mạng lưới dày đặc các chi nhánh ở nông thôn và trong quá khứ chúng có vai trò quan trong trong việc phát triển nông nghiệp hiện đại. Đối với Việt Nam, cải thiện việc cung cấp dịch vụ ngân hàng ở nôn thôn là chìa khóa cho tăng trưởng khả năng cạnh tranh quốc tế của nông nghiệp.
Kỹ năng lao động của người nông dân và trình độ quản lý các cơ sở nông nghiệp phải được nâng cao để phù hợp với tầm thương mại quốc tế (ngoại ngữ, computer, kiến thức tiếp thị quốc tế, luật thương mại quốc tế) trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay để tận dụng tối đa các cơ hội xuất khẩu ra các thị trường quốc tế thì mới tận dụng được cơ hội mới trên thị trường thế giới. Có nhiều xuất phát điểm để hỗ trợ chính phủ trong công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (đào tạo, nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, phát triển hạ tầng, hạ tầng cơ sở tài chính ở nông thôn...)
3.6. Quán triệt cho người dân và cán bộ nhà nước nhận thức đúng đắn ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo
Đói nghèo là một hiện tượng mang tính toàn cầu, không chỉ tồn tại ở những nước nghèo, có thu nhập thấp và các nước đang phát triển mà có cả ở những nước phát triển, mặc dầu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, nhưng cũng rất gay gắt, do đó xóa đói, giảm nghèo đã được đặt lên thành chương trình của Liên hợp quốc. Hơn nữa, đói nghèo còn có tính tương đối tùy thuộc vào mức sống của từng quốc gia, của các tầng lớp dân cư và của ngay từng con người, từng hộ gia đình, do đó xóa đói, giảm nghèo phải là một chiến lược lâu dài, thường xuyên, khó có thể gọi là hoàn thành dứt điểm. Có thể nói, xóa đói, giảm nghèo là chiến lược của các quốc gia, nhưng đối với nước ta nó càng có ý nghĩa đặc biệt vì đó là mục tiêu hàng đầu của con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước nghèo đã là một điều tủi nhục khi mọi điều kiện về con người, về tài nguyên thiên nhiên, về chính trị - xã hội của nước ta không phải là khan hiếm. Người nghèo nhiều không chỉ làm cho nước nghèo mà còn là nguyên nhân của những tệ nạn xã hội, cản trở sự phát triển đi lên của đất nước. Hơn bao giờ hết, trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế thì xóa đói, giảm nghèo phải được đặt lên thành một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020. Phải kiên quyết chống bệnh hình thức và bệnh thành tích trong xóa đói, giảm nghèo. Xóa đói, giảm nghèo phải đi liền với tiết kiệm, chống lãng phí, nhưng trong thực tế do bệnh hình thức và bệnh thành tích nên những người tổ chức lại thích phô trương, gây lãng phí công sức và tiền của. Coi trọng hơn nữa công tác cán bộ trong xóa đói, giảm nghèo. Công tác cán bộ, nhất là những cán bộ trực tiếp lãnh đạo công tác xóa đói giảm nghèo có vai trò quyết định thể hiện ở việc: cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp không chỉ phải chống các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hành dân, ăn bớt, lạm dụng tiền cứu trợ xóa đói, giảm nghèo,… mà còn phải coi việc đem lại lợi ích cho dân là nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Do đó, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất và năng lực để phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, không vô cảm trước cảnh nghèo đói của nhân dân. Đối với cán bộ trong các Ban chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo và cán bộ chuyên trách xóa đói, giảm nghèo thì ngoài phẩm chất và năng lực cần có của một công chức nhà nước thì cần được đào tạo, rèn luyện cụ thể hơn để đáp ứng yêu cầu xóa đói, giảm nghèo trong điều kiện của Việt Nam hiện nay. Họ phải là những người gần dân, gần những người còn đói khổ, hiểu biết tâm tư, nguyện vọng, năng lực kinh tế của từng người dân, đưa ra được những phương án kinh tế phù hợp với thực tiễn, không viển vông, xa vời để đối tượng có thể tiếp thu và thực hiện có hiệu quả. Cán bộ, công chức nhà nước không được vụ lợi, làm giàu bằng chương trình xóa đói, giảm nghèo. Đối với những vùng khó khăn, chủ yếu là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, cần có chính sách giáo dục, đào tạo phù hợp, có sự ưu tiên thỏa đáng đối với người học cả về chương trình, giáo trình, giáo viên, tuyển chọn, thi cử, học bổng, học phí, tổ chức nơi ăn học để người học có điều kiện học tập, trở thành những cán bộ kỹ thuật và quản lý các cấp, trước hết là cấp cơ sở, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở chính địa phương.
KẾT LUẬN
Xoá đói giảm nghèo là cả một công cuộc lớn nằm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay và nhất là từ khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có bước chuyển đổi lớn lao từ trong tư duy đến lý luận và thực tiễn với mốc lịch sử là Đại hội Đảng VI (12/1986). Với một thời kỳ dài nền kinh tế bị tàn phá nặng nề của ít nhất là hai cuộc chiến tranh lớn nhất trong Thế kỷ XX, kèm theo một chuỗi các sai lầm trong tư duy kinh tế và sự bao vây cấm vận của nước ngoài, khiến nền kinh tế Việt Nam rơi vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn nền kinh tế, đời sống nhân dân rất khó khắn và thiếu thốn. Nhưng cùng với những thành tựu của công cuộc Đổi Mới và kiến thiết đất nước, các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước xây dựng kinh tế luôn đi kèm với việc phát triển xã hội, nhất là chăm lo phát triển đời sống lao động sản xuất của người dân nghèo. Những chiến lược dài hạn và các chính sách vĩ mô của Chính phủ đã và đang đem lại những thành quả mà chưa bao giờ Việt Nam có được trong lịch sử kinh tế của mình, đó là nạn đói hầu như đã không còn – một điều mà hàng trăm năm trước không bao giờ tưởng chừng có thể chấm dứt. Bên cạnh đó, số lượng người nghèo cũng đã giảm đi với tốc độ đáng kinh ngạc tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn dương và mức độ tăng trưởng từ khá trở lên. Không thể phủ nhận công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã được lên kế hoạch, xác định phạm vi, đối tượng một cách cẩn thận và chính xác, cùng với một sự quyết liệt trong thực hiện của các cấp chính quyền, khi mà tiềm lực kinh tế Việt Nam chưa phải là mạnh và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn non yếu. Đối với Việt Nam, công cuộc xoá đói giảm nghèo đã góp một phần không nhỏ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, hạ tầng xã hội, và gia tăng giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia, dần dần xây dựng sự thịnh vượng cho tất cả mọi người dân.
Để phát huy tốt hơn nữa các thành tựu mà công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được và hạn chế các tồn tại trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, Nhà nước cần có chính sách quy định trách nhiệm để các vùng, lĩnh vực có điều kiện phát triển hỗ trợ đầu tư, liên doanh liên kết đầu tư với các vùng nghèo, miền núi, dân tộc, vùng sâu, vùng xa để thúc đẩy nhanh sự tăng trưỏng và phát triển ở các vùng này tiến kịp với trình độ phát triển chung của cả nước, cùng với đó, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, Chính phủ cần phải tiếp tục tạo lập động lực để phát triển mạnh mẽ kinh tế – xã hội, đồng thời chủ động chỉ đạo thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo với sự đồng tâm hiệp lực của các ngành, các cấp, của cả cộng đồng, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của chính người nghèo. Đảng và Nhà nước, nghiên cứu, ban hành chính sách trợ cấp đối với những hộ có thu nhập thấp, nhất là với những hộ quá nghèo, để tiến tới giảm dần áp lực quá nan giải đối với việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Từ kinh nghiệm thực tiễn giảm nghèo nhiều năm qua cho thấy cần quán triệt một yêu cầu đặt ra vừa có tính quan điểm chỉ đạo nhưng cũng chính là giải pháp thiết thực, hiệu quả, đó là đã hỗ trợ các hộ nghèo thì chí ít cũng phải đủ ở mức có thể giúp họ dùng số vốn hỗ trở đó làm vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, có nghĩa là giúp họ cái “cần câu” (phương tiện sản xuất) và hướng dẫn họ biết “nghề câu” (kỹ thuật sản xuất) chứ không chỉ dừng lại ở bước chỉ cho họ “con cá” (thành quả lao động) mặc dù có thể trước mắt để họ thoát khỏi “chết đói” thì vẫn cần cho họ “con cá”.
Xoá đói giảm nghèi phải gắn liền với phát triển kinh tế, Nhà nước cần có các chính sách phát triển một nền kinh tế hợp tác dựa trên các quan hệ đa sở hữu, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn, kinh doanh mọi ngành nghề mà luật pháp không cấm. Khuyến khích người giàu có vốn ra kinh doanh, phát triển doanh nghiệp càng lớn càng tốt để tạo nhiều việc làm cho nhiều người có sức lao động, coi đây là một quan hệ hợp tác giữa người có của và người có công, tất nhiên hoạt động của doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật. Tạo mọi điều kiện để mọi người có công ăn việc làm và có thu nhập ổn định, trừ những vịêc làm mà pháp luật không cho phép, như thế mới xây dựng được một nền kinh tế lành mạnh và có hiệu quả, đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Điều tất yếu là, "nước lên thì thuyền lên", mọi “thuyền to”, “thuyền nhỏ” đều cùng nổi theo và cùng vận hành theo dòng nước, chỉ có những “thuyền rách nát”, hoặc “quá nặng nề”, không còn phù hợp thì sẽ bị nhấn chìm.
Với sự quyết tâm cao và tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả và đầy tính nhân văn đã cam kết với cộng đồng quốc tế trong khi ký vào chương trình Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) – mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trên toàn nước Việt Nam.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2006.
Niên giám thống kê 2007, NXB Thống kê, 2007
Tạp chí kinh tế và dự báo, Bộ kế hoạch và đầu tư, Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010, NXB Thống Kê, 2007
Một số chính sách quốc gia về việc làm và xóa đói giảm nghèo, NXB Lao động, 2001
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UNDP, Đánh giá và lập kế hoạch cho tương lai, 2004
Hà Quế Lâm, Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
Ngân hàng Thế Giới, Việt Nam: tăng trưởng và giảm nghèo: báo cáo thường niên 2003-2004, 2004
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo; Tổng hợp 10 tài liệu về xoá đói giảm nghèo, 2007
Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đánh giá sự đói nghèo và chiến lược, 1995
UNDP Việt Nam, AusAID, Nhóm hành động chống đói nghèo, Đánh giá nghèo theo vùng – Vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Thế giới, 2003
UNDP Việt Nam, Bộ Phát triển Quốc tế, Nhóm hành động chống đói nghèo, Đánh giá nghèo theo vùng – Vùng miền núi phía Bắc, NXB Thế giới, 2003
Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Trung tâm Dịch vụ và phát triển nông thôn, Nhóm hành động chống đói nghèo, Đánh giá nghèo theo vùng – Vùng đồng bằng sông Hồng, NXB Thế giới, 2005
Trung tâm thông tin nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam: Các yếu tố về địa lý và không gian, 2003
Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Tạp chí Kinh tế, 2007
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 2007
Báo Hà nội mới, 2007
Báo Pháp luật Việt Nam, 2007
Quân đội nhân dân, 2008
Các websites:
www.vdic.org.vn
web.worldbank.org
www.undp.org.vn
www.un.org.vn
www.vneconomy.vn
www.adb.org
www.vnep.org.vn
www.tuanvietnam.net
www.kinhtehoc.com.vn
www.vietnamnet.vn
www.moi.gov.vn
www.agroviet.gov.vn
www.cpv.gov.vn
www.chinhphu.vn
www.gso.gov.vn
www.moet.gov.vn
www.edu.net.vn
www.economics.vnu.vn
www.thanhnien.com.vn
www.dantri.com.vn
www.chungta.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2010.doc