LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đang ra sức đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác xuất khẩu và coi đó là 1 trong 3 chương trình kinh tế lớn phải tập trung thực hiện, có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa ra thế giới bên ngoài Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bắt kịp nền kinh tế thế giới.
Với một nền kinh tế 70% dân số sống bằng nghề nông, Việt Nam xác định mặt hàng xuất khẩu chủ lực là các sản phẩm nông nghiệp, bất cứ nông sản nào cũng có thể xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ tạo vốn đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.
Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu VIPEXcũng góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà, đồng thời cũng tìm ra cho mình một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn, đó là xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty những năm qua có khá nhiều tiến bộ, song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một vài khó khăn trong khâu tìm nguồn hàng, tìm thị trường xuất khẩu, dự trữ, bảo quản hàng hoá, ổn định tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm .
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi quyết định chọn đề tài: “THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VIPEX ”
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung Bỏo cỏo thực tậpđược chia làm 3 chương :
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CễNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VIPEX
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VIPEX
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VIPEX
MỤC LỤC Lời mở đầu
CHƯƠNG I: Khỏi quỏt về cụng ty xuất nhập khẩu VIPEX
1-/ Quỏ trỡnh hỡnh thành - phỏt triển Cụng ty
2-/ Bộ mỏy tổ chức của Cụng ty
3-/ Những lĩnh vực kinh doanh chớnh của Cụng ty
4-/ Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Cụng ty
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nụng sản của Cụng ty
1-/ Những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu của Cụng ty
1.1-/ Thuận lợi
1.2-/ Khó khăn
2-/ Chủng loại – Kim ngạch xuất khẩu nụng sản của Cụng ty
2.1-/ Tỡnh hỡnh xuất khẩu nụng sản của Cụng ty theo mặt hàng
2.2-/ Tỡnh hỡnh xuất khẩu nụng sản của Công ty theo thị trường
3-/ Thị trường xuất khẩu
4-/ Các phương thức xuất khẩu
4.1-/ Xuất khẩu tự doanh
4.2-/ Xuất khẩu ủy thỏc
4.3-/ Xuất khẩu theo nghị định thư
4.4-/Xuất khẩu đối lưu
5-/ Quy trỡnh hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty
5.1-/ Nghiờn cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản
5.2-/ Ký hợp đồng xuất khẩu
5.3-/ Xin giấy phộp xuất khẩu
5.4-/ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
5.5-/ Nghiệp vụ kiểm tra, bảo quản hàng húa
5.6-/ Thuê tàu lưu cước cho lô hàng, giao hàng lên tàu
5.7-/ Nghiệp vụ thanh toỏn
CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Cụng ty xuất nhập khẩu VIPEX
1-/ Phương hướng xuất khẩu
2-/ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
2.1-/ Đa dạng hóa loại hỡnh xuất khẩu và đa phương hóa trong quan hệ với khách hàng trên thị trường quốc tế
2.2-/ Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng – cải tiến cơ cấu mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu
2.3-/ Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu
2.4-/ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
2.5-/ Nâng cao, bồi dưỡng trỡnh độ của cán bộ xuất nhập khẩu
42 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2709 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở công ty ở công ty xuất nhập khẩu VIPEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý các mặt hàng xuất khẩu kinh doanh còn thiếu và yếu.
* Hiện nay trên cả nước có hơn 2000 doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Các Tổng công ty này chi phối sản xuất - lưu thông hầu hết các mặt hàng xuất nhập khẩu lớn như: Gạo, cà phê, cao su, hải sản, may mặc, phân bón, sắt thép, ximent,... trong đó có nhiều mặt hàng thuộc danh mục kinh doanh của Công ty. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở thị trường xuất khẩu mà cả ở thị trường tạo nguồn. Số lượng nhà xuất khẩu tăng dẫn đến tình trạng hỗn loạn trên thị trường, khi có nhu cầu xuất khẩu thì tranh nhau mua và tranh nhau xuất khẩu. Trong đó cũng phải kể đến sự kém chất lượng do cố ý của một số lô hàng xuất khẩu tạo ra nhiều mức giá, làm cho người nhập khẩu ở nước ngoài nghi ngờ chất lượng hàng Việt Nam và sự khác biệt của nhiều mức giá đối với cùng một loại hàng.
2-/ Chủng loại – Kim ngạch xuất khẩu nụng sản của Cụng ty:
Với phương châm đa dạng hoá hoạt động kinh doanh nên mặt hàng xuất khẩu nông sản của Công ty cũng rất phong phú, đa dạng. Sự phong phú, đa dạng này thay đổi theo từng mùa vụ. Đối tượng xuất khẩu mà đề tài này đề cập là một số mặt hàng nông sản mà Công ty thường xuyên kinh doanh với khối lượng lớn, đều đặn qua các năm như: lạc, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều. Ngoài ra, Công ty cũng kinh doanh xuất khẩu những mặt hàng nông sản khác như chè, ngô, dầu lạc, mây tre, cói, gạo, sắn,... song những mặt hàng này có khối lượng xuất khẩu nhỏ, lại không thường xuyên qua các năm nên trong đề tài này không đề cập tới.
Nghiên cứu tình hình hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty cho thấy trong suốt quá trình làm công tác xuất khẩu, từ lúc nghiên cứu thị trường tìm đối tác kinh doanh, ký kết hợp đồng, giao hàng, thanh toán Công ty đều thực hiện nghiêm túc đúng thời hạn, đạt tiêu chuẩn chất lượng cao trên cơ sở 2 bên cùng có lợi và đảm bảo uy tín lâu dài. Sau mỗi đợt xuất hàng, Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác, kịp thời phát hiện những yếu điểm và rút ra kinh nghiệm cho đợt sau.
2.1-/ Tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty theo mặt hàng:
Kết quả xuất khẩu hàng nông sản của Công ty được thể hiện một cách khái quát qua các số liệu sau:
BIỂU SỐ 7: KẾT QUẢ XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 - 2009
Đơn vị tính: USD
STT
Tên mặt hàng xuất khẩu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Giá trị thực hiện
Tỷ lệ %
Giá trị thực hiện
Tỷ lệ %
Giá trị thực hiện
Tỷ lệ %
1
Lạc nhân
3.342.427
48,19
1.857.443
28,03
1.234.800
20,31
2
Cà phê
876.500
12,64
1.437.255
21,69
1.227.732
20,20
3
Cao su
986.200
14,22
1.215.600
18,34
1.507.839
24,80
4
Hạt tiêu
1.230.487
17,74
1.437.975
21,70
1.201.506
19,76
5
Hạt điều
500.000
7,21
678.924
10,24
907.312
14,93
Tổng cộng
6.935.614
100
6.627.197
100
6.079.189
100
Từ năm 2007 đến nay, kết quả xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Công ty có những thay đổi mạnh mẽ. Năm 2009, tổng giá trị xuất khẩu nông sản là 6.079.189 USD, đã giảm đi 856.425 USD so với năm 2007 là 6.935.614 USD (tương đương với 12,35%). Như vậy là có sự giảm sút đáng kể trong hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty từ năm 2007 đến 2009. Giá trị xuất khẩu đang từ 6.935.614 USD năm 1999 giảm xuống còn 6.627.197 USD năm 2008, rồi tiếp tục xuống còn 6.079.189 USD năm 2009, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của toàn Công ty. Qua đánh giá tổng kết các năm cho thấy nguyên nhân chính làm tổng giá trị xuất khẩu nông sản giảm sút rõ rệt là do mặt hàng lạc nhân gây ra vì mặt hàng này giảm mạnh cả về giá trị lẫn tỷ trọng trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu, trong khi đó các mặt hàng cà phê, cao su, tiêu hạt điều đều tăng lên cả về tỷ trọng và giá trị thực hiện nhưng vẫn chỉ chiếm phần nhỏ trong cơ cấu nông sản xuất khẩu.
Năm 2007, giá trị xuất khẩu lạc nhân là 3.342.427 USD gần bằng 2 lần giá trị xuất khẩu năm 2009 và tỷ trọng đang từ 48,19% (năm 2007) xuống còn 20,31% (năm 2009). Sự giảm sút xảy ra đều đặn đối với lạc nhân xuất khẩu qua 3 năm 2007,2008,2009, bình quân mỗi năm giảm 9,3% trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Đánh giá tìm rõ nguyên nhân thì thấy năm 2008 xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính mạnh mẽ đã làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, xuất nhập khẩu bị đình trệ và mặt hàng lạc nhân của Công ty được xuất khẩu bị chao đảo mạnh mẽ.
Một thực tế không thể phủ nhận khác là trồng lạc cho hiệu quả kinh tế kém hơn một số loại cây nông nghiệp khác vì vậy một số nông trường lớn trước kia thường xuyên cung cấp lạc cho Công ty đã chuyển sang trồng các loại cây khác như cà phê, hạt tiêu, vải thiểu, mận, cam, dưa hấu,... làm nguồn hàng của Công ty bị thay đổi đột ngột, chưa kịp tổ chức lại nguồn cung ứng lạc, khiến cho nhiều hợp đồng xuất khẩu lạc của Công ty trong 2 năm 2008,2009 phải huỷ bỏ.
Trong 2 năm 2008,2009 giá lạc thế giới có nhiều biến động mạnh. Sự thay đổi nhanh chóng của giá lạc làm Công ty không nắm bắt kịp, khiến cho hoạt động xuất khẩu lạc chỉ diễn ra cầm chừng, nghe ngóng và chủ yếu để giữ khách.
Sự suy giảm nhanh chóng của lạc xuất khẩu cũng ảnh hưởng lớn tới cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Năm 2007, tỷ trọng xuất khẩu lạc là 48,19% khiến cho nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhưng vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ bé trong cơ cấu xuất khẩu nông sản. Các cán bộ trong Công ty vẫn gọi đùa đó là "chàng khổng lồ" và các "chú lùn". Thế nhưng từ năm 2008, các "chú lùn" này lại có sức sống mãnh liệt trong khi "chàng khổng lồ" ngày càng "teo cơ". Mặt hàng cà phê xuất khẩu và cao su xuất khẩu của Công ty năm 2007 chỉ chiếm 27% tỷ trọng thì năm 2009 lên đến 45% tỷ trọng. Giá trị xuất khẩu cũng lần lượt tăng là 140% và 152,9%.
BIỂU ĐỒ 8:
KẾT QUẢ XK NÔNG SẢN THEO MẶT HÀNG CỦA CÔNG TY
GIAI ĐOẠN 2007 -2009
1000 USD
Bên cạnh sự sa sút của mặt hàng Lạc nhân xuất khẩu thì Cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều lại có những biểu hiện tốt đẹp, tiêu biểu nhất là hạt điều. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hạt điều là 500.000 USD, chiếm có 7,21% trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu, năm 2008, chiếm 10,24% (tương ứng với 678.924 USD), năm 2009 kim ngạch xuất khẩu hạt điều là 902.312 USD, chiếm 14,93% trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Như vậy, chỉ trong vòng hai năm gần đây cả tỷ trọng và kim ngạch XK hạt điều đều tăng gấp hai lần. Đây thực sự là bước tiến đáng vui mừng đối với Công ty XNK VIPEX. Năm 2009, để đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới và cũng là góp phần vào sự đi lên của Công ty, ban lãnh đạo Công ty đã quyết định xây dựng một nhà máy chế biến hạt điều và lâm sản phục vụ cho xuất khẩu, dự kiến nhà máy này sẽ cho năng suất là 500 tấn hạt điều mỗi năm.
Nhìn chung, qua số liệu thống kê thì các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty (trừ lạc) đều có những biểu hiện tương đối lạc quan, tất cả đều tăng cả về tỷ trọng lẫn giá trị tuyệt đối. Tuy nhiên, trong năm 2011 này Công ty cũng cần cố gắng nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản để bù đắp vào phần giảm sút của mặt hàng lạc nhân xuất khẩu.
2.2-/ Tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty theo thị trường:
Trước tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng thấp, kinh tế - xã hội Châu Á và khu vực vào cuối năm 2008, đầu 2009 chịu ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng tài chính, hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản của Công ty nói riêng đã gặp những khó khăn nhất định trong việc tìm kiếm, khai thác thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn khách quan Công ty vẫn nỗ lực phấn đấu vượt qua, hoàn thành về cơ bản các mục tiêu đề ra, giữ vững sự phát triển ổn định của xuất khẩu nông sản.
BIỂU SỐ 9: KẾT QUẢ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN THEO THỊ TRƯỜNG
CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 - 2009
STT
Thị trường
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
Giá trị (USD)
Tỷ trọng %
1
Singapore
2.645.937
38,15
2.826.500
42,65
2.477.270
40,75
2
Đài Loan
439.024
6,33
398.957
6,02
384.205
6,32
3
ASEAN
1.505.028
21,70
1.255.191
18,94
1.167.812
19,21
4
Trung Quốc
360.652
5,20
290.271
4,38
234.049
3,85
5
EU
1.759.565
25,37
1.538.172
23,21
1.499.128
24,66
6
Mỹ
225.408
3,25
318.106
4,80
316.725
5,21
Tổng cộng
6.935.614
100
6.627.197
100
6.079.189
100
Với một nỗ lực không ngừng, Công ty không những hoàn thành kế hoạch Bộ giao mà còn thành công rực rỡ trên một số thị trường mới và thị trường lớn. Năm 2008, Công ty bắt đầu áp dụng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu nông sản ở thị trường Mỹ và đã thu được kết quả tốt đẹp với giá trị xuất khẩu là 318.106 USD, chiếm 4,8% tỷ trọng xuất khẩu nông sản và tăng 141,12% so với thực hiện năm 2007 (tức là tăng 92.698 USD). Năm 2009, giá trị xuất khẩu nông sản trên thị trường này tuy không tăng về tuyệt đối song lại tăng 0,41% trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Đây là một thị trường lớn, nhu cầu đa dạng nên nếu Công ty tăng cường khai thác thì sẽ có thể trở thành một thị trường tiềm năng to lớn của Công ty.
Nhìn lại một số thị trường như Singapore, EU, Đài Loan thì thấy tỷ trọng hàng xuất khẩu không có mấy thay đổi nhưng thực ra giá trị xuất khẩu đều có xu hướng giảm dần. Thị trường EU giảm từ 1.759.565 USD (năm 2007) xuống còn 1.499.128 USD (năm 2009), tức là giảm đi 14,8% so với năm 2007. Thị trường Singapore năm 2008 tăng vọt lên 2.826.500 USD nhưng năm 2009 lại giảm xuống còn 2.477.270 USD, thấp hơn cả năm 2007 là 168.667 USD.
Một dấu hiệu dễ thấy nữa là ở thị trường Trung Quốc đã giảm cả về tỷ trọng lẫn giá trị tuyệt đối. Tỷ trọng xuất khẩu trên thị trường này cứ giảm dần từ 5,2% xuống còn 4,38% rồi xuống còn 3,85% năm 2009.
BIỂU ĐỒ 10
KẾT QUẢ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN THEO THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 - 2009
1000 USD
Xem xét một cách tổng quát về tỷ trọng hàng xuất khẩu của các thị trường thì thấy trong năm 2007 và 2008 có sự chuyển dịch tỷ trọng từ các thị trường Đài Loan, ASEAN, Trung Quốc, EU sang thị trường Mỹ và Singapore. Nhưng trong 2 năm 2008 và 2009 lại có sự chuyển dịch theo hướng ngược lại từ thị trường Singapore, Trung Quốc sang thị trường Đài Loan, ASEAN, EU và Mỹ, sự chuyển dịch này là sự chuyển dịch theo xu hướng cân bằng, bão hoà. Sự chuyển dịch này còn cho thấy rằng năm 2008 có sự sa sút ở một số thị trường thì ngay lập tức Công ty đã tìm ra biện pháp khắc phục, kịp thời đẩy mạnh xuất khẩu ở các thị trường làm ăn kém hiệu quả đó.
Tuy nhiên các con số tổng cộng về hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty qua 3 năm thực hiện 2007-2009 đều cho thấy mặt hàng nông sản xuất khẩu hiện nay đang bị cạnh tranh ghê gớm trên thị trường thế giới (thể hiện ở mối liên hệ giữa sự giảm sút về giá cả và kim ngạch xuất nhập khẩu). Sự giảm sút được phân bổ đều cho các thị trường nhập khẩu sản phẩm của Công ty. Tuy nhiên, nếu liên hệ lại với Biểu số 7 thì thấy chỉ có mặt hàng lạc nhân là giá trị kim ngạch xuất khẩu bị giảm còn các mặt hàng khác đều tăng kim ngạch. Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng chỉ có mặt hàng lạc nhân xuất khẩu của Công ty là mặt hàng chính đang bị cạnh tranh ghê gớm trên thị trường quốc tế, sự cạnh tranh này không chỉ xảy ra trên một thị trường mà ở nhiều thị trường.
Qua nhận định này, Công ty hiện nay đã và đang tìm biện pháp khắc phục bằng cách dần dần chuyển hướng kinh doanh tập trung vào mặt hàng khác thay thế và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn như: hạt điều, chè, ... những mặt hàng này hiện vẫn còn chỗ trống trên thị trường thế giới, nếu Công ty tìm được phương thức kinh doanh phù hợp thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn hiện nay.
3-/ Thị trường xuất khẩu:
Công ty xuất nhập khẩu VIPEX kinh doanh trên phạm vi cả nước và ở nước ngoài. Trong nước, bạn hàng của Công ty là các đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh những mặt hàng Công ty kinh doanh, chủ yếu là các đơn vị thuộc Bộ thương mại và nhiều Công ty thuộc các địa phương.
Ở nước ngoài, Công ty có quan hệ lâu dài với các bạn hàng Đông Âu và Liên Xô cũ. Thị trường nước ngoài nhìn chung là ổn định, có khả năng cung cấp nhiều mặt hàng cho một số thị trường lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật, Singapore, Maylaysia, Thái Lan, Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Ý, Hungari. Điều nổi bật là Công ty đã mở rộng quan hệ trực tiếp với Trung Quốc và Mỹ là 2 thị trường đầy triển vọng, chi phí vận chuyển thấp, dung lượng thị trường lớn.
4-/ Các phương thức xuất khẩu:
Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên hiện nay Công ty cũng đang áp dụng một cách đa dạng các loại hình xuất khẩu nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng nông sản tham gia vào hoạt động xuất khẩu của Công ty đều không cần phải có hạn ngạch nên cũng tạo ra lợi thế cho Công ty.
4.1-/ Xuất khẩu tự doanh:
Số lượng hàng nông sản xuất khẩu tự doanh chiếm tới 67% giá trị xuất khẩu nông sản, trong đó chủ yếu là lạc nhân, hạt tiêu, cao su, hạt điều, cà phê.
Hàng năm Công ty tự tổ chức thu mua nông sản của các đầu mối thu gom trong nước sau đó xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra Công ty cũng đang đầu tư xây dựng xí nghiệp chế biến hạt điều và một số nông sản phục vụ xuất khẩu.
4.2-/ Xuất khẩu uỷ thác:
Hình thức xuất khẩu uỷ thác hiện nay vẫn đem lại cho Công ty một khoản lợi nhuận khá lớn, khoảng 30% giá trị xuất khẩu nông sản hàng năm. Đây là hình thức kinh doanh thụ động vì nó phụ thuộc vào đơn vị có hàng, nếu các đơn vị này không có nhu cầu xuất khẩu hay khối lượng hàng xuất khẩu không ổn định thì cũng làm giảm doanh số xuất khẩu của Công ty.
4.3-/ Xuất khẩu theo nghị định thư:
Hình thức xuất khẩu này có những ưu thế riêng là khối lượng xuất khẩu lớn, khả năng thanh toán được bảo đảm. Tuy nhiên, xuất khẩu theo hình thức này lại không thường xuyên vì chỉ khi nào được Nhà nước giao chỉ tiêu, Công ty mới có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Đến nay Công ty đã thực hiện được hàng chục hợp đồng theo hình thức này với trị giá hàng triệu USD doanh thu.
4.4-/ Xuất khẩu đối lưu (hàng đổi hàng):
Đây là hình thức giao dịch mà Công ty sử dụng khi xuất khẩu kết hợp chặt chẽ nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh, đôi lúc Công ty cũng sử dụng hình thức này để xuất khẩu nông sản, chấp nhận việc thanh toán bằng hàng hoá thay cho các loại tiền tệ. Trường hợp này tính linh hoạt kém, đôi khi lại gặp khó khăn khi tiêu thụ hàng nhập về.
5-/ Quy trỡnh hoạt động xuất khẩu nụng sản của Cụng ty:
5.1-/ Nghiên cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản:
Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu là khâu đầu tiên của quá trình xuất khẩu hàng hoá. Nó là khâu quan trọng trong việc đưa ra quyết định: xuất khẩu mặt hàng nông sản nào để đem lại lợi nhuận lớn nhất.
Việc tìm kiếm thông tin, thăm dò thị trường là rất khó vì hiện nay Công ty vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong tìm kiếm và xử lý thông tin. Trước kia Công ty xuất khẩu hàng sang các nước Đông Âu và Liên Xô là chủ yếu và mục đích của xuất khẩu là để trả nợ theo Nghị định thư của Nhà nước nên việc tìm kiếm và xử lý thông tin gần như không cần phải quan tâm. Từ năm 2000 tình hình quốc tế đã thay đổi, thị trường Đông Âu ngày càng co hẹp, thị trường Tây Âu, Châu Phi, Châu Á mở rộng, cơ chế hoạt động cũng rất khác so với thị trường Đông Âu cũ.
Để giải quyết những khó khăn này, Công ty phải đưa ra một kế hoạch chi tiết và phù hợp để giải quyết những khó khăn. Công ty cần phải nghiên cứu thị trường quốc tế một cách thật nghiêm túc, có thể tìm kiếm thông tin từ các trung tâm thông tin thương mại, các văn phòng đại diện thương mại, phòng tư vấn thương mại, các tạp chí thương mại trong và ngoài nước .
Một thực tế khả quan là từ năm 2000 đến nay Công ty đã mở rộng quan hệ với những thị trường lớn giàu tiềm năng, lại có vị trí địa lý rất gần với Việt Nam, đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Malayxia, Singapore, Phillippin, Thái Lan, Trung Quốc. Hàng năm số hàng nông sản xuất khẩu sang các thị trường này chiếm từ 65-80% tỷ trọng xuất khẩu hàng nông sản. Trong tương lai, Công ty vẫn muốn tiếp tục duy trì quan hệ làm ăn ở các thị trường này và khối lượng hàng xuất khẩu sang khu vực này trong tương lai sẽ còn tăng mạnh.
Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường quốc tế, Công ty cũng cần phải nỗ lực nghiên cứu thị trường trong nước để tạo nguồn hàng xuất khẩu bảo đảm cả về số lượng, chất lượng, thời gian,...
5.2-/ Ký hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán, dể thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì Công ty sẽ tiến hành nghiệp vụ ký hợp đồng xuất khẩu. Khi hợp đồng đã được ký, có nghĩa là Công ty và đối tác cùng bị ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản qui định trong hợp đồng. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng với đối tác, Công ty thường dựa vào các căn cứ sau:
- Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực KT - XH hiện hành.
- Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mỗi bên.
- Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng.
- Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về tài sản của mỗi bên khi tham gia ký kết hợp đồng.
5.3-/ Xin giấy phép xuất khẩu:
Đây là công việc quen thuộc đối với Công ty, đối với các hàng nông sản xuất khẩu không cần hạn ngạch thì Công ty có thể nhanh chóng đăng ký hải quan, kê khai hải quan để kiểm tra hàng hoá và nộp thuế hải quan. Một số hàng hoá phải qua kiểm nghiệm, kiểm dịch. Sau đó cơ quan hải quan cấp cho Công ty giấy phép xuất khẩu hàng hoá.
5.4-/ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Phần lớn khối lượng hàng hoá thu mua của Công ty được thực hiện với các bạn hàng truyền thống, đó là các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp sản xuất chế biến, doanh nghiệp thu mua thu gom. Những đơn vị này được Công ty đánh giá là bạn hàng có uy tín cao trong kinh doanh.
Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng bao gồm các khâu nghiên cứu, lựa chọn nguồn hàng, phương thức mua, ký kết hợp đồng mua bán, hình thành đơn nguyên hàng xuất khẩu. Nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm nguồn hàng, lựa chọn khu vực đặt hàng, địa điểm giao hàng, phương thức mua bán nhằm có được hàng đúng chất lượng, đúng thời gian và thuận tiện cho vấn đề tài chính, huy động vốn. Hiện nay Công ty thường dùng các hình thức: mua đứt bạn đoạn, xuất khẩu, uỷ thác, liên doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu. Tuỳ từng trường hợp cụ thể để lựa chọn cho thích hợp trên cơ sở căn cứ vào yêu cầu của bên nhập khẩu, về hiện trạng Công ty, về cán bộ kỹ thuật viên, lao động, vốn,...
Ở khâu này, việc ký hợp đồng của Công ty được cân nhắc cẩn thận, có sự thoả thuận bằng văn bản giữa 2 bên về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, bao bì, ký mã hiệu, giá cả, thời gian địa điểm giao hàng và mức độ thưởng phạt. Việc ký kết hợp đồng phải được dựa trên pháp lệnh hợp đồng kinh tế mà thực hiện đối với hàng nông sản trên nguyên tắc 2 bên cùng có lợi. Khi hợp đồng ký xong, hình thành đơn nguyên hàng nông sản nhằm phân định rõ ràng các mẫu mã, tiện cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng, đồng thời giúp cho người nhập khẩu phân chia hàng được thuận tiện. Phương pháp này hiện nay được sử dụng là lập bảng kê chi tiết (packing list) trong đó hàng được bao gói theo yêu cầu, được đánh số thứ tự sau đó ghi chi tiết lên bảng kê gồm: số lượng hàng bên trong, trọng lượng tịnh của kiện hàng.
5.5-/ Nghiệp vụ kiểm tra, bảo quản hàng hoá:
Vận chuyển hàng, bốc dỡ và dự trữ, bảo quản hàng hoá bao gồm các bước:
- Tổ chức kiểm tra giám định hàng hoá: bước này được hình thành sau khi lên đơn nguyên hàng. Đây là khâu kiểm tra toàn diện xem có phù hợp với điều khoản của hợp đồng không, Công ty trung gian được Công ty xuất nhập khẩu VIPEX thuê là Vinacontrol, tổ chức giám định hàng quốc tế là SGS. Đôi khi, cán bộ Công ty trực tiếp kiểm tra nếu hợp đồng không ghi rõ cấp giám định. Mục tiêu chủ yếu của Công ty là nhằm phát hiện sai sót và khuyết tật của hàng hoá xuất khẩu để nhanh chóng khắc phục, kịp thời giao hàng đúng thời hạn. Kết thúc kiểm tra bao giờ cũng phải lập một chứng từ bằng tiếng Việt và một bằng tiếng nước ngoài theo yêu cầu của phía bên kia.
- Tổ chức tiếp nhận và bảo quản hàng xuất khẩu:
Công ty có một hệ thống kho hàng rộng lớn ở một số tỉnh miền Bắc. Sau khi thu mua nếu chưa xuất khẩu được thì hàng xuất khẩu có thể đem vào tạm bảo quản trong kho. Trong các kho này có đầy đủ phương tiện vận tải, cần cẩu, xe nâng phục vụ cho việc sắp xếp, di chuyển hàng hoá. Riêng đối với các hàng đòi hỏi phải tươi sống thì hiện nay Công ty chưa có các kho làm lạnh vì thế nên chỉ bảo quản được những hàng hoá thông thường.
Trong quá trình xuất kho, nhập kho, thủ kho lập đầy đủ các chứng từ như đối với trường hợp thuê kho để làm cơ sở hạch toán lỗ lãi.
5.6-/ Thuê tàu lưu cước cho lô hàng, giao hàng lên tàu :
Dựa vào điều kiện cơ sở giao hàng quy định trong hợp đồng, Công ty tổ chức ký hợp đồng thuê tàu biển chuyên chở lô hàng xuất khẩu. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên cạnh ký hợp đồng thuê tàu chuyên chở giống như CFR, còn phải mua hợp đồng bảo hiểm cho lô hàng xuất khẩu. Căn cứ vào trọng lượng, kích thước, loại hàng mà Công ty thuê tàu chuyến hay tàu chợ, ứng với mỗi loại tàu Công ty phải ký những hợp đồng khác nhau. Đối với tàu chuyến phải đặc biệt lưu ý tới vấn đề sở hữu tàu, tình hình tài chính của Công ty vận tải biển đó vì trên thực tế đã có nhiều vụ tranh chấp xảy ra do tàu bị lưu giữ vì không thanh toán tiền thuê tàu với chủ sở hữu tàu.
Còn đối với điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì Công ty chỉ cần tổ chức vận chuyển hàng tới cảng xuất khẩu và thuê cẩu hàng hoá lên boong tàu. Khi hàng hoá vượt qua lan can tàu, Công ty làm thủ tục giao nhận hàng với người chuyên chở và lấy lại vận đơn đường biển để làm cơ sở thanh toán.
5.7-/ Nghiệp vụ thanh toán:
Để đảm bảo an toàn, Công ty thường sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ L/C. Với hình thức này, sau khi lấy được vận đơn đường biển, Công ty đem vận đơn cùng hợp đồng đến Ngân hàng làm thủ tục thanh toán. Tại đây Công ty có thể rút tiền mặt ra để thanh toán trực tiếp hoặc chuyển vào tài khoản riêng của Công ty.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VIPEX
1-/ Phương hướng xuất khẩu:
Tổng kim ngạch XNK: 75 triệu USD trong đó nhập khẩu đạt 40 triệu USD, xuất khẩu đạt 35 triệu USD.
Văn phòng Công ty: Bố trí, sắp xếp lại tổ chức Công ty, các đơn vị, phòng ban để hoạt động tốt hơn phù hợp hơn. Thực hiện chế độ khoán trong kinh doanh, trong các hoạt động khác, có thưởng, phạt rõ ràng,đảm bảo đời sống tối thiểu cho CBCNV.
Đối với chi nhánh TPHCM: Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản từ đầu vụ như lạc, đậu đỗ, sắn theo nguyên tắc đảm bảo cân bằng thu chi.
Đối với hệ thống các cơ sở sản xuất: Khai thác năng lực và công suất của nhà máy để thực hiện kế hoạch sản xuất chế biến có hiệu quả tối đa. Tổ chức và triển khai các kinh doanh phụ như xuất nhập khẩu, chế biến kinh doanh hàng nội địa và gia công cho đơn vị khác. Trực tiếp tổ chức quản lý vùng nguyên liệu cho nhà máy, ổn định tổ chức của nhà máy từ sản xuất đến hành chính, kỹ thuật..v.v...
Chi nhánh Hải Phòng: Tổ chức khai thác tốt kho hàng có sẵn, tìm đối tác để sớm tăng hiệu quả của kho hàng.Tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu và các dạng khác.
Công ty cũng khẳng định rằng thị trường chính của mình vẫn là các nước Đông Âu đồng thời từng bước tìm kiếm thị trường mới để tránh việc phải phụ thuộc quá lớn vào thị trường này.
Tiếp tục khai thác và đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, đồ hộp, đồ khô đi Trung Quốc. Khai thác phục hồi trở lại mặt hàng xuất khẩu như lạc, cà phê, hạt tiêu..v.v... Đồng thời công ty cũng cố gắng tích cực tìm kiếm mặt hàng mới phục vụ cho xuất khẩu.
Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng bảo đảm vay đủ vốn cho sản xuất kinh doanh của Công ty.
Giải quyết dứt điểm vấn đề VAT từ những năm trước và một số tồn tại lâu trong kinh doanh cần phải giải quyết ngay.
Toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty quyết tâm đạt cho được kế hoạch đã đề ra.
Về thị trường thì ngoài việc tiếp tục khai thác các thị trường chính Đông Âu và Liờn Xụ cũ, Công ty còn cố gắng cải thiện chất lượng hàng hoá để thâm nhập vào thị trường của các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Tây Âu và một số thị trường như Hồng Kông, Ấn Độ, Đài Loan,..v.v...
2-/ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu:
2.1-/ Đa dạng hoá loại hình xuất khẩu và đa phương hoá trong quan hệ với khách hàng trên thị trường quốc tế:
Công ty cần phải đa dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất khẩu và đa phương hóa trong quan hệ với khách hàng.
* Xuất khẩu tự doanh: Với hình thức xuất khẩu tự doanh, Công ty sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Cũng có nghĩa là Công ty phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, đây sẽ phải là loại hình kinh doanh xuất khẩu chủ yếu của công ty, nó phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, phù hợp với chức năng kinh doanh. Muốn có bạn hàng thường xuyên Công ty cần phải có kế hoạch cụ thể trong các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, đàm phán giao dịch, thu hút sự quan tâm khách hàng, củng cố uy tín. Với loại hình xuất khẩu tự doanh Công ty sẽ chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, tìm kiếm thị trường, mà điều quan trọng hơn cả là nó khẳng định sức sống của công ty trong nền kinh tế thị trường tranh mua, tranh bán.
* Xuất khẩu uỷ thác: Bên cạnh hình thức xuất khẩu tự doanh, Công ty còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình kinh doanh xuất khẩu này các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, công ty chỉ phải thực hiện các vấn đề ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với bên nước ngoài và làm những thoả thuận cần thiết (bằng văn bản) với các đơn vị sản xuất trong nước. Loại hình xuất khẩu này đem lại lợi nhuận không cao song tương đối an toàn, ít rủi ro, đặc biệt phù hợp với thời điểm vốn chưa thu hồi kịp. Là một doanh nghiệp thực hiện chức năng xuất khẩu hàng hoá thì việc thực hiện các dịch vụ uỷ thác trong xuất khẩu là phù hợp với Công ty và góp phần tăng doanh thu của toàn bộ hoạt động xuất khẩu.
* Xuất khẩu đối lưu: Xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu cũng là một hình thức xuất khẩu lớn của Công ty. Với chức năng xuất nhập khẩu tổng hợp, Công ty có thể tham gia vào bất cứ lĩnh vực xuất nhập khẩu nào miễn là đem lại lợi nhuận cao. Với hình thức này, Công ty có thể đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá nào đó và Công ty sẽ là người tìm kiếm giúp họ. Sau đó 2 bên tiến hành trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Những hàng hoá nhập về được Công ty đem bán lẻ ở các cửa hàng hoặc có thể bán lại cho khách hàng trong nước. Ưu điểm của hình thức này là Công ty sẽ thu được lợi nhuận từ cả 2 khâu xuất khẩu và nhập khẩu, Công ty không phải xuất ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá.
* Xuất khẩu theo Nghị định thư: Là một doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường năng động, sáng tạo nên Công ty không thụ động chỉ trông chờ vào chỉ tiêu phân phối Nhà nước giao mà luôn tự mình tìm lấy hướng đi phù hợp. Công ty đã từng được Nhà nước tin tưởng giao chỉ tiêu xuất khẩu một số mặt hàng nông sản sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Theo hình thức này thì công ty phải tìm nguồn hàng và thu gom đủ khối lượng sau đó xuất khẩu theo yêu cầu của Nhà nước, Công ty sẽ nhận lại tiền hàng xuất khẩu từ phía Nhà nước. Như vậy Nhà nước là đối tác kinh doanh của doanh nghiệp. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu theo Nghị định thư là Công ty không cần phải lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu mà chỉ phải xem xét mặt hàng này có thuộc lĩnh vực kinh doanh của Công ty hay không. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, loại hình xuất khẩu này dần trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với bản chất của kinh doanh thương mại nên nó chỉ được coi là hình thức phụ trợ, bổ xung góp phần tăng doanh thu của Công ty.
* Xuất khẩu gia công uỷ thác: Hiện nay Công ty đang đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến nông - lâm sản xuất khẩu. Trong tương lai khi nhà máy đi vào hoạt động thì bên cạnh việc tự tổ chức chế biến hàng xuất khẩu, Công ty cũng có thể chế biến thuê theo đơn đặt hàng. Hình thức này chủ yếu nhằm tận dụng tối đa công suất hoạt động của nhà máy, nó vừa giúp công ty thu hồi vốn nhanh vừa giải quyết việc làm cho công nhân những khi chưa có đơn hàng xuất khẩu.
Trong giai đoạn trước, khách hàng chủ yếu của Công ty là Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, thị trường xuất khẩu mặc dù ổn định về số lượng hàng hoá và doanh thu song lại rất đơn phương, hạn hẹp. Trong thời gian tới nhiệm vụ của Công ty là phải tiếp tục duy trì, củng cố các mối quan hệ với khách hàng cũ là CHLB Nga, một số nước Đông Âu và quan trọng hơn là phải tìm kiếm những khách hàng trên thị trường mới. Công ty phải chủ động "mở rộng vòng tay" đón nhận và đáp ứng mọi yêu cầu khắt khe nhất, không phân biệt mới cũ, thân quen. Đa phương hoá trong quan hệ với khách hàng cũng là biện pháp cơ bản để mở rộng khách hàng cũng là biện pháp cơ bản để mở rộng thị trường xuất khẩu của Công ty. Cụ thể Công ty cần xác định rằng: Những nước như CHLB Nga, Đông Âu, Bắc Âu, Tây Âu có mùa đông tuyết phủ nên nông sản thiếu thốn và các nước tuy khí hậu cho phép sản xuất được nông sản nhưng thiếu đất, thiếu lao động do chuyên môn hoá vào sản xuất công nghiệp, dịch vụ như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore,... đều có thể trở thành khách hàng lớn với nhu cầu về nông sản không nhỏ.
2.2-/ Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng - cải tiến cơ cấu mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu:
* Mở rộng hình thức tạo nguồn:
Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với kết quả của hoạt động xuất khẩu trong công ty.
Ở Công ty xuất nhập khẩu VIPEX, hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại đóng gói: Hình thức tạo nguồn này có ưu điểm là nhanh, gọn, không phải đầu tư vốn trong thời gian dài, không yêu cầu phải có máy móc lớn, công ty lại có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh.
Nhưng nếu Công ty chỉ duy trì một hình thức tạo nguồn này thì sẽ không đạt hiệu quả cao trong công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu vì Công ty đã vô tình thu nhỏ các mối quan hệ của mình đối với các đơn vị sản xuất. Công ty không thể tự đi thu gom hàng hoá từ các hộ sản xuất nhỏ lẻ mà phải mua lại qua các đầu mối trung gian, như vậy hiệu quả kinh doanh mang lại bị giảm đi rất nhiều.
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng. Do đó Công ty nên tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Cụ thể là ngoài việc thu mua hàng xuất khẩu, Công ty có thể tiến hành tự sản xuất hàng xuất khẩu, liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến, các nhà máy chế biến. Có những mặt hàng Công ty tự sản xuất lại đem lại lợi nhuận lớn hơn là thu mua lại, đồng thời Công ty có thể gia công chế biến hàng nông sản theo đúng như mong muốn của bên nước ngoài. Công ty có thể chủ động về số lượng, chất lượng, khống chế số lượng hàng sản xuất ra cho phù hợp với đơn hàng xuất khẩu tránh dư thừa, tồn kho do không kiểm soát được chất lượng hàng xuất khẩu để khách hàng từ chối nhận hàng. Công ty cũng có thể chế biến thuê cho các đơn vị khác khi họ gặp khó khăn về khối lượng, thời gian, trình độ công nghệ. Ngược lại, là Công ty cũng có thể liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất chế biến để thu mua hàng xuất khẩu của họ khi chưa sản xuất được hoặc thuê họ chế biến khi Công ty gặp phải hợp đồng quá gấp gáp thời gian, khối lượng quá lớn hoặc công nghệ chế biến của Công ty chưa đạt yêu cầu chất lượng hay mặt hàng nào đó không thể sản xuất được.
Một hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu là Công ty nhận xuất khẩu uỷ thác. Hình thức này đã được Công ty áp dụng từ lâu, tuy nhiên vấn đề là làm sao càng ngày càng có nhiều hợp đồng uỷ thác. Để làm được điều này, Công ty cần tăng cường mối quan hệ thân thiết với các bạn hàng để họ vui vẻ cùng chia sẻ lợi nhuận với công ty.
Tất cả các hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu đều nhằm làm cho Công ty tăng thu, giảm chi, ổn định nguồn hàng, là một đối tác uy tín lớn đối với bên nước ngoài.
* Hoàn thiện cơ cấu hàng xuất khẩu:
Bên cạnh lĩnh vực tạo nguồn hàng xuất khẩu, Công ty cần thực hiện cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng của Công ty đưa ra thị trường quốc tế gồm nhiều loại khác nhau nhưng để cạnh tranh được với các đối thủ lớn khác, Công ty cần không ngừng thay đổi, bổ xung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Hiện nay, một số mặt hàng chính của Công ty có tỷ trọng như sau:
BIỂU SỐ 11: CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY
Đơn vị tính: USD
Mặt hàng xuất khẩu
2007
2008
2009
Lạc nhân
3.342.427
1.857.443
1.234.800
Cà phê
876.500
1.437.255
1.227.732
Cao su
986.200
1.215.600
1.507.839
Hạt tiêu
1.230.487
1.437.975
1.201.506
Hạt điều
500.000
678.924
907.312
Tổng cộng
6.935.614
6.627.197
6.079.189
Như vậy, bên cạnh một số mặt hàng truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, Công ty cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực của các mặt hàng lạc nhân, hạt tiêu nhưng cũng cần phải quan tâm khai thác các mặt hàng, nhóm hàng khác mà thế giới có nhu cầu như cao su, cà phê, hạt điều, dầu lạc,... Nếu như ở mặt hàng hạt tiêu, lạc nhân, Công ty có những biện pháp tiếp tục duy trì và đẩy mạnh vị trí vốn có của nó thì đối với mặt hàng hạt điều, cà phê, Công ty lại phải khôi phục vai trò của 2 mặt hàng trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Hạt điều là một trong những hàng hoá đang chiếm được cảm tình của người tiêu dùng nên Công ty cũng đang dần nâng tỷ trọng mặt hàng này lên bằng việc đầu tư xây dựng một xí nghiệp hạt điều, nâng số lượng xuất khẩu hạt điều hơn 500 tấn/năm. Ngoài ra trong thời gian tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty cũng nên có một sự cải biến cho phù hợp với xu thế tiêu dùng của thế giới và tiềm năng sẵn có của Công ty, của quốc gia, đó là sự bổ xung những mặt hàng mới như chè, mây tre cói, ngô, tinh dầu,... Kinh doanh những mặt hàng mới sẽ gặp nhiều khó khăn, song muốn tồn tại và phát triển, Công ty không còn cách nào khác là phải đối mặt và giải quyết những khó khăn đó.
* Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu:
Hàng hoá muốn xuất khẩu được không thể không chú ý đến chất lượng. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mọi doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Muốn vậy, Công ty cần kiểm tra kỹ quá trình vận động của hàng hoá từ khâu đầu tới khâu cuối. Đặc biệt đối với mặt hàng thực phẩm, ngoài việc kiểm tra chất lượng ở thời điểm sản xuất, dự trữ, bảo quản , còn phải quan tâm đến thời hạn sử dụng an toàn. Đối với hàng nông sản thông thường phải bao gói cẩn thận nhằm giữ gìn chất lượng sản phẩm như khi mới chế biến. Đây là một trong những tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hoá xuất khẩu. Khi mức sống, khoa học công nghệ phát triển cao thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá cũng cao hơn. Do đó, đối với những hàng tự sản xuất Công ty phải kiểm tra nghiêm ngặt, tôn trọng quy trình công nghệ chế biến, đối với những hàng thu gom phải có bộ phận kiểm tra, nghiệm thu chất lượng hàng trước khi nhập hàng từ các nơi sản xuất.
* Tổ chức tốt khâu dự trữ, bảo quản:
Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Hiện nay, hệ thống kho tàng của Công ty tương đối nhiều, dung lượng lớn. Tuy nhiên có một số kho đã bị xuống cấp, mái nhà dột, nền kho ẩm. Những điều kiện như vậy không đảm bảo an toàn cho chất lượng hàng hoá trong kho, vì vậy Công ty cần tổ chức tu sửa lại hệ thống kho tàng nhằm bảo quản tốt hơn, bảo toàn chất lượng hàng hoá. Hơn nữa, do đặc tính của hàng nông sản là theo vụ mùa nên nếu công ty muốn có hàng để xuất khẩu trong cả năm thì rõ ràng khâu dự trữ phải tốt. Vì vậy đẩy mạnh hoạt động sản xuất trong Công ty cũng đồng nghĩa với việc tổ chức, thực hiện có hiệu quả việc dự trữ hàng hoá xuất khẩu, tránh tình trạng "thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu" hay "thừa lúc này, thiếu lúc khác". Vì vậy công ty phải xây dựng được một kế hoạch dự trữ thường xuyên, dự trữ mùa vụ cụ thể trong từng giai đoạn nhất định căn cứ vào lượng hàng xuất khẩu và xu hướng, khả năng xuất khẩu của giai đoạn tiếp theo. Việc lập kế hoạch dự trữ những mặt hàng cụ thể Công ty phải phân cấp cho các phòng, các cơ sở sản xuất, các cửa hàng chuyên doanh đảm trách.
2.3-/ Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu:
Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với ở trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt và kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của Công ty.
Công ty phải thực sự quan tâm hơn đến vấn đề quản lý Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Hoạt động Marketing xuất khẩu của Công ty cần phải dựa trên 3 vấn đề cơ bản sau:
* Một: Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty. Đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được và không ngừng tìm cách xâm nhập các thị trường mới nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của công ty trên thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà Công ty đưa ra để đánh giá sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần của Công ty trên mỗi loại thị trường.
* Hai: Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, Công ty xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu bao gồm việc triển khai cả chiến lược và chiến thuật của Marketing mix.
* Ba: Sử dụng các khả năng của công ty để thực hiện Marketing mix.
Hoạt động xuất khẩu của Công ty chịu tác động của các nhân tố thuộc về Công ty (như vốn, mặt hàng kinh doanh, nguồn nhân lực của Công ty,...), về thị trường, về chiến lược xuất khẩu được Công ty lựa chọn. Cụ thể, việc lựa chọn hoạt động Marketing xuất khẩu của Công ty nên thực hiện theo mô hình sau:
Thị trường xuất khẩu
Đánh giá cơ hội thị trường:
a. Đánh giá thị trường tiềm năng.
b. Ước tính lượng bán ra tiềm năng.
c. Phân đoạn thị trường
Xác lập chiến lược XK, các hoạt động:
a. Dự kiến bán ra.
b. Ngân sách cho việc bán.
c. Giấy phép bán.
d. Danh mục hàng hoá bán.
e. Kiểm kê các bản kiểm kê.
g. Nhu cầu nhân lực.
h. Ngân sách cho khuếch trương.
i. Quỹ tài chính.
k. Quỹ lợi nhuận.
Chiến lược Marketing xuất khẩu
Triển khai các kế hoạch chiến lược Marketing xuất khẩu:
a. Đề ra mục tiêu XK
b. KH hoá Marketing Mix: Sản phẩm, giá cả, phân phối, khuếch trương
Lựa chọn kế hoạch chiến lược xuất khẩu
Dòng thông tin phản hồi
MÔ HÌNH MARKETING XUẤT KHẨU
Trong 4 nhân tố của Marketing Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối và khuếch trương ở Công ty, vấn đề còn nhiều điều đáng nói nhất là các chính sách về khuếch trương. Hàng hoá muốn xuất khẩu được nhiều thì phải tích cực làm công tác khuếch trương vì nó tác động rất lớn tới hành vi của người mua (người nhập khẩu) và mục tiêu là thông tin cho khách hàng tiềm năng (bao gồm cả người trung gian) về hàng hoá để thuyết phục họ trở thành người mua hàng, để họ bày tỏ thái độ, bày tỏ những thay đổi trong nếp nghĩ và đi đến quyết định hành động có lợi cho nhà xuất khẩu. Để xúc tiến bán hàng xuất khẩu, Công ty nên áp dụng các hình thức như: gửi Catologue ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Gửi Catalogue cho nước ngoài sẽ giúp rút ngắn khoảng cách người bán và người mua. Thông qua Catalogue khách hàng có được các thông tin về chủng loại hàng hoá, kích cỡ, màu sắc,... vì thế Catalogue phải được in ấn đẹp đẽ, dễ đọc, dễ hiểu, màu sắc bố cục ấn tượng dễ nhớ. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết về hình dáng, chất lượng, hương vị của hàng hoá. Đặc biệt đối với mặt hàng nông sản không một hình thức nào hay hơn là để khách hàng tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để họ tự cảm nhận.
Công ty cần mở rộng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này, khả năng xâm nhập thị trường của Công ty sẽ tăng lên. Khách hàng có thể xem hàng hoá được trưng bày ở cửa hàng. Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài cần chú ý có các đặc điểm như: địa điểm phù hợp với quảng cáo, ở trung tâm thành phố, gần các đầu mối giao thông, gần các khu cửa hàng bán lẻ. Trong các cửa hàng phải tổ chức trang trí gọn gàng, bắt mắt, phải làm nổi bật được hàng muốn giới thiệu.
2.4-/ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả:
Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp. Vốn có thể được huy động bằng nhiều hình thức khác nhau.
* Công ty có thể bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện qui mô của doanh nghiệp và nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí trong các hoạt động. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất nhập khẩu lại yêu cầu phải có một lượng vốn lớn nên ngoài nguồn vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn.
* Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh, liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên kết kinh doanh. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín mạnh trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Ngoài ra cần thiết phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh, tỷ lệ vốn góp, phạm vi hoạt động,... trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác, của thị trường nông sản, các chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có một sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
* Trong nhiều trường hợp, để huy động vốn Công ty phải yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng. Cụ thể là với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu người mua (người nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, Công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như một phần vốn của mình. Đối với những hợp đồng có giá trị quá lớn, vượt xa khả năng của Công ty thì Công ty có thể áp dụng hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng. Bên cạnh hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng, Công ty cũng có thể thực hiện hợp đồng bằng cách mời một nhà xuất khẩu Việt Nam cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận.
* Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính tín dụng. Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống ngân hàng và các hoạt động của ngân hàng ở nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thương mại quốc tế.
Vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
2.5-/ Nâng cao, bồi dưỡng trình độ của cán bộ xuất nhập khẩu:
Trình độ cán bộ là một trong những nguồn lực cơ bản của Công ty xuất nhập khẩu VIPEX. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Hiện tại lao động gián tiếp của Công ty chiếm chỉ có 9% trong tổng số cán bộ công nhân viên, trong tổng số thì có tới 90% là Đại học và trên Đại học.
Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn công việc. Để đảm bảo cho Công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công ty phải cử luân phiên một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn ngày do các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy.
Ngoài ra Công ty cũng cần phải có chính sách khuyến khích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý phần nào cũng khuyến khích được cán bộ công nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thực hiện nhiệm vụ và thu nhập. Công ty vẫn cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu giao chỉ tiêu và gắn nó vào chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu.
KẾT LUẬN
Sau 20 năm hoạt động, Công ty xuất nhập khẩu VIPEX đã không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn để tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới song Công ty đã không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu muốn tham gia vào thị trường khu vực và thế giới Công ty phải chấp nhận sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như một quy luật tất yếu của cơ chế thị trường.
Nhằm gắn liền với những đòi hỏi và yêu cầu của thực tế, qua thời gian thực tập ở Công ty xuất nhập khẩu VIPEX, tôi đã chọn đề tài: "Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Công ty xuất nhập khẩu VIPEX". Nội dung chính của đề tài đề cập đến 3 vấn đề chính. Đó là: Qua việc giúi thiệu khỏi quỏt về một doanh nghiệp cú hoạt động xuất nhập khẩu, phân tích thực trạng xuất khẩu nông sản của Công ty, qua đó rút ra được những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đưa ra một vài giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại đó và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Công ty.
Với một đề tài lớn, trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế, vì vậy trong thời gian ngắn bài Bỏo cỏo tốt nghiệp này khụng tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đánh giá, bổ sung, góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ trong Công ty để đề tài của tôi thực sự hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG I: Khỏi quỏt về cụng ty xuất nhập khẩu VIPEX
1-/ Quỏ trỡnh hỡnh thành - phỏt triển Cụng ty
2-/ Bộ mỏy tổ chức của Cụng ty
3-/ Những lĩnh vực kinh doanh chớnh của Cụng ty
4-/ Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Cụng ty
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nụng sản của Cụng ty
1-/ Những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu của Cụng ty
1.1-/ Thuận lợi
1.2-/ Khó khăn
2-/ Chủng loại – Kim ngạch xuất khẩu nụng sản của Cụng ty
2.1-/ Tỡnh hỡnh xuất khẩu nụng sản của Cụng ty theo mặt hàng
2.2-/ Tỡnh hỡnh xuất khẩu nụng sản của Công ty theo thị trường
3-/ Thị trường xuất khẩu
4-/ Các phương thức xuất khẩu
4.1-/ Xuất khẩu tự doanh
4.2-/ Xuất khẩu ủy thỏc
4.3-/ Xuất khẩu theo nghị định thư
4.4-/Xuất khẩu đối lưu
5-/ Quy trỡnh hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty
5.1-/ Nghiờn cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản
5.2-/ Ký hợp đồng xuất khẩu
5.3-/ Xin giấy phộp xuất khẩu
5.4-/ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
5.5-/ Nghiệp vụ kiểm tra, bảo quản hàng húa
5.6-/ Thuê tàu lưu cước cho lô hàng, giao hàng lên tàu
5.7-/ Nghiệp vụ thanh toỏn
CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Cụng ty xuất nhập khẩu VIPEX
1-/ Phương hướng xuất khẩu
2-/ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
2.1-/ Đa dạng hóa loại hỡnh xuất khẩu và đa phương hóa trong quan hệ với khách hàng trên thị trường quốc tế
2.2-/ Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng – cải tiến cơ cấu mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu
2.3-/ Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu
2.4-/ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
2.5-/ Nâng cao, bồi dưỡng trỡnh độ của cán bộ xuất nhập khẩu
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
Trong thời gian thực tại Công ty xuõt nhập khẩu VIPEX – Số 3 Xó Đàn, sinh viên Đoàn Thị Ngọc Hương đã có rất nhiều cố gắng .
- Đã tìm hiểu và nghiên cứu số liệu qua Báo cáo tổng hợp các năm của Công ty để phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu của Công ty có cơ sở khoa học.
- Nêu lên được những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản cuả Công ty.
- Đề xuất cho Công ty những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty. Công ty sẽ nghiên cứu và áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty.
- Ý thức tổ chức kỷ luật tốt, tác phong giản dị, hoà nhã, chăm chỉ, ham học hỏi. Cần mạnh dạn hơn.
Thay mặt Công ty xuất nhập khẩu VIPEx
Trưởng phòng NV I
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC HÀNH CHÍNH
PHÓ GIÁM ĐỐC KINH DOANH
PHÓ GIÁM ĐỐC TÀI CHÍNH
PHÒNG KHO VẬN
CÁC PHÒNG XNK
CÁC LIÊN DOANH
HỆ THỐNG CỬA HÀNG
PHÒNG HÀNH CHÍNH
HỆ THỐNG CƠ SỞ SX
CÁC CHI NHÁNH
PHÒNG TỔ CHỨC
PHÒNG KẾ TOÁN TÀI VỤ
PHÒNG TỔNG HỢP
KHỐI PHỤC VỤ
KHỐI KINH DOANH
KHỐI QUẢN LÝ
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở công ty ở công ty xuất nhập khẩu VIPEX.doc