Đề tài Thương hiệu hàng nông sản Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Nông nghiệp Việt Nam trải qua gần 2 thập kỷ đổi mới đã đạt được những thành tựu đang kể, sản xuất phát triển tương đối toàn diện và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân 4, 3 %/năm, trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu nông sản đã đạt được những thành tựu nhất định trong tỉ trong xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản.Trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước 5 năm qua luôn chiếm từ 25%-30%.Đến nay nông nghiệp xuất khẩu đã tạo ra được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng có vị trí trên thị trường quốc tế như gạo, cà phê, chè, hạt tiêu, điều, cao su và một số mặt hàng thuỷ sản. Tuy nhiên thương hiệu cho các mặt hàng nông sản trên còn chưa được chú trọng;làm cho giá trị hàng nông sản Việt Nam vẫn còn thấp.Việc xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu chính là một đòi hỏi lớn khi nước ta từng bước tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy làm sao để thương hiệu hàng nông sản Việt Nam ngày càng được nâng cao?Nông nghiệp Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường thế giới? Để góp phần làm rõ hơn thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam và đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm duy trì, củng cố thương hiệu hàng nông sản Việt Nam em xin viết đề án với đề tài: "Thương hiệu hàng nông sản Việt Nam_Thực trạng và giải pháp" Do là lần viết đầu tiên cũng như còn nhiều hạn chế về thời gian, kiến thức và kinh nghiệm nên bài viết còn nhiều thiếu sót.Vì thế em rất mong nhận được sự đóng góp của cô và các bạn để các bài viết sau được hoàn chỉnh hơn. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Lý luận về thương hiệu 2 1.1. Thương hiệu là gì? 2 1.1.1. Định nghĩa 2 1.1.2. Cấu tạo một thương hiệu. 2 1.2. Tác dụng của thương hiệu. 2 1.2.1. Thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. 2 1.2.2. Xây dựng thương hiệu doanh nghiệp sẽ có lợi gì? 3 1.2.3. Xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp khách hàng có lợi gì? 4 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 4 1.3.1. Chất lượng sản phẩm. 4 1.3.2. Nhân tố thời gian xuất hiện trên thị trường. 5 1.3.3. Nhân tố trung gian cung cấp hàng hoá nông sản. 6 1.3.4. Nhân tố chất lượng, dịch vụ. 6 1.3.5. Nhân tố thuộc về các chính sách hỗ trợ. 7 Chương 2: Thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 10 2.1. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản ở Việt Nam trong những năm đổi mới. 10 2.1.1. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo. 10 2.1.2. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê. 14 2.1.3. Thực trạng sản xuất chế biến một số mặt hàng nông sản khác. 15 2.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 16 2.2.1. Thực trạng xây dựng thương hiệu gạo 17 2.2.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu cà phê. 18 2.2.3. Thực trạng xây dựng thương hiệu một số mặt hàng nông sản khác 20 Chương 3: Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 23 3.1. Các giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý nhà nước, đầu tư, tài chính và tín dụng đối với từng ngành hàng. 23 3.2. Giải pháp về thị trường. 26 3.2.1 Thị trường trong nước. 26 3.2.2 Về thị trường ngoài nước. 29 3.3. Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ. 30 3.4. Giải pháp về nguồn nhân lực. 32 3.5. Giải pháp về phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh hàng nông sản. 33 KẾT LUẬN 34 TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3087 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương hiệu hàng nông sản Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xứ sản phẩm. -Yên tâm về chất lượng -Tiết kiệm thời gian tìm kiếm thông tin. -Giảm chi phí nghiên cứu thông tin. -Khẳng định giá trị bản thân. -Giảm rủi ro trong tiêu thụ. 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 1.3.1. Chất lượng sản phẩm. Hiện nay, phần lớn những nhà quản lý doanh nghiệp và lãnh đạo kinh tế đều đề cao chất lượng sản phẩm như là lợi thế cạnh tranh.Họ cho rằng, chất lượng sản phẩm là cơ sở để giành, giữ thị phần cũng như khai phá thị trường mới. Chất lượng sản phẩm bao gồm: -Hàng hoá sản xuất ra phải đáp ứng theo chuẩn mực.Hàng hoá nông sản phải đáp ứng theo các tiêu chuẩn ISO quốc tế và phải được các tổ chức quốc tế xét duyệt và cấp chứng chỉ ISO .Có như vậy nông sản hàng hoá mới giữ được thị phần, giữ được vị thế trên thị trường, đảm bảo đủ độ tin cậy cho người tiêu dùng. -Để thu hút khách hàng, nâng cao thương hiệu điều quan trọng hơn là hàng hoá phải đem lại cho người tiêu dùng những tác dụng đặc biệt.Vì vậy, vấn đề không chỉ là việc đảm bảo chất lượng chuẩn mực của sản phẩm mà là việc phấn đấu một chất lượng vượt trội thể hiện sự khác biệt cuả sản phẩm so với sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế.Để thực hiện điều này, một nhân tố quan trọng là thực hiện sự đổi mới để tạo sự khác biệt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.Đổi mới sản phẩm là một nhân tố cũng như là một phương cách để giành và giữ thị phần rất hữu hiệu.Sản phẩm có ấn tượng, đắt khách trên thị trường luôn luôn thu hút sự cạnh tranh.Do đó, đổi mới liên tục sản phẩm là để đón đầu các đối thủ cạnh tranh và cũng là cách để tự mình cạnh tranh với chính mình.Thực hiện quan điểm này, chiến lược của nông sản xuất khẩu là không phải tìm mọi cách để kéo dài chu kỳ sống sản phẩm mà luôn ở tư thế rút ngắn chu kỳ đó và thay thế bằng một chu kỳ sống khác.Đây chính là một bí quyết nâng cao giá trị thương hiệu. 1.3.2. Nhân tố thời gian xuất hiện trên thị trường. Sự có mặt kịp thời đúng theo đòi hỏi của khách hàng là yếu tố mang đến giá trị gia tăng cho các đơn vị xuất khẩu hàng hoá nhiều khi còn cao hơn so với giảm chi phí và chế biến, từ đó sản phẩm dần đi vào tâm trí khách hàng.Yếu tố thời gian ở đây thể hiện ở chỗ:đảm bảo cho sản phẩm hàng hoá cung cấp trên thị trường luôn luôn đi trước một bước so với đối thủ cạnh tranh, nhằm tạo ra cái lạ, cái khác, cái chưa có so với cái hiện có ở thị trường.Yếu tố thời gian cung cấp trên thị trường cần được quán triệt trên hai ý tưởng: Một là:đón đầu trào lưu thị trường.Điều này có nghĩa là phải dẫn đầu và tăng tốc kịp thời việc tung sản phẩm vào thị trường nhằm mục đích là để khách hàng đón nhận thương hiệu mang đến bởi doanh nghiệp. Hai là:việc tối ưu hoá vận hành sản xuất.Điều này có nghĩa là, khi đã xác định được yêu cầu của khách hàng thì yếu tố cơ bản là phải nhanh chóng giữ và bành trướng thị phần trên cơ sở chuẩn bị đầy đủ lực lượng để phát triển và mở rộng quy mô sản xuât. 1.3.3. Nhân tố trung gian cung cấp hàng hoá nông sản. Hàng hoá nông sản muốn có được thương hiệu trên thị trường quốc tế cần phải tìm được khách hàng có nhu cầu.Để thực hiện được mục tiêu này, ngoài việc đón bắt đúng thời điểm, còn là việc xác định đúng không gian và việc tổ chức cung cấp mạng lưới như thế nào?Liên quan đến nhân tố này bao gồm hai vấn đề: - Lựa chọn thị trường xuất khẩu phù hợp.Thị trường quốc tế có quy mô khá rộng lớn và tính chất rất phong phú.Tuy vậy, để có thể đến với khách hàng một cách chủ động và kinh doanh có hiệu quả, chúng ta phải lựa chọn thị trường phù hợp.Đó là một thị trường bao gồm một khối lượng khách hàng lớn có nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của họ phù hợp với hàng nông sản của mình.Một thị trường ít đối thủ cạnh tranh, hoặc là bao gồm những khách hàng thiện chí là thuận lợi lớn để tiêu thụ sản phẩm. -Vấn đề thứ hai mang tính kỹ thuật thương mại có liên quan đến yếu tố không gian cung cấp là nghệ thuật về tổ chức mạng lưới, chi nhánh và sự bày trí các cơ sở buôn bán, các cửa hàng tiêu thụ hàng hoá.Việc tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng khi muốn tiêu thụ hàng hoá hoặc tạo ra sự bắt mắt cho người tiêu dùng bởi hệ thống cửa hàng hiện đại, hấp dẫn sẽ là cơ hội để thu hút được khách hàng với quy mô lớn.Đứng trên giác độ này, thì cần phải coi cửa hàng là nơi để cho khách hàng mua chứ không phải để cho doanh nghiệp bán.Cửa hàng hay nói chung là không gian cung cấp hàng hoá phải có tác dụng gây được các ấn tượng vị thế và châm ngòi hào hứng cho khách hàng, đó là nhân tố chủ lực tạo thương hiệu cho doanh nghiệp. 1.3.4. Nhân tố chất lượng, dịch vụ. Để có thể nâng cao giá trị thương hiệu, vấn đề không kém phần quan trọng là yếu tố chất lượng dịch vụ, phục vụ vượt trội của các nhà cung cấp so với các đối thủ cạnh tranh .Liên quan đến vấn đề này có hai khía cạnh: Một là, những dịch vụ để chuẩn bị tung sản phẩm ra thị trường, bao gồm tổ chức và đa dạng hoá các hình thức cung ứng dịch vụ xuất khẩu hàng hoá, tổ chức các hình thức dịch vụ, quảng cáo, bao bì, hình thức đóng gói sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khách hàng, tạo ra được những nét độc đáo trong dịch vụ cung cấp. Hai là, các dịch vụ nhằm thiết lập, củng cố, và mở rộng quan hệ đối tác lâu dài với khách hàng và thị trường.Dịch vụ đạt chất lượng vượt trội khi đem đến cho khách hàng giá trị sản phẩm nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực. 1.3.5. Nhân tố thuộc về các chính sách hỗ trợ. Để nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam như đã phân tích ở trên, yếu tố đóng vai trò quyết định thuộc về chính các doanh nghiệp mà nội dung cơ bản là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ấn tượng trong tâm trí người tiêu dùng và đạt hiệu quả trong kinh doanh.Mặt khác nó còn phụ thuộc rất lớn vào các giải pháp thuộc phía ngành và chính phủ.Đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam, mới bắt đầu những bước đi đầu tiên trong quá trình hội nhập quốc tế, thì sự tác động của Chính phủ thông qua các chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô lại càng thực sự quan trọng hơn.Trong lĩnh vực nghiên cứu là hàng hoá nông sản xuất khẩu, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ có liên quan trực tiếp đến các vấn đề :sử dụng yếu tố đất đai, sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất nông sản, giá cả các hàng hoá trung gian sử dụng trong sản xuất và chế biến hàng hoá, giá cả các hàng hoá xuất khẩu, hỗ trợ vốn…Cụ thể bao gồm các chính sách chủ yếu như: -Chính sách hỗ trợ trực tiếp, bao gồm:chính sách vốn, tín dụng, thuế, trợ cấp sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, chính sách đất đai, trợ giá nông sản và các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp.Cụ thể:ưu tiên cấp vốn, cho vay vốn với quy mô nhiều hơn, thủ tục thanh toán lới nỏng hơn và lãi suất nhẹ hơn với các cơ sở đăng kí sản xuất, chế biến hàng nông sản.Thực hiện thuế suất bằng không đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu.Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong ngành sản xuất và chế biến nông sản nhằm hoàn thiện lợi thế so sánh đối với các hàng hoá này. -Chính sách hỗ trợ gián tiếp nhằm định hướng các đơn vị sản xuất, các địa phương, các ngành phát triển mạnh sản xuất hàng hoá nông sản:chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách khoa học công nghệ, khuyến nông, chính sách cải cách hành chính nhà nước.Chính sách khoa học công nghệ là quan trọng nhất với mục đích đề xuất, tạo ra kỹ thuật công nghệ mới, lựa chọn và phổ biến những tiến bộ công nghệ cho các đơn vị sản xuất và chế biến nông sản hàng hoá.Chính sách công nghệ nhằm khai thác triệt để các nguồn của đổi mới công nghệ nông nghiệp có liên quan đến tất cả các khâu của quá trình sản xuất, đến mọi cây trồng vật nuôi và mọi ngành nghề.Đặc biệt các chính sách về triển khai nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới xuất khẩu như chè, cà phê, lúa gạo và thuỷ sản đóng vai trò quyết định.Chính sách khuyến nông, khuyến ngư nhằm cung cấp thông tin về giống mới, kỹ thuật mới, phương pháp công nghệ hiện đại đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nhà sản xuất cập nhật thông tin và kỹ thuật hiện đại.Hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chuyển đổi cơ cấu khai thác và chế biến thuỷ sản cần được nhấn mạnh nhiều hơn, vì hiện nay, những địa phương ven biển có kế hoạch áp dụng nuôi trồng công nghiệp và bán công nghiệp khá nhiều nhưng họ đang gặp khó khăn về thông tin, phương pháp kỹ thuật, giống…Nên thường gặp thất bại, họ đang rất cần có sự hướng dẫn và trợ giúp trực tiếp của chính phủ và các tổ chức khuyến nông của ngành. Những chính sách và sự tác động vĩ mô của Chính phủ là cơ sở để hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản của nước ta có những bước đi chắc chắn trong tương lai trên thị trường quốc tế. Có thể nói các nhân tố tác động tạo thành một hệ thống làm căn cứ cho việc xác định, thực thi các chính sách và giải pháp cụ thể nhằm xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. Chương 2: Thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 2.1. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản ở Việt Nam trong những năm đổi mới. 2.1.1. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo. -Thực trạng sản xuất. Lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam .Việt Nam có hai vùng sản xuất lúa lớn là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.Đây là hai vùng có mật độ dân cư và trình độ thâm canh sản xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất nước. Từ năm 1986 Việt Nam đã bắt đầu đổi mới kinh tế.Hộ gia đình đã từng bước trở thành đơn vị sản xuất tự chủ và là lực lượng chính trong nông thôn, được trao quyền tự chủ quyết định sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.Cơ chế khoán hộ cùng với cải cách về chế độ sử dụng đất và tự do hoá thương mại đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp.Sản xuất lúa gạo bắt đầu tăng mạnh từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam chuyển từ nước nhập khẩu lương thực thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới.Cụ thể: +Về diện tích:tổng diện tích tự nhiên của cả nước là 329.314, 02km2 với khoảng 20-25% đất đai được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, trong đó trên một nửa được sử dụng cho sản xuất lúa. Mức tăng diện tích gieo trồng lúa trong khoảng 1990-2003 đạt 1,8%/năm, với con số tuyệt đối là 1442,6 ngàn ha trong đó mức tăng của đồng bằng sông Cửu Long là 3,31%/năm nhờ cải tạo thuỷ lợi vùng Đồng Tháp Mười khai thác đất hoang hoá ở các tỉnh trong vùng và tăng thêm vụ sản xuất thứ 3 trên diện rộng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Vùng đồng bằng sông Hồng, các tỉnh Bắc Trung Bộ và các tỉnh miền núi phía Bắc có tốc độ tăng trưởng dưới 1%, các tỉnh Tây Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ diện tích lúa giảm do chuyển sang trồng các loại khác có hiệu quả hơn ở các vùng thiếu nước. Như vậy diện tích gieo trồng lúa tăng không phải do tăng diện tích đất canh tác lúa mà chủ yếu do tăng vụ.Mức độ tăng thêm vụ lúa thứ ba trên phạm vi cả nước là 30,4 % năm 2004 so với 25,8% năm 1995 mức tăng trưởng 330 ngàn ha . +Về giống lúa:Việt Nam trồng khá nhiều giống lúa khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện của từng vùng sinh thái và từng mùa vụ.Các tỉnh phía Bắc sử dụng nhiều giống lúa nhập khẩu từ Trung Quốc và lúa lai.Trong khi đó các tỉnh phía Nam lai trồng nhiều giống lúa IR có nguồn gốc từ viện lúa quốc tế. +Về năng suất:sản lượng lúa gạo tăng một phần do tăng năng suất lúa, đặc biệt là lúa vụ Đông Xuân và vụ mùa .Năng suất lúa của Việt Nam có mức tăng nhanh qua các năm và đạt ở mức khá cao.Tăng năng suất lúa không chỉ nhờ có giống tốt, mà còn do phát triển thuỷ lợi, cải thiện dinh dưỡng cây trồng và cải thiện công tác quản lý, tốc độ tăng năng suất lúa khác biệt giữa các vùng sinh thái, đặc biệt là giữa đồng bằng sông Cửu Long và các vùng còn lại trong cả nước sau nhiều năm;tốc độ tăng năng suất lúa của đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 2,1%xuống còn 0,4% ở các vùng khác tăng trung bình từ 4-5%. Đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 50% tổng sản lượng lúa cả nước, là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. +Về sản lượng: Hàng năm sản lượng cả nước đạt 33-34 triệu tấn thóc, trong đó chỉ sử dụng khoảng 8 triệu tấn cho xuất khẩu(tương đương 4 triệu sau khi xay xát)cho xuất khẩu, còn lại là tiêu thụ trong nước và sử dụng cho dự trữ quốc gia).Sự thay đổi về diện tích và năng suất lúa là hai nhân tố chính tác động tới tốc độ tăng trưởng sản lượng;song vai trò của chúng giữa các vùng là khác nhau, thay đổi theo thời gian. -Thực trạng chế biến. Chế biến lúa được phân thành hai loại chế biến tiêu dùng nội địa và chế xuất khẩu.Chế biến tiêu dùng nội địa được tiêu dùng trên phạm vi cả nước với các trình độ công nghệ chế biến khác nhau:từ xay xát thủ công đến xay xát bằng máy với quy mô lớn;nhưng xay xát với quy mô nhỏ là chủ yếu. Có tới 80% tổng sản lượng lúa của Việt Nam đang được xay xát bởi những máy móc nhỏ của tư nhân.Hầu hết các máy nhỏ của tư nhân không được trang bị đồng bộ sân phơi, lò sấy…Hoạt động của các nhà máy loại này phục vụ cho nhu cầu trong nước.Nếu có phục vụ xuất khẩu chủ yếu dưới dạng gia công nên chất lượng lúa không đảm bảo. Chế biến xuất khẩu được thực hiện ở các vùng sản xuất lúa xuất khẩu, trước hết ở đồng bằng sông Cửu Long và một số cơ sở chế biến ở đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải miền Trung.Sản phẩm xuất khẩu lúa chủ yếu là gạo;các sản phẩm từ gạo cũng có nhưng số lượng không đáng kể(bún khô, bánh đa nem, rượu…).Vì vậy chế biến lúa gạo xuất khẩu chủ yếu là hoạt động xay xát.Các nhà máy của tư nhân ở tình trạng như trên.Các nhà máy của Nhà nước chủ yếu mua gạo xay của nhà máy tư nhân về xát đánh bóng để xuất khẩu.Trường hợp chưa đảm bảo độ ẩm có thêm hoạt động sấy sau đó đánh bóng.Hệ thống chế biến lúa gạo xuất khẩu tuy được cải tạo nâng cấp nhưng mức độ hoạt động thấp, chất lượng chế biến chưa cao.Tỷ lệ gạo sau chế biến chỉ đạt 60-65%.Trong đó tỷ lệ gạo nguyên hạt chỉ chiếm 42-48% vừa gây lãng phí trong chế biến vừa phải xuất khẩu với giá rẻ. Khoảng 10% gạo xuất khẩu không rõ phẩm cấp.Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam đã được phân loại theo tỷ lệ tấm do đó chất lượng của gạo chế biến ảnh hưởng rất lớn đến giá trị xuất khẩu và hiệu quả của chế biến. -Thực trạng xuất khẩu của lúa gạo. Bên cạnh các giải pháp và chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước hoạt động thương mại quốc tế của ngành lúa gạo cũng được đẩy mạnh. Một trong những thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại là việc xoá bỏ hạn ngạch và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo;nhờ đó tăng nhanh sản lượng gạo xuất khẩu gạo ở Việt Nam.Những thành tựu trong sản xuất lúa gạo thời kỳ đổi mới đã giúp Việt Nam không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo quan trọng thế giới.Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng mạnh.Nếu như trong năm 1990 Việt Nam chỉ mới xuất khẩu 1,6 triệu tấn thì nay lượng gạo xuất khẩu từ Việt Nam đã đạt mức kỷ lục là 5,2 triệu tấn. 2.1.2. Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê. -Thực trạng sản xuất. +Về diện tích:diện tích cà phê tăng nhanh hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, có giá trị kinh tế cao và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối hàng đầu thế giới. Diện tích cà phê thời kỳ này tăng nhanh từ 155.00ha năm 1994 lên cao nhất là 535.000 ha năm 2001 rồi giảm xuống 450.000ha năm 2003. +Về năng suất:trong thời kỳ này là cao nhất.Nếu như trước đây năng suất cà phê dưới 10 tạ/ha thì bắt đầu từ 1999 đến nay năng suất tăng đáng kể năm 1999 là 20 tạ/ha và cho đến năm 2007 là 1,88 tấn/ha.Nếu so với các nước trên thế giới Việt Nam là nước có năng suất cà phê cao nhất, cao hơn cả Brazin, Colombia, Indonesia. +Về sản lượng:sản lượng cà phê tăng nhanh trong những năm 2000-2001.Năm cao nhất là 2001 với 841.000 tấn tăng gấp 4,76 lần so với 1994.Sản lượng cà phê tăng chủ yếu do diện tích tăng. Tính cho đến năm 2007 sản lượng cà phê xuất khẩu là 912.553 tấn. -Thực trạng chế biến. Khác với một số loại sản phẩm nông nghiệp khác, cà phê là loại sản phẩm từ quả tươi sau khi thu hoạch phải trải qua chế biến mới thành cà phê nhân khô.Cà phê nhân khô được coi là thành phẩm và là sản phẩm chủ yếu trong giao dịch xuất nhập khẩu đối với cà phê. Thực tế ít hộ trồng cà phê đủ vốn để đầu tư thiết bị chế biến, nên số hộ tự chế biến là rất ít chủ yếu là đi thuê. Tuy nhiên cà phê thu hái chủ yếu vẫn được xử lý phân tán ở từng hộ với phương thức phơi khô sau đó được xay xát bằng máy móc nhỏ từ cà phê khô thành cà phê nhân rồi bán cho những người thu gom.Nhìn chung với cà phê vôi sau thu hoạch là đem phơi khô dưới tác dụng của năng lượng mặt trời.Nhiều trường hợp bị mưa kéo dài trong mùa thu hoach;người ta phải sử dụng các chất đốt như than, củi …để sấy do đó chất lượng không được đảm bảo. -Thực trạng xuất khẩu. Cà phê là mặt hàng có giá trị giao dịch lớn thứ hai sau dầu mỏ.Với nước ta cà phê là loại nông sản xuất khẩu lớn thứ hai sau gạo.Gía trị xuất khẩu chiếm khoảng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm.Niên vụ 2003-2004 cà phê nước ta đã được xuất khẩu đi tới 70 nước trên thế giới.Và đến năm 2007 đã có 75 thị trường tiêu thụ cà phê của Việt Nam. Tình hình sản lượng, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê 2.1.3. Thực trạng sản xuất chế biến một số mặt hàng nông sản khác. -Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu chè Những năm gần đây, do có sự quan tâm đúng mức của Nhà nước và những nỗ lực đầu tư của các đơn vị sản xuất, ngành chè Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt. Sản lượng đã tăng lên hàng trăm ngàn tấn/năm. Hiện nay, cả nước có 630 cơ sở, nhà máy của 34 tỉnh, thành tham gia trồng chè trên diện tích 125.000 ha. Sản lượng hàng năm đạt 577 ngàn tấn chè thô. Chè Việt Nam đã được xuất sang 107 thị trường trên thế giới, trong đó có 68 thị trường thuộc các quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)- một kết quả mà không phải bất kỳ nước nào cũng đạt được, kể cả các nước thành viên của Tổ chức này. Trong số gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đang tiêu thụ chè Việt Nam, có 18 thị trường truyền thống ở châu Á, châu Mỹ, châu Âu. Các thị trường mua chè Việt Nam nhiều nhất là Pakistan, Ấn Độ, Đài Bắc (Trung Quốc), Nga. Riêng Đài Bắc (Trung Quốc) là thị trường tiêu thụ nhiều nhất trà Ô Long chất lượng cao của Việt Nam. -Thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu hạt điều Hiện nay diện tích trồng điều cả nước đạt 433.000ha với sản lượng thu hoạch 350.000 tấn điều thô mỗi năm. Năm 2007, cả nước có 225 DN chế biến điều với gần 300 nhà máy, đã chế biến và xuất khẩu được 127.000 tấn nhân điều, thu về 504 triệu USD. Nhưng các DN chế biến điều thường “mạnh ai người nấy làm”, không chú trọng phát triển vùng nguyên liệu bền vững đã đẩy rất nhiều DN chế biến điều đứng bên bờ vực phá sản do giá nguyên liệu bị đẩy lên quá cao. 2.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. Xây dựng, bảo vệ thương hiệu cho nông sản đặc sản đang được quan tâm với mục đích nâng cao giá trị chế biến phục vụ xuất khẩu và bảo vệ các sản phẩm nông sản đặc sản nổi tiếng.Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn chỉ là khai thác “thị trường thô”, chứ chưa thực sự xây dựng và quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra ngoài .Bởi vậy 90% sản lượng hàng nông sản Việt Nam gia nhập thị trường thế giới với vỏ thương hiệu ngoại.Trong nước, các mặt hàng nông sản đặc sản phần lớn chưa được bảo hộ, để rơi vào tình trạng lẫn lộn vàng-thau. Xuất khẩu không thương hiệu sẽ phải chịu giá thấp và rất khó cạnh tranh được với các nước xuất khẩu khác.Đây là một thực tế mà ngành nông sản Việt Nam phải đương đầu.Điều này được thể hiện qua một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam. 2.2.1. Thực trạng xây dựng thương hiệu gạo Gạo là một thực phẩm chính của người Việt Nam điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh doanh mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội.Xây dựng thương hiệu gạo Việt cho người Việt cũng chính là lưu trữ và phát triển những tình cảm tốt đẹp. Thực tế cho thấy trong thời gian qua do trúng mùa, được giá mà gạo Việt Nam đang gặp nhiều thuận lợi trên thị trường thế giới. Cuối năm 2007, giá gạo 5% tấm xuất khẩu được chào bán theo giá FOB là 355 USD/tấn; đến khoảng giữa tháng 1, giá tiếp tục tăng thêm 40 USD/tấn. Không dừng lại ở đó, từ giữa tháng 2, giá gạo VN xuất khẩu đã lên mức 460 USD/tấn. Theo đánh giá của các DN, đây là mức giá cao nhất trong vòng 34 năm qua, kể từ năm 1974.Đây là thời cơ tốt để xây dựng thương hiệu mang tầm quốc tế cho thương hiệu gạo Việt Nam.Chớp lấy thời cơ đã có không ít doanh nghiệp xây dựng được thương hiệu cho mình.Doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu gao Việt Nam với thương hiệu là ARI, giá lên đến 300USA/tấn(1990) cùng chủng loại giá chưa tới 200USD.Năm 2004 Việt Nam xuất khẩu được 1 triệu tấn gạo thơm với giá từ 360-380USD/tấn cao hơn “không tên” trên 100USD/tấn.Đây chính là giá trị của thương hiệu. Trong 3 năm qua, Công ty Minh Cát Tấn với nhãn hiệu gạo Kim Kê xuất hiện và đưa ra chiến lược xây dựng thương hiệu rất ấn tượng, nhanh chóng tạo dựng uy tín cũng như tiếng vang tốt ở thị trường nội địa. Gạo Kim Kê đạt chứng nhận ISO 9001:2000 về quy trình sản xuất và chất lượng. Kim Kê đang đầu tư xúc tiến chuỗi nông trường chuyên canh trồng lúa thuần chủng chất lượng cao theo quy trình GAP. Đầu tháng 8-2007, Công ty Minh Cát Tấn đã chính thức khai trương điểm đầu tiên trong chuỗi nhà hàng chuyên về cơm tấm và các món ăn chế biến từ gạo độc đáo tại TPHCM. Đây là bước tiến mới thực sự khẳng định uy tín, đẳng cấp trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm và ẩm thực của Kim Kê. Song vẫn còn không ít các doanh nghiệp chưa chú ý xây dựng hoặc gặp nhiều khó khăn trên con đường xây dựng thương hiệu cho riêng mình. Gạo Nàng Thơm Chợ Đào là sản phẩm nổi tiếng chỉ có ở hợp tác xã Mỹ Lệ với hơn 1000 hộ dân tham gia sản xuất; sản lượng khoảng 1.000 tấn/năm.Xác định đây là tài sản vô giá nên Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An tiến hành đăng kí nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong và ngoài nước, nhưng thật bất ngờ đã có một nhãn hiệu trùng xuất xứ và na ná tên được cấp cho công ty Cao Nguyên(Oklahoma-Mỹ) từ năm 2002 .Thực tế này khiến gạo Nàng Thơm Chợ Đào “xịn” chỉ có thể được bảo hộ trong nước chứ không thể xuất khẩu. Nhiều loại gạo, nếp đặc sản của ĐBSCL sản xuất vẫn phải “mượn hồn ngoại” trên nhãn mác để tiêu thụ nội địa. Ngay nếp Phú Tân, một đặc sản vang danh miền Tây vẫn phải mượn “mác ngoại”. Hiện nay, một số gạo thơm của Việt Nam cũng được xuất khẩu, nhưng do chưa được công nhận các tiêu chuẩn quốc tế, chưa có thương hiệu riêng nên giá xuất khẩu chẳng chênh lệch bao nhiêu so với lúa thường. Nếu các doanh nghiệp không chú trọng xây dựng thương hiệu gạo cho mình thì việc các loại gạo Thái Lan, Mỹ, Hồng Kông…ngày càng tràn lan trên thị trường Việt Nam sẽ trở thành một thách thức lớn cho ngành nông sản Việt Nam. 2.2.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu cà phê. Hiện sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam đứng thứ hai thế giới sau Brazil, với giá trị xuất khấu năm 2007 đạt 1, 643 tỷ USD, riêng 6 tháng đầu năm nay, lượng cà phê xuất khẩu đã đạt trên 1 tỷ USD .Các thị trường xuất khẩu hàng đầu là Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia.Tuy nhiên giá trị cà phê thời gian qua tăng chủ yếu do giá cả thế giới tăng còn sản lượng tăng không đáng kể. Là một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực nhưng ngành cà phê đang bộc lộ”không ít điểm còn chưa thực sự bền vững và sau khi gia nhập WTO, chúng ta còn nhiều thách thức cần vượt qua”.Ngoài chất lượng xuất khẩu không đồng đều, chủ yếu xuất khẩu ở dạng thô giá trị thấp, ngành cà phê còn chưa có khả năng tham gia quyết định vào giá cả trên thị trường thế giới, vẫn phụ thuộc vào sự lên xuống giá cả sản phẩm của các nước khác và quan trọng hơn cả là chưa xây dựng được thương hiệu gắn liền với sản phẩm thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây đã có không ít doanh nghiệp khẳng định được thương hiệu của mình cả trong nước và trên thế giới.Đi đầu là Vinacafe Buôn Mê Thuột, hàng năm Vinacafe Buôn Mê Thuột xuất khẩu chiếm 17-20% kim ngạch xuất khẩu cà phê cả nước như trong niên vụ 2006-2007 công ty này xuất khẩu cà phê đạt 333 triệu đô la Mỹ.Kế tiếp là các doanh nghiệp như cà phê 2-9 Dak Lak(Simexco DakLak), Intimex, Thái Hoà, Tín nghĩa ( Đồng Nai)…. Tháng 9-2008 hai cửa hàng cà phê Trung Nguyên đầu tiên đã được mở tại Singapo và được đông đảo người tiêu dùng Singapo hưởng ứng.Đó là một đóng góp quan trọng trong những nỗ lực đưa thương hiệu cà phê ra thế giới. Nhưng bên cạnh đó ngành cà phê Việt Nam vẫn còn gặp không ít gian nan trên con đường xây dựng thương hiệu.Cà phê Trung Nguyên là một ví dụ, khi công ty này nộp đơn đăng kí thương hiệu tại Mỹ thì phát hiện đã có một công ty của Mỹ đăng ký trước.Sau đó Trung Nguyên phải đồng ý để doanh nghiệp này là nhà phân phối độc quyền sản phẩm tại Mỹ trong vòng hai năm họ mới rút hồ sơ. Theo số liệu của Tổ chức Cà Phê Thế giới (ICO), trong tổng số lượng cà phê xuất khẩu thì có đến 88%là của Việt Nam.Dù cà phê Robusta của Việt Nam có chất lượng cao, thậm chí cao hơn hẳn cà phê cùng chủng loại của nhiều nước nhưng do Việt Nam vẫn áp dụng bộ tiêu chuẩn cũ 4193:93 trong quan hệ mua bán cà phê nên tỷ lệ cà phê bị loại theo phân loại của thị trương kỳ hạn quốc tế London (LIFFE) hiện lên đến 66%.Để cà phê có được thương hiệu như tiềm năng vốn có các doanh nghiệp cần chú ý hơn nữa đến chất lượng mẫu mã…và các bộ tiêu chuẩn mà thế giới quy định. 2.2.3. Thực trạng xây dựng thương hiệu một số mặt hàng nông sản khác -Thực trạng xây dựng thương hiệu chè. Trước đây, sản lượng chè của Việt Nam chỉ đạt được vài chục ngàn tấn/năm vì thị trường không ổn định, chất lượng không đồng đều thường bán dưới dạng nguyên liệu và dù đã có mặt trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng hầu hết lại mang nhãn hiệu ở nước ngoài và không được quảng bá đúng mức.Do vậy, giá chè của Việt Nam thấp hơn các nước đến 20% và điều này đã làm cho các nhà kinh doanh chè bị thua thiệt.Chè Suối Giang là một ví dụ điển hình khi thương hiệu chưa kịp xây đã mất.Vào các năm 1994-1995 sản phẩm chè Suối Giang được bán với giá rất cao (90.000đồng-120.000đồng) nhưng cung vẫn không đủ cầu.Sau một thời gian vì lợi nhuận trước mắt người ta đã pha với các loại chè trung du để bán với nhiều sản phẩm chè khác nhau, làm chè giảm giá dần, chất lượng chè giảm, giá chè loại 1 đóng gói cũng chỉ bán được với giá 70.000đồng/kg những loại chè không nhãn mác chỉ bán được với giá vài chục ngàn.Điều đáng nói là hiện nay do chưa đăng kí bảo hộ nên chè Suối Giang được bày bán tràn lan, không chỉ do nhà máy sản xuất mà nhiều cơ sở tư nhân thậm chí hộ gia đình cũng tự chế biến rồi bán với giá rẻ.Vì vậy sản phẩm chè xanh Suối Giang đã mất giá lại rơi vào tình trạng mất giá hơn. Khác với chè Suối Giang, mặc dù còn “non trẻ” vể tuổi đời và khiêm tốn về diện tích trong làng nghề Việt Nam song chất lượng chè Đá Chông đã được viện nghiên cứu chè kiểm chứng và đánh giá cao hơn hẳn so với nhiều vùng chè truyền thống.Chỉ khác chè Tân Cương (Tuyên Quang) một chút vị chát đặc trưng mà thôi.Với ước vọng đưa sản phẩm quê hương ra thị trường trong nước và quốc tế tiêu chí “sạch” của sản phẩm luôn được người dân nơi đây đặt lên hàng đầu;muốn chè đạt chất lượng cả hương lẫn vị người sản xuất phải chú ý đến từng khâu nhỏ trong suốt quá trình từ lúc bón phân thu hái cho đến khi chế biến.Với hoạch định đầu tư thêm máy móc, trang thiết bị những người dân thôn Đá Chông đang cố gắng hết mình để thôn được chứng nhận là làng nghề và đăng kí thành công thương hiệu chè Đá Chông. Cùng với chè Đá Chông đã có rất nhiều thương hiệu đã được xây dựng thành công như:chè Tân Cương, chè Ô Long Văn Chấn…. Trong những năm gần đây khi Việt Nam gia nhập WTO với những nỗ lực phấn đấu trên đường hội nhập của ngành chè Việt Nam hiện logo “Chè Việt” đã được đăng kí theo thoả ước Madrrit với 73 nước và đang được quảng bá tại nhiều quốc gia trên thế giới.Hiệp hội Chè Việt Nam đã cho phép 6 doanh nghiệp trong nước gắn thương hiệu “Chè Việt” lên bao bì của 17 sản phẩm để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.Qua những kết quả mà ngành chè đã đạt được có thể khẳng định rằng thương hiệu “Chè Việt” đang và sẽ tiếp tục nâng cao vị thế của mình hơn nữa trên thị trường thế giới. -Thực trạng xây dựng thương hiệu hạt điều. Sau 15 năm cạnh tranh trên thương trường các nhà xuất khẩu hạt điều đã làm rạng danh đất nước khi vượt qua Ân Độ giành vị trí đứng đầu thế giới về xuất khầu hạt điều.Năm 2006 Việt Nam đã xuất khẩu 127.000 tấn hạt điều sang 40 quốc gia trên thế giới, được sự chấp nhận của các thị trường khó tính như:Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản…hạt điều đã xây dựng thành công thương hiệu cho riêng mình.Song bên cạnh đó các nhà sản xuất hạt điều vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức.Đó là giá thành nhân điều cao hơn giá xuất khẩu do tỷ lệ thành phẩm so với nguyên liệu cao nên giá thành cao.Tình trạng “tranh mua” nguyên liệu vẫn đang tiếp tục diễn ra do nguồn nguyên liệu trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất.Bên cạnh đó vấn đề lao động cũng là một yếu tố khó khăn của các doanh nghiệp trong ngành điều.Thực tế ngay tại vùng nguyên liệu lớn nhất của nước ta là Bình Phước vẫn tồn tại tình trạng thiếu lao động.Năng suất lao động của người lao động hiện nay vẫn còn thấp do tính chất của ngành điều là làm thủ công.Hơn nữa, chi phí để sản xuất ra 1kg điều thành phẩm tương đối cao.Đáng lo ngại hơn là hiện nay vì lợi ích trước mắt mà một số người dân đã dùng keo 502 một loại keo cực độc để dán những mảnh điều đã vỡ lại rồi bán cho các cơ sở sản xuất để xuất khẩu.Điều này đã làm thiệt hại không nhỏ tới uy tín và thương hiệu của hạt điều trên thị trường thế giới.Nếu ngành hạt điều không chú ý khắc phục những tồn tại trên thì thương hiệu hạt điều không những không được phát huy mà sẽ ngày càng đi xuống. Chương 3: Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. Từ thực trạng đã phân tích ở trên có thể thấy rằng xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam không chỉ là mối quan tâm, lo lắng của chính phủ, doanh nghiệp mà còn là của mọi người dân đang sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Do đó để nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam đòi hỏi một giải pháp toàn diện, đồng bộ. 3.1. Các giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý nhà nước, đầu tư, tài chính và tín dụng đối với từng ngành hàng. Thực tiễn đã cho thấy, quản lý nhà nước đối với từng ngành hàng còn kém hiệu lực, thiếu thống nhất, chưa đồng bộ.Công tác quy hoạch, kế hoạch cũng còn nhiều yếu kém dẫn đến hạn chế sự phát triển của ngàiunh.Không ít nguồn lực cho từng ngành đã bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, thậm chí gây tổn thất nặng nề(như dự án phát triển cà phê, chè ở trung du và miền núi phía Bắc).Khi quy hoạch không đúng, cây trồng, vật nuôi, được bố trí không phù hợp với những điều kiện sản xuất thì chi phí sản xuất tăng lên, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó tiêu thụ được, và nếu có tiêu thụ được cũng bị gây khó dễ, dìm giá, doanh thu thấp và tất nhiên thương hiệu ngày càng giảm.Do vậy, đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước và các chính sách, giải pháp về tổ chức chỉ đạo đối với ngành là một trong những giải pháp quan trọng trong nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.Theo đó cần tập trung vào những vấn đề sau: -Phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý trong quản lý nhà nước đối với từng ngành hàng.Hoàn thiện chiến lược, gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.Trên cơ sở các chiến lược, các quy hoạch, tiến hành xây dựng các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn, bố trí sản xuất theo không gian, thời gian.Các chiến lược, các quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành hàng là khung pháp lý để từng ngành, từng địa phương, đơn vị và cá nhân cụ thể hoá, vận dụng phù hợp với những điều kiện thực tế của mình. -Hỗ trợ việc quy hoạch các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá, các vùng sản xuất đặc sản có giá trị cao.Lựa chọn những vùng có điều kiện sản xuất thích hợp nhất để tập trung phát triển ngành theo hướng chuyên canh tập trung quy mô lớn, cung cấp khối lượng hàng nông sản lớn, có giá trị cho xuất khẩu. +Đối với lúa gạo, cần chỉ đạo tốt việc xây dựng thành công vùng lúa xuất khẩu chất lượng cao 1 triệu ha ở đồng bằng sông Cửu Long. +Đối với cà phê, điều kiện tự nhiên, địa lý, khí hậu nước ta cho phép trồng được cả hai loại cà phê chè và cà phê vối trên các vùng riêng biệt.Ta có điều kiện thuận lợi cho việc trồng cà phê vối ở các vùng khí hậu nóng ẩm phía Nam và trồng cây cà phê chè ở vùng khí hậu ôn hoà ở miền núi phía Bắc và rải rác ở một số vùng có độ cao 800-900 so với mặt nước biển.Tập trung xây dựng và củng cố cà phê vối Tây nguyên, Đông Nam Bộ, nơi có tiềm năng đất đỏ bazan màu mỡ, có nguồn lao động dồi dào, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, nhiệt độ cao, lượng mưa lớn, cây cà phê vối sinh trưởng mạnh và cho năng suất cao.Hỗ trợ và phát triển vùng cà phê chè Sơn La, Điện Biên(nơi có độ cao 600m so với mặt nước biển);vùng cà phê chè Lâm Đồng, Gia Lai;vùng cà phê chè Nghệ An.Như vậy, ở mỗi miền, ta đều có thể xây dựng vùng cà phê chè thích hợp. +Đối với chè, cần hỗ trợ xây dựng và phát triển các vùng tập trung gắn với cơ sở công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ ở các vùng trung du và miền núi phía Bắc và Lâm Đồng.Xây dựng vùng chè có độ cao trên 500m so với mặt nước biển ở Tuyên Quang, Hà Giang, Lai Châu… Vùng chè có độ cao dưới 500m so với mặt biển ở Thái Nguyên, Phú Thọ, xây dựng vùng chè có chất lượng đặc biệt, có giá trị kinh tế cao ở Mộc Châu, Hà Giang, Cao Bằng. -Phải có các chính sách và giải pháp hướng tới gắn sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến trên các phương diện như:không gian lãnh thổ, năng lực của vùng sản xuất nguyên liệu với năng lực của các cơ sở chế biến…hỗ trợ quy hoạch lại hệ thống cơ sở chế biến thủ công”bung ra” như thời gian vừa qua, tránh các cuộc chiến về nguyên liệu.. dẫn đến chất lượng sản phẩm chế biến thấp khó xuất khẩu và giá xuất khẩu thấp. -Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển của từng ngành hàng.Nhà nước cần ưu tiên đầu tư, tăng tỷ trọng vốn đầu tư và có kế hoạch đầu tư trọng điểm, khuyến khích những ngành hàng, những lĩnh vực cần thiết tuỳ theo vai trò của chúng đối với kinh tế, xã hội của quốc gia hay của từng vùng.Không đầu tư dàn trải, không đầu tư mang tính bảo hộ cho nông sản hàng hoá mà không tính đến thị trường.Không nên đầu tư cho các ngành hàng mang tính cạnh tranh quốc tế theo hướng hỗ trợ bằng lãi suất tín dụng thấp, trợ giá, bán cho người sản xuất nông nghiệp vật tư nông nghiệp với giá thấp hơn giá thị trường…Điều đó phạm vào những quy định chung của Tổ chức Thương mại quốc tế.Cách tốt nhất của chính sách đầu tư là nên đầu tư qua xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng sản xuất;đầu tư cho phép phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ;đầu tư cho đào tạo;bồi dưỡng nâng cao tay nghề của người lao động;đầu tư vào các lĩnh vực văn hoá xã hội, cải thiện điều kiện sống và làm việc cho người lao động… -Phải tạo ra những cơ chế chính sách về tài chính thông thoáng để khơi thông các nguồn vốn đầu tư, từ ngân sách nhà nước, từ các tổ chức quốc tế thông qua các chương trình tài trợ, từ các ngành, các doanh nghiệp trong tái đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của từng vùng. -Về tín dụng, các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần huy động nhiều hơn các nguồn vốn trung hạn và dài hạn để phục vụ cho vay đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của từng vùng sản xuất.Có chính sách hợp lý để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân thông qua lãi suất linh hoạt, hấp dẫn. -Về chính sách lãi suất tín dụng cần phải được tự do hoá theo sự điều tiết khách quan của quan hệ cung cầu về vốn, từng bước phát triển thị trường vốn thị trường nông thôn(giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp, với người sản xuất kinh doanh;không nên quy định cứng nhắc, ấn định mức trần như hiện nay.Cần giảm việc cho vay ưu đãi quá rộng cho sản xuất kinh doanh những mặt hàng nông sản như hiện nay.Cần chuyển dần những hỗ trợ thông qua lãi xuất bằng hỗ trợ về các nguồn lực như đất đai, hạ tầng, công nghệ…. 3.2. Giải pháp về thị trường. Thị trường là vấn đề vô cùng quan trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt đối với những hàng hoá xuất khẩu.Cần khẳng định thị trường quyết định sản xuất.Hoạt động thương mại không chỉ nhằm tiêu thụ sản phẩm đầu ra của sản xuất và cung ứng nhu cầu hàng hoá đầu vào cho sản xuất mà còn có tác dụng chỉ đường định hướng sản xuất phát triển.Thương mại chủ động liên kết với sản xuất và thâm nhập vào sản xuất, cung cấp đầu vào cho sản xuất phát triển;đồng thời mở rộng lưu thông, đẩy mạnh tiêu thụ đầu ra để đẩy nhanh chu trình tái sản xuất.Chính thị trường, thương mại là những nhân tố cơ bản tác động mạnh mẽ đến nâng cao giá trị thương hiệu hàng nông sản. 3.2.1 Thị trường trong nước. Thị trường nội địa phát triển là cơ sở, thương mại nội địa phát triển là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.Phát triển thị trường nội địa sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo cơ sở phát triển xuất khẩu và tạo tiền đề để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Những giải pháp đối với thị trường nội địa là: -Xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức mặt hàng trong nước của từng mặt hàng.Tạo lập mối liên kết giữa các doanh nghiệp thương mại theo chiều dọc và mối liên kết giữa lưu thông với sản xuất, tốt nhất là bằng hợp đồng ổn định và lâu dài về việc tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng giữa nhà lưu thông với nhà nông.Cần xác định hình thức hợp đồng chặt chẽ giữa người sản xuất với người tiêu dùng dưới nhiều hình thức:bao tiêu lâu dài, cùng đầu tư, phát triển, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau… Nghiên cứu vận dụng các cơ chế, chính sách hiện hành và tiệp tục đề xuất, bổ sung thêm các giải nhằm hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp tích cực phát triển mạng lưới thị trường nông sản.Xây dựng khung pháp lý và cơ sở hạ tầng phục vụ cho những giao dịch thương mại nông sản theo phương thức kinh doanh mới như các sàn giao dịch hàng hoá nông sản, đấu giá hàng hoá nông sản.Hình thành và phát triển các trung gian kinh tế và dung lượng thị trường tại những địa bàn cụ thể, trên cơ sở đó xây dựng và phát triển các loại hình tổ chức mua bán hàng hoá tập trung và trực tiếp như chợ cà phê Buôn Ma Thuật, chợ chè Thái Nguyên, chợ gạo Cần Thơ. Phát triển rộng mạng lưới kinh doanh, trong đó đặc biệt quan trọng là các mạng lưới các đơn vị cơ sở của doanh nghiệp ở các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá.Mạng lưới này mua gom nông sản và bán lẻ vật tư, hàng tiêu dùng cho nông dân, tạo tiền đề về cơ sở vật chất-kỹ thuật để triển khai thực hiện các phương thức mua bán theo hợp đồng mua bán giữa doanh nghiệp với người sản xuất.Chú trọng hình thành mạng lưới đại lý cho doanh nghiệp hoặc người làm ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán cho doanh nghiệp.Cần chú ý quy mô sản xuất kinh doanh phải phù hợp với nhu cầu của thị trường, vừa đáp ứng được nhu cầu vể số lượng, chất lượng, vừa đảm bảo xuất sứ nguồn gốc của hàng hoá nông sản.Các kênh tiêu thụ hàng nông sản phải tương thích với quy mô sản xuất kinh doanh, với nhu cầu của thị trường;không nên để nhà nhà, người người tham gia tiêu thụ sản phẩm một cách quá tràn lan như vừa qua, dẫn đến hàng hoá nông sản cứ chạy lòng vòng qua các khâu trung gian, chi phí tiêu thụ tăng.Tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán, những”cuộc chiến” về nguyên liệu chế biến trong thời gian qua. Xây dựng hệ thông tin thị trường ổn định, đồng bộ và có tính liên kết cao.Thiết lập và kết nối các kênh thông tin về thị trường quốc tế và thị trường nội địa của các cơ quan quản lý nhà nước(Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương), các hiệp hội, các Tổng công ty, công ty lớn, hình thành nên các trung tâm chuyên nghiệp có khả năng phân tích, xử lý và phân phối thông tin thị trường đến với người sản xuất kinh doanh một cách nhanh chóng, hiệu quả, từng bước kết nối thông tin thị trường đến tận các chợ đầu mối, các sàn giao dịch hàng hoá, đồng thời tổ chức nhiều phương thức truyến tin về thị trường-giá cả trong và ngoài nước cho người sản xuất kinh doanh, nhất là nông dân. Triển khai mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa.Tăng cường công tác tiếp thị, nghiên cứu nhu cầu, đồng thời tích cực thiết lập mạng lưới tiêu thụ, tổ chức hội chợ triển lãm, tiến hành các hình thức quảng bá và giới thiệu hàng hoá, áp dụng các phương thức bán hàng, phục vụ và thanh toán tiện lợi đối với khách hàng.Phát triển thương hiệu, tăng cường công tác quản lý nhãn mác và bảo hộ sở hữu trí tuệ.Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện và xử lý kịp thời các vi phạm quy định về thương hiệu, nhãn mác, bản quyền sở hữu trí tuệ. Thực hiện các chính sách về giá nông sản hàng hoá một cách linh hoạt nhưng phải trên nguyên tắc thị trường và thống nhất đảm bảo tính cạnh tranh ngành, cạnh tranh quốc gia chứ không nên thả nổi, thiếu sự điều tiết như thời gian vừa qua.Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành giá nông sản mà để chúng tự hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường.Tuy nhiên trong những trường hợp những tình thế đặc biệt, Nhà nước cần phải chủ động kiềm chế những biến động bất lợi về giá bất lợi đối với người sản xuất, đối với nền kinh tế quốc dân bằng các biện pháp điều tiết sản xuất, điều tiết quan hệ cung cầu.. Cần có chính sách kích cầu đối với nông sản hàng hoá cho tiêu dùng trong nước.Hiện nay, có nhiều loại nông sản hàng nông sản được sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu.Thí dụ như cà phê trong khi mỗi người Bắc Âu uống 10kg cà phê nhân mỗi năm, ở Tây Âu là 5-6 kg thì người Việt Nam mới tiêu thụ khoảng 0, 5kg.Theo Hiệp hội Cà Phê thế giới, tiêu dùng nội địa của cà phê Việt Nam hiện chỉ đạt gần 3, 6%, thấp nhất trong số những nước xuất khẩu.Hiện nay”chuỗi” quán cà phê Trung Nguyên, một loạt nhãn hiệu khác như Highland, Phúc Ban Mê, cà phê Buôn Mê Thuột…lần lượt mở các cửa hàng cà phê tại các đô thị lớn song mục đích là để quảng bá và giới thiệu sản phẩm và người đến quán thực chất không phải chỉ để thưởng thức cà phê. 3.2.2 Về thị trường ngoài nước. -Cần có những chính sách và giải pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp.Những biện pháp trực tiếp thường là các biện pháp tập trung vào việc kích thích nhu cầu như:việc đàm phán, ký kết các Hiệp định, Nghị định thương mại của Chính phủ với nước ngoài để từ đó tạo ra nhu cầu cho sản phẩm của nước họ;các biện pháp của các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chiến dịch quảng cáo, tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, lập văn phòng đại diện ở nước ngoài.Những biện pháp gián tiếp thường nhấn mạnh đến mục tiêu khuyến khích cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho trao đổi thương mại như những hỗ trợ cho để tạo ra hay mở rộng công suất sản xuất, cải tiến năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm;những hỗ trợ về công nghệ và phát huy sáng kiến, những khuyến khích về tài chính(thuế, đầu tư…)Chính phủ phải tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi mang tính chất quốc tế hoặc quốc gia.Đối tượng tác động xúc tiến thương mại của Chính phủ là các doanh nghiệp, các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ, các thể chế, các tổ chức hỗ trợ thương mại quốc gia, thị trường trong và ngoài nước. -Các tổ chức xúc tiến thương mại phải cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh quốc tế bình đẳng, giúp doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường, giảm thiểu chi phí, tăng lợi nhuận, thông tin về các thị trường, tư vấn pháp lý, giúp giải quyết vướng mắc trong quan hệ thương mại với vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp với người quản lý và người tiêu dùng, giúp cho doanh nghiệp tận dụng cơ hội và hạn chế những rủi ro trên thị trường.Các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại gồm:nghiên cứu thị trường, phát hiện nhu cầu, xây dựng chiến lược sản phẩm, thâm nhập thị trường, củng cố và mở rộng thị phần.. -Cần phải có những chính sách và giải pháp để hoạt động xúc tiến thương mại chuyển sang hướng chủ động tích cực hơn, không chỉ dừng ở việc duy trì, tìm kiếm, mở rộng thị trường, khách hàng để bán những nông sản hàng hoá hiện có, mà phải quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, phát hiện, xác định lợi thế cạnh tranh để sản xuất ra những mặt hàng độc đáo mang tính cạnh tranh cao.Từng bước đưa hoạt động xúc tiến thương mại mang tính chuyên môn hoá cao.Trước mắt, hoạt động xúc tiến thương mại nên tập trung vào các giải pháp dễ làm như hội chợ, triển lãm, quảng cáo… -Cần phải xúc tiến nhanh các hoạt động xây dựng, đăng ký, bảo vệ nhãn mác hàng hoá, mác sản phẩm, thương hiệu để người tiêu dùng từng bước làm quen với nhãn mác, thương hiệu và chất lượng nông sản hàng hoá của từng doanh nghiệp, từng địa phương, từng vùng.Cần có những chính sách và giải pháp về xuất xứ của nông sản được đưa vào lưu thông hoặc xuất khẩu, ngăn ngừa, bảo vệ thương hiệu trước các hành vi xâm hại, làm giả, làm nhái, xâm phạm sở hữu trí tuệ và bí mật thương mại. 3.3. Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ. Cần nhận thức rõ vai trò của khoa học kỹ thuật và công nghệ đối với nông sản hàng hoá xuất khẩu, từ đó có những chính sách và giải pháp thích hợp nhằm phát huy vai trò của khoa học kỹ thuật và công nghệ.Trước hết, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây: Một là, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và triển khai kỹ thuật so với hiện nay;chú trọng khuyến khích nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh của từng ngành hàng, vào những loại sản phẩm có giá trị gia tăng cao hoặc có khả năng nâng cao giá trị gia tăng. Hai là, đẩy mạnh việc áp dụng cơ chế đấu thầu công khai và cho phép mọi đối tượng đều được tham gia vào hoạt động nghiên cứu để khai thác tối đa và có hiệu quả các cơ sở khoa học như các viện nghiên cứu, các trường đại học;thu hút mọi nguồn lực của các nhà khoa học vào viêc nghiên cứu và triển khai, ứng dụng cho từng ngành hàng cụ thể. Ba là, xây dựng cơ chế khuyến nông, khuyến ngư theo hướng khuyến khích cán bô và người lao động tham gia vào các điểm trình diễn kỹ thuật hay công nghệ mới.Có chính sách thỏa đáng đối với những công trình nghiên cứu khoa học có hiệu quả kinh tế cao, có tính ứng dụng rộng rãi.Cho phép tập thể hay cá nhân có quyền định giá những thành tựu, những sản phẩm có bản quyền tác giả trên thị trường khoa học công nghệ.Đối với những công trình nghiên cứu bằng vốn ngân sách, nếu có giá trị cao, Nhà nước sẽ chỉ thu phần kinh phí đầu tư cho công trình đó mà không tính lãi. Bốn là, cần hỗ trợ việc xây dựng cơ chế chính sách thúc đẩy các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và người sản xuất chủ động hợp tác có hiệu quả, gắn nghiên cứu với ứng dụng, gắn nhà khoa học với nhà nông.Khuyến khích mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế trong các lĩnh vực khoa học công nghệ để tranh thủ những tiến bộ kỹ thuật mới và hiện đại của các nhà nước và các tổ chức trên thế giới. Năm là, cần có cơ chế chính sách và giải pháp khuyến khích các nhà khoa học, giáo viên của các trường đại học tích cực nghiên cứu các đề tài khoa học hướng tới những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ cho sản xuất, chế biến, tổ chức sản xuất kinh doanh…đối với những mặt hàng nông sản hàng hoá xuất khẩu. Sáu là, có chính sách và giải pháp thúc đẩy các chương trình canh tác, chế biến nông sản với công nghệ cao, công nghệ sạch. 3.4. Giải pháp về nguồn nhân lực. Phải coi chính sách và giải pháp đối với nguồn nhân lực là một nội dung cơ bản trong nâng cao giá trị thương hiệu hàng nông sản bởi vì khi nhân lực được khai thác đầy đủ, hợp lý, khi chất lượng nguồn nhân lực cao hơn, sẽ nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được cải thiện nhờ đó mà thương hiệu được khẳng định.Các chính sách và giải pháp đối với nguồn nhân lực phải hướng vào những vấn đề cơ bản sau: -Khuyến khích tập trung nguồn nhân lực có trình độ thích hợp để xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh cao, các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. -Khuyến khích các hoạt động đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trính độ năng lực, kỹ năng, tay nghề, tri thức, kinh nghiệm cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nhân viên và người lao động trong các ngành hàng nông sản. -Cần có cơ chế chính sách và giải pháp để nâng cao năng lực tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới cho nông dân và công nhân nông nghiệp qua các chương trình học tập, huấn luyện thiết thực, qua các chương trình thông tin, phổ biến kiến thức khoa học công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng. -Có cơ chế thu hút những cán bộ và người lao động có trính độ, tay nghề cao tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành hàng.Cần ưu tiên bố trí những người quản lý và lao động có trình độ tốt nhất vào hoạt động đối với những mặt hàng nông sản có giá trị gia tăng cao. 3.5. Giải pháp về phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh hàng nông sản. Các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hoá nông sản đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của từng ngành hàng và nâng cao giá trị thương hiệu của hàng hoá.Cần hướng vào những nội dung cơ bản sau: -Đổi mới hoạt động, nâng cao vai trò, chức năng của các Hiệp Hội ngành hàng trong cung cấp thông tin thị trường, tìm cơ chế can thiệp khi có biến động về giá và thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi của người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu, cũng như duy trì chiến lược lâu dài cho sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. -Cần nghiên cứu và có chính sách, giải pháp nhằm đổi mới, sắp xếp lại các nông trường quốc doanh hiện đang sản xuất kinh doanh các mặt hàng nông sản theo tinh thần nghị định số 170/2004/NĐ-CP của chính phủ ngày 22 tháng 9 năm 2004. -Sớm ban hành nghị định về các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã. -Hoàn thiện và bổ sung các chính sách và giải pháp đối với kinh tế trang trại . KẾT LUẬN Đề án được thực hiện nhằm giải quyết 3 nhiệm vụ chủ yếu: +Nêu những cơ sở lý luận chung về thương hiệu và các yếu tố quyết định sự thành công của thương hiệu nông sản Việt Nam. +Phân tích thực trạng chế biến, sản xuất, xuất khẩu và xây dựng một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam. +Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm xây dựng thương hiệu hàng nông sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO -GS.TS Trần Minh Đạo, Marketing căn bản.Nhà xuất bản Đại Học Kinh Tế Quốc Dân 2006. -GS.TS KH Lương Xuân Qùy và GS.TS KH Lê Đình Thắng, Giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam-Thực trạng và giải pháp.Nhà xuất bản Đại Học Kinh Tế Quốc Dân 2006. - PGS.TS Nguyễn Văn Bích, Nông nghiệp-Nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi mới. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2007. -Biên dịch Thuỳ Dương, Ngọc Phương, Thu Oanh, Nguồn gốc nhãn hiệu. Nhà xuất bản Tri thức 2006. - Các trang Web: +www.google.com.vn +www.dân trí.com.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThương hiệu hàng nông sản Việt Nam_Thực trạng và giải pháp.DOC
Luận văn liên quan