Đề tài Tiềm năng du lịch của Bảo tàng dân tộc học Việt Nam

Lời nói đầu Văn hoá là một thực thể sống động, có sự vận động cả trong không gian và thời gian. Nhìn theo chiều thời gian, văn hoá Việt Nam là một diễn trình lịch sử nó có những quy luật phát triển của nó. Nhìn trong không gian văn hoá Việt Nam có sự vận động qua các vùng – xứ – miền khác nhau. Trải dài từ Bắc vào Nam với dáng hình lưỡi gươm mở, nước Việt Nam bao gồm nhiều vùng sinh thái, văn hoá khác nhau. Trên đó là sự cộng cư cuả 54 tộc người cùng chung sống hoà hợp, đoàn kết và thân ái, điều đó khẳng định Việt Nam là quốc gia thống nhất trong đa dạng văn hoá. Điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử của các vùng đã tạo nên những nét tương đồng, có những nét dị biệt, do vậy chu trình vận động của văn hoá nước ta cũng được cảm nhận dưới hai chiều cảm quan và nhãn quan luôn chịu sự tác động của những điều kiện kể trên. Chúng ta đang sống trong bối cảnh mà mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và trở thành xu thế chung của nhân loại. Trong bối cảnh ấy du lịch đã và đang trở thành nhịp cầu nối liền khoảng cách vùng miền và giữa các quốc gia, dân tộc, mối quan hệ, giao lưu và hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng, các cá nhân trong đời sống văn hoá, xã hội. Mặt khác, hoạt động kinh tế du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng trên thực tế, du lịch văn hoá ở Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đầu tư tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo tàng. Khách du lịch chưa quan tâm, thậm chí còn thờ ơ đối với loại hình này. Vậy tại sao bảo tàng không có sức hấp dẫn lớn đối với du khách? Những vấn đề gì còn bất cập trong hoạt động của bảo tàng? làm thế nào để thu hút khách du lịch đến với bảo tàng, để bảo tàng trở thành địa chỉ du lịch văn hoá hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Xuất phát từ thực tế trên, bước đầu tác giả đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu một bảo tàng cụ thể với đề tài “Tiềm năng du lịch của bảo tàng dân tộc Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp. 1. Tính cấp thiết của đề tài. Du lịch mới chỉ phát triển ở Việt Nam những năm gần đây khi Đảng và Nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới, nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhu cầu du lịch tìm hiểu về văn hóa cũng đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ hết. Mặt khác, công cuộc đổi mới cũng thu hút một lượng khách quốc tế lớn đến tìm hiểu, làm ăn, hợp tác du lịch tại Việt Nam, đồng thời họ là những người có nhu cầu rất lớn tìm hiểu về lịch sử văn hoá của dân tộc này. Bảo tàng dân tộc học Việt Nam được thành lập vào tháng 11 năm 1997 và là bảo tàng trẻ nhất trong hệ thống Bảo tàng quốc gia ở Việt Nam. Trong những năm qua bằng những hoạt động của mình,với thế mạnh riêng, Bảo tàng Dân tộc học đã dần khẳng định được vị thế và trở thành một trong những bảo tàng có sức hấp dẫn lớn đối với du khách, một trong những địa điểm du lịch mà khách không thể bỏ qua nếu như họ đến Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến. Vì vậy, việc tìm hiểu đánh giá về tiềm năng du lịch văn hoá của Bảo tàng Dân tộc học là điều nên làm và là đề tài hấp dẫn, có ý nghĩa đối với sinh viên ngành du lịch. 2. Phương pháp nghiên cứu và mục đích của đề tài. Để thực hiện và hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã có một thời gian thực tập ở bảo tàng dân tộc học và Bảo tàng lịch sử để có thể tìm hiểu và tiếp cận các đối tượng của đề tài, kết hợp với việc sưu tầm tài liệu và tiếp cận các đối tượng của đề tài, tác giả cũng thực hiện các chuyến điền giã nhằm điều tra thăm dò ý kiến của khách tham quan về bảo tàng dân tộc học. Trên cơ sở đó, bước đầu tác giả cố gắng tìm hiểu nguyên nhân về sức hấp dẫn và những tồn tại của Bảo tàng Dân tộc học đối với khách du lịch và đưa ra một số ý kiến nhằm phát triển hoạt động du lịch ở đây. 3. Tình hình nghiên cứu và phạm vi của đề tài. Mặc dù là một bảo tàng mới thành lập nhưng có rất nhiều tài liệu khác nhau, các công trình nghiên cứu về bảo tàng. Song để tiếp cận với bảo tàng dân tộc học dưới hình thái của hoạt động du lịch thông qua hệ quy chiếu của văn hoá du lịch thì còn rất ít và chưa đồng bộ. Vì vậy trong đề tài này, trên cơ sở kế thừa kế thừa tổng hợp và sử dụng những nguồn tư liệu khác nhau kết hợp với một khoảng thời gian ngắn đi thực tập điền dã, tác giả mong muốn tiếp cận với bảo tàng Dân tộc học với tư cách là một sinh viên khoa du lịch để từ đó chỉ ra tiềm năng du lịch to lớn của bảo tàng cũng như những điều còn hạn chế bất cập cho sự phát triển du lịch văn hoá của bảo tàng này. Đồng thời đưa ra những nhận xét cảm quan của mình nhằm góp phần thúc đẩy sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước đối với bảo tàng cũng như góp phần nhỏ bé của mình đưa bảo tàng trở thành một địa chỉ du lịch văn hoá không thể nào quên đối với mỗi du khách, xứng đáng là điểm đến trong thiên niên kỷ mới của Hà Nội- Việt Nam trong tương lai.

doc70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5517 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiềm năng du lịch của Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trước mắt và lâu dài của bảo tàng dân tộc học. Một trong những hoạt động mang tính đổi mới thành công và có ảnh hưởng xã hội rộng lớn - dựa trên kết quả của việc xây dựng và mở rộng mối quan hệ giữa Bảo tàng Dân tộc học với các cộng đồng là hoạt động trình diễn nằm trong chương trình: “ Truyền thống dân gian của chúng ta”. Tháng 12 năm 2007 trưng bày: “ Chúng tôi ăn rừng G.Condominas ở làng Sar Luk”. Liên hoan rối nước với sự tham gia của nhiều phường rối địa phương như: Nghĩa Hưng – Nam Định, Hồng Phong – Hải Phòng, Minh Tâm – Hải Phòng. Tháng 1 năm 2008 triển lãm ảnh Việt Nam 80 – 00; Thuyết trình: từ dân tộc học đến bảo tàng học. Tháng 2 năm 2008 triển lãm ảnh của dân làng Lai Xá; hoạt động vui xuân Mậu Tý. Tháng 3 năm 2008 thuyết trình: Sử thi, con người và văn hoá Tây Nguyên. Ngoài ra bảo tàng cũng thực hiện một số trưng bày chuyên đề khác: Chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, sống trong bí tích – văn hoá công giáo đương đại Việt Nam... trong thời gian tới bảo tàng tiếp tục thực hiện chương trình, dự án: Chương trình cơ sở dữ liệu hiện vật và ảnh; dự án FSP (phát huy di sản bảo tàng Việt Nam), khoá mùa hè nghiên cứu và thực hành bảo tàng, nghiên cứu - sưu tầm về những tác động của đường 9; tham gia dự án tập huấn về phương pháp, kỹ năng và kỹ thuật làm phim cộng đồng... Tổ chức và xây dựng các hoạt động này cũng chính là cơ hội giúp người dân hiểu biết và trân trọng những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc. trình diễn giúp thế hệ trẻ hôm nay luôn thấy được sức sống văn hoá lâu bền và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, rung cảm trước những giá trị văn hoá hiện hữu ở những miền quê như một dòng chảy truyền thống không ngừng. Riêng đối với người nước ngoài thì trình diễn là cuộc hành trình ngắn nhất, có sức thu hút lớn nhất để họ hiểu biết văn hoá Việt Nam. Có thể nói, thành công lớn nhất qua trình diễn mang lại cho công chúng: Trình diễn luôn trở thành một nhu cầu, một sự quan tâm thường xuyên của người xem vì mỗi lần bảo tàng dân tộc học tổ chức với họ như một lần nhận thức, khám phá và phát hiện những điều mới lạ và mỗi lần đưa người xem trở về với lịch sử cội nguồn. Với việc tổ chức nghiên cứu và khai thác di sản văn hoá vật thể và phi vật thể còn tiềm ẩn và giàu tiềm năng tại làng quê trong các cộng đồng của các chủ thể văn hoá, phục vụ cho các hoạt động trình diễn là một quan điểm mới quan trọng của bảo tàng dân tộc học Việt Nam để bảo tàng luôn gắn liền và phản ánh cuộc sống đời thường mang đậm khuynh hướng dân dã. Nhờ đó mà nhịp sống của bảo tàng trở lên đa dạng, phong phú và hấp dẫn đối với công chúng. Bằng việc mời những người dân – những chủ thể văn hoá giữ vai trò quyết định trong hoạt động trình diễn, trực tiếp nói lên tiếng nói của mình, khắc phục tâm lý mặc cảm tự ti dân tộc, giao lưu với công chúng như một hoạt động quảng bá văn hoá sâu rộng, sẽ là những cơ hội giúp người dân nâng cao ý thức tự hào, sự bình đẳng văn hoá, bảo tồn và phát triển nhưng không làm mất bản sắc của mình. Đặc biệt với những sản phẩm thủ công truyền thống- một tiềm năng kinh tế to lớn của làng xã, qua trình diễn sẽ là dịp để người dân kích thích sự phục hồi sản xuất, vượt qua tình trạng tự cung, tự cấp, phát triển truyền thống cho thích ứng với cơ chế hàng hoá thị trường, tạo thêm việc làm nhằm tăng thêm thu nhập về kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí ở các khu vực nông thôn và miền Núi.” Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa tái sản xuất xã hội và tái sản xuất văn hoá. Qua đó góp phần khẳng định truyền thống là nguồn lợi vật chất có thể khai thác và sử dụng một cách tích cực có hiệu quả trong đời sống hiện tại”. (Nguyễn Văn Huy). Không những qua hoạt động trình diễn, con người - chủ thể còn tham gia vào hoạt động của bảo tàng dưới rất nhiều hình thức và sản phẩm khác nhau: cung cấp tư liệu hiện vật, xây dựng phim dân tộc học (khoảng 150 ảnh và 15 phim video), ghi âm các truyện kể và những tri thức bản địa liên quan đến việc khai thác, sử dụng môi trường và những biến đổi, biến động có liên quan đến lịch sử xã hội, văn hoá tại địa phương... Mục tiêu của bảo tàng là hướng tới khách tham quan, muốn thực hiện được mục tiêu đó thì không thể không tiến hành các hoạt động giới thiệu, quảng bá. Cuộc triển lãm ảnh của dân làng Lai Xá: “Người Lai Xá tự kể chuyện làng mình” đã giới thiệu các bức ảnh do chính những người dân làng chụp về cuộc sống đương đại ở một làng quê ven đô đang trong quá trình đô thị hoá - làng Lai Xá (Kim chung - Hoài Đức - Hà Tây). Có 7 người dân làng Lai Xá tham gia chính, họ đã chụp 80 cuộn phim, gần 2500 bức ảnh, chọn giới thiệu hơn 130 ảnh, cùng với những câu chuyện của người dân kể về làng mình, về những thuận lợi, khó khăn và thách thức đối với họ trong việc thích ứng với cuộc sống hiện tại. Bằng phương pháp photovoice, Bảo tàng mong muốn những người dân làng hiểu hơn về vai trò của họ trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong cuộc sống sôi động của ngày hôm nay. Triển lãm giúp cho thế hệ trẻ luôn thấy sức sống văn hoá lâu bền và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, biết rung cảm trước những giá trị văn hoá hiện hữu vẫn lặng lẽ trong những miền quê như một dòng chảy truyền thống nối tiếp không ngừng và hiểu thêm mỗi dân tộc có những cách khác nhau để sáng tạo và bảo lưu nền văn hoá riêng của họ. Các buổi trình diễn dù diễn ra ở trong nhà hay khu vực ngoài trời, dù trời nắng hay mưa, dù ban ngày hay tối... số lượng người xem luôn đông đảo và có chung một cảm nhận, một mong muốn: Bảo tàng Dân tộc học nên tiếp tục tổ chức thường xuyên các chương trình này – rất bổ ích và ấn tượng. Thời gian trình diễn nên kéo dài hơn, các dịch vụ phục vụ người xem tại bảo tàng cần được quan tâm hơn để người xem có thể dừng lại ở đây nhiều hơn, lâu hơn nữa. Không chỉ xuất phát ở ý tưởng mà còn xuất phát ở những quan điểm mang tính nguyên tắc: Triệt để khai thác di sản văn hoá dân gian từ làng xã, từ các cộng đồng của các chủ thể văn hoá và do chính chủ thể tự giới thiệu, tôn trọng các giá trị truyền thống, ít bị pha tạp và không bị chuyên nghiệp hoá. Chính hiệu quả của nguyên tắc này đã tạo nên sự hấp dẫn riêng cho trình diễn tại bảo tàng và từ đó tạo nên sự hấp dẫn riêng cho hoạt động này. Khai thác, nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta là tiềm năng to lớn, lâu dài cho các hoạt động trình diễn tại bảo tàng dân tộc học. Từ những chương trình trình diễn thường xuyên và chất lượng hơn cho nhiều đối tượng công chúng, bảo tàng dân tộc học cần phải tiếp tục đầu tư, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các địa phương, các cộng đồng, để bảo tàng thật sự trở thành ngôi nhà chung của các dân tộc. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã không ngừng duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác lâu dài với UNESCO PARIS tại Việt Nam, uỷ ban UNESCO tại Việt Nam, hội văn nghệ dân gian Việt Nam, sở văn hoá thông tin các địa phương, câu lạc bộ thông tin các dòng họ, tổ chức CRAFT – LINK..., cục di sản văn hoá, sở giáo dục, UBND thành phố Hà Nội để tổ chức các chương trình trình diễn tại bảo tàng trong thời gian qua và xây dựng kế hoạch phát triển lâu dài cho các hoạt động tiếp theo. Từ kết quả các hoạt động trình diễn đã khẳng định lợi thế và thế mạnh của loại hình Bảo tàng Dân tộc học là luôn gắn liền với đời sống các cộng đồng, đến tận các đơn vị, thôn, bản – nơi khởi nguồn và bảo lưu các truyền thống văn hoá. Với không gian nhiều chiều và rộng rãi của bảo tàng hiện tại và trong tương lai sẽ thật sự là một “Sân khấu lớn” cho việc tổ chức các hoạt động trình diễn về văn hoá các tộc người ở Việt Nam, của các nước ASEAN, và có thể cùng một lúc có nhiều chương trình phục vụ khách tham quan. Đây là sự kết hợp đảm bảo lợi ích cho cả hai bên: bảo tàng và du khách. Nhờ đó đã giúp bảo tàng phát huy được các thế mạnh của mình trong đời sống xã hội và tiếp thu được kinh nghiệm của các bảo tàng trên thế giới. 2.6. TRƯNG BÀY VỀ ASEAN. Không chỉ dừng lại ở những thành công ban đầu mà trong thời gian gần nhất bảo tàng dân tộc học Việt Nam sẽ khánh thành đưa vào sử dụng phần trưng bày các nền văn hoá Đông Nam á với nội dung trưng bày: phần giới thiệu chung và 5 phần theo chủ đề: đồ vải, cuộc sống thường ngày, đời sống xã hội, nghệ thuật trình diễn, tín ngưỡng tôn giáo. Dựa trên nền tảng văn hoá hình thành từ cổ đại, thể hiện rõ sự đa dạng văn hoá ở vùng này mà hiếm thấy ở nơi khác trên thế giới. Hơn nữa, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã buộc các quốc gia phải xích lại gần nhau hợp tác cùng phát triển. Để nắm bắt kịp thời, nhân dân ta cần hiểu hơn về những người láng giềng của mình khi đang nhanh chóng thực hiện sự hợp tác toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, với các nước Đông Nam á. Những cuộc trưng bày của Bảo tàng Dân tộc học về văn hoá, cuộc sống của nhân dân các nước Đông Nam á sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí giúp hiểu biết hơn về những người láng giềng và đối tác của mình. Những yếu tố trên đã khẳng định tính tất yếu của sự phát triển du lịch văn hoá ở Việt Nam, là tiền đề cho sự phong phú và hấp dẫn khách du lịch. 2.7 HỢP TÁC QUỐC TẾ. Trong công tác của mình, Bảo tàng Dân tộc học rất chú trọng tới hoạt động quốc tế. Bảo tàng đã nhận được sự giúp đỡ tích cực và có hiệu quả của các chuyên gia từ bảo tàng con người Pháp, trên cơ sở hiệp định hợp tác khoa học và kỹ thuật song phương giữa hai nước. Phía Pháp đã tư vấn những quan niệm mới về bảo tàng, giúp đỡ và thiết kế nội thất, về tổ chức trưng bày, đồng thời đã cung cấp nhiều trang thiết bị hiện đại cho bảo tàng. Các chuyên gia Pháp mà tiêu biểu là bà Christine Hemmet – nhà dân tộc học và bà Véronique Dollfus – kiến trúc sư đã làm việc không biết mệt mỏi cùng các đồng nghiệp Việt Nam hơn 10 năm nay và họ đã cống hiến cho sự ra đời của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Nhờ đó đã đẩy mạnh việc giới thiệu truyền thống văn hoá của nước ta ra nước ngoài, góp phần tăng cường hiểu biết về con người và đất nước Việt Nam trên thế giới. Bên cạnh đó bảo tàng cũng thiết lập được mối quan hệ hợp tác hiệu quả, chặt chẽ với những nhà khoa học, các viện, bảo tàng, và trường đại học của nhiều nước. Đặc biệt là Bảo tàng Dân tộc học quốc gia OSAKA (Nhật Bản), Bảo tàng nhiệt đới (Hà Lan), Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, đại học Indian và viện SmitSonien (Mỹ) và các tổ chức quốc tế: ACCT, quỹ FORD, quỹ giao lưu văn hoá Nhật Bản, quỹ TOYOTA, hội đồng văn hoá Châu á (Mỹ)... Bảo tàng cũng phối hợp với các chuyên gia tham gia đào tạo về chuyên môn: bảo quản, trưng bày, giáo dục, làm phim dân tộc học, trình diễn cho các cán bộ của bảo tàng, hay cùng nghiên cứu về các dân tộc phía Bắc (Mông, Dao), âm nhạc dân tộc (Thái, KhơMú)... Bảo tàng Dân tộc học cũng là bảo tàng đi tiên phong trong việc giới thiệu văn hoá Việt Nam ra nước ngoài. Chính sự hợp tác chặt chẽ này đã tạo cho Bảo tàng Dân tộc học một vị thế xứng đáng trong hệ thống bảo tàng và có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch, là thế mạnh ưu việt trong quá trình hội nhập của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. CHƯƠNG III: KHẢO SÁT VỀ HÌNH ẢNH CỦA BẢO TÀNG TRONG CON MẮT KHÁCH DU LỊCH. 3.1. KHẢO SÁT ĐỐI VỚI KHÁCH DU LỊCH NỘI ĐỊA. Đất nước ta đang bước vào công cộc đổi mới toàn diện và sâu sắc nhằm tới mục đích cuối cùng là xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa- dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta đã thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, áp dụng cơ chế thị trường trong nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, mới hơn 10 năm đổi mới đã đem lại diện mạo cho đất nước: đời sống kinh tế được nâng lên, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, đời sống văn hoá tinh thần trở lên phong phú đa dạng. Hơn lúc nào hết, nhu cầu du lịch trong đó có du lịch văn hoá ngày càng trở nên phổ biến. Với mục tiêu chính đó là giới thiệu nền văn hoá thống nhất, đa dạng,giàu bản sắc của 54 dân tộc ở Việt Nam cho khách tham quan trong và ngoài nước. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã thu hút được đông đảo khách tham quan và tạo được thế mạnh trong hoạt động du lịch bảo tàng. Việt Nam có thị trường khách du lịch nội địa rộng lớn với dân số hơn 84 triệu dân, số người sống tập trung trong các thành phố, đô thị ngày càng gia tăng dưới tác động của tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hai điều kiện trên là tiền đề cơ bản giúp cho ngành du lịch nói chung, du lịch văn hoá (trong đó có bảo tàng) nói riêng phát triển, đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức, hưởng thụ của khách du lịch. Trong những năm qua lượng khách đến bảo tàng đặc biệt là Bảo tàng Dân tộc học ngày một gia tăng. Theo báo cáo tổng kết của Tổng cục du lịch, trong năm 2007 lượng khách du lịch nội địa là 19,2 triệu lượt người, tăng 9,7so với năm 2006. Theo số liệu thống kê của Bảo tàng Dân tộc học khách du lịch đến với bảo tàng là 1.134.858 lượt khách. Trong đó, 634,976 lượt khách Việt Nam. Như chúng ta đã biết, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một bảo tàng non trẻ, mới đi vào hoạt động từ năm 1997 nhưng đã thu hút được một lượng khách nội địa tương đối lớn. Điều đó cho ta thấy bảo tàng đã rất nỗ lực trong việc đa dạng hoá các hoạt động của mình để thu hút khách. Một số Kết quả khảo sát. Trong quá trình tìm hiểu tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, qua thăm dò ý kiến của khách tham quan, qua đó đánh giá được sức hấp dẫn của bảo tàng đối vơi du khách. Kết quả như sau: * Với câu hỏi: Tại sao bạn đến thăm Bảo tàng dân tộc học? Có kết quả như sau: Để giải trí, thư giãn: 23,5% Để tìm hiểu thêm: 61,5% Tìm kiếm thông tin cho công việc: 20,95% Vì Tò Mò: 5,41% Lý do khác: 15,54% * Do đâu bạn biết được Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam? Qua các tờ giới thiệu, áp phích quảng cáo của bảo tàng: 5,2% Qua mạng Internet: 31,3% Qua tivi, radio: 16,79% Qua báo chí: 17,7% Qua bạn bè: 43,12% Qua các hãng du lịch: 10% - Qua các trung gian khác * Bạn đến thăm bảo tàng lần này là lần thư mấy? Lần 1: 60,2% Lần 2:23,75 Lần 3: 4,7% Lần 4: 0% * Sau khi thăm bảo tàng, bạn có hài lòng? Rất hài lòng: 65,1% Hài lòng phần nào: 32,29% Bình thường: 40,5% * Bạn đánh giá nội dung bảo tàng trên các mặt sau. Tiêu chí rất tốt khá tốt tạm được chưa tốt kém Cách sắp xếp các hiện vật 40,35% 32,5% 15,62% 3,5% 0% Bản thân hiện vật được trưng bày 25,4% 30,25% 20,83% 2,5% 0% Tổng thể phòng trưng bày của bảo tàng 27,18% 35,40% 13,7% 4% 0% Các phụ đề chú thích và chú giải 30% 21,95% 24,87% 13% 0% Nội dung các băng video 17,9% 20% 35,17% 5,1% 0% Các mô hình mô tả các phong tục hay quá trình lao động 31,25% 39,16% 15,07% 2,6% 1% * Nếu bạn được nhân viên bảo tàng hướng dẫn tham quan, bạn nhận xét gì về hướng dẫn viên đó? Tiêu chí Tốt Bình thường Kém Trình độ hiểu biết 15,75% 16,4% 1,05% Khả năng diễn đạt 20,45% 19% 0% Nghiệp vụ 11,62% 7,29% 0% * Bạn nhận xét gì về môi trường tham quan? Tiêu chí Tốt Bình thường Kém ánh sáng 8,5% 10% 0% không khí 56,25% 31,25% 0% nhiệt độ 45,81% 35% 2,7% * So sánh với các bảo tàng trong nước, bạn xếp bảo tàng dân tộc học Việt Nam vào loại nào? Rất tốt: 40% Tốt: 37,5% Khá: 10,76% Trung bình: 2% Kém: 0% Một vài nhận xét thông qua kết quả điều tra. Kết quả khảo sát cho thấy.Từ khi khánh thành mở cửa phục vụ khách tham quan, Bảo tàng Dân tộc học đã thu hút được đối tượng khách tham quan rất phong phú bao gồm hầu hết mọi tầng lớp trong xã hội. Điều đó chứng tỏ Bảo tàng có sức hấp dẫn rất lớn đối với người xem. Dù ra đời muộn, nhưng Bảo tàng Dân tộc học lại có cơ hội tiếp cận với những quan niệm mới nhất và phương tiện kỹ thuật trong lĩnh vực bảo tàng và được sự ủng hộ, hợp tác của nhiều nhà khoa học có uy tín trong nước và quốc tế, giúp bảo tàng tiếp cận được với hệ thống các bảo tàng tiên tiến trên thế giới như: bảo tàng Louve( Pháp), Osaka( Nhật). Bảo tàng đã phối hợp với bảo tàng Bỉ tổ chức trưng bày triển lãm phục dựng trang phục “Triều đình Huế”, triển lãm ảnh “Có một thời không thể nào quên” của nhà xã hội học Evalindskog người Thuỵ Điển, lịch trình diễn chương trình: “Giới trẻ, di sản và tương lai câu lạc bộ nghệ thuận sinh viên Hà Nội”... Từ các hoạt động trên đã đem lại bước đầu thành công cho bảo tàng. Để làm được điều này, chúng ta không thể phủ nhận sự nỗ lực, chủ động và sáng kiến, luôn đi tiên phong trong mọi hoạt động của PGS-TS Nguyễn Văn Huy và các cán bộ nhân viên của bảo tàng. Xác định được mục tiêu và chiến lược lâu dài, Bảo tàng dân tộc học luôn đi tiên phong trong việc tìm hiểu nắm bắt nhu cầu thị hiếu của khách tham quan thông qua các phiếu điều tra thăm dò ý kiến được tiến hành thường xuyên, qua việc nghiên cứu thị trường và hợp tác với các công ty du lịch. Trong khi rất nhiều bảo tàng khác ở Việt Nam chưa chú trọng tới công tác Marketing thì Bảo tàng Dân tộc học đã rất chú trọng trong công tác này. Có thể nói Bảo tàng Dân tộc học là một trong những bảo tàng đi tiên phong cho các hoạt động Marketing, đây cũng là một thế mạnh của bảo tàng và nó đã giúp cho bảo tàng xây dựng được hình ảnh của mình trong lòng công chúng. Và theo tác giả, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân lí giải cho sự hấp dẫn của Bảo tàng Dân tộc học đối với du khách hiện nay. Để thoả mãn nhu cầu vui chơi giải trí bảo tàng đã tăng cường chặt chẽ mối quan hệ xã hội, liên kết với các tổ chức xã hội trong và ngoài nước. Bảo tàng đã đưa những thông tin cần thiết về các chương trình hoạt động của mình tới từng đối tượng khách thông qua phương thức truyền thông và đã chọn phương thức này đồng thời tiến hành liên tục và hữu hiệu. Thông qua đó, thông tin của bảo tàng sẽ đến với bộ phận khách tham quan tiềm tàng Gần đây Bảo tàng Dân tộc học đã tổ chức trưng bày chuyên đề, chiếu phim dân tộc, đặc biệt là chuyên đề truyền thống dân gian được tiến hành thường xuyên, thường kỳ với nhiều chủ đế văn hoá lôi cuốn sự chú ý của đông đủ người xem như: “Sinh viên tìm hiểu một thời gian khó”, “Giới trẻ, di sản và tương lai”, triển lãm ảnh “Có một thời không thể nào quên” của Evalindskog, và dự kiến ngày 18/5/2008 khai trương cuộc trưng bày: “Sinh nở – hành vi, hiện vật và nghi lễ”. Nếu như trước đây bảo tàng khó khăn tiếp cận các đài truyền hình vì ít kinh phí do sự đắt đỏ của quảng cáo thì nay đó không còn là vấn đề. Những hoạt động văn hoá thuộc chương trình truyền thống dân gian của chúng ta thời sự đối với cơ quan truyền thông của cả nước là bột cho các chương trình. Văn hoá và thời sự trên sóng phát thanh truyền hình. Qua các chương trình này, thông tin của bảo tàng một cách tự nhiên đến được với đông đảo khán giả- thính giả trong cả nước trong đó có những khách sẽ đến bảo tàng. Nếu coi bảo tàng là một dạng của sản phẩm du lịch văn hoá thì chúng ta phải quảng bá, tuyên truyền, tiếp thị để đưa sản phẩm đó đến với khách du lịch, làm cho sản phẩm có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại. Hơn nữa, nếu coi bảo tàng là một dạng sản phẩm du lịch thì các cán bộ nhân viên bảo tàng phải tìm mọi biện pháp để đa dạng hoá sản phẩm làm cho sản phẩm đó không trở nên nhàm chán trong mắt mỗi du khách, để khách du lịch không chỉ đến bảo tàng một lần duy nhất, để họ không chỉ dùng sản phẩm một lần mà sản phẩm đó phải trở thành nhu cầu không thể thiếu trong mỗi chuyến du lịch. Hơn ai hết Bảo tàng Dân tộc học rất có thế mạnh trong lĩnh vực này. Điều này được thể hiện qua những cuốn sổ ghi cảm tưởng của du lịch viết về Bảo tàng Dân tộc học: “Đây là Bảo tàng hiện đại và chững trạc vào bậc nhất ở Việt Nam” (Giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng) Tuy nhiên, từ thực tế trên cho thấy lượng khách đến với Bảo tàng Dân tộc học hàng năm vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của nó. Vì thể trong tương lai tới, Bảo tàng cần có những biện pháp chủ động hơn nữa để thu hút khách: đẩy mạnh hoạt động sưu tầm hịên vật của 54 dân tộc bởi so với những bảo tàng khác thì số lượng hiện vật ở bảo tàng là quá ít mà theo thời gian hiện vật này cũng trở nên nhàm chán trong con mắt của du khách, giảm đi sức hấp dẫn của bảo tàng. Hy vọng trong một tương lai không xa, Bảo tàng Dân tộc học cùng với tiềm năng, thế mạnh của mình sẽ hấp dẫn khách du lịch nội địa, làm cho bảo tàng trở thành địa chỉ du lịch văn hoá với mỗi khách tham quan đồng thời là chiếc cầu nối để tìm hiểu khám phá sự đa dạng và phong phú của văn hoá Việt Nam. . KHẢO SÁT ĐỐI VỚI KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ. Từ khi Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc. Với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu hợp tác giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo các nhà đầu tư, nhà ngoại giao... và cả những khách du lịch thuần tuý biết và đến với Việt Nam. Năm 2007 là năm có thuận lợi hết sức cơ bản nhưng cũng có nhiều khó khăn thử thách lớn đối với họat động du lịch. Mặc dù vậy ngành du lịch vẫn đạt được những thành tựu đáng kể. Lần đầu tiên lượng khách quốc tế đến Việt Nam vượt ngưỡng 4 triệu lượt khách/năm. Chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch được nâng lên rõ rệt, tính chuyên nghiệp trong phục vụ ngày càng được nâng cao, vị thế du lịch Việt Nam được cải thiện đáng kể, ngành du lịch đã cơ bản hoàn thành được các chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Theo con số thống kê của tổng cục Du lịch, năm 2007 khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 4,2 triệu lượt tăng 17,2% so với năm 2006. Các thị truờng quốc tế chủ yếu là: Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào, Canada, Malaysia, Singapore... phần lớn đây là những khách du lịch có trình độ ham hiểu biết và muốn có điều kiện để mở rộng kiến thức văn hoá xã hội. Bảo tàng là nơi cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và có hiệu quả cao. Vì thế lượng khách đến với bảo tàng ngày một đông đặc biệt là Bảo tàng Dân tộc học. Với định hướng phát triển du lịch trở thành một trong những nghành kinh tế mũi nhọn nên trong những năm qua, Việt Nam đã có những hoạt động tích cực để thu hút khách du lịch quốc tế, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản lý chuyên môn đối với hoạt động du lịch. Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh quảng bá xúc tiến du lịch Việt Nam, phát triển du lịch sinh thái, văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng.... Nắm bắt tình hình tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường với phương châm củng cố các thị trưòng truyền thống tranh thủ phát triển các thị trường tiềm năng, thị trường mới. Năm 2008 nghành du lịch Việt Nam sẽ đón 25,5 triệu đến 26,2 triệu lượt khách du lịch trong đó 4,8 đến 5 triệu khách quốc tế, tăng từ 16,7% đến 19% so với năm 2007. Con số trên cho ta thấy khách quốc tế đến Việt Nam vượt qua ngưỡng 4 triệu, đánh dấu sự phát triển cuả du lịch Việt Nam là cơ sở cho mục tiêu đón 6 triệu đến 6,5 triệu khách quốc tế vào năm 2010. 3.2.2.Mộ số kết quả kháo sát. Theo nguồn tin đáng tin cậyvề kết quả điều tra thăm dò ý kiến của khách du lịch quốc tế về kết quả điều tra thăm dò ý kiến của khách du lịch quốc tế bằng bảng hỏi tiếng Anh và tiếng Pháp về Bảo tàng Dân tộc học với hơn 100 phiếu thu được. Kết quả điều tra là như sau: Với câu hỏi: Tại sao bạn đến thăm Bảo tàng dân tộc học? Có kết quả như sau: Để giải trí, thư giãn: 5,6% Để tìm hiểu thêm: 70,09% Tìm kiếm thông tin cho công việc: 2,8% Vì Tò Mò: 31,77% Lý do khác: 6,54% Do đâu bạn biết được Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam? Qua các tờ giới thiệu, áp phích quảng cáo của bảo tàng: 2,57% Qua mạng Internet: 4,2% Qua tivi, radio: 16,79% Qua báo chí: 0,54% Qua bạn bè: 25,11% Qua các hãng du lịch: 30,7% - Qua các trung gian khác: 50,4% Bạn đến thăm bảo tàng lần này là lần thứ mấy? Lần 1: 57,2% Lần 2: 25,91% Lần 3: 0% Lần 4: 0% Sau khi thăm bảo tàng, bạn có hài lòng? Rất hài lòng: 54,2% Hài lòng phần nào: 28,97% Bình thường: 44,67% Bạn đánh giá nội dung bảo tàng trên các mặt sau. Tiêu chí rất tốt khá tốt tạm được chưa tốt kém cách sắp xếp các hiện vật 54% 32,95% 5,13% 1,7% 0% bản thân hiện vật dược trưng bày 51,41% 32,54% 8,96% 0,94% 0% tổng thể phòng trưng bày của bảo tàng 40,64% 41,9% 8,96% 3,5% 0% các phụ đè chú thích và chú giải 50% 27,93% 25,64% 5,6% 0% nội dung các băng video 29,71% 28,3% 27,16% 8,96% 0% các mô hình mô tả các phong tục hay quá trình lao động 61,22% 53% 10,37% 2,38% 0% Nếu bạn được nhân viên bảo tàng hướng dẫn tham quan, bạn nhận xét gì về hướng dẫn viên đó? tiêu chí tốt bình thường kém trình độ hiểu biết 7,32% 11,2% 1,8% khả năng diễn đạt 5,01% 9,07% 0,47% nghiệp vụ 14,37% 15,8% 0,47% Bạn nhận xét gì về môi trường tham quan? tiêu chí tốt bìmh thường kém ánh sáng 65,42% 30,84% 3,73% không khí 66,35% 23,11% 2,8% nhiệt độ 76,88% 5,6% 1,86% So sánh với các bảo tàng trong nước, bạn xếp Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vào loại nào? Rất tốt: 50,75% tốt: 35,63% Khá: 17,54% -Trung bình: 1,7% kém: 0% 3.2.2. MỘT VÀI NHẬN XÉT THÔNG QUA KẾT QUẢ ĐIỀU TRA. Tính đến ngày 23/09/2007 Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón được 1.134.858 lượt khách, trong đó 489.882 lượt khách quốc tế đến từ hơn 40 nước và vùng lãnh thổ. Năm 1998 bảo tàng mới chỉ có hơn 37.000 khách, năm 2002 đạt được 97.500 người, năm 2006 trên 190.000 người và năm 2007 tuy mới tính đến ngày 23/9 nhưng số lượt khách đã đạt hơn 240.000 lượt người. Từ con số trên cho ta thấy, tuy là một bảo tàng mới thành lập nhưng lượng khách quốc tế đến với bảo tàng là tương đối cao và tăng lên hàng năm. Điều này cho ta thấy sức hút của bảo tàng đối với du khách. * Vậy Bảo tàng Dân tộc học đã làm gì để thu hút khách du lịch quốc tế? Bảo tàng Dân tộc học là bảo tàng đầu tiên thực hiện thành công hoạt động Marketing bảo tàng để thu hút khách du lịch quốc tế, quảng bá rộng rãi hình ảnh của bảo tàng tới khách du lịch. Đặc biệt với sự nỗ lực rất lớn của cán bộ công nhân viên bảo tàng đã mang lại cho bảo tàng một bộ mặt độc đáo mà không một bảo tàng nào có được. Điều này được thể hiện qua nội dung trưng bày ở hai khu vực trong nhà và ngoài trời. Đối với khách du lịch nước ngoài những hiện vật trưng bày trong bảo tàng có sức thu hút rất lớn bởi qua đó họ tìm thấy được bản sắc văn hoá của các dân tộc Việt mà không một dân tộc nào trên thế giới có được. Chủ tịch quỹ Rockerpheller- Mỹ nhận xét: “Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một trong những bảo tàng ấn tượng nhất ở Đông Nam Á”. Bảo tàng Dân tộc học là một bảo tàng luôn đi tiên phong trong vấn đề đổi mới nghệ thuật trưng bày và chuyên đề nhằm thu hút khách. Hoạt động múa rối nước là nghệ thuật đặc sắc nhất của Hà Nội mà du khách nào cũng cố gắng đến xem khi đến Hà Nội, nó được các nghệ nhân trình diễn tại chính Bảo tàng Dân tộc học, trình diễn về hát chèo Tàu, nghề thủ công... Bảo tàng luôn có liên kết chặt chẽ, thường xuyên với các công ty du lịch trong và ngoài nước ở Việt Nam và ở nước ngoài có quan hệ với Việt Nam. Ngoài ra còn gửi các bài giới thiệu về bảo tàng qua nhiều sách hướng dẫn du lịch thuộc các nhà xuất bản khác nhau: Anh, Pháp, Úc, Hoa Kỳ, Nhật Bản.... thực tế, những thông tin này đã được nhiều nhà xuất bản đưa vào sách hướng dẫn của mình và chúng đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa Bảo tàng Dân tộc học là một điểm đến của nhiều Tour du lịch quốc tế. Việc thu hút khách du lịch đến với bảo tàng là một hoạt động mang ý nghĩa sống còn nên mỗi cán bộ công nhân viên Bảo tàng Dân tộc học rất coi trọng chất lượng phục vụ khách du lịch để có thể đáp ứng được nhu cầu của họ. Điều này được thể hiện rõ nét nhất qua chất lượng phục vụ của đội ngũ hướng dẫn tham quan tại bảo tàng. Bên cạnh đội ngũ hướng dẫn viên cho khách du lịch nội địa, bảo tàng còn có thể đáp ứng nhu cầu tìm hiểu tham quan thưởng thức của khách du lịch quốc tế thông qua việc hướng dẫn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên, bảo tàng Dân tộc học không chỉ dừng lại ở những thành công ban đầu như đã kể trên mà trong tương lai bảo tàng sẽ cố gắng hơn nữa trong việc phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình để cùng với nghành du lịch trong đó có du lịch văn hoá góp phần đưa Việt Nam trở thành :” Điểm đến thiên niên kỷ mới”. NHẬN XÉT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH Ở BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC. Điểm mạnh. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là bảo tàng ra đời muộn hơn so với các bảo tàng khác nên có cơ hội tiếp cận với những quan niệm mới nhất và những phương tiện hiên đại trong lĩnh vực bảo tàng. Vì ra đời sau nên bảo tàng có thể học hỏi, tận dụng kinh nghiệm của các bảo tàng đi trước, đồng thời đây cũng là một loại hình bảo tàng có sức hấp dẫn nhất đối với du khách hiện nay. Bảo tàng rất chú trọng đến việc đa dạng hoá hoạt động và nâng cao chất lưọng của mình, tích cực tổ chức các hoạt động trưng bày theo chủ đề, hoạt động bảo tồn và trình diễn về hoạt động văn hoá các dân tộc. Bên cạnh trưng bày trong nhà và ngoài trời, bảo tàng còn tổ chức thường xuyên các hoạt động chuyên đề, trình diễn phòng khám phá tạo nên sức hút mới đối với du khách, làm cho hình ảnh của bảo tàng không trở nên nhàm chán trong con mắt của họ. Hiện vật trưng bày của bảo tàng rất phong phú và gần gũi với cuộc sống. Các hiện vật của bảo tàng không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền mà chủ yếu bao gồm những thứ rất bình dị trong cuộc sống hàng ngày giúp cho du khách dễ tiếp cận và có thể cảm nhận được cái hay cái đẹp của nét văn hoá mang vẻ đẹp truyền thống mà bình dị trong đời thường. Khác với các bảo tàng khác, ngay từ ngày đầu thành lập, mục tiêu thu hút khách du lịch đến với bảo tàng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Vì thế, hoạt động này như một chiếc cầu nối giữa khách du lịch với bảo tàng. Bảo tàng Dân tộc học có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tấn, báo chí, các công ty du lịch, khách sạn, nhà hàng nên thông tin về hoạt động của bảo tàng thường xuyên đến với du khách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên bảo tàng cũng được coi như một thế mạnh bởi hầu hết họ đều có trình độ đại học trở lên. Đặc biệt đội ngũ hướng dẫn viên của bảo tàng có thể hướng dẫn cho khách du lịch quốc tế bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Đây là điều mà không phải bảo tàng trung ương nào cũng có thể thực hiện được. Điểm yếu. So với các bảo tàng trung ương khác, vị trí địa lý của Bảo tàng Dân tộc học có nhiều điểm bất lợi. Bảo tàng nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên- quận Cầu Giấy cách trung tâm thành phố 8km, có nhiều tuyến đường dẫn đến bảo tàng còn hay xảy ra tình trạng ách tắc giao thông. Vì vậy, để thực hiện được một chuyến tham quan bảo tàng du khách phải mất rất nhiều thời gian, gây khó khăn trong việc thiết lập tour của các công ty du lịch. Bảo tàng Dân tộc học ra đời muộn hơn so với bảo tàng khác nên bảo tàng luôn phải cạnh tranh với các bảo tàng trung ương khác để thu hút khách và đặt nền móng cho sự phát triển trong tương lai, vì thế đòi hỏi bảo tàng phải đổi mới các hoạt động của mình để có thể thu hút khách đến với bảo tàng nhiều hơn. Các dịch vụ phục vụ khách tham quan ở bảo tàng thực sự chưa đáp ứng được nhu cầu của khách : + Khu trưng bày ngoài trời còn đơn điệu, mới chỉ giới thiệu được một số mẫu kiến trúc nhà cửa cử một ssố tộc người nhưng vẫn còn là quá ít so với con số 54 tộc người trên dải đất Việt Nam. Đặc biệt là chưa tái tạo được không gian sống của các tộc người này, hay nói khác đi chưa làm sống dậy cái hồn của kiến trúc. + Mặc dù với đội ngũ nhân viên khá đông, nhưng hình như không thấy có hướng dẫn thuyết minh ở khu vực này, hoặc thay vào đó là những băng hình thuyết minh về cuộc sống và không gian sống trong nhà của các tộc người. Vì thế nếu du khách là người không có chuyên môn, kiến thức về dân tộc học thì không thấy được cái hay, cái đẹp của văn hoá tộc người. +Mặc dù đã có một số hoạt động trưng bày chuyên đề song hiện vật trưng bày của bảo tàng chưa thể làm cho du khách thấy được quá trình hình thành, phát triển của các tộc người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. - Cần phải đầu tư và mở rộng quy mô hơn nữa nhưng không làm mất đi sự tự nhiên vốn có của bảo tàng. CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT KHÁCH DU LỊCH ĐẾN VỚI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC 4.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC TRONG THỜI GIAN TỚI. Để hấp dẫn và thu hút khách tham quan nhiều hơn nữa trong tương lai, Bảo tàng Dân tộc học cần có những giải pháp làm phong phú hơn hệ thống trưng bày. Đặc biệt bằng những hoạt động của mình, bảo tàng góp phần quan trọng vào việc xây dựng chuẩn mực và giá trị tinh thần cho mỗi công dân: biết yêu mến tôn trọng và phát huy nền văn hoá truyền thống, những bản sắc văn hoá của dân tộc mình và của các dân tộc khác. Tổ chức nghiên cưú cơ bản, điều tra cơ bản các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của tất cả các dân tộc, các nhóm địa phương và các vùng trong vả nước. Trên cơ sở đó tổ chức các hoạt động trưng bày giới thiệu những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của tất cả các dân tộc và các nhóm địa phương ở nước ta. Xây dựng các bộ sưu tập theo từng dân tộc và chuyên đề nhằm vừa bảo vệ các di sản văn hoá dân tộc, làm giàu cho vốn hiện vật của bảo tàng, phục vụ thiết thực cho các cuộc trưng bày thường xuyên và trưng bày chuyên đề. Có chiến lược thường xuyên tổ chức trưng bày chuyên đề và lưu động. Gắn các trưng bày chuyên đề cập nhật với những vấn đề cấp bách về văn hoá, xã hội, kinh tế hay môi trường sinh thái mà cuộc sống đang đặt ra từng ngày. Lựa chọn cho mình các đối tác thích hợp, có đủ uy tín, khả năng thực hiện chương trình với chất lượng cao để phục vụ nhu cầu, mục đích đặt ra một cách hiệu quả nhất. Đầu tư và đổi mới hệ thống tư liệu về nghe nhìn hiện đại, tiên tiến phản ánh toàn diện các khía cạnh sinh hoạt và đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc, các nhóm địa phương và các khu vực trong cả nước. Tổ chức quay phim, video, ghi âm, chụp ảnh lưu trữ, dàn dựng và sản xuất phục vụ nghiên cứu và nhu cầu nhân dân. Tổ chức các cuộc nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày giới thiệu các nền văn minh và văn hoá truyền thống của các nước Đông Nam Á và khu vực. Tiến hành xây dựng và hoàn thiện hệ thống trưng bày ngoài trời là nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của bảo tàng. Nghiên cứu và tổ chức hệ thống kiểm kê, bảo quản và phục chế hiện vật văn hoá của các dân tộc ở trình độ tiên tiến hiện đại. Không ngừng đổi mới phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu dân tộc học và bảo tàng học, bảo quản và trưng bày trong bảo tàng. Sự đa dạng về văn hoá là một tài sản quý và một thế mạnh của nước ta. Trong tương lai, loại hình Bảo tàng Dân tộc học sẽ phát triển thành hệ thống ở các cấp độ khác nhau: như quốc gia, khu vực tỉnh, làng thủ công... Bảo tàng dân tộc học Việt Nam cần thực sự phấn đấu để trở thành một cơ sở đầu ngành của loại hình này với trách nhiệm hướng dẫn và đào tạo chuyên môn cho toàn hệ thống. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cần trở thành cơ sở đào tạo trên đại học để đào tạo các cán bộ khoa học chuyên ngành dân tộc học, nghiên cứu dưới các quan điểm và cách tiếp cận về Bảo tàng Dân tộc học đối với các di sản văn hoá dân tộc trên cơ sở sưu tập hiện vật gốc. Thiết lập các chương trình và công trình nghiên cứu cơ bản, trọng điểm, giới thiệu và trưng bày về nền văn hoá phong phú và đa dạng của các dân tộc Việt Nam, xây dựng các luận cứ khoa học cho chính sách của đảng và nhà nước trong công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo tàng dân tộc học Việt Nam phát triển trên quan điểm tổng thể của một cơ quan kết hợp các chức năng: nghiên cứu khoa học- bảo tàng học và đào tạo trên đại học. Trong bảo tàng phải hình thành một đội ngũ những chuyên gia giỏi về dân tộc học và bảo tàng học. Đó là cơ sở để bảo tàng có thể phát triển vững chắc với chất lượng cao. Xây dựng và hiện đại hoá hệ thống thông tin- tư liệu của bảo tàng, làm cho bảo tàng trở thành một trung tâm thông tin mạnh có chất lượng về dân tộc học và bảo tàng học các di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc. Chiến lược xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống trưng bày thường xuyên, trong khoảng thời gian cứ 10 năm một lần thực hiện đổi mới một cách cơ bản hệ thống trưng bày thường xuyên nhằm tạo ra sức sống mới cho bảo tàng, đưa ra những ý tưởng mới vào trưng bày phục vụ những mục tiêu phát triển của Đảng và Nhà Nước. Chiến lược đa dạng và nâng cao chất lượng các hoạt động trưng bày theo chủ đề mới là mục tiêu của hoạt động trưng bày theo chủ đề mới là mục tiêu của bảo tàng trong thời gian tiếp theo. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cần tập trung mọi nguồn lực để khai thác có hiệu quả thị trường khách du lịch trẻ tuổi ở trong và ngoài nước là chính, đồng thời coi trọng việc nâng cao năng lực khai thác thị trưòng khách lớn tuổi trong và ngoài nước. Lấy việc củng cố, kiện toàn và mở rộng thị trường đã có là chính. Đồng thời coi trọng việc tìm kiếm và xâm nhập vào thị trường mới. Nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng của bảo tàng trong quá trình đổi mới tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong xu thế hội nhập toàn cầu. Song song với việc xây dựng cơ sở vật chất, bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã rất quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực cả về chất và lượng. Những cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ, thạc sỹ ngày một nhiều. Nhưng ngoài trình độ chuyên môn cao, cán bộ bảo tàng cũng cần có trình độ ngoại ngữ nhất định. Công tác nghiên cứu do bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tiến hành cần dựa trên những phương hướng nghiên cứu cơ bản trong những năm tới được xác định như sau: + Những mối quan hệ đang thay đổi của con người đối với môi trường tự nhiên. + Các mối liên kết và quan hệ lẫn nhau giữa các dân tộc ở Việt Nam và các dân tộc ở các nước khác trong khu vực. + Bản sắc văn hoá, sự chuyển biến và thay đổi của văn hoá bên trong và giữa các dân tộc. + Sự tham gia của các dân tộc vào qúa trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay. + Quản lý thông tin về hiện vật, bảo quản hiện vật và phim ảnh, các loại băng hình với các chất liệu khác nhau trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm. Xuất bản catologue theo các quý, niên gián, công bố các công trình nghiên cứu, các bộ sưu tập hiện vật gốc của bảo tàng. Phấn đấu là đơn vị tiên phong, là đơn vị đầu nghành của loại hình bảo tàng dân tộc học ở nước ta. Bảo tàng dân tộc học Việt Nam phải thực hiện nhiệm vụ chiến lược, hướng dẫn có trình độ chuyên môn sâu, được đào tạo cơ bản cho toàn bộ hệ thống. 4.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC. 4.2.1. Giải pháp đẩy mạnh công tác quảng cáo, marketing Để thu hút khách trong và ngoài nước có những thông tin chính xác và đầy đủ về bảo tàng, Bảo tàng Dân tộc học sẽ tăng cường việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: Đẩy mạnh việc phổ biến những thông tin về bảo tàng thông qua mạng internet, tờ rơi. Soạn thảo trang web riêng bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt. Duy trì quảng cáo thường xuyên trên báo chí, các đài phát thanh và truyền hình, các báo và tạp chí. Làm đĩa CDRoom, các băng video dưới dạng phim tài liệu hoặc các phóng sự ngắn về hoạt động của Bảo tàng Dân tộc học nói chung hoặc nền văn hoá, cuộc sống sinh hoạt thường nhật, phong tục tập quán của từng dân tộc. Từ đó du khách có thể lưu giữ hình ảnh của bảo tàng và giới thiệu cho các khách tham quan tiềm năng. Phối hợp với Tổng cục du lịch tham gia vào các hội chợ du lịch quốc tế để quảng cáo về hình ảnh của bảo tàng tới đông đảo khách du lịch trên thế giới. Chủ động tham gia vào các Festival văn hoá trong nước và khu vực, tổ chức thưòng xuyên các hội nghị du lịch hàng năm để thông qua đó giới thiệu về hoạt động của bảo tàng đến các công ty du lịch trong nước và quốc tế. Bảo tàng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo qua nhiều phương tiện, nhất là qua Internet và đặc biệt là qua các tổ chức thanh niên sinh viên của nước sở tại mà thanh niên, sinh viên nước ta có quan hệ. Liên hệ thường xuyên với các khách sạn nhà hàng, những điểm có đông khách du lịch trong nước và quốc tế để chuyển tải những thông tin về bảo tàng đến với du khách. Cần tạo thêm nhiều ấn phẩm cho bảo tàng: sách báo, tranh ảnh... hiện nay, các ấn phẩm của bảo tàng chưa thực sự phong phú và chúng mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của khách du lịch. Cần thay đổi thường xuyên nội dung của các phiếu điều tra thăm dò ý kiến của du khách về bảo tàng. Bảo tàng nên tổ chức thường xuyên các hoạt động hỗ trợ văn hoá như tổ chức các cuộc toạ đàm, hội thảo, hội nghị khoa học về đề tài dân tộc học và văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Thông qua hoạt động này sẽ lôi cuốn được sự chú ý không những của nhiều khách, cơ quan khoa học và dân sự trong nước mà còn có nhiều khách, các tổ chức khoa học, văn hoá nước ngoài. Bằng chiến lược Marketing hỗn hợp, Bảo tàng Dân tộc học đã đạt được những hiệu quả thật đáng mừng và thực hiện được mục tiêu vươn tới công chúng. Thông qua tiếp thị sẽ giúp bảo tàng hạn chế được hiện tượng tham quan theo mùa của khách. 4.2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên nghiệp cho bảo tàng. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên phục vụ: nhân viên bán vé, nhân viên bảo vệ... có thể nói đối với khách tham quan, người bán vé là nhân viên mà khách du lịch tiếp xúc đầu tiên của bảo tàng. Vì vậy họ cần phải có khả năng giao tiếp, có trình độ ngoại ngữ và sẵn sàng chào đón khách. Phải tích cực đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có và thu hút nguồn nhân lực mới theo hướng từng bước xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao ở mọi khâu của quá trình sản xuất. Bảo tàngDân tộc học phải bổ sung thêm biên chế và thêm cả những lao động hợp đồng. Hiện nay bảo tàng có 91 cán bộ và lao động hợp đồng. So với năm 2002 đã tăng lên 40 cán bộ. Điều đó đó đã khẳng định vấn đề đào tạo đã nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, với một bảo tàng quốc gia và khối lượng công việc mà bảo tàng phải đảm nhiệm thì số lượng cán bộ vẫn còn ít và đòi hỏi phải đào tạo nhiều hơn nữa để nâng cao hiệu quả công việc. Phải đào tạo cán bộ cả về bảo tàng học và dân tộc học. Nếu có thể bảo tàng cần có một số cán bộ là người dân tộc thiểu số. Bởi chính họ là những người hiểu sâu sắc nhất về văn hoá của mình. Cần nâng cao trình độ ngoại ngữ cho hướng dẫn viên của bảo tàng như: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Trung... để đáp ứng nhu cầu của khách quốc tế. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ chủ chốt, người giới thiệu cần biết tiếng dân tộc để có thể giới thiệu tỉ mỉ, chi tiết hơn về nền văn hoá từng dân tộc. Môĩ khu trưng bày của bảo tàng nên có một thuyết minh riêng, cần cụ thể hoá chuyên môn của từng hướng dẫn viên. Nên có hướng dẫn viên chuyên thuyết minh, giới thiệu cho du khách trong nước. Hiện nay, bảo tàng đã có 15 phòng ban. Vì vậy trong thời gian tới, trước nhu cầu của việc nghiên cứu, sưu tầm hiện vật của bảo tàng còn cần thêm một số phòng mới như: Phòng Trung Quốc và phòng Nhật Bản. Chú trọng đào tạo lại cán bộ, đặc biệt là kiến thức văn hoá tộc người cho cán bộ, cho các đối tượng làm công tác bảo quản và giáo dục tuyên truyền( thuyết minh). Tăng cường việc cử người đi đào tạo sau đại học ở trong nước và nước ngoài. 4.2.3 Giải pháp xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật. Bảo tàng có khuôn viên rộng, gần hồ, gần công viên, gần làng quốc tế đang xây dựng. Đây là môi trường cảnh quan rất tốt mà nếu phá vỡ nó sẽ làm giảm đi sức hấp dẫn của bảo tàng trong con mắt của du khách. Các cửa hàng của bảo tàng cho dù nhỏ cũng có ảnh hưởng nhất định tới cảm nhận của khách tham quan về bảo tàng. Các cửa hàng này thường bán những ấn phẩm của bảo tàng, các đồ lưu niệm do bảo tàng sản xuất mang dấu ấn của bảo tàng. Đặc biệt cần tạo ra những sản phẩm độc đáo mô phỏng về những hiện vật trưng bày trong bảo tàng để thu hút khách tham quan. Cần làm cho các dịch vụ ở bảo tàng thêm phong phú như các dịch vụ khách tham quan, du lịch, mở cửa hàng ăn, cho thuê địa điểm. Tuy nhiên, việc phát triển các dịch vụ này không được phá vỡ cảnh quan chung của bảo tàng. Mở rộng các sản phẩm du lịch như: các hàng lưu niệm, đồ thủ công của các dân tộc, các cuốn sách nhỏ giới thiệu về các dân tộc. Trưng bày ngoài trời kết hợp với cải tạo sân vườn, xây dựng khu vực dành riêng cho trưng bày chuyên đề. Thể hiện tính đa dạng văn hoá của 54 dân tộc. Mở rộng diện tích phòng khám phá cho khách tham quan là trẻ em, vì hiện nay phòng khám phá ở Bảo tàng Dân tộc học còn quá nhỏ trước nhu cầu của trẻ- cải thiện hệ thống nhiệt độ, ánh sáng, không khí của bảo tàng. 4.2.4 Các hoạt động của bảo tàng. Hiện nay, Bảo tàng Dân tộc học đang lưu giữ hơn 15.000 hiện vật. So với các bảo tàng khác thì số lượng hiện vật này còn ít. Vì vậy, trong thời gian tới bảo tàng cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu sưu tầm hiện vật để tạo nên khối lượng hiện vật phong phú hơn nữa, làm cơ sở cho việc thay đổi nội dung trưng bày. Bảo tàng Dân tộc học phải là nơi giới thiệu đầy đủ các hình thức diễn xướng truyền thống của các dân tộc ở Việt Nam thể hiện sự tôn trọng và bình đẳng về văn hoá. Trong điều kiện trước mắt bảo tàng tập trung vào việc giới thiệu các hình thức sân khấu truyền thống của các dân tộc dưới dạng biểu diễn: nghệ thuật chèo, hề chèo ở Thái Bình, tuồng ở Bình Định, cải lương ở Nam Bộ, Múa rối nước ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Tây... Các hoạt động biểu biễn nên tổ chức gọn nhẹ, dân dã, phù hợp với không gian sinh hoạt ở làng quê, bên cạnh mái nhà gianh hoặc quanh gốc đa. Tránh sử dụng đèn mầu với hệ thống âm thanh khuyếch đại với một sân khấu thời thượng rực rỡ vì nó sẽ làm mất đi chất hồn quê, chân quê của văn hoá làng xã. Bảo tồn Tĩnh vốn dĩ là thế mạnh của công tác bảo tàng song nếu để lưu giữ được giá trị văn hoá lưu truyền cho đời sau và cũng là tăng sức hấp dẫn cho bảo tàng trong hoạt động du lịch thì hình ảnh tàng động đang là xu hướng của nghiên cứu nhân học văn hoá hiện nay. Vì vậy bảo tàng cần phát triển theo hướng này, có như vậy bảo tàng mới trở thành khu du lịch sinh thái nhân văn. Các hiện vật trưng bày cần chọn lọc, sắp xếp có hệ thống, thu nhỏ các vùng miền để ai đến đây cũng có cảm giác dân tộc mình, vùng mình có mặt ở đây. Bảo tàng cần phát triển thành một “quy trình công nghệ” hoàn chỉnh, giới thiệu các giá trị văn hoá của 54 dân tộc và các nước ASEAN sẽ thu hút được nhiều khách tham quan hơn. Tổ chức thường xuyên hội nghị với các công ty du lịch để tạo mối quan hệ chặt chẽ trong việc phục vụ khách. Bước đầu, bảo tàng có thể tạo ra một số ưu đãi dành cho các công ty du lịch khi đưa khách tham quan đến bảo tàng: giảm giá, trích phần trăm hoa hồng dành cho hướng dẫn viên... Kết hợp với các công ty du lịch để xây dựng các tour du lịch đến với bảo tàng Dân tộc học. Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả phục vụ khách tham quan ở Bảo tàng Dân tộc học. Những vấn đề mà tác giả đã trình bày trong bài luận văn này hy vọng sẽ góp một phần nhỏ từng bước làm cho bảo tàng có sức hấp dẫn hơn đối với du khách. Kết Luận Do sự tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau, ngành du lịch thế giới- một ngành kinh tế được mệnh danh là: “ngành công nghiệp không khói” đã phát triển với tốc độ chóng mặt. Ngày nay, nền kinh tế du lịch thế giới đã khẳng định được vị trí xứng đáng của mình trong nền kinh tế toàn cầu. Ở Việt Nam chúng ta, Du lịch cũng không ngừng được phát triển. Việt Nam được thế giới công nhận là nước tăng trưởng du lịch cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay, ngành du lịch đang là ngành kinh tế mũi nhọn trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Nó không chỉ mang lại lợi nhuận cho những nhà kinh doanh mà còn mang lại thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó nghành du lịch còn đóng vai trò quan trọng đối với việc giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, khơi dậy nét đặc sắc của mỗi vùng. Bảo tàng Dân tộc Việt Nam tuy mới thành lập(1997) nhưng đã khẳng định được vị thế của mình và trở thành bảo tàng có sức hấp dẫn nhất đối với du khách hiện nay. Bảo tàng Dân tộc học là một cơ quan văn hoá có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Đó là nơi khai thác tính đa dạng, phong phú của mỗi nền văn hoá các dân tộc, góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trong nước và trên thế giới thông qua các hoạt động như: nghiên cứu khoa học, sưu tầm, bảo quản, phân loại, đánh giá phục chế, trưng bày, giới thiệu... những giá trị văn hoá, lịch sử của các dân tộc Việt Nam. Sự đa dạng, phong phú trong các hoạt động đã làm cho hình ảnh của bảo tàng luôn trở nên sống động và hấp dẫn trong mắt du khách và nếu có dịp đến Hà Nội thì họ không thể quên một địa chỉ văn hoá du lịch hấp dẫn, đó là Bảo tàng Dân tộc học Xét cho cùng thì bảo tàng được xây dựng là vì con người và phục vụ nhu cầu của con người vì thế trong tất cả các hoạt động của mình bảo tàng Dân tộc học đều đặt lợi ích công chúng lên trên hết. Bởi vì chính công chúng là những người quyết định sự tồn tại của Bảo tàng cũng như hiệu quả xã hội của nó.Với tinh thần đó Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đi rất đúng hướng và mở đường tiên phong cho các bảo tàng khác ở Việt Nam trong công tác hoạt động của mình. Trong quá trình làm khoá luận, mặc đã có rất nhiều cố gắng, song với hạn chế của một sinh viên ngành du lịch lần đầu tiên tiếp cận với một bảo tàng chuyên ngành nên không tránh khỏi những thiếu sót . Song với nỗ lực bản thân cùng với kiến thức đã học được và với thực tiễn thu thập được trong thời gian thực tập. Tôi chỉ mong muốn luận văn như một đóng góp về tư liệu góp phần khẳng định tiềm năng thế mạnh của Bảo tàng Dân tộc học- loại hình bảo tàng có sức hấp dẫn nhất đối với du khách hiện nay. Tài liệu tham khảo 1.Nhập môn khoa học du lịch – Trần Đức Thanh 2.Làng văn hoá - Du lịch các dân tộc Việt Nam – Bộ văn hoá thông tin 3.Dự án quy hoạch tổng thể phát triển Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (1998-2010) 4.Dự án xây dưng khu trưng bày các nước Đông Nam A – Bảo tàng dân tộc học Việt Nam 5.Phục vụ khách tham quan Bảo tàng- Nguyễn Quốc Bình 6.Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam- Nhà xuất bản khoa học xã hội 7.Đôỉ mới tiếp cận Dân tộc học trong các Bảo tàng-Cục Bảo tồn bảo tàng-Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 8.Bảo tàng với sự công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước- Cục Bảo tồn bảo tàng - bảo tàng Dân tộc học Việt Nam- Nhà xuất bản Hà Nội 1998 9.Timothy Ambrose và Crispinpaine-Cơ sở Bảo tàng-Bảo tàng Cách Mạng Việt Nam – Hà Nội 2000 10.Tuyến điểm du lịch – Bùi Thị Hải Yến 11. info.com www.vme.org.vn 12.Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam- Ngô Văn Lệ –Nguyễn Văn Tiệp – Nguyễn Văn Diệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiềm năng du lịch của Bảo tàng dân tộc học Việt Nam.doc