Đề tài Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân

Trên có sở thắng lợi của kỳ khôi phục và phát triển kinh tế (1955 - 1957), miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế ngoai quốc doanh. Tháng 4 - 1958 Quốc hội thông qua kế hoạch 3 năm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá (1958 - 1960). Nội dung chủ yếu của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đặt ra trong thời kỳ này là biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nên kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp của công cuộc cải tạo này. Nội dung đưa nông dân vào hợp tác xã coi là khâu chính. Cải tạo đối với các hộ cá thể trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và các ngành khác cũng rất khẩn trương. Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh với mục tiêu nhanh chóng xoá bỏ thành phần kinh tế này được tiến hành bằng chính sách chuộc lại (trả dần) và áp dụng hình thức công tư hợp doanh.

doc41 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giao thông vận tải, xây dựng và các ngành khác cũng rất khẩn trương. Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh với mục tiêu nhanh chóng xoá bỏ thành phần kinh tế này được tiến hành bằng chính sách chuộc lại (trả dần) và áp dụng hình thức công tư hợp doanh. Kết quả đến năm 1960 đã có: 40,4 nghìn hợp tác xã nông nghiệp, chiếm 85,5% tổng số hộ nông dân và 68,1% tổng dienẹ tích canh tác; 2.760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, 267 tổ sản xuất và 285 hợp tác xã nghề muối. Tính chung đến năm 1960 số xã viên hợp tác xã chuyên sản xuất công nghiệp lên 72 nghìn người. Về thương nghiệp đã có 65% trong số 185 nghìn tiểu thương tham gia hợp tác xã. Hợp tác xã mua bán đã được thành lập ở hầu hết các xã phường miền Bắc. Đến cuối năm 1960 đã cải tạo xong toàn bộ 729 hộ tư bản công nghiệp, trong đó 661 hộ theo hình thức công tư hợp doanh và 68 hộ theo hình thức xí nghiệp hợp tác xã. Toàn bộ lực lượng vận tải cơ giới tư nhân gồm 1.602 ôtô và 132 phương tiện vận tải thuỷ đã chuyển thành 31 xí nghiệp công tư hợp doanh với tổng sóo 2.610 công nhân. Như vậy miền Bắc đến cuối năm 1960 đã hoàn thành cải tạo kinh tế ngoài quốc doanh dưới hình thức hợp tác xã và công tư hợp doanh, hoặc các đại lý, kinh tiêu của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên kinh tế tư nhân vẫn tồn tại dưới hình thức kinh tế cá thể. Tỷ trọng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn chiếm giữ một tỷ lệ đáng kể. Năm 1960: 28,7%; năm 1970: 16,4%; năm 1975: 14,8%. Thường xuyên có khoảng 50 -80 nghìn người lao động trong khu vực này. Năm 1971: 71,5 nghìn người; năm 1974: 66,4 nghìn người; năm 1975: 64,3 nghìn người. Cũng trong thời gian này số người buôn bán nhỏ và kinh doanh dịch vụ cũng thường xuyên ở mức trên dưới 20 vạn người. Năm 1960 : 20 vạn người; năm 1965: 16,2 vạn người; năm 1973: 19,4 vạn người; năm 1974: 20 vạn người; năm 1975: 19 vạn người. Ở miền Nam, năm 1976 riêng ngành công nghiệp có tới 94.857 hộ tư nhân, cá thể. Trong đó ngành chế biến lương thực và thực phẩm 29.530 hộ; dệt 17.035 hộ; vật liệu xây dựng 5.964 hộ; hoá chất 2.413 hộ; cơ khí 23.312 hộ… Một số địa phương có số hộ tư như cá thể sản xuất công nghiệp lớn như thành phố Hồ Chí Minh 31.922 hộ; Quảng Nam - Đà Nẵng 10.466 hộ; Phú yên và Khánh Hoà 7.147 hộ; Ninh Thuận và Bình Thuận 7.904 hộ; Đồng Nai 6.142 hộ; Quảng Ngãi và Bình Định 5.925 hộ. 3. Kinh tế tư nhân thời kỳ 1976 - 1985 Đất nước thống nhất, công cuộc phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm vi cả nước. Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 ngoài nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải tạo kinh tế miền Nam theo mô hình kinh tế miền Bắc. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản xuất nỏ ở miềm Bắc, đồng thời triển khai mạnh mẽ ở miền Nam. Nhưng kinh tế tư nhân vẫn tồn tại, trong công nhgiệp vẫn có trên dưới 60 vạn người sản xuất cá thể năm 1980: 50,3 vạn; năm 1981: 55,1 vạn; năm 1982: 60,8 vạn; năm 1983: 66,6 vạn; năm 1984: 64 vạn; năm 1985: 59,3 vạn. Số lao động hoạt động tỏng kinh tế tư nhân hàng năm vẫn chiếm trên 20% tổng số lao động ngành công nghiệp; năm 1980: 22,3%; năm 1984: 26%; năm 1985: 23%; năm 1986: 23,2%. Giá trị sản lượng công nghiệp do khu vực kinh tế tư nhân tạo ra hàng năm chiếm trên dưới 15% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp. Số lượng kinh doanh thương nghiệp những năm 1980 cũng ở mức 60 vạn. Năm 1980: 63,7 vạn; năm 1985: 63,7 vạn; năm 1986: 56,8 vạn. Số người kinh doanh thương nghiệp những năm 1980 cũng ở mức 60 vạn. Năm 1980: 63,7 vạn; năm 1985: 63,7 vạn; năm 1986: 56,8 vạn. Những số liệu trên cho thấy sức sống của kinh tế cá thể rất bền bỉ, sự hiện diện của thành phần kinh tế này trong suốt thời gian dài như một tất yếu khách quan, cần phải biết sử dụng mặt tích cực của nó làm cho dana giàu, nước mạnh. II. BƯỚC KHỞI ĐỘNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN. 1. Bước chuyển biến về nhận thức thực tiễn. Công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đạt kết quả không cao. Thêm vào đó những namư 1977 - 1978 nông nghiệp bị thiên tai nặng, năm 1979 xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm cho bức tranh kinh tế đất nước ngày càng xấu đi. Trước tình hình trên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khoá IV họp tháng 9 - 1979 đưa ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách. Nghị quyết là bước chuyển biến đầu tiên có ý nghĩa lớn đối với việc đưa nền kinh tế từng bước thoát ra khỏi cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ, mở đường cho những cải cách kinh tế trong những năm sau này. 2. Kết quả phát triển của khu vực kinh tế tư nhân những năm đầu thời kỳ đổi mới. Nhờ có chính sách đổi mới kinh tế tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế của đất nước. Trong công nghiệp, tư nhân đã đầu tư thêm tiền vốn để mở rộng các cơ sở hiện có, hoặc xây dựng thêm cơ sở mới. Năm 1988 khu vực này đầu tư thêm 80 tỷ đồng, thành lập thêm 17.000 cơ sở, trong đó có 46 xí nghiệp tư nhân; 1.100 cơ sở tiểu thủ công nghiệp và hơn 15.000 hộ cá thể. Năm 1989 số vốn đầu tư tăng thêm 102 tỷ đồng, số xí nghiệp tư nhân tăng gấp 4 lần so với năm 1988 (từ 318 xí nghiệp tăng lên 1.284 xí nghiệp); hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể từ 31,85 vạn lên 33,33 vạn, tăng 4,6%. Trong hai năm 1990 - 1991 số vốn tăng thêm mỗi năm khoảng 100 tỷ đồng. Năm 1989 thành phần kinh tế tư nhân thu hút thêm 39,5 nghìn lao động. Năm 1991 so với năm 1990 tăng thêm 4.000 cơ sở và lao động tăng thêm 10 nghìn người. Giá trị tổng sản lượng thành phần kinh tế này năm 1989 tăng thêm 34,5% so với năm 1998, trong đó xí nghiệp tư doanh tăng 51,9%; hộ tiểu thủ công nghiệp và các thể tăng 34, 0%. Tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp khu vực tư nhân, cá thể chiếm trong giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp tăng khá đều đặn: năm 1986: 15,6%; năm 1987: 25,69%; năm 1998: 19,6%; năm 1989: 27,2%; năm 1990: 26,5%. Trong thương nghiệp, lao động của thành phần kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng: Năm 1968: 56,79 vạn người; năm 1987: 64 vạn người; năm 1988: 71,89 vạn người; năm 1989: 79,3 vạn người; năm 1990: 81,1 vạn người. Ngoài ra còn có lực lượng thương nghiệp không chuyên tham gia hoạt động, năm 1990 có khoảng 16 vạn nưgời. III. PHẠM VI KINH TẾ TƯ NHÂN 1. Các lĩnh vực kinh tế tư nhân Việt Nam hiện có các thành phần kinh tế: - Kinh tế nhà nước - Kinh tế tập thể - Kinh tế cá thể, tiểu chủ - Kinh tế tư bản tư nhân - Kinh tế tư bản nhà nước - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Nghị quyết Hội nghị lần thứ nam Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) về phát triển kinh tế tư nhân, đề cập đến kinh tế tư nhân bao gồm hai thành phần kinh tế là kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân tham gia vào tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp và các loại hình dịch vụ khác. 2. Các loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân Loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân rất đa dạng, phổ biến nhất là hộ cá thể, tiểu chủ; loại hình công ty hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và và dưới hình thức: công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Trong khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh cá thể có số lượng đông đảo, sử dụng nhiều lao động xã hội, huy động nhiều vốn đầu tư, đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP. Hộ kinh doanh cá thể có tiền đề, là bước tập dượt và tích luỹ cho bước phát triển cao hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thức doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần sản xuất hàng hoá có chất lượng cao, tham gia tích cực vào xuất khẩu hàng hoá, nhất là nông sản hàng hoá, giúp nông dân tiêu thụ một khối lượng hàng hoá nông sản. Sự hoạt động sôi động của doanh nghiệp tư nhân đã thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các chủ tư nhân hầu hết là các doanh nghiệp trưởng thành trong chế độ mới, nhiều người trong số họ là cán bộ đảng viên, đã từng tham gia trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước và có một số đã trải qua thời kỳ tham gia lực lượng vũ trang, có nguyện vọng muốn đem tài năng, trí tuệ của mình vào phát triển kinh tế đất nước, làm giàu cho tổ quốc. PHẦN II NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN HIỆN NAY I. THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Trong những năm qua kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, vốn kinh doanh, thu hút lao động, nhất là loại hình doanh nghiệp, công ty. Kinh tế tư nhân phát triển rộng khắp trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Số cơ sở nhiều nhất mà pháp luật không cấm. Số cơ sở nhiều nhất là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, xâ dựng, tiếp đến là công nghiêp, tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế tư nhân phát triển rộng rãi trong cả nước, nhưng tập trung cao ở các đô thị, những địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi, được chính quyền quan tâm khuyến khích, hỗ trợ. 1. Tình hình tăng trưởng doanh nghiệp Trong giai đoạn 1996-2000, số lượng đơn vị sản xuất, kinh doanh hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng lên đáng kể, số hộ kinh doanh cá thể tăng 6,02%, số doanh nghiệp tăng 45,61%, nhưng không đều qua các năm (số hộ kinh doanh cá thể năm 1997 giảm, số doanh nghiệp năm 1998 giảm và tăng mạnh từ năm 2000 khi có Luật doanh nghiệp). Trong cơ cấu các hình thức tổ chức kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân, các hộ cá thể chiếm số lượng rất lớn, đến cuối năm 2000 có 2.137.731 hộ và 29.548 doanh nghiệp. Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân chiếm số lượng lớn nhất, tiếp đến là công ty trách nhiệm hữu hạn, sau đó là công ty cổ phần, công ty hợp danh chiếm số lượng không đáng kể. 1.1. Đối với hộ kinh doanh cá thể Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn, phát triển rộng rãi nhiều năm nay. Số hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp từ 1.498.611 hộ năm 1992 tăng lên 2.016.259 hộ năm 1996. Tốc độ tăng bình quân 7,68%/năm, mỗi năm tăng bình quân 129.412 hộ. Từ năm 1996 đến năm 2000 số lượng hộ kinh doanh cá thể tăng chậm, đến năm 2000 mới có 2.137.731 hộ, bình quân tăng 1,47%/năm, mỗi năm tăng 30.300 hộ cá thể phi nông nghiệp. Hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã năm 2000 có 7.656.165 hộ. Tổng cộng năm 2000 có 9.793.787 hộ kinh doanh cá thể. Quy mô của hộ kinh doanh cá thể nói chung rất nhỏ, sử dụng lao động trong gia đình là chính, trung bình mỗi hộ có 1-2 lao động. Vốn kinh doanh ít. Ngoại lệ, qua khảo sát thực tế ở các thành phố lớn, có nhiều hộ kinh doanh cá thể thuê đến hàng chục thậm chí hàng trăm lao động như cơ sở Đức Phát (cơ sở làm bánh ngọt ở thành phố Hồ Chí Minh) thuê tới 900 lao động. 1.2. Đối với doanh nghiệp tư nhân * Đăng ký doanh nghiệp Doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng ký kinh doanh từ khi có Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh. Tính chung thời kỳ 1991-2000, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng bình quân là 96,24%/năm. Từ 132 doanh nghiệp năm 1991 đến hết năm 1996 có 30.897 doanh nghiệp đăng ký doanh nghiệp. Các năm 1997-1999 số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh giảm. Từ năm 2000 đến nay khi Luật doanh nghiệp được thực hiện, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng rất nhanh. Sau 2 năm thực hiện Luật doanh nghiệp đến ngày 31-12-2001 cả nước đã có 35-440 doanh nghiệp mới đăng ký hoạt động. Năm 2000 có 14.400 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 250% so với năm 1999. Năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 140% so với năm 2000. Nếu tính từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành đến tháng 4.2002 cả nước đã có trên 41.000 doanh nghiệp mới thành lập. Như vậy cả nước có khoảng 97.900 doanh nghiệp. Bảng 1: Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh từ 1991 đến hết 9 tháng đầu năm 2001 Đơn vị: doanh nghiệp Năm Tổng số Tăng số năm trước (%) Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ phần Công ty hợp danh 1991 132 76 49 7 1992 7.241 3112,87 3.034 1.144 63 1993 7.183 84,22 5.516 2.256 41 1994 7.460 -5,52 5.493 1.943 24 1995 5.729 -23,21 3.731 1.864 34 1996 5.522 -3,91 3.679 1.801 42 1997 3.760 -17 2.617 1.117 26 1998 3.121 47,86 1.998 1.044 79 1999 4.615 212,84 2.038 2.361 216 2000 14.438 - 6.468 7.244 726 3 9 tháng 2001 9.946 - 4.589 4.912 445 - Tổng số 39.239 25.835 1.703 3 Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001. * Về số doanh nghiệp thực tế hoạt động Tính đến ngày 31-12-2000, cả nước có 56.834 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, nhưng số doanh nghiệp thực tế hoạt động là 29-548 doanh nghiệp (51,99%), các doanh nghiệp chưa hoạt động 9.581 doanh nghiệp (16,85%), số doanh nghiệp giải thể chuyển sang loại hình thức khác 18.887 doanh nghiệp (24,44%), doanh nghiệp chưa tìm thấy là 3.818 doanh nghiệp (6,72%). Số lượng doanh nghiệp thực tế hoạt động tập trung cao ở ngành thương mại, dịch vụ: 17.506 doanh nghiệp chiếm 59,3%; công nghiệp 6.979 doanh nghiệp chiếm 23,6%; các ngành khác 5.034 doanh nghiệp chiếm 17,05% (số liệu đến ngày 31-12-2000) (xem bảng 2). Bảng 2: Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân đang hoạt động Cơ sở kinh doanh Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001/1996 (%) Hộ cá thể Hộ 2.016.529 1.949.836 1981.306 1.981.306 2.054.178 145,61 Tỷ trọng trong hộ % 100 100 100 100 100 100 - Công nghiệp hộ 616.855 608.250 583.352 583.352 608.314 104,69 Tỷ trọng trong hộ % 30,6 31,2 29,4 29,4 29,6 - Thương mại, dịch vụ hộ 1.102.619 1.022.385 1.058.385 1.058.542 1.088.606 100,61 Tỷ trọng trong hộ % 54,7 52,4 52,4 53,5 53,0 - Các ngành khác hộ 296.785 319.201 319.201 339.412 357.258 128,92 Tỷ trọng trong hộ % 14,7 16,4 16,4 17,1 17,4 Doanh nghiệp của tư nhân DN 20.272 21.032 21.032 20.578 22.767 145,61 Tỷ trọng trong DN % 100 100 100 100 100 100 - Công nghiệp DN 5.832 6.073 6.073 5.927 6.049 119,66 Tỷ trọng trong DN % 30,6 31,2 31,2 29,4 29,6 - Thương mại DV DN 12.695 13.010 13.010 12.494 14.234 138,67 Tỷ trọng trong DN % 54,7 52,5 52,5 53,5 53,1 - Ngành khác DN 1.745 1.949 1.949 2.157 2.484 288,48 Tỷ trọng trong DN % 14,7 16,3 17,1 17,3 17,9 2. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân 2.1. Vốn của hộ kinh doanh cá thể Tổng vốn đầu tư phát triển của các hộ kinh doanh cá thể năm 2000 là 29.267 tỷ đồng tăng 12,93% so với năm 1999. Vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể năm 2000 chiếm 81,54% trong tổng số vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và chiếm 19,82% vốn đầu tư xã hội. Bảng 3: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1999-2000 Đơn vị: doanh nghiệp TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Tăng so 1 Tổng số vốn đầu tư phát triển xã hội Tỷ đồng 131.171 147.633 12,5 2 Khu vực kinh tế tư nhân Tỷ đồng 31.542 35.894 13,8 Trong tổng số toàn xã hội % 24.05 24,31 - Doanh nghiệp của tư nhân Tỷ đồng 5.628 6.627 17,7 + Tỷ trọng trong toàn xã hội % 4,29 4,49 + Tỷ trọng trong khu vực tư nhân % 17,84 18,46 - Hộ kinh doanh cá thể Tỷ đồng 25.914 29.267 12,93 + Tỷ trọng trong toàn xã hội % 19,76 19,82 + Tỷ trọng trong khu vực kinh tế tư nhân % 82,16 81,54 Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001. Tổng vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể là 63.668 tỷ đồng, chiếm 36,61% trong tổng số vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân (tính đến ngày 31-12-2000). 2.2. Vốn của doanh nghiệp tư nhân. Vốn của doanh nghiệp tăng nhanh cả về vốn đăng ký kinh doanh, tổng vốn thực tế sử dụng vốn đầu tư phát triển. Trong vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần từ năm 1991 đến hết tháng 9 - 2001 đạt 50.795, 142 tỷ đồng; năm 2000 tăng 87,5 lần so với năm 1991. Trong đó doanh nghiệp tư nhân đăng ký 11.470,175 tỷ đồng chiếm 22,58%; công ty trách nhiệm hữu hạn đăng ký 29.064,160 tỷ đồng chiếm 57, 22%; công ty cổ phần đăng ký 10.260,770 tỷ đồng, chiếm 20,20% (xem bảng 5). Bảng 4: Vốn đăng ký thành phần doanh nghiệp qua các năm. Đơn vị: Triệu đồng Năm Tổng vốn đăng ký Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ phần Công ty hợp doanh 1991 158.155 24.095 52.560 81.500 - 1992 2.786.123 97.307 1.700.887 987.829 - 1993 4.288.556 1.375.187 2.304.943 608.426 - 1994 3.29.799 1.121.712 1.770.485 406.602 - 1995 3.070.176 953.985 1.916.507 199.684 - 1996 3.050.100 910.727 1.734.220 405.153 - 1997 2.548.098 701.667 1.563.862 282.569 - 1998 2769.731 652.858 1.479.724 637.149 - 1999 5.483.098 877.744 2.898.925 1.706.429 - 2000 13.831.465 2.813.544 7.985.190 3.032.731 - 9h/2001 9.510.841 1.941.349 5.656.857 1.912.635 - Tổng 50.795.142 11.470.175 29.064.160 10.260.770 - Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, ban kinh tế Trung ương, ngày 26 - 11 -2001. Tính từ khi có luật doanh nghiệp đến hết tháng 4 -2002 cả nước có trên 41.000 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đăng ký tương đương 3,6 tỷ USD. Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp cũng tăng nhanh. Năm 2000 là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,46% so với năm 1999; trong đó của công ty trách nhiệm hữu hạn tăng 40%, doanh nghiệp tư nhân tăng 37,64%, công ty cổ phần tăng 36,7% (xem bảng 6). Năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân đã đầu tư mau 20,3% cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá. Bảng 5: Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng TT Nguồn vốn Năm 1999 Năm 2000 Tăng so năm trước % Tổng số 79.493,2 110.71,9 38,46 1 Doanh nghiệp tư nhân 11.828,2 16.281,1 37,64 2 Công ty TNHH 37.426,6 52.426,8 40 3 Công ty cổ phần 30.230,76 41.353,6 36,79 4 Công ty hợp doanh 7,3 10,3 41,09 Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26 - 11 - 2001. Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tư nhân tăng cả về lượng vốn và tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và của toàn xã hội. Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tăng từ 5.628 tỷ đồng năm 1999 lên 6.627 tỷ đồng năm 2000; tăng 17,7%; tỷ trọng trong khu vực kinh tế tư nhân tăng từ 17,84% năm 1999 lên 18,46% năm 2000; tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ 4.29% năm 1999 lên 4,49% năm 2000 (xem bảng 5). Năm 2000, tổng số vốn sử dụng của các doanh nghiệp. 3. Về lao động của khu vực kinh tế tư nhân. Tính từ năm 1996 đến nay số lao động làm việc tỏng khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp trong các năm đều tăng trừ năm 1997. So với tổng số lao động toàn xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 11% qua các năm, riêng năm 2000 là 12% (xem bảng 6). Năm 2000, lao động tỏng khu vực kinh tế tư nhân, kể cả khu vực nông nghiệp là 21.017.326 người, chiếm 65,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. Trong các ngành phi nông nghiệp, số lao động khu vực kinh tế tư nhân năm 2000 là 4.643.844 lao động, tăng 20,12% so với năm 1996; bình quân mỗi năm tăng 194.670 lao động, tăng 4,75% năm. Trong 4 năm từ 1997 đến năm 2000 riêng khu vực này thu hút thêm 997.019 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế nhà nước. Tính từ năm 1996 đến nay, lao động trong công nghiệp tăng nhiều hơn ngành thương mại, dịch vụ. Năm 2000 so với năm 1996 lao động trong công nghiệp thêm được 363.442 người, tăng 20,68%; trong khi lao động thương mại, dịch vụ thêm được 271.476 người. Lao động công nghiệp ở doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh hơn ở hộ kinh doanh cá thể; năm 2000 so với năm 1996, lao động công nghiệp ở doanh nghiệp tăng 114,02%;l lao động công nghiệp ở hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng được 6,4% (xem bảng 6). Bảng 6: Lao động khu vực kinh tế tư nhân TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1 Tổng số lao động Người 3.865.163 3.66.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844 Tỷ trọng so với tổng số lao động xã hội % 11,2 10,3 10,3 10,9 2.121.228 1.1 Công nghiệp Người 1.757.786 1.655.862 1.623.971 1.786.509 45,68 TT trong khu vực tư nhân % 45,48 45,16 42,54 43,61 1.7535.824 1.2 Thương mại, dịch vụ Người 1.592.574 1.451.751 1.517.821 1.598.356 37,38 Các ngành khác % 41,2 559.212 39,77 39,00 786.792 1.3 TT trong khu vực tư nhân Người 514.803 15,25 675.150 712.590 16,94 2 Lao động trong doanh nghiệp Người 354.328 396.705 17,69 17,39 841.787 2.1 Công nghiệp Người 233.078 252.657 435.907 539.533 498.847 TT trọng trong doanh nghiệp % 65,78 63,85 273.819 322.496 59,26 2.2 Thương mại, dịch vụ Người 65,78 63,85 62,81 59,77 59,26 TT trọng trong doanh nghiệp % 17,03 20,22 62,81 59,77 22,75 2.3 Các ngành khác Người 60.314 79.998 22,86 22,3 191.507 TT trọng trong doanh nghiệp % 17,03 20,22 99.618 120.317 22,75 3 Lao động trong hộ kinh doanh cá thể Người 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057 3.1 Công nghiệp Người 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381 Tỷ trọng trong hộ % 43,43 42.9 39.93 41,15 42,67 3.2 Thương mại, dịch vụ Người 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391 Tỷ trọng trong hộ % 43,63 42,45 43,04 42,21 41,67 3.3 Các ngành khác Người 45.489 479.214 575.532 592.273 595.285 Tỷ trọng trong hộ % 12,94 14,65 17,03 16,64 15,66 Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001. 4. Tăng trưởng sản xuất kinh doanh (GDP) khu vực kinh tế tư nhân Tổng sản phẩm trong nước của khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây. Năm 1996 GDP khu vực kinh tế tư nhân đạt 68.518 tỷ đồng, đến năm 2000 lên 86.929 tỷ đồng, tăng bình quân 7%/năm. Tương ứng GDP của hộ kinh doanh cá thể từ 52.169 tỷ đồng năm 1996 lên 66.142 tỷ đồng năm 2000, tăng bình quân 7%/năm; của doanh nghiệp từ 14.780 tỷ đồng lên 20.787 tỷ đồng, tăng bình quân 7,1%/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân xấp xỉ tốc độ tăng GDP toàn bộ nền kinh tế (xem bảng). Bảng 7: Tốc độ tăng GDP của khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn 1996-2000 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 BQ 5 năm GDP toàn quốc Tỷ đồng 213.833 231.264 244.596 256.272 273.582 Tăng so năm trước % 9,3 8,2 5,8 4,8 6,8 6,9 Khu vực tư nhân Tỷ đồng 65.518 74.167 78.775 81.455 86.826 Tăng so năm trước % 10,6 8,2 6,2 3,4 6,7 7,0 - Hộ kinh doanh cá thể Tỷ đồng 52.169 58.812 60.423 62.205 66.142 Tăng so năm trước % 10,6 8,9 6,4 2,9 6,3 7,0 - Doanh nghiệp DN 16.349 17.355 18.352 19.250 20.787 Tăng so năm trước % 10,6 6,1 5,7 4,9 8,0 7,1 Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001. Năm 2000 khuvực kinh tế tư nhân chiếm 42,3% GDP cả nước. Trong đó GDP khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp bằng 63,6% GDP của khu vực kinh tế tư nhân và bằng 26,87% GDP cả nước. Trong ngành nông nghiệp, năm 2000 GDP của khu vực kinh tế tư nhân chiếm 15,4% GDP toàn quốc và chiếm 63,2% của nông nghiệp nói chung. Trong đó kinh tế hộ gia đình chiếm 98% GDP kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. II. VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này là trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động của con người; tài nguyên, thông tin và các nguồn lực khác. Những nguồn lực này chủ yếu là trong nước, nhưng cũng có một số không ít cá nhân sử dụng vốn của gia đình ở nước ngoài gửi về. Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy đọng vốn trong xã hội, tạo được nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho nhà nước, sản xuất hàng xuất khẩu, tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xã hội. 1. Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP) Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung là tăng ổn định trong những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là 12,89%, năm 1998 là 12,74%, năm 1999: 7,5%, năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với năm 1996 (từ 28,48 % năm 1996 còn 26,7% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp cuả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Bảng 8: Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140 1. Khu vực tư nhân - 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337 % trong GDP toàn quốc % 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87 2. Hộ kinh doanh cá thể Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604 Tỷ trọng hộ trong GDP % 21,28 20,9 20,31 19,52 19,72 Tỷ trọng hộ trong khu vực kinh tế tư nhân % 74,7 74,94 74,34 73,62 73,41 2.1. Công nghiệp Tỷ đ 9.261 10.658 11.804 12.662 15.491 Tỷ trọng trong hộ - 16,00 16,25 26,1 16,22 17,68 2.2. Thương mại dịch vụ - 17.381 19.728 22.878 24.865 27.393 Tỷ trọng trong hộ % 30,03 30,09 31,2 31,86 31,27 2.3. Các ngành khác Tỷ đ 31.237 35.169 38.639 40.527 44.720 Tỷ trọng trong hộ % 53,97 53,66 52,7 51,92 51,05 3. Doanh nghiệp của tư nhân tỷđ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733 Tỷ trọng trong GDP % 7,21 6,99 7,01 6,99 7,14 Tỷ trọng trong khu vực tư nhân % 25,3 25,06 25,66 26,38 26,59 3.1. Công nghiệp Tỷ đ 4.609 5.278 6.367 7.179 8.626 Tỷ trọng trong doanh nghiệp % 23,51 24,08 25,16 25,66 27,18 3.2. Thương mại dịch vụ Tỷ đ 7.565 8.564 10.238 11.203 12.397 Tỷ trọng trong doanh nghiệp % 38,59 39,07 40,46 40,05 39,07 3.3. Các ngành khác Tỷ đ 7.428 8.078 8.699 9.593 10.710 Tỷ trọng trong doanh nghiệp % 37,9 36,85 34,38 34,29 33,75 Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001. 2. Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội, nộp ngân sách cho nhà nước Trong 10 năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24,05%; năm 2000 đạt 35.894 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 1999, chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2000 vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đòng, chiếm 19,82% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp tư nhân đạt 6.627 tỷ đồng, chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh. Đối với các doanh nghiệp tư nhân năm 1999 là 79.493 tỷ đồng, năm 2000 là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,5% (chưa có số liệu xác định nguồn vốn của hộ kinh doanh cá thể). Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng thực tế của doanh nghiệp là Hà Nội từ 10.164 tỷ đồng (năm 1999) tăng lên 16.573 tỷ đồng (năm 2000), tăng 63,05%; tương ứng ở thành phố Hồ Chí Minh từ 36.954 tỷ đồng tăng lên 52.353 tỷ đồng, tăng 41,67%. Đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng tăng. Năm 2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, ước tính chiếm 7,3% tổng thu ngân sách, tăng 12,5% so với năm 1999; năm 2001 dự kiến nộp 6.370 tỷ đồng, tăng 7,96%. 3. Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xoá đói giảm nghèo Thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là 4.643.844 người chiếm 12% tổng số lao động xã hội, bằng 1,36 lần tổng số việc làm trong khu vực kinh tế nhà nước. Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người, của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người. Trong 5 năm 1996 -2000 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng thêm 778.681 người (tăng 20,4%). Trong đó số lao động tỏng các doanh nghiệp tư nhân tăng thêm 487.4259 người ( tăng 137,57%); số lao động ở hộ kinh doanh cá thể tămg thêm 292.222 người (tăng 8,92%). Số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh các thể lớn hơn nhiều so với số đăng ký vì nhiều hộ gia đình chủ yếu sử dụng lao động trong dòng họ, lao động mang tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong báo cáo thống kê. Việc tạo ra nhiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao động tỏng xã hội, nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giản biên chế và giải thể. 4. Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã xuất hiện nhiều doanh nhân kinh doanh thành đạt, đưa doanh nghiệp của mình phát triển, cải thiện được đời sống người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội, được xã hội tôn vinh. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng nhiều lao động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân được xuất khẩu uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vựac kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 361.759.990 USD, công ty tư nhân đạt 211.900.000 USD (số liệu của tổng cục Hải quan). III. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 1. Khó khăn về vốn, hạn chế về tín dụng Các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân nói chung đều rất thiếu vốn sản xuất. Đến cuối năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh khi mới thành lập của các doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ trên dưới 1 tỷ đồng. Số vốn hoạt động kinh doanh bình quân là 3,8 tỷ đồng một doanh nghiệp. Theo báo cáo của các địa phương đều cho rằng khu vực kinh tế tư nhân thiếu vốn phải đi vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao và thời hạn ngắn, rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp tư nhân còn non trẻ, nên tài sản sẵn có còn ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay mà không cần thế chấp; nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa biết lập dự án đầu tư, hơn nữa thường bị các tổ chức tín dụng cho là các khách hàng nhỏ, với kiểu hoạt động tạm thời, có thể không báo cáo đúng tình hình kinh doanh, dự án thường không có tính khả thi cao, khó giám sát đầu tư, chi phí giao dịch cao. Tổng dư nợ của khu vực kinh tế tư nhân (phi nông nghiệp) chiếm 23,9% tổng dư nợ chung của ngân hàng năm 2000 và 22,6% trong 6 tháng đầu năm 2001. Tỷ lệ nợ xấu khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung có giảm 22,8% năm 2000 xuống 18,9% trong 6 tháng đầu năm 2001. Nhưng tỷ lệ này vẫn cao hơn tỷ lệ chung của ngân hàng và chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số nợ xấu của ngân hàng là 50,8% năm 2000 và 43,3% trong 6 tháng đầu năm 2001. 2. Khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và phát triển từ khi có chủ trương đổi mới, và tăng nhanh sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành. Nhà nước đã tiến hành giao quyền sử dụng đất theo Luật đất đai, do đó về cơ bản không còn "đất vô chủ"; do các doanh nghiệp tư nhân ra đời muộn, không còn được Nhà nước ưu đãi về đất như trước, chính vì vậy thiếu mặt bằng kinh doanh đang là trở ngại lớn đối với các cơ sở kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu dân cư làm nơi sản xuất, kinh doanh nên chật hẹp, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sinh hoạt của dân cư trong khu vực, gây ra những khiếu kiện; khó mở rộng sản xuất kinh doanh . 3. Khó khăn về môi trường pháp lý, tâm lý xã hội 3.1. Về môi trường pháp lý - Trở ngại lớn đối với khu vực kinh tế tư nhân là môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, còn nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc chấp hành pháp luật. Một số bộ, ngành còn chậm ban hành văn bản hướng dẫn (như các ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong tổng thể định hướng quy hoạch, quy định cụ thể về vốn pháp định của một số ngành nghề…) đã gây khó khăn cho việc đăng ký và hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù các cơ quan nhà nước đã tạo điều kiện để doanh nghiệp được tham gia đóng góp ý kiến vào nhiều văn bản, chính sách khác nhau, song nhìn chung kết quả còn hạn chế, mới dừng lại ở mức tham khảo có giới hạn, chưa thành quy chế; một số ý kiến, đề xuất của doanh nghiệp chưa được tiếp thu, nhiều khó khăn cho doanh nghiệp chưa được giải quyết một cách cơ bản, triệt để (ví dụ: về quy định tín dụng ưu đãi, vay ngân hàng, sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng…) 3.2. Về môi trường tâm lý xã hội Môi trường tâm lý xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Thực tế đang nổi lên mọt số vấn đề bức xúc. - Trong xã hội còn có phần định kiến đối với khu vực kinh tế tư nhân, chưa nhìn nhận đúng vai trò nhà kinh doanh tư nhân trong xã hội. Do vậy còn có tâm lý e ngại, dè dặt, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh. - Còn tồn tại cách nhìn nhận cho là chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khi thực hiện chủ trương kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. 4. Khó khăn của bản thân khu vực kinh tế tư nhân Nhìn chung, khu vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hiệ quả sản xuất, kinh doanh trong việc duy trì hiệu quả sản xuất, kinh doanh trong khoảng thời gian dài và đảm bảo sức cạnh tranh cần thiết, nhất là khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, do: - Khu vực kinh tế tư nhân của ta mới ở trình độ thấp của sự phát triển, tổ chức theo hình thức kinh tế hộ gia đình cá thể còn chiếm tuyệt đại đa số, hình thức doanh nghiệp của tư nhân tuy đã phát triển mạnh trong thời gian gần đây nhưng vẫn còn ở quy mô nhỏ là chủ yếu. - Khả năng tích tụ vốn cũng như huy động nguồn vốn xã hội cho hoạt động sản xuất, kinh doanh còn thấp, trình độ công nghệ thấp. - Trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu, không thu hút được nhiều lao động có tay nghề cao được đào tạo cơ bản. - Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết mới thoát thân từ cơ chế bao cấp, nên còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng mong chờ sự giúp đỡ, che chở của Nhà nước. PHẦN III TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN I. XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH, HỖ TRỢ KINH TẾ TƯ NHÂN 1. Chính sách tín dụng đầu tư Những năm gần đây hệ thống ngân hàng đã có những hình thức tín dụng đa dạng và có cạnh tranh hơn nhằm thực hiện chính sách cho vay bình đẳng không phân biệt hình thức kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân. Nhà nước cũng dành một khoảng vốn đáng kể, thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển (kế hoạch năm 2001 là 23.800 tỷ đồng) để vay trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư vào các lĩnh vực khuyến khích đầu tư tại các địa bàn khó khăn, hoặc theo các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ, không phân biệt thành phần kinh tế. Nghị định 05/NĐ-CP về việc bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2001 đã tháo gỡ được một phần khó khăn, vướng mắc về thủ tục đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên trong khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại và Quỹ hỗ trợ phát triển. 2. Chính sách mặt bằng, đất đai cho kinh tế tư nhân Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 đã thể hiện chính sách cấp đất ổn định, lâ dài cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, yêu cầu tất cả các tổ chức, cá nhân, gia đình và các thành phần kinh tế muốn sử dụng đất đai được cấp để kinh doanh phải chuyển sang hình thức thuê đất. Sau khi Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 được Quốc hội thông qua và đưa vào thực hiện, Chính phủ đã ban hành một số nghị định, một số ngành có thông tư hướng dẫn thi hành. Cùng với văn bản luật, các Nghị định 17/1999/NĐ-CP, ngày 29-3-1999; Nghị định 79/2001/NĐ-CP, ngày 1-11-2001 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 17-1999/NĐ-CP là cơ sở pháp lý thực hiện việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định việc miễn giảm đáng kể tiền thuê đất, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. 3. Chính sách về khoa học và công nghệ Nhà nước có một số văn bản tạo khung pháp lý chung về chính khoa học, công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chung cho các thành phần kinh tế, đã hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng khoa học - kỹ thuật, chuyển giao công nghệ mới nhằm thay thế công nghệ cũ, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất được những sản phẩm chất lượng ngày càng cao hơn, mẫu mã đa dạng, tăng được năng suất lao động, khả năng cạnh tranh… đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và tăng được hàng xuất khẩu . Nghị định 45/1998/NĐ-CP quy định cụ thể về chuyển giao công nghệ, khuyến khích chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ mới. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước đây đã ban hành các văn bản yêu cầu máy móc và trang thiết bị cũ nhập khẩu phải còn 80% giá trị sử dụng trở lên, mức độ sử dụng nguyên liệu và năng lượng không vượt quá 10% mức độ sử dụng của máy móc và trang thiết bị mới tương tự và phải đáp ứng yêu cầu về môi trường. 4. Chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán 4.1. Chính sách thuế Các chính sách thuế dần được ban hành và áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế trong nước. Tuy còn một số hạn chế nhưng những chính sách thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu… bước đầu đã xoá bỏ được sự cách biệt giữa kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và hợp tác xã. Từ năm 1999 việc áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và tiếp tục hoàn thiện các loại thuế khác làm cho chính sách thuế đã thể hiện rõ sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khắc phục dần sự chồng chéo về thuế, chính sách thuế đã khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu. 4.2. Các quy định về tài chính, kế toán, kiểm toán. Về chế độ tài chính: Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định riêng về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế các cơ quan nhà nước phải vận dụng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước để áp dụng quản lý, thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các doanh nghiệp của tư nhân. Đây là vấn đề gây tâm lý không tốt đối với các doanh nghiệp vì như vậy đã có sự can thiệp không đúng bản chất sở hữu của các cơ quan nhà nước vào doanh nghiệp tư nhân. Về chế độ kế toán: Ngày 23-12-1996 Bộ Tài chính đã ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ kèm theo Quyết định 1177/TC-CĐKT tương đối đơn giản hơn so với chế độ kế toán áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp cả nước theo quyết định 1141/TC-CĐKT, ngày 1-11-1995 và sau đó thay thế bằng Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC, ngày 25-10-2000, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp tổ chức thực hiện công tác kế toán, nộp báo cáo tài chính. Chế độ kế toán đã góp phần tăng cường công tác quản lý tài chính khu vực này. Tuy nhiên, chế độ kế toán này cũng bộc lộ một số hạn chế như: chưa tách được các loại vốn ngắn hạn và dài hạn; các quy định về chế độ kế toán chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin cho tính toán và xác định nghĩa vụ thuế; chưa thật phù hợp với quy mô và năng lực của doanh nghiệp nên có nhiều khó khăn trong việc thực hiện; một số chỉ tiêu quá chi tiết nhằm mục đích phục vụ quản lý nhà nước hơn là phục vụ doanh nghiệp. 5. Chính sách về đào tạo, tiền lương, bảo hiểm xã hội 5.1. Đào tạo nghề cho lao động khu vực kinh tế tư nhân Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở dạy nghề dân lập, tư thục, cụ thể được quy định tại Nghị định 73/1999/NĐ-CP, ngày 19-8-1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, thể thao. Tuy nhiên việc đào tạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu lao động có tay nghề, có kỹ thuật của các doanh nghiệp. Đối với các tình miền núi, vùng sâu, vùng xa tỷ lệ lao động được đào tạo rất thấp, phần lớn là lao động chưa qua đào tạo. 5.2. Chính sách tiền lương Theo quy định của Bộ luật Lao động và Bộ luật Dân sự, chế độ tiền lương, tiền công của người lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thực hiện trên nguyên tắc thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương người lao động được trả không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Doanh nghiệp tư nhân tham khảo thang bảng lương do Chính phủ quy định (theo Nghị định 26/CƠ), để xây dựng hệ thống thang lương, bảng lương của doanh nghiệp mình trên cơ sở tuân thủ các qui định của pháp luật về lao động và thoả thuận với người lao động. Các doanh nghiệp đăng ký thang lương, bảng lương với cơ quan lao động ở địa phương để làm cơ sở tính chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chi phí tiền lương (tính thuế thu nhập). 5.3. Chính sách bảo hiểm xã hội Theo Bộ luật Lao động năm 1995: Loại hình bảo hiểm xã hội được áp dụng bắt buộc đối với những doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên, cho nên những doanh nghiệp có dưới 10 lao động và các hộ kinh doanh cá thể không được tham gia. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy định này để trốn tránh trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đóng bảo hiểm cho người lao động như: ký hợp đồng lao động ngắn hạn dưới 3 tháng với người lao động; hoặc chỉ hợp đồng miệng; hay chỉ đăng ký lao động dưới 10 người để không phải đóng bảo hiểm xã hội. Việc quy định một tỷ lệ đóng cố định, thời gian đóng và đóng đến tuổi về hưu, người lao động mới được hưởng chế độ hưu trí (đã đóng bảo hiểm 20 năm trở lên, nam đủ 60 tuổi, nữ 55 tuổi) chưa hấp dẫn người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội. 6. Chính sách thông tin, tiếp cận thị trường Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc đáp ứng thông tin cho doanh nghiệp về luật pháp, chính sách và tình hình thị trường. Doanh nghiệp được quyền tiếp cận thị trường, kể cả việc ra nước ngoài để quảng bá, tiếp thị. Đối với lĩnh vực thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp tư nhân đang gặp khó khăn về khả năng tiếp cận thông tin về chính sách xuất khẩu, thông tin thị trường, tiếp cận thị trường so với doanh nghiệp nhà nước. Về xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp tư nhân còn gặp phải những khó khăn như ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có điều kiện để giới thiệu, triển lãm và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu kiến thức và kinh nghiệm thương mại quốc tế, thiếu thông tin toàn diện về thị trường, mặt hàng và đối thủ cạnh tranh. II. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 1. Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho phát triển của kinh tế tư nhân - Sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân, theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xủa giữa các thành phần kinh tế; đảm bảo thể hiện đồng bộ, nhất quán các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, tính cụ thể, minh bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong luật pháp, thủ tục hành chính. - Quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các quyết định cần có thời gian chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu thiệt hại cho người kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân. 2. Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lực chọn các điều kiện để phát triển; tiếp tục tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với quy mô và trình độ kinh doanh để kinh tế tư nhân có điều kiện thụ hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế; chú trọng tạo điều kiện hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2.1. Chính sách đất đai Sửa đổi bổ sung Luật Đất đai theo hướng: - Đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng đất, đất đang được tư nhân dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại một cách hợp pháp quyền sử dụng hoặc được Nhà nước giao đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, thì tư nhân đó được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuê đất cho Nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất kinh doanh. - Nhà nước có chính sách xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết, có giá phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp, trong đó có kinh tế tư nhân, thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. - Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng đất ở các vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng, đất trống đồi núi trọc. 2.2. Chính sách tài chính tín dụng Thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho đầu tư theo các mục tiêu được Nhà nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc…) tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Sớm ban hành quy định của Nhà nước về cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó doanh nghiệp tư nhân. Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thuế phù hợp với đặc điểm của các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa tạo thuận lợi cho người kinh doanh, vừa chống thất thu thuế. 2.3. Chính sách lao động tiền lương Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của Bộ luật Lao động về việc ký hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, bảo đảm các điều kiện về vệ sinh an toàn lao động… bổ sung chế tài cần thiết để xử lý vi phạm. Sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá hể và doanh nghiệp của tư nhân đều được tham gia. Tiến tới hình thành đa dạng về mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với từng nhóm đối tượng có nhiều mức đóng, mức hưởng khác nhau. 2.4. Chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ doanh nghiệp cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp. Phát triển các trung tâm dạy nghề của Nhà nước đặt biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động. 2.5. Chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại Có cơ chế và phương tiện đảm bảo cho khuvực kinh tế tư nhân nhận được những thông tin cần thiết về luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của ngành, các vùng; các tông tin dự báo trung hạn, dài hạn về các ngành, các sản phẩm ở trong nước và trên thế giới; các dự án phát triển có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân và các hiệp hội đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và ngoài nước. KẾT LUẬN Sự phát triển của kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động, tài nguyên… Phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy đọng nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh; tạo được nihều việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho nhà nước, tham gia sản xuất nhiều hàng xuất khẩu, tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế kinh tế - xã hội. Tuy nhiên khu vực kinh tế tư nhân còn ở trình độ thấp của sự phát triển, chủ yếu là loại hình kinh tế cá thể, loại hình doanh nghiệp tư nhân gần đây tuy phát triển mạnh nhưng chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ. Do vậy Đảng và nhà nước cần có nhiều những chính sách dành nhiều sự quan tâm đến khu vực kinh tế này, bởi khu vực kinh tế tư nhân là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII NXB. Chính trị quốc gia Hà Nội 1996 2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB, chính trị quốc gia Hà Nội 2001 3. Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương: Tài liệu nghiên cứu, các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung wong Đảng khoá IX, NXB. Chính trị quốc gia Hà Nội 2002. 4. Trần Hoàng Kim, Lê Thụ: Các thành phần kinh tế Việt Nam, thực trạng, xu thế và giải pháp NXB. Thống kê, Hà Nội 1992 5. TS. Hà Huy Thành: Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân - lý luận và chính sách.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockc153_2386.doc
Luận văn liên quan