Thứ nhất, xây dựng và phát triển Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán (STRC) thành đơn vị có đủ điều kiện và khả năng nghiên cứu về TTCK và đào tạo nguồn nhân lực trong nước. Việc phát triển bền vững của TTCK sẽ khó thực hiện nếu những người trực tiếp hay gián tiếp tham gia thị trường không có kiến thức vững chắc về TTCK. Vì vậy, UBCKNN cần phải thực hiện sự hỗ trợ thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, để nâng cao hơn nữa trình độ nguồn nhân lực cho TTCK.
Thứ hai, Tập trung phát triển các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường tính ổn định cho TTCK bằng các biện pháp khuyến khích, cũng như ưu tiên trong đầu tư của loại nhà đầu tư này, chính sách thuế thu nhập ưu đãi, tham gia TTCK dễ ràng. Xây dựng và công bố lộ trình với nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán phù hợp với luật đầu tư và các cam kết gia nhập WTO.
Thứ ba, Nâng cao năng lực trong phân tích dự báo TTCK, đẩy mạnh tuyên truyền thông tin để công chúng có thể hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như rủi ro khi tham gia TTCK, không tham gia thị trường theo sự ảnh hưởng của số đông, tạo cơ sở để phát triển lành mạnh và bền vững TTCK. Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và tuyên truyền thông tin. Hoàn thiện hệ thống đào tạo cấp phép hành nghề chứng khoán để đáp ứng các quy định của luật chứng khoán. Tăng cường phối hợp với các trường đại học xây dựng giáo trình, chương trình thực hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhằm tạo nguồn nhân lực cho thị trường ngay từ giảng đường đại học.
42 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2272 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm giải pháp cho thị trường chứng khoán hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm lành mạnh hoặc làm ô nhiễm thêm cho môi trường tài chính.
Ngoài ra còn có các nhân tố vĩ mô khác ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán như chu kì phát triển kinh tế, lạm phát, giảm phát, những nhân tố phi kinh tế khác như thiên tai, chiến tranh, hòa bình,… (Theo tác giả GS. TS. Lê Văn Tư – Thị trường chứng khoán – NXB Thống kê[T121]).
Các nhân tố can thiệp:
Đó là sự lệ thuộc vào những yếu tố đầu vào, đầu ra hoặc sự lệ thuộc về tài chính, tiền tệ bởi một công ty khác hay một nền kinh tế khác. Nếu các đối tác đó sụp đổ thì cũng kéo theo công ty sụp đổ. Các nhân tố đầu cơ, móc ngoặc, lũng đoạn chứng khoán của cá nhân, các tổ chức, các công ty trong hoặc ngoài nước tạo ra cung, cầu chứng khoán giả tạo, làm giá cả hàng hóa chứng khoán bị méo mó, các chính sách can thiệp của chính phủ…
Giá cả chứng khoán là hình ảnh phản chiếu những vấn đề cơ bản của kinh tế doanh nghiệp và nhữn ván đề cơ bản của nền kinh tế - xã hội vĩ mô. Lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng giá cả thị trường chứng khoán nhạy cảm với các tin tức, những sự kiện kinh tế - xã hội. Giá cổ phiếu biến động tương ứng với những sự kiện bất thường như những bước ngẫu nhiên.
Tuy nhiên, giá cả của một loại hàng hóa chứng khoán không thoát li hẳn với những yếu tố kết tinh thành giá trị hàng hóa thực. Khi công ty phá sản thì các tài sản sẽ được định giá lại, phát mại rồi trả hết nợ kể cả những trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Phần còn lại được chia đều cho các cổ phiếu thường. Như vậy, giá cả cổ phiếu vẫn còn gắn với một phần giá trị của hàng hóa phát hành.
Giá cả hàng hóa chứng khoán là một đại lượng ngẫu nhiên, không thể nhận dạng được một cách chắc chắn nên nó vẫn hấp dẫn các nhà đầu tư bởi nó tiềm ẩn khả năng được hưởng mức lãi suất cao (Theo tác giả GS. TS. Lê Văn Tư – Thị trường chứng khoán – NXB Thống kê[T121-123]).
Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngày 11-8-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP. HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCK Việt Nam thực ra đã do Ủy Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. HCM (TTGDCK TP. HCM) được thành lập theo quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời ngày 8-3-2005. Khác với TTGDCK TP. HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Chỉ số VN-Index:
VN-Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN-Index xây dựng căn cứ vào giá thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát.
Chỉ số VN-Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.
Chỉ số VNIndex cho thấy sự thay đổi giá và khối lượng giao dịch của các loại chứng khoán được niêm yết tại sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.
Thực trạng hoạt động của TTCK Việt Nam từ năm 2008 đến nay
Những thành tựu đạt được từ khi thành lập đến nay.
Sau 12 năm hoạt động, thị trường chứng khoán đã thực sự có sự trưởng thành sau khi nỗ lực vượt qua nhiều gian khó, qua đó đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đáng kể nhất là đảm bảo cho thị trường phát triển an toàn, ổn định kể cả trong điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, điều mà không phải thị trường non trẻ nào cũng làm được.
Theo số liệu thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN). So với cách đây 12 năm, quy mô thị trường hiện tăng trên 50 lần, vốn hóa năm đầu tiên dưới 1% GDP, nhưng tính đến cuối năm 2011 đạt gần 27%. Khối lượng giao dịch cũng tăng 30-40 lần so với năm đầu tiên giao dịch. Công ty niêm yết trong năm đầu tiên thị trường hoạt động chỉ hơn 10 doanh nghiệp, nay tăng lên gần 800 doanh nghiệp.
Huy động vốn thực sự là điểm đáng chú ý hơn cả, với gần 700.000 tỷ đồng được huy động cho nền kinh tế qua 12 năm qua, đỉnh cao là năm 2007 đạt 127.000 tỷ đồng. Luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có thời điểm cao nhất lên đến 12 tỷ USD, nay khoảng 6,7 tỷ USD, góp phần cân bằng cán cân thanh toán, cũng như gia tăng sức hấp dẫn cảu môi trường đầu tư Việt Nam trong con mắt nhà đầu tư quốc tế.
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã có những bước phát triển về quy mô, mạng lưới công nghệ và trở thành một tổ chức trung gian phục vụ cho hoạt động tư vấn, cổ phần hóa góp phần kết nối cung cầu trên thị trường chứng khoán. Cho đến nay TTCK đã có 105 công ty chứng khoán với vốn chủ sở hữu đạt 38.000 tỷ đổng, có 47 công ty quản lý quỹ đang hoạt động với vốn chủ sở hữu đạt trên 2.600 tỷ đồng. các công ty quản lý quỹ đã huy động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, các hợp đồng quản lý danh mục đầu tư với giá trị tài sản lên tới 125.000 tỷ đồng. các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã thực sự trở thành trung gian tài chính giữa nhà đầu tư với thị trường.
Về số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng ngày một gia tăng, khi mới có thị trường chứng khoán chỉ có khoảng 3.000 tài khoản, nhưng đến nay đã có 1,2 triệu tài khoản. Qua đó cho thấy TTCK đang trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong nước. Lượng vốn huy động qua thị trường, đặc biệt là từ khối nhà đầu tư nước ngoài, đến nay danh mục của khối này khoảng 8 tỷ USD.
Các tổ chức thị trường như Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán cũng ngày càng phát triển, công nghệ thông tin được cải thiện, nhiều dịch vụ, nghiệp vụ, sản phẩm mới cũng đã được triển khai đảm bảo cho hoạt động thị trường được thông suốt, không để xảy ra đổ vỡ. Khung pháp lý cho thị trường cũng ngày càng được hoàn thiện và từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Sở GDCK Hà Nội, Sở GDCK TP. Hồ Chí Minh đã được thành lập trên cơ sở câu trúc lại các TTGDCK từ mô hình đơn vị sự nghiệp dang hoạt dộng theo mô hình doanh nghiệp, hoạt động lưu ký, thanh toán bù trừ đã được tách ra thành Trung tâm lưu kí chứng khoán độc lập theo thông lệ quốc tế.
Khung pháp luật về TTCK ngày càng được hoàn thiện góp phần hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Luật chứng khoán đã được ban hành năm 2006 và được bổ sung sửa đổi năm 2010, trên cơ sở đó Chính phủ, Bộ tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn Nghị định, thông tư, tạo ra hành lang pháp lý khá đầy đủ cho thị trường hoạt động. Cơ quan quản lý trực tiếp là UBCKNN đã được tăng cường để đảm nhiệm chức năng quản lý giám sát, thanh tra sử phạt, cưỡng chế thực thi, góp phần quan trọng làm cho thị trường phát triển an toàn trong suốt nhiều năm qua.
Như vậy hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua đã có những bước phát triển quan trọng, khẳng định vị trí và vai trò trong nền kinh tế và từng bước trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Khái quát những biến động của thị trường chứng khoán qua chỉ số VN-Index từ năm 2008 đến năm 2011.
Năm 2008.
Năm 2008 là năm mà nền kinh tế thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc khủng hoảng 1929-1933, và đến nay vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Không tránh khỏi tác động của cuộc khủng hoảng TTCK Việt Nam đã chứng kiến sự giảm điểm mạnh nhất từ khi thành lập đến nay. VNIndex đóng cửa tại mức 315,62 điểm, mất 605,45 điểm, tương đương 65,33% so với phiên giao dịch đầu năm, đây là năm được coi là thê thảm nhất đối với chứng khoán Việt Nam. Từ thị trường có mức tăng trưởng ngoạn mục nhất trở thành thị trường giảm điểm mạnh nhất chỉ sau một năm.
Biểu đồ khối lượng giao dịch và VNIndex năm 2008
(nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh)
Nhìn lại thị trường sau 1 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: VNIndex giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh trong đó có nhiều mã đã rơi xuống dưới mệnh giá, tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.
Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCK Việt Nam trải qua 3 giai đoạn chính. Giai đoạnh 1, thị trường giảm mạnh do ảnh hưởng của kinh té vĩ mô, kéo dài từ tháng 1 tới tháng 6. Giai đoạn 2, thị trường phục hồi diễn ra từ tháng 6 tới đầu tháng 9. Khoảng thời gian còn lại trong năm là giai đoạn giảm sâu của cả 2 chỉ số chứng khoán trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cẩu.
Giai đoạn 1: Từ tháng 1 tới tháng 6 – thị trường giảm mạnh.
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07 điểm VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu năm 2008. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VNIndex giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6/2008. Sau 103 phiên giao dịch VNIndex giảm mất 550,52 điểm, tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên giao dịch, toàn thị trường có 8,02 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng.
Giai đoạn 2: Tháng 6 tới đầu tháng 9 – phục hồi trong ngắn hạn
Đây là giai đoạn thị trường hoạt động sôi nổi nhất trong năm. Với sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168,55 điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân dạt 16,9 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, tương đương, 599,18 tỷ đồng/phiên.
Giai đoạn 3: Từ tháng 9 đến tháng 12 – thị trường lại rơi vào xu thế giảm điểm do tác động của khủng hoảng kinh tế.
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm điểm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết giai đoạn này, VNIndex mất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Năm 2009:
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh tới Việt Nam, khiến nền kinh tế Việt Nam rơi vào suy giảm với đáy của đợt suy giảm là quý 1/2009. Và trong năm này thị trường cũng chứng kiến sự đi lên mạnh mẽ của thị trường với mức tăng trưởng 170% từ đáy 235 điểm lên mức đỉnh của năm là 633 điểm. VNIndex đóng cửa năm 2009 ở mức 494 điểm, so với đáy 235 điểm VNIndex đã tăng trưởng 110,21% kể từ đáy. Như vậy có thể nói rằng thị trường chứng khoán đã tạo đáy đi lên trong năm 2009.
Biểu đồ khối lượng giao dịch và VNIndex năm 2009
(nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh)
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2009 có thể chia làm 6 giai đoạn cơ bản như sau:
Giai đoạn 1 (01/01 – 24/02): giảm từ 313 điểm xuống 235 điểm.
Đây là giai đoạn chịu ảnh hưởng còn lại của bất ổn kinh tế trong nước trong năm 2008 và suy giảm kinh tế do khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 đầu năm 2009. Giai đoạn này tâm lý nhà đầu tư rất bi quan và thị trường liên tục đi xuống.
Giai đoạn 2 (24/02 – 12/06): Tăng từ 235 lên 525 điểm.
Đây là giai đoạn tăng trưởng mạnh và cũng trùng với thời điểm suy giảm kinh tế đã kết thúc vào đáy của quý 1. VNIndex đã tăng 123,4 % từ 235 lên 525 điểm.
Giai đoạn 3 (12/06 – 21/07): Giảm từ 525 xuống 412 điểm
Thị trường bước vào giai đoạn điều chỉnh sau một giai đoạn dài tăng nóng. VNIndex đã mất đi 21,5% giá trị. Sự điều chỉnh này góp phần làm thị trường mạnh hơn qua việc thị trường phân phối và tích lũy.
Giai đoạn 4 (21/07 – 23/10): Tăng từ 412 lên 633 điểm.
Sau khi giảm đi 21,5% giá trị VNIndex đã bước vào một chu kỳ tăng điểm mạnh từ 412 lên 633 điểm. Đây là giai đoạn đòn bẩy tài chính được sử dụng một cách tối đa cùng với đó là việc cho các nhà đầu tư bán chứng khoán trước ngày T+4 hoặc bán khống. Các công ty chứng khoán lớn đều hỗ trợ cho vay đối với nhà đầu tư lớn có nơi mức hỗ trợ lên tới 300% so với giá trị ký quỹ.
Giai đoạn 5 (23/10 – 17/12): Giảm từ 633 xuống 427 điểm.
Sau khi đạt đỉnh 633 điểm ngày 23/10, VNIndex đã đảo chiều và để mất 48,24% giá trị. Sự giảm điểm càng được cộng hưởng mạnh mẽ hơn do mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính rất lớn của các nhà đầu tư lớn có sức ảnh hưởng trên thị trường.
Giai đoạn này chứng kiến sự căng thẳng trên thị trường ngoại hối và tăng trưởng tín dụng đã vượt mức kiểm soát của NHNN. Trước bối cảnh đó, NHNN buộc phải điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng thận trọng bằng quyết định nâng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% để kiềm chế lạm phát và tháo gỡ khó khăn thanh khoản cho các ngân hàng.
Giai đoạn 6 (17/12 -31/12): Tăng 427 lên 494 điểm.
Sau khi chạm đáy 427 điểm VNIndex đã phục hồi mạnh. Tuy vậy, VNIndex cũng phải thử thách vùng đáy 2 lần rồi mới chính thức đi lên từ 430 điểm. Đóng góp cho sự hồi phục của TTCK phải kể đến số liệu của kinh tế vĩ mô khi Tổng cục thống kê chính thức công bố GDP cả năm của cả nước ở mức 6,32%, cao hơn so với kê hoạch là 5%. Giai đoạn này cũng đánh dấu một sự kiện quan trọng – sàn vàng bị cấm hoạt động. Sàn vàng chiếm nguồn lực đầu tư rất lớn (theo ước tính giá trị giao dịch trên các sàn vàng cả nước một ngày khoảng 7.000 – 9.000 tỷ đồng và lớn hơn cả TTCK. Luồng vốn này đã và đang dần chuyển sang TTCK với tư cách là một kênh đầu tư thay thế.
Năm 2010
Thị trường chứng khoán trong năm 2010 là không có biến động nhiều, chỉ số VNIndex hầu như chỉ biến động trong khoảng 485+/- 65 điểm. Kết thúc năm tại mức 484,66 điểm, VNIndex đã giảm 10,11 điểm, tương đương 2% so với mức 494,77 điểm tại ngày 31/12/2009.
Biểu đồ khối lượng giao dịch và VNIndex năm 2010
(nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh)
Biến động của thị trường chứng khoán có thể chia thành 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1 (từ tháng 01 đến tháng 04): thị trường giao động trong vùng 470-550 điểm.
Các chính sách nhằm giữ ổn định vĩ mô mà trọng tâm là kiềm chế lạm phát trong năm 2010 được thực thi từ cuối năm 2009 khiến thị trường điều chỉnh cho tới tháng 12/2009 và tiếp tục tác động tới thị trương trong những tháng đầu năm 2010. Hiện tượng căng thẳng thanh khoản của hệ thống NHTM, căng thẳng tỷ giá trên thị trường tiền tệ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn sản xuất kinh doanh trong những tháng đầu năm. Sự khó khăn của doanh nghiệp được phản ánh trong biến động giá chứng khoán không có hiện tượng bứt phá. Chỉ tới khi NHNN thực hiện một loạt chính sách nhằm định hướng dòng tiền cho sản xuất như quy định đóng cửa sản vàng, hạ lãi suất huy động USD, cho phép NHTM vay trung, dài hạn với lãi suất thỏa thuận và sau đó là cho phép cho vay ngắn hạn với lãi suất thỏa thuận thì thị trường mới có sự hồi phục. Thị trường đã hồi phục nhẹ từ 500 điểm lên mức 550 điểm vào cuối tháng 4/2010. Tuy nhiên, khó khăn của nền kinh tế đã khiến phần lớn doanh nghiệp hàng đầu không có sự bứt phá nằm ngoài kỳ vọng của nhà đầu tư.
Giai đoạn 2 (giảm điểm mạnh của VNIndex từ 551 xuống 419 điểm, từ 6/5 tới 22/11):
Những tin xấu liên tục xuất hiện khiến thị trường giảm tới 23,9% trong gần 7 tháng. Khởi đầu cho quá trình sụt giảm của VNIndex đó là việc bùng phát cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu. Trong khi đó, nhà đầu tư đã lạm dụng quá mức đòn bẩy tài chính khi chạy theo các mã cổ phiếu nhỏ dẫn đến việc các công ty chứng khoán buộc phải bán chứng khoán khi thị trường giảm điểm. Tác động này khiến mức giảm của thị trường càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Giai đoạn 3 (hồi phục mạnh cuối năm 2010): tính đến ngày 18/11, tại thời điểm thị trường tạo đáy 420 có tới 63% cổ phiếu có giá dưới mức 20.000 VNĐ/CP, trong đó có tới xấp xỉ hơn 100 cổ phiếu giảm xuống dưới mệnh giá, phần lớn cổ phiếu đã thoái lui về mức giá hấp dẫn cho mục tiêu đầu tư trung, dài hạn. Cùng với đó, sự trở lại của dòng tiền đầu cơ ngắn hạn đi cùng với hiện tượng mua lại của những người bán khống đã tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ của thị trường chứng khoán những tháng cuối năm. Kết thúc phiên giao dịch ngày 31/12/2010, VNIndex đã giảm 10,11 điểm so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2011
Trong cả năm 2011 xu thế giảm điểm chiếm ưu thế mạnh, chỉ cố khoảng từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 6 và giữa tháng 8 đến đầu tháng 9 là thị trường tăng điểm, nhưng sự tăng này là không đáng kể so với xu hướng giảm điểm của thị trường.
Năm 2011 là năm giảm điểm mạnh của hầu hết các cổ phiếu, đặc biệt là các cổ phiếu vốn hóa nhỏ và trung bình. Bình quân mức giảm điểm là 40%-50% về giá ở thời điểm cuối năm so với thời điểm đầu năm.
Biểu đồ khối lượng giao dịch và VNIndex năm 2011
(nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh)
Chỉ số VNIndex đã giảm từ mức 485,97 xuống 351,55 điểm, giảm 134,42 điểm tương đương 27,66%. Trong năm 2011 chỉ số VNIndex bị chi phối mạnh bởi một nhóm các cổ phiếu vốn hóa lớn điển hình là BVH và MSN, vận động của VNIndex không phản ánh chính xác xu thế chung của toàn thị trường, mà chỉ phản ánh xu thế của một vài mã cổ phiếu Bluechips. Hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng” diễn ra khá nhiều trong cả năm 2011.
Theo đó thị trường những tháng đầu năm khá ảm đạm với tỷ lệ thanh khoản thấp. Phải đến cuối tháng 5, thị trường mới lóe lên điểm sáng với một đợt phục hồi ngắn trong 3 tuần đến giữa tháng 6. Tuy nhiên đợt phục hồi này mang khá nhiều tính kỹ thuật do mặt bằng giá cổ phiếu đã thấp hơn đáng kể nên chỉ cần những thông tin hỗ trợ dù không thực sự mạnh, như mức tăng CPI của tháng 5 tuy giảm so với tháng 4 nhưng thực tế là vẫn còn khá cao, cũng đủ để kích thích nhà đầu tư bắt đáy. Cũng vì đà tăng này không được ủng hộ mạnh từ phía các yếu tố vĩ mô cơ bản cho nên tính thiếu bền vững của nó nhanh chóng được thể hiện và trước khi bước sang quý II/2011, xu hướng giảm điểm đã trở lại.
Bước sang quý III, đây là quý có thể xem như khởi sắc nhất của thị trường chứng khoán trong năm 2011 với một đợt tăng điểm khá dài của thị trường chứng khoán kéo dài khoảng 1 tháng từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9. Thông tin từ việc lạm phát được kiềm chế và ổn định hơn với thông tin mức tăng CPI trong tháng 8 của cả nước chỉ chưa đến 1% đã làm thị trường ấm hơn. Không dừng lại ở đó, thị trường còn nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ thông tin NHNN sẽ hạ mặt bằng lãi suất với nhiều biện pháp cứng rắn và quyết liệt thể hiện quyết tâm cao đảm bảo thực hiện mục tiêu kể trên, đặc biệt là quyết định áp trần lãi suất huy động 14% vào ngày 07/09. Kết quả là làm cho thị trường càng trở nên sôi động.
Mặc dù vậy trước khi quý III/2011 khép lại, từ giữa tháng 9 trở đi, thị trường chứng khoán đón nhận nhiều tin xấu từ trong lẫn ngoài nước, như diễn biến xấu trong giải quyết nợ công Châu Âu mà kéo theo đó là triển vọng yếu kém của nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là từ cuối quý III đến hết quý IV/2011, thị trường chứng khoán cứ ảm đạm dần qua từng phiên với xu hướng giảm điểm là chủ đạo, không có đợt hồi phục nào đủ dài được ghi nhận.
Toàn cảnh thị trường chứng khoán năm 2012.
Tình hình kinh tế vĩ mô năm 2012.
Trong năm 2012, Việt Nam đã đạt được thắng lợi lớn trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể: lạm phát được kiềm chế, duy trì mức tăng trưởng một cách hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả thực hiện trong năm 2012 được thể hiện ở một số thống kê dưới đây:
Theo số liệu từ trang web Tổng cục thống kê Việt Nam. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) – lạm phát giảm mạnh so với năm 2011 (đặc biệt trong hai tháng 6 và 7 có mức tăng trưởng âm). So với tháng 12 năm 2011, chỉ số CPI 9 tháng đầu năm 2012 tăng khoảng 5%.
Tỷ giá thay đổi ít: trong suốt năm 2012 tỷ giá chính thức của NHNN được giữ cố định, với biên độ dao động ±1%.
Thị trường vàng không ổn định, tăng giảm bất thường không theo xu thế chung của thế giới, nhưng không có hiện tượng giá vàng gây sức ép lên tỷ giá hối đoái.
Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm. Chỉ từ tháng 3 đến tháng 6, NHNN liên tiếp 5 lần ép trần lãi suất huy động giảm từ mức 14% xuống còn 9%. Phải nói đây là một sức ép mạnh đến mức gần như tháng nào cũng đón nhận thông tin hạ lãi suất.
Cán cân thương mại thặng dư sau 19 năm thâm hụt: số liệu thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu tháng 12 ước đạt 10,4 tỷ USD, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 15% so với năm 2011. Tính chung cả năm 2012, xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011. Theo tổng cục thống kê, năm 2012 cả nước xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên xuất siêu kể từ năm 1993.
Tổng đầu tư xã hội ước 9 tháng đầu năm 2012 đạt 708,6 nghìn tỷ đồng, bằng 35,2% GDP và tăng 8,6% so cùng kỳ năm 2011.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong 8 tháng đầu năm 2012 đạt 8,5 tỷ USD, bằng 66,1% cùng kỳ năm 2011. Đầu tư trực tiếp thực hiện 8 tháng đầu năm 2012 đạt 7,28 tỷ USD, bằng 99,7% cùng kỳ năm 2011.
Về sản xuất công nghiệp, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12 tăng 5% so với tháng trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ. Tập trung ở các ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,5% công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%... Một số ngành công nghiệp từng là thế mạnh của Việt Nam đang có mức tăng thấp hoặc giảm so với năm 2011 là may mặc tăng 2,3%, sản xuất gang thép tăng 2,2%, sản xuất giày dép giảm 0,9%, sản xuất xi măng giảm 6%, sản xuất mô tô xe máy giảm 14,6%.
Chỉ số hàng tồn kho tại thời điểm ngày 01/12 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 20,1% so với cùng kỳ, trong đó những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Sản xuất xe có động cơ tăng 76,6%, sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 42,1%, chế biến và bảo quản thủy sản tăng 28,6%...Việc tăng lượng hàng tồn kho trong năm 2012 đã được dự báo trước, nhưng những con số nói trên cho thấy tình hình sản xuất của các doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện và sẽ có chiều hướng xấu hơn vào năm 2013.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP năm 2012 ước tính tăng 5,03% so với năm 2011. Cụ thể mức tăng GDP từng quý như sau: quý I tăng 4,64%; quý II tăng 4,08%; quý III tăng 5,05%; quý IV tăng 5,44%.
Biến động của TTCK qua chỉ số VN-Index.
Có thể nói, năm 2012 TTCK đã phản ánh đúng chân thật nhất về nền kinh tế và qua sự biến động suốt cả năm của chỉ số VN-Index cho ta thấy rõ nhất điều đó.
Biểu đồ khối lượng giao dịch và VNIndex năm 2012
(nguồn: công ty chứng khoán Vietcombank)
Sau năm 2011 trượt giảm, thị trường chứng khoán cũng ghi nhận những dấu hiệu tích cực hơn trong năm 2012 cùng với sự khởi sắc của nền kinh tế. những nỗ lực trong việc kiềm chế và ổn định lạm phát của NHNN và Chính phủ đã kéo theo mặt bằng lãi suất liên tiếp được hạ xuống sau khi lạm phát giảm mạnh giúp tháo gỡ khó khăn một phần cho các doanh nghiệp và thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế.
Tuy nhiên trong 6 tháng tiếp theo, thị trường lại cho thấy một bức tranh hoàn toàn khác biệt. Quá trình điều chỉnh từ cuối quý 2 xuất phát từ một số nguyên nhân chính như tăng trưởng GDP ở mức thấp, vấn đề nợ xấu và sự minh bạch trong hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp khó khăn, tồn kho lớn. Thị trường thiếu vắng thông tin tích cực, thêm vào đó là vụ việc ngày 21/8 là vụ việc “Bầu Kiên bị bắt”, sau đó là hàng loạt các vụ khởi tố các ông chủ ngân hàng, tính đến tháng 11/2012 vốn hóa thị trường đã mất hơn 92.000 tỷ đồng so với thời điểm ngày 20/8, thanh khoản của thị trường theo đó cũng suy kiệt dần.
Phải đến đầu tháng 12, thị trường mới cho thấy tín hiệu hồi phục với sự trở lại của niềm tin trước những chuyển biến tích cực hơn của nền kinh tế trong nước, cụ thể là việc kiểm soát thành công lạm phát cả năm dưới 7%, tạo cơ sở cũng như tiền đề để tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất và cũng đã được chính thức áp dụng từ 24/12, sự cải thiện của tổng cầu và GDP giúp kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Ngoài ra thị trường cũng phản ứng khá tích cực trước những cam kết của chính phủ về giải quyết nợ xấu và tồn kho bất động sản, các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Chốt phiên ngày 28/12, VNIndex dừng ở mức 413,73 điểm tăng 17,69% so với đầu năm. Khối lượng giao dịch trên cả 2 sàn đều tăng trên 50% so với năm 2011.
Tình hình các doanh nghiệp niêm yết và các nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán năm 2012 không thực sự phát huy tốt vai trò là kênh huy động vốn cho doanh nghiệp do sự kém hấp dẫn về khả năng sinh lời và triển vọng của các doanh nghiệp niêm yết bị tác động tiêu cực trước những biến động của nền kinh tế.
Mặc dù trong năm 2012, thị trường có phần khởi sắc hơn so với năm 2011 là một năm tồi tệ, những thị trường vẫn chưa hoàn thành tốt nghĩa vụ là một kênh dẫn vốn của doanh nghiệp. Nếu như trong năm 2010, huy động vốn qua phát hành cổ phiếu đạt hơn 49.000 tỷ đồng thì con số này có xu hướng sụt giảm trong 2 năm tiếp theo và chỉ con đạt hơn 10.000 tỷ đồng trong năm 2012. Ngoài ra, qua kênh IPO, thị trường cũng chỉ thu hút được xấp xỉ 300 tỷ đồng, chưa bằng 1/10 so với con số hơn 3.000 tỷ đồng của năm 2011.
Có thể thấy TTCK đã phán ánh đúng tính chất và tình hình ảm đạm của nền kinh tế trong nước trong hai năm qua. Bên cạnh đó, triển vọng kém tích cực và kết quả kinh doanh xấu đi của đa số doanh nghiệp khiến đầu tư vào TTCK kém hiệu quả và cổ phiếu của các doanh nghiệp này cũng trở nên kém hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư.
Cũng vì TTCK không thực sự phát huy tốt vai trò là kênh huy động vốn nên các doanh nghiệp chưa niêm yết không quá quan tâm tới chuyện lên sàn. Theo đó, tốc độ tăng trưởng của số lượng doanh nghiệp niêm yết (g) trên hai sàn có dấu hiệu sụt giảm rất mạnh trong năm 2011 (9,29%) và 2012 (2,59%) khác biệt hoàn toàn so với con số ấn tượng 35% trong giai đoạn từ 2008 đến 2010. Có thể thấy dòng vốn chày vào TTCK năm qua vẫn khá yếu.
Tổng số tiền huy động qua TTCK Số lượng DNNY trên 2 sàn
(nguồn: công ty chứng khoán Vietcombank)
Tình hình các công ty chứng khoán
Theo thống kê của UBCKNN, thì hiện tại có 105 công ty chứng khoán đang hoạt động. Trong đó, 10 công ty chứng khoán có thị phần lớn nhất năm 2012 đã chiếm đến hơn một nửa doanh số giao dịch, vì vậy hơn 90 công ty còn lại sẽ chia nhau phần còn lại. với tình hình thị trường èo uột như mấy năm gần đây thì các công ty chứng khoán nhỏ khó có thể tìm kiếm được lợi nhuận
Thống kê sơ bộ cho thấy, trong năm 2012 có tới gần 60 chi nhánh, phòng giao dịch chứng khoán bị đóng cửa. Nhiều công ty chứng khoán chỉ giữ lại bộ phận cơ hữu, gọn nhẹ để duy trì hoạt động, cầm cự qua giai đoạn gian khó.
Với thực trạng có quá nhiều công ty chứng khoán trên thị trường như vậy, hoạt động không hiệu quả và để tránh những rủi ro về tài chính, UBCKNN đã có kế hoạch tái cơ cấu lại công ty chứng khoán trong giai đoạn 2012-2015. UBCKNN sẽ tăng cường giám sát, kiểm tra các công ty chứng khoán có tình hình tài chính yếu, có các dấu hiệu bất ổn tài chính; buộc các công ty này giải trình rõ nguyên nhân năng lực tài chính yếu và có giải pháp khắc phục…
Sau đó, UBCKNN sẽ đưa ra các cảnh báo đối với các công ty chứng khoán yếu kém, sau đó rút dần các nghiệp vụ kinh doanh của công ty đó, buộc công ty đó phải có các biện pháp khắc phục bằng cách bán tài sản, khoanh nợ, thu hẹp hoạt động,…giải thể công ty khi có thể.
Cụ thể trong năm 2012, UBCKNN đã tiến hành kiểm tra trực tiếp tại 50 công ty chứng khoán, và đã có 9 trường hợp các công ty chứng khoán bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt bị buộc phải rút bớt nghiệp vụ môi giới của mình.
Phân tích những nguyên nhân gây biến động TTCK năm 2012.
Hàng hóa trên TTCK.
Năm 2012 được các chuyên gia kinh tế đánh giá là một năm khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước, khi mà nền kinh tế thế giới và trong nước vẫn chưa thoát ra được khỏi khủng hoảng. Thực tế cũng cho thấy điều đó, số lượng doanh nghiệp báo cáo lãi giảm từ 88% năm 2011 xuống 83% 2012, ngoài số lượng giảm, giá trị lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp cũng mất hơn 11.000 tỷ đồng so với năm 2012.
Nhìn trên biểu đồ và phân tích ở phần trên cũng cho ta thấy, tốc độ tăng trưởng các DNNY trên cả hai sàn đang giảm rất nhanh. Số lượng doanh nghiệp hủy niêm yết “nhiều” hơn số lượng doanh nghiệp niêm yết mới. Theo thống kê của UBCKNN, từ đầu năm đến nay thị trường có thêm 25 DNNY mới, thấp hơn một nửa so với năm 2011 (52 DNNY). Trong khi đó có tới 21 doanh nghiệp bị hủy niêm yết nên tổng số công ty niêm yết trên cả hai sàn hiện nay là 702 công ty. Số lượng doanh nghiệp hủy niêm yết “nhiều” như vậy trong một năm cũng cho thấy phần nào chất lượng hàng hóa và các tiêu chuẩn để được niêm yết trên TTCK Việt Nam.
Sự minh bạch hóa thông tin trên TTCK cũng là một yếu tố đáng bàn đến, ở các TTCK phát triển thì việc xem xét thông tin là yếu tố quan trong đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Tron khi đó, ở Việt Nam việc công bố báo cáo chậm trễ, thậm chí là không báo cáo là chuyện thường tình, gây ảnh hưởng xấu đến quyết định đầu tư cũng như thông tin trên thị trường. Bên cạnh đó minh bạch thông tin về các cổ đông, trong các công ty theo mô hình gia đình ở Việt Nam còn rất hạn hẹp, các cổ đông lớn thường là những người cùng một nhà, nên theo họ việc công bố thông tin công khai ra bên ngoài là không cần thiết.
Quá nhiều công ty chứng khoán so với quy mô thị trường.
Với 105 công ty đang hoạt động trên TTCK, có mức giao dịch trung bình khoảng 1000 tỷ đồng mỗi phiên. Trong đó, 10 công ty chứng khoán lớn nhất đã chiếm hơn 56% thị phần thì hơn 90 công ty phải chia nhau gần 40% thị phần còn lại, có thể thấy được sự khó khăn tới mức nào nhất là với những công ty chứng khoán nhỏ. Sự khó khăn này lại đẩy các công ty chứng khoán cạnh tranh không lành mạnh để tồn tại, trong đó có triển khai các dịch vụ mà nhà nước chưa cấp phép, sử dụng tài khoản của nhà đầu tư để chuộc lợi… Sự cạnh tranh không lành mạnh này ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của nhà đầu tư và sự ổn định của TTCK.
Hiện nay vấn đề tái cấu trúc TTCK đang được cơ quan quản lý gấp rút hoàn thiện và trọng tâm của đợt tái cấu trúc này là các công ty chứng khoán yếu kém. Và sẽ ngày càng có nhiều hơn những công ty chứng khoán phải rút nghiệp vụ môi giới, thu nhỏ hoạt động, hoặc giải thể,…để thị trường lành mạnh và ổn định hơn.
Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
Trong vòng 1 năm qua, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài và khối tự doanh chiếm rất ít doanh số giao dịch trên toàn thị trường. Trong báo cáo chiến lược đầu tư của công ty chứng khoán Bản Việt (VCSC) gửi cho nhà đầu tư tháng qua, ta thấy được sự suy giảm của nhà đầu từ ngoại và khối tự doanh trên cả hai sàn HSX và HNX.
(nguồn: công ty chứng khoán Bản Việt)
Nhìn vào đường kẻ màu vàng, ta thấy xu hướng sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài và khối tự doanh trong nước ngày càng ít, điều đó tương đương với sự lên ngôi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Trung bình nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm đến 80% giao dịch hàng ngày. Với số liệu này thì ta có hiểu rằng tại sao TTCK trong năm qua biến động mạnh như vậy, và các từ ngữ chuyên môn được nhắc tới là “ đánh lên, đánh xuống, làm giá và phím hàng”, chứ không phải “ triển vọng, tăng trưởng, minh bạch hay định giá đắt/rẻ” của các nhà đầu tư.
Tâm lý chung của nhà đầu tư nước ta hiện nay là khi bỏ tiền vào công ty phải được chia lời. Điều này được củng cố bằng việc các loại kỳ phiếu, tín phiếu hay cổ phiếu hiện thời vẫn được chia lời mỗi quý. Kiến thức của các nhà đầu tư cá nhân còn hạn chế, nên tâm lý đám đông hiện diện trong hầu hết các nhà đầu tư. Và ắt hẳn sẽ có cảnh xảy ra là nghe nói có chứng khoán bèn đi mua và khi đó thì giá chứng khoán sẽ tăng vọt, còn khi có thông tin thất thiệt liền rủ nhau đi bán làm cho giá của cổ phiếu rớt thê thảm và khi đó nhiều người sẽ mất tiền. Trong điều kiện như thế thì người ta không thấy cái hay của thị trường chứng khoán mà chỉ thấy tức tối và náo loạn.
Chính sách của cơ quan quản lý còn nhiều điểm bất cập.
Đến nay, trên lĩnh vực chứng khoán và TTCK ở Việt Nam, chúng ta đã có Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ là văn bản pháp lý cơ bản hướng dẫn thi hành các hoạt động trên TTCK và một số văn bản của Thủ tướng chính phủ và các văn bản của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Các văn bản này đã đưa ra một số quy định cho việc tổ chức vận hành Thị trường chứng khoán như thành viên, niêm yết, giao dịch, mua bán nội gián, thông tin sai sự thật, lũng đoạn thị trường, bấn khống và những vi phạm khác. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật có liên quan, vẫn còn nhiều thiếu sót trong việc sử lý vi phạm hoạt động chứng khoán. Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua không ghi nhận các tội danh liên quan đến hoạt động chứng khoán trong khi luật pháp về chứng khoán của các nước khác trong khu vực đều quy định một cách rất cụ thể và chặt chẽ về vấn đề này.
Ngoài ra, sự không nhất quán giữa các văn bản pháp luật dẫn đến khó thực thi cũng như là một vấn đề nổi cộm hiện nay. Thí dụ, tại Quyết định 139/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10/6/1999 cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% cổ phiếu của tổ chức phát hành, nhưng tại Quyết định 145/1999/QĐ-TTg lại cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu khi thực hiện cổ phần hóa. Sự khác biệt giữa các tỷ lệ này gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Hoặc trường hợp khác, khái niệm nhà đầu tư nước ngoài được hiểu khác nhau trong các văn bản pháp luật, khi thì bao hàm cả người cư trú, khi thì bao hàm người chuyển nhượng chứng khoán trên hai TTCK sơ cấp và thứ cấp rất khó khăn. Hoặc trường hợp tại các quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam, nhưng lại chưa có văn bản quy định về quản lý ngoại hối hoặc chính sách thuế cho nhà đầu tư nước ngoài.
Một số giải pháp cho sự phát triển bền vững của Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong năm 2012 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tái cấu trúc TTCK và doanh nghiệp bảo hiểm”. Theo đó, mục tiêu của Đề án là tái cấu trúc toàn diện thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm từng bước nâng cao vai trò, vị trí của TTCK và bảo hiểm. Tới năm 2020, TTCK sẽ trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn chủ đạo của nền kinh tế; hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ trong quá tình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.
Quan điểm tái cấu trúc thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp bảo hiểm phải dược thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện, bao gồm: tái cấu trúc cơ sở hàng hóa và sản phẩm dịch vụ; tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư; tái cấu trúc hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm, tái cấu trúc tổ chức thị trường.
Cụ thể, trong đề án tái cấu trúc này chính phủ đã đưa ra những giải pháp nhằm tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán là phân loại các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo 4 nhóm trên cơ sở mức độ rủi ro đối với thị trường để có biện pháp xử lý thích hợp.
Cụ thể, nhóm hoạt động lành mạnh, gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng trên 180%. Tổ chức kinh doanh chứng khoán trong nhóm này xây dựng và triển khai phương án tự củng cố nhằm bảo toàn vốn, lành mạnh hóa và từng bước nâng cao năng lực tài chính.
Nhóm hoạt động bình thường, gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng trên 180%. Tổ chức kinh doanh chứng khoán trong nhóm này xây dựng và triển khai phương án tự củng cố nhằm bảo toàn vốn, lành mạnh hóa và từng bước nâng cao năng lực tài chính.
Nhóm hoạt động bình thường gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 150% tới 180%. Tổ chức kinh doanh chứng khoán nằm trong nhóm này phải xây dựng, tổ chức thực hiện phương án khắc phục; cơ cấu lại danh mục đầu tư, thu hồi nợ, hạn chế các hoạt động đầu tư và dịch vụ chứng khoán tiềm ẩn rủi ro,…Bên cạnh đó, UBCKNN cũng sẽ giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này; tăng tần suất báo cáo về tình hình tài chính; phối hợp với các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán kiểm soát chặt chẽ hoạt động thanh toán giao dịch của tổ chức này.
Nhóm bị kiểm soát gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 120% tới 150%. Ngoài áp dụng các giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán hoạt động bình thường, UBCKNN sẽ xây dựng quy trình chi tiết để quá trình tái cơ cấu các tổ chức thuộc nhóm này diễn ra theo lộ trình trật tự, bảo đảm an toàn tài sản của khách hàng. Trong đó, sẽ yêu cầu các tổ chức thuộc nhóm này lành mạnh hóa và cũng cố năng lực tài chính; tự nguyện hoặc thực hiện rút bớt các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Về tái cấu trúc các doanh nghiệp bảo hiểm, cũng sẽ phân loại các doanh nghiệp bảo hiểm theo 4 nhóm: nhóm 1 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo khả năng thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc có lãi từ 2 năm liên tục trở lên; nhóm 2 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đảm bảo bằng khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc không có lãi trong 2 năm liên tục; nhóm 3 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ không đảm bảo khả năng thanh toán; nhóm 4 gồm các doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Quyết định cũng nêu rõ, nghiên cứu thành lập Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam theo nguyên tắc: thống nhất về bộ máy quản lý và điều hành; thống nhất về nền tảng công nghệ; thống nhất và chuẩn hóa tiêu chí niêm yết, chế độ báo cáo, công bố thông tin, tiêu chuẩn về thành viên và giao dịch…; phân tách và chuyên biệt hóa thị trường theo hàng hóa giao dịch, bao gồm một sàn giao dịch cổ phiếu và một sàn giao dịch trái phiếu, chứng khoán phái sinh.
(theo trang web của chính phủ: chinhphu.vn)
Như vậy, Chính phủ đã cho thấy sự quan tâm của mình đến sự phát triển của TTCK, cùng với đó nâng tầm vai trò của TTCK thành một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Qua đó ta có thể thấy TTCK đã phần nào thoát khỏi “lĩnh vực phi sản xuất” không được nhà nước hỗ trợ phát triển. Sau đây tôi xin đưa ra một số kiến nghị của mình nhằm giúp TTCK nước nhà phát triển bền vững trong tương lai không xa:
Hoàn thiện cơ chế chính sách.
Từng bước hoàn thiện các văn bản pháp lý, cơ chế chính sách cho sự phát triển của TTCK. Cơ quan chức năng cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật cho phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế; ban hành các văn bản hướng dẫn về một số nghiệp vụ chứng khoán như giao dịch bán khống, vay và cho vay chứng khoán, giao dịch phái sinh,… Trong đó, giao dịch bán khống là giao dịch nhà đầu tư đặt lệnh bán chứng khoán trong khi không có chứng khoán trong tài khoản. Nhà đầu tư thực hiện bán không khi dự đoán rằng giá chứng khoán sẽ giảm trong tương lai, nếu giá không giảm thì nhà đầu tư sẽ bị lỗ. Giao dịch phái sinh là giao dịch thỏa thuận trong 1 tương lai giữa người mua và người bán. Giao dịch phái sinh chủ yếu gồm có: hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi. Các công cụ phái sinh chủ yếu được dùng trong đầu cơ hoặc tự bảo hiểm mình khỏi những biến động giá trong tương lai. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, tiêu dùng của người dân giảm mạnh, cần xem xét chính sách thuế để đảm bảo sự phát triển bền vững của TTCK.
Cần có sự thống nhất giữa các văn bản, nghị định để rõ ràng, minh bạch trong quản lý cũng như xử phạt nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm. Cụ thể, cần có sự thống nhất giữa Quyết định 139/1999/QĐ-TTg và Quyết định 145/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sự thống nhất về khái niệm nhà đầu tư nước ngoài của cơ quan quản lý để có thể dể dàng quản lý, theo dõi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trên TTCK Việt Nam.
Khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư có tổ chức bằng cách giảm bớt thủ tục đăng ký của nhà đầu tư nước ngoài, kiểm soát tốt việc công bố thông tin, minh bạch trên TTCK để lấy lại niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài và quỹ đầu tư chuyên nghiệp.
Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa CSTT với CSTK trong việc thúc đầy sự phát triển của TTCK Việt Nam cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế. Mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định tiền tê, còn mục tiêu của CSTK là đạt đến một chính sách ngân sách minh bạch, tạo sự ổn định sản lượng, cải thiện phân bổ nguồn lực và kiểm soát ảnh hưởng của phân phối. Hai chính sách này có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc lẫn nhau và tác động đến nền kinh tế, hệ thống tài chính cũng như TTCK của Việt Nam. Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và CSTT, cả hai chính sách này phỉa thống nhất với nhau về mặt mục tiêu, phải tạo ra sự đồng bộ và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực thi. Như, khi bù đắp thâm hụt ngân sách, Bộ tài chính có thể phát hành trái phiếu chính phủ và NHNN mua vào, tạo thêm công cụ để điều tiết tiền tệ. Trong quá trình thực thi CSTK, đối với các khoản chi lớn, Bộ tài chính cần lên kế hoạch chi tiêu và thông báo trước cho NHNN để có thể kiểm soát tốt được cung tiền ra thị trường, đảm bảo hiệu quả của CSTT. Vì vậy rất cần một sự nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa hai chính sách, nhằm tăng cường sự kết nối và giảm sung đột giữa chúng để cùng đạt được mục tiêu đặt ra. Mối quan hệ giữa CSTK và CSTT cũng được chính minh qua mô hình IS-LM. Theo mô hình này, tăng chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất vì khi đó cung tiền giảm. Mô hình IS-LM giúp các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh CSTT và CSTK, để có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất trong nền kinh tế.
Sự phối hợp nhịp nhàng của CSTT và CSTK có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như đầu tư của nền kinh tế. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, củng cố niềm tin của người dân vào nền kinh tế, đẩy mạnh nguồn vốn vào đầu tư, đặc biệt vào lĩnh vực chứng khoán, giúp thị trường phục hồi và phát triển bền vững.
Tạo hàng hóa có chất lượng tốt cho TTCK.
Tiếp tục cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước để tạo hàng hóa có chất lượng tốt cho TTCK. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam theo phương thức thỏa thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược với nhau, để cải thiện hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị doanh nghiệp. Thực tế cho thấy một số doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài với tỷ lệ trên 20% đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ, cả về nguồn vốn và về công nghệ, cùng chia sẽ lợi ích của cả hai bên. Vì vậy, để cải thiện một bước về năng lực tài chính của các doanh nghiệp, Chính phủ có thể đưa mức sở hữu của các tổ chức nước ngoài đối với các doanh nghiệp nhà nước tăng thêm. Trong đó nhà nước vẫn phải giữ vai trò chính trong việc điều hành và tổ chức doanh nghiệp, nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế, xã hội. Việc tăng cường vốn sở hữu cho các tổ chức nước ngoài sẽ khuyến khích các tổ chức này đầu tư công nghệ, cũng như năng lực quản lý của mình để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tăng phúc lợi cho xã hội.
Cần có điều kiện chặt chẽ hơn đối với các doanh nghiệp muốn niêm yết trên sàn chứng khoán, thời gian tối thiểu niêm yết trên sàn OTC, số vốn chủ sở hữu tối thiểu, lợi nhuận dương trong hai năm gần nhất trước khi đăng ký,…Việc thắt chặt điều kiện niêm yết này sẽ hạn chế tối đa nguồn cung cổ phiếu chất lượng thấp, các công ty hoạt động yếu kém, từ đó tạo cho các nhà đầu tư nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn hơn, thu hút vốn từ bên ngoài, tạo tiền để cho các công ty tốt có điều kiện phát triển và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tái cấu trúc các công ty chứng khoán
Cần thực hiện tái cấu trúc theo hướng nâng cao yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu, yêu cầu về cơ sở vật chất, năng lực quản trị công ty và nguồn nhân lực, song song với việc thực hiện sát nhập, mua lại,… để giảm bớt về số lượng CTCK, hướng một số CTCK lớn phát triển mở rộng thị trường, tạo lập thị trường. Ở một số nước có TTCK phát triển, nhà tạo lập thị trường là các NHTM, CTCK, công ty bảo hiểm, quĩ đầu tư, quĩ hưu trí, công ty tài chính… Đây là những tổ chức có năng lực tài chính mạnh, kinh doanh chuyên nghiệp, có khả năng liên kết cao. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, không phải tất cả các tổ chức đều có thể trở thành nhà tạo lập thị trường. Vì vậy, trước mắt lựa chọn một số NHTM, CTCK lớn đáp ứng các điều kiện qui định thực hiện chức năng nhà tạo lập thị trường. Sự năng động và minh bạch của thị trường phụ thuộc không nhỏ vào hoạt động của các nhà tạo lập thị trường.
Tăng cường giám sát, quản lý hoạt động của các CTCK, không để các hành động cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thị trường, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các công ty khác trên thị trường. Đẩy mạnh công tác thanh tra sử phạt các tổ chức có dấu hiệu vi phạm cạnh tranh không lành mạnh như: thực hiện các nghiệp vụ mà UBCKNN không cho phép thực hiện. Đưa các công ty hoạt động yếu kém vào dạng kiểm soát, phân loại các CTCK nhằm quản lý dễ dàng hơn. Khuyến khích các CTCK lớn tăng cường mua lại các công ty nhỏ hơn để tăng hiệu quả hoạt động của công ty. Phạt nặng các CTCK vi phạm làm tiền đề để răn đe các công ty khác không dám vi phạm, có thể đình chỉ các hoạt động kinh doanh, giải thể hoặc buộc công ty phải phá sản nếu phát hiện vi phạm pháp luật, vì hiện nay có quá nhiều công ty chứng khoán.
Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư
Thứ nhất, xây dựng và phát triển Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán (STRC) thành đơn vị có đủ điều kiện và khả năng nghiên cứu về TTCK và đào tạo nguồn nhân lực trong nước. Việc phát triển bền vững của TTCK sẽ khó thực hiện nếu những người trực tiếp hay gián tiếp tham gia thị trường không có kiến thức vững chắc về TTCK. Vì vậy, UBCKNN cần phải thực hiện sự hỗ trợ thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, để nâng cao hơn nữa trình độ nguồn nhân lực cho TTCK.
Thứ hai, Tập trung phát triển các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường tính ổn định cho TTCK bằng các biện pháp khuyến khích, cũng như ưu tiên trong đầu tư của loại nhà đầu tư này, chính sách thuế thu nhập ưu đãi, tham gia TTCK dễ ràng. Xây dựng và công bố lộ trình với nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán phù hợp với luật đầu tư và các cam kết gia nhập WTO.
Thứ ba, Nâng cao năng lực trong phân tích dự báo TTCK, đẩy mạnh tuyên truyền thông tin để công chúng có thể hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như rủi ro khi tham gia TTCK, không tham gia thị trường theo sự ảnh hưởng của số đông, tạo cơ sở để phát triển lành mạnh và bền vững TTCK. Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và tuyên truyền thông tin. Hoàn thiện hệ thống đào tạo cấp phép hành nghề chứng khoán để đáp ứng các quy định của luật chứng khoán. Tăng cường phối hợp với các trường đại học xây dựng giáo trình, chương trình thực hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhằm tạo nguồn nhân lực cho thị trường ngay từ giảng đường đại học.
Tăng cường giám sát, quản lý thông tin.
Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin, về tin đồn gây bất lợi cho hệ thống thị trường tài chính, về rò rỉ thông tin.
Áp dụng các chuẩn mực về quản trị công ty cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là các chuẩn mực về công bố thông tin nhằm tạo sự bình đẳng và khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia thị trường chứng khoán. Sự minh bạch hóa các hoạt động kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự đổi mới và hoàn thiện, đồng thời xóa bỏ thói quen hoạt động khép kín, thiếu linh hoạt trong việc sử dụng cách thức huy động vốn từ xã hội.
Sự rò rỉ thông tin bất luận từ khâu nào đều được coi là tệ hại và nguyên nhân cơ bản để tin đồn xảy ra là do sự rò rỉ thông tin. Để có thể hạn chế được những tin đồn gây thất thiệt cho hệ thống tài chính. Một là, rà soát lại cách hướng dẫn thông tin của các doanh nghiệp, làm sao cho thật đồng nhất việc công bố thông tin của các doanh nghiệp. Hai là, tăng cường kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm khắc việc công bố thông tin chậm, công bố thông tin không chính xác, để rò rỉ thông tin bất luận đó là tổ chức hay cá nhân. Ba là, cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc, quy về tội hình sự nếu vi phạm gây hậu quả to lớn cho hệ thống tài chính. Xử lý nghiêm khắc các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng phương tiện truyền thông (báo chí, trang tin,…) đưa thông tin sai lệch, hoặc làm méo mó thông tin, hoặc thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ nguồn gốc. Bốn là, về phía cơ quan quản lý nhà nước cần có thông điệp rõ ràng, minh bạch về việc điều hành các chính sách kinh tế - tài chính cũng như các thông tin vĩ mô để mọi người dân biết, hiểu đúng và chấp hành nghiêm túc. Năm là, cần có sự kiểm soát thông tin với cả thị trường Upcom, bằng cách yêu cầu các công ty phải tuân thủ các yêu cầu về kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty như các doanh nghiệp đã niêm yết. Điều này vừa giúp giảm thiểu rủi ro trong thanh toán, vừa làm cho các giao dịch này được công khai, dễ kiểm soát, từng bước thu hút và thị trường có tổ chức. Mặt khác cũng cần cải tiến và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền để người dân tiếp cận được thông tin kịp thời về cơ chế chính sách của Nhà nước nói chung và TTCK nói riêng.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích thực trạng, biến động của TTCK từ năm 2008 đến nay, ta có thể thấy được toàn cảnh TTCK Việt Nam đang diễn ra trong thời gian gần đây. Các giải pháp mang tính ngắn hạn và dài hạn cũng cho ta thấy, việc tái cấu trúc lại và phát triển bền vững TTCK không thể tách rời việc tái cấu trúc nền kinh tế nói chung, đặc biệt là tái cấu trúc DNNN và hệ thống ngân hàng. Nhiều giải pháp tái cấu trúc và phát triển TTCK lại thuộc về việc lành mạnh hóa hoạt động của các ngân hàng, cổ phần hóa và tăng cường minh bạch các DNNN,… Do đó, hơn bao giờ hết, việc tái cấu trúc TTCK gắn liền với sự nghiệp tái cấu trúc nền kinh tế nói chung, đặc biệt là hệ thống ngân hàng và DNNN nói riêng. Để có thể thành công trong việc tái cấu trúc nền kinh tế, cũng như đưa nền kinh tế khỏi tình trạng suy thoái toàn cầu thì đòi hỏi phải có sự quyết tâm rất lớn của hệ thống chính trị, trong đó sự phối hợp của Chính sách tiền tệ và Chính sách tài khóa phải chặt chẽ và nhịp nhàng hơn hiện nay rất nhiều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Hạn chế những rủi ro trong đầu tư kinh doanh chứng khoán – Mạnh Yên, NXB Lao động.
Thị trường chứng khoán – Lê Văn Tư, NXB Thống kê, 2003
Giáo trình thị trường chứng khoán, Nguyễn Văn Nam, Vương Trọng Nghĩa, NXB Tài chính, 2002
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế - Trần Quang Phú, NXB Chính trị quốc gia, 2008.
Công ty chứng khoán Vietcombank (
Công ty chứng khoán KimLong (
Công ty chứng khoán Bản Việt (
Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE)
(
Trang web tổng cục thống kê Việt Nam:
(
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_giai_phap_cho_thi_truong_chung_khoan_trong_giai_doan_hien_nay_6904.doc