LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới ngày nay đã có nhiều tiến bộ mạnh mẽ về công nghệ thông tin (CNTT) từ một tiềm năng thông tin đã trở thành một tài nguyên thực sự, trở thành sản phẩm hàng hoá trong xã hội tạo ra một sự thay đổi to lớn trong lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng, cấu trúc kinh tế, tính chất lao động và cả cách thức quản lý trong các lĩnh vực của xã hội. Với sự phát triển nền công nghệ thông tin như vậy, việc ứng dụng CNTT vào đời sống hằng ngày trở nên quá quen thuộc với mọi người. Với sự phát triển như vậy mạng Internet đã phát triển mạnh mẽ, làm thay thay đổi những thói quen trong xã hội, nó mang lại lợi ích to lớn cho cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, thông tin liên lạc của con người.
Internet đã phát triển như vũ bão như vậy, với hàng trăm triệu máy tính trên mạng so với chỉ vài trăm máy ban đầu. Trong khi việc tạo ra một hệ thống mạng đã khó mà việc quản lý hệ thống mạng đó lại càng khó khăn hơn. Để giải quyết những vấn đề này phải sử dụng phần mềm Cacti để quản lý hệ thống mạng một cách hợp lý hơn.
Để nhận thấy được và hiểu rõ hơn sự quan trọng trong việc quản lý một hệ thống mạng một cách hợp lý thì nhóm 5 lớp MM02A đã tiến hành nghiên cứu và phân tích các vấn đề về giao thức SNMP và quản lý hệ thống mạng với Cacti.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ MẠNG VỚI GIAO THỨC SNMP. 1
1.1.KHÁI NIỆM QUẢN LÝ MẠNG1
1.2.GIAO THỨC QUẢN LÝ MẠNG SNMP. 3
1.2.1.Giới Thiệu về Giao thức SNMP. 3
1.2.2.Ưu điểm và các phiên bản giao thức SNMP. 4
1.2.2.1.Ưu điểm sử dụng giao thức SNMP. 4
1.2.2.2.Các phiên bản giao thức SNMP. 4
1.2.3.Quản lý truyền thông trong SNMP.12
1.2.3.1.Bộphận quản lý (manager).13
1.2.3.2.Agent.14
1.2.3.3.Cơ sở thông tin quản lý – MIB.14
1.2.3.4.Mô hình giao thức SNMP.15
1.2.4.Các thành phần trong giao thức SNMP. 20
1.2.5.Các cơ chế bảo mật SNMP.20
CHƯƠNG 2:TRIỂN KHAI QUẢN LÝ MẠNG VỚI PHẦN MỀM CACTI22
2.1.GIỚI THIỆU VỀ CACTI.22
2.2.MÔ HÌNH TRIỂN KHAI.22
2.3.CÀI ĐẶT CACTI.23
2.4.CẤU HÌNH CACTI.24
2.4.1.Thêm Thiết bị quản lý.24
2.4.2.Tạo graphs quản lý theo sơ đồ.26
2.4.3.Quản lý cơ bản hệ thống.26
KẾT LUẬN32
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5456 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu giao thức SNMP và phần mềm quản lý hệ thống mạng CACTI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đà Nẵng, 03/2011
BÁO CÁO ĐỒ ÁN MÔN HỌC
QUẢN LÝ HỆ THỐNG MẠNG
Đề tài: Tìm hiểu giao thức SNMP và phần mềm quản lý hệ thống mạng CACTI
Giảng viên hướng dẫn : Ths.Lê Tự Thanh
Lớp : MM02A – Nhóm 5
Sinh viên thực hiện - Vũ Hoàng Long
- Trần Thị Minh Trung
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới ngày nay đã có nhiều tiến bộ mạnh mẽ về công nghệ thông tin (CNTT) từ một tiềm năng thông tin đã trở thành một tài nguyên thực sự, trở thành sản phẩm hàng hoá trong xã hội tạo ra một sự thay đổi to lớn trong lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng, cấu trúc kinh tế, tính chất lao động và cả cách thức quản lý trong các lĩnh vực của xã hội. Với sự phát triển nền công nghệ thông tin như vậy, việc ứng dụng CNTT vào đời sống hằng ngày trở nên quá quen thuộc với mọi người. Với sự phát triển như vậy mạng Internet đã phát triển mạnh mẽ, làm thay thay đổi những thói quen trong xã hội, nó mang lại lợi ích to lớn cho cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, thông tin liên lạc của con người.
Internet đã phát triển như vũ bão như vậy, với hàng trăm triệu máy tính trên mạng so với chỉ vài trăm máy ban đầu. Trong khi việc tạo ra một hệ thống mạng đã khó mà việc quản lý hệ thống mạng đó lại càng khó khăn hơn. Để giải quyết những vấn đề này phải sử dụng phần mềm Cacti để quản lý hệ thống mạng một cách hợp lý hơn.
Để nhận thấy được và hiểu rõ hơn sự quan trọng trong việc quản lý một hệ thống mạng một cách hợp lý thì nhóm 5 lớp MM02A đã tiến hành nghiên cứu và phân tích các vấn đề về giao thức SNMP và quản lý hệ thống mạng với Cacti.
MỤC LỤC
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ MẠNG VỚI GIAO THỨC SNMP
KHÁI NIỆM QUẢN LÝ MẠNG
Các cơ chế quản lí mạng được nhìn nhận từ hai góc độ, góc độ mạng chỉ ra hệ thống quản lí nằm tại các mức cao của mô hình OSI và từ phía người điều hành quản lí hệ thống. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau về mô hình quản lí nhưng chúng đều thống nhất bởi ba chức năng quản lí cơ bản gồm: giám sát, điều khiển và đưa ra báo cáo tới người điều hành.
Chức năng giám sát có nhiệm vụ thu thập liên tục các thông tin về trạng thái của các tài nguyên được quản lí sau đó chuyển các thông tin này dưới dạng các sự kiện và đưa ra các cảnh báo khi các tham số của tài nguyên mạng được quản lí vượt quá ngưỡng cho phép.
Chức năng quản lí có nhiệm vụ thực hiện các yêu cầu của người quản lí hoặc các ứng dụng quản lí nhằm thay đổi trạng thái hay cấu hình của một tài nguyên được quản lí nào đó.
Chức năng đưa ra báo cáo có nhiệm vụ chuyển đổi và hiển thị các báo cáo dưới dạng mà người quản lí có thể đọc, đánh giá hoặc tìm kiếm, tra cứu thông tin được báo cáo.
Trong thực tế, tuỳ theo từng công việc cụ thể mà còn có một vài chức năng khác được kết hợp với các hệ thống quản lí và các ứng dụng quản lí được sử dụng như quản lí kế hoạch dự phòng thiết bị, dung lượng, triển khai dịch vụ, quản lí tóm tắt tài nguyên, quản lí việc phân phối tài nguyên mạng các hệ thống, quản lí việc sao lưu và khôi phục tình trạng hệ thống, vận hành quản lí tự động. Phần lớn các chức năng phức tạp kể trên đều nằm trong hoặc được xây dựng dựa trên nền tảng của ba chức năng quản lí lớp cao là giám sát, điều khiển và đưa ra báo cáo.
Hiện nay có hai phương pháp quản lý mạng được sử dụng khá phổ biến là quản lý mạng tập trung và quản lý mạng phân cấp.
Đối với hình thức quản lý mạng tập trung: Chỉ có một thiết bị quản lí thu nhận các thông tin và điều khiển toàn bộ các thực thể mạng. Các chức năng quản lí được thực hiện bởi manager, khả năng của hệ thống phụ thuộc rất lớn vào mức độ thông minh của manager. Kiến trúc này thường được sử dụng rất nhiều và có trung tâm quản trị mạng. So với các chức năng thuộc manager chức năng Agent thường rất đơn giản, thông tin trao đổi từ manager tới các agent thông qua các giao thức thông tin quản lí như giao thức SNMP (Simple Network Management Protocol). Tuy nhiên hệ thống quản lí tập trung rất khó mở rộng vì mức độ phức tạp của hệ thống tăng.
Hình 1.0: Mô hình quản lí tập trung
Ưu điểm: Quan sát cảnh báo và các sự kiện mạng từ một vị trí. Bảo mật được khoanh vùng đơn giản.
Nhược điểm: Lỗi hệ thống quản lí chính sẽ gây tác hại tới toàn bộ mạng. Tăng độ phức tạp khi có thêm các phần tử mới vào mạng.
Đối với phương thức quản lí phân cấp: Hệ thống được chia thành các vùng tùy theo nhiệm vụ quản lí tạo ra hệ thống phân cấp quản lí. Trung tâm xử lý đặt tại gốc của cây phân cấp, các hệ thống phân tán được đặt tại nhánh cây.
Hình 1.1: Mô hình quản lí phân tán
Ưu điểm: Có khả năng mở rộng hệ thống quản lí nhanh.
Nhược điểm: Danh sách thiết bị quản lí phải được xác định và cấu hình trước.
GIAO THỨC QUẢN LÝ MẠNG SNMP
Giới Thiệu về Giao thức SNMP
Vào đầu năm 1988, Tổ chức kiến trúc Internet IAB (Internet Architecture Board) nhận thấy sự cần thiết có bộ công cụ quản lí cho TCP/IP nên đã cho ra đời RFC 1052.RFC 1052 là các yêu cầu tiêu chuẩn hoá quản lí mạng và tập trung vào các vấn đề quản lí mạng phải thực hiện:
Đảm bảo tính mở rộng
Đảm bảo tính đa dạng để phát triển
Đảm bảo tính đa dạng trong quản lí
Bao trùm nhiều lớp giao thức
Tháng 4 năm 1993, SNMPv2 trở thành tiêu chuẩn quản lí mạng đơn giản thay thế SNMPv1. SNMPv2 bổ sung một số vấn đề mà SNMPv1 còn thiếu như nhận thực và bảo mật. Tuy nhiên, SNMPv2 khá phức tạp và khó tương thích với SNMPv1.
Năm 1997, SNMPv3 ra đời nhằm tương thích với các giao thức đa phương tiện trong quản lí mạng, phát triển trên nền java và đưa ra kiến trúc và giao thức mới như giao thức quản lí đa phương tiện HMMP (Hypermedia Management Protocol).
Ưu điểm và các phiên bản giao thức SNMP
Ưu điểm sử dụng giao thức SNMP
SNMP được thiết kế để đơn giản hóa quá trình quản lý các thành phần trong mạng. Nhờ đó các phần mềm SNMP có thể được phát triển nhanh và tốn ít chi phí. SNMP được thiết kế để có thể mở rộng các chức năng quản lý, giám sát. Khi có một thiết bị mới với các thuộc tính, tính năng mới thì người ta có thể thiết kế tùy chọn SNMP để phục vụ cho riêng mình. SNMP được thiết kế để có thể hoạt động độc lập với các kiến trúc và cơ chế của các thiết bị hỗ trợ SNMP.Các thiết bị khác nhau có hoạt động khác nhau nhưng hoạt động dựa trên giao thức SNMP là giống nhau.
Các phiên bản giao thức SNMP
Hiện tại SNMP có 3 phiên bản : SNMPv1, SNMPv2 và SNMPv3. Các phiên bản này khác nhau một chút ở định dạng bản tin và phương thức hoạt động. Hiện nay SNMPv1 là phổ biến nhất do có nhiều thiết bị tương thích nhất và có nhiều phần mềm hỗ trợ nhất. Trong khi đó chỉ có một số thiết bị và phần mềm hỗ trợ SNMPv3.
-Phiên bản SNMPv1: phiên bản đầu tiên của SNMP, có 5 phương thức Get, GetNext, Set, Response, Trap.
GetRequest : Bản tin GetRequest được manager gửi đến agent để lấy một thông tin nào đó. Trong GetRequest có chứa ID của object muốn lấy. Ví dụ: Muốn lấy thông tin tên của Device1 thì manager gửi bản tin GetRequest ID=1.3.6.1.2.1.1.5 đến Device1, tiến trình SNMP agent trên Device1 sẽ nhận được bản tin và tạo bản tin trả lời. Trong một bản tin GetRequest có thể chứa nhiều OID, nghĩa là dùng một GetRequest có thể lấy về cùng lúc nhiều thông tin.
GetNextRequest: Bản tin GetNextRequest cũng dùng để lấy thông tin và cũng có chứa OID, tuy nhiên nó dùng để lấy thông tin của object nằm kế tiếp object được chỉ ra trong bản tin. Chúng ta đã biết khi đọc qua những phần trên: một MIB bao gồm nhiều OID được sắp xếp thứ tự nhưng không liên tục, nếu biết một OID thì không xác định được OID kế tiếp. Do đó ta cần GetNextRequest để lấy về giá trị của OID kế tiếp. Nếu thực hiện GetNextRequest liên tục thì ta sẽ lấy được toàn bộ thông tin của agent.
SetRequest: Bản tin SetRequest được manager gửi cho agent để thiết lập giá trị cho một object nào đó. Ví dụ: Có thể đặt lại tên của một máy tính hay router bằng phần mềm SNMP manager, bằng cách gửi bản tin SetRequest có OID là 1.3.6.1.2.1.1.5.0 (sysName.0) và có giá trị là tên mới cần đặt.
GetResponse: Mỗi khi SNMP agent nhận được các bản tin GetRequest, GetNextRequest hay SetRequest thì nó sẽ gửi lại bản tin GetResponse để trả lời. Trong bản tin GetResponse có chứa OID của object được request và giá trị của object đó.
Trap: Bản tin Trap được agent tự động gửi cho manager mỗi khi có sự kiện xảy ra bên trong agent, các sự kiện này không phải là các hoạt động thường xuyên của agent mà là các sự kiện mang tính biến cố. Ví dụ: Khi có một port down, khi có một người dùng login không thành công, hoặc khi thiết bị khởi động lại, agent sẽ gửi trap cho manager. Tuy nhiên không phải mọi biến cố đều được agent gửi trap, cũng không phải mọi agent đều gửi trap khi xảy ra cùng một biến cố. Việc agent gửi hay không gửi trap cho biến cố nào là do hãng sản xuất device/agent quy định.
Hình 1.2 : Các phương thức trong SNMPv1
Cấu trúc của PDU GetRequest:
+ Request-id : mã số của request. ID này là số ngẫu nhiên do manager tạo ra, agent khi gửi bản tin GetResponse cho request nào thì nó phải gửi requestID giống như lúc nhận. Giữa manager và agent có thể có nhiều request & reponse, một request và một response là cùng một phiên trao đổi khi chúng có requestID giống nhau.
+ Error-status : nếu = 0 là thực hiện thành công không có lỗi, nếu 0 là có lỗi xảy ra và giá trị của nó mô tả mã lỗi. Trong bản tin GetRequest, GetNextRequest, SetRequest thì error-status luôn = 0.
+ Error-index : số thứ tự của objectid liên quan đến lỗi nếu có. Trong variable-bindings có nhiều objectid, được đánh số từ 1 đến n, một bản tin GetRequest có thể lấy cùng lúc nhiều object.
+ Variable-bindings : danh sách các cặp [ObjectID – Value] cần lấy thông tin, trong đó objectId là định danh của object cần lấy, còn value không mang giá trị. Khi agent gửi bản tin trả lời thì nó sẽ copy lại bản tin này và điền vào value bằng giá trị của object.
Hình 1.3 : Cấu trúc Get/GetNext/Set/Response PDU
Hình 1.4: sử dụng Wireshark kiểm tra
Trong hình trên là cấu trúc một bản tin SNMP với PDU là GetRequest. Bao gồm các thông tin :
+ Version là v1, số 0 trong ngoặc là giá trị của trường version, nếu giá trị này là 0 nghĩa là version1.
+ Community là “public”.
+ Request-id = 2142061952.
+ Error-status = 0, nghĩa là không có lỗi. Trong bản tin GetResponse thì error-status mới được dùng.
+ Error-index = 0.
+ Phần variable-bindings bao gồm 1 item, mỗi item là 1 cặp objectid-value.
+ Objectid là .1.3.6.1.2.1.1.3.0, theo mib-2 thì đó là sysUpTime.0
+ Scalar instance index = 0, đây là chỉ số index của sysUptime. Do một thiết bị chỉ có một khái niệm sysUptime nên index là 0 (sysUptime.0). Nếu bạn request ifDescr chẳng hạn thì mỗi interface sẽ có một description khác nhau và sẽ có index khác nhau.
+ value = unSpecified. Do bản tin là GetRequest nên value sẽ không mang giá trị, giá trị sẽ được ghi vào và trả về trong bản tin GetResponse.
Cấu trúc của PDU GetResponse: Cấu trúc GetNextRequest giống với GetRequest, chỉ khác ở byte chỉ ra bản tin là GetNextRequest PDU. Hình sau là bản tin GetNextRequest với objectid là sysContact, sau đó agent sẽ gửi bản tin GetReponse trả lời với Objectid là sysName, vì sysName nằm sau sysContact trong MIB. Chú ý request-id là giống nhau.
Hình 1.5 : cấu trúc của get-next
Cấu trúc của PDU SetRequest: Cấu trúc SetRequest cũng giống với GetRequest, objectid-value chỉ ra đối tượng và giá trị cần set.
Hình 1.6: cấu trúc PDU setrequest
Cấu trúc của PDU Trap : Cấu trúc của bản tin trap của SNMPv1 như sau :
+ Enterprise : kiểu của object gửi trap. Đây là một OID giúp nhận dạng thiết bị gửi trap là thiết bị gì; nhận dạng chi tiết đến hãng sản xuất, chủng loại, model. OID này bao gồm một chỉ số doanh nghiệp (enterprise number) và chỉ số id của thiết bị của
hãng do hãng tự định nghĩa.
+ Agent address : địa chỉ IP của nguồn sinh ra trap. Có thể bạn sẽ thắc mắc tại sao lại có IP của nguồn sinh ra trap trong khi bản tin IP chứa gói SNMP đã có địa chỉ nguồn. Giả sử mô hình giám sát của bạn như sau : tất cả trap sender được cấu hình để gửi trap đến một trap receiver trung gian, gọi là trap relay, sau đó trap relay mới gửi đến nhiều trap receiver cùng lúc thì lúc này bản tin trap nhận được tại trap receiver sẽ có IP source là của trap relay, trong khi IP của nguồn phát sinh trap thực sự nằm trong agent address.
+ Generic-trap: kiểu của các loại trap generic.
+ Specific-trap: kiểu của các loại trap do người dùng tự định nghĩa.
+ Time-stamp: thời gian tính từ lúc thiết bị được khởi động đến lúc gửi bản tin trap, tính bằng centi giây.
+ Variable-bindings: các cặp objectID – values mô tả các object có liên quan đến trap.
- Phiên bản SNMPv2: SNMPv2 tích hợp khả năng liên điều hành từ manager tới manager và hai đơn vị dữ liệu giao thức mới. Khả năng liên kết điều hành manager-manager cho phép SNMP hỗ trợ quản lí mạng phân tán trong một trạm và gửi báo cáo tới một trạm khác. Hai đơn vị dữ liệu giao thức PDU (Protocol Data Unit) là GetbulkRequest và InformRequest. Các PDU này liên quan tới xử lý lỗi và khả năng đếm của SNMPv2. Khả năng đếm trong SNMPv2 sử dụng bộ đếm 64 bit (hoặc 32) để duy trì trạng thái của các liên kết và giao diện.
MIB cho SNMPv2: MIB trong SNMPv2 định nghĩa các đối tượng mô tả tác động của một phần tử SNMPv2.MIB gồm 3 nhóm:
Nhóm hệ thống (System group): là một mở rộng của nhóm system trong MIB-II gốc, bao gồm một nhóm các đối tượng cho phép một Agent SNMPv2 mô tả các đối tượng tài nguyên của nó.
Nhóm SNMP (SNMP group): một cải tiến của nhóm SNMP trong MIB-II gốc, bao gồm các đối tượng cung cấp các công cụ cơ bản cho hoạt động giao thức.
Nhóm các đối tượng MIB (MIB objects group): một tập hợp các đối tượng liên quan đến các SNMPv2-trap PDU và cho phép một vài phần tử SNMPv2 cùng hoạt động, thực hiện như trạm quản trị, phối hợp việc sử dụng của chúng trong toán tử Set của SNMPv2
Nhóm hệ thống: nhóm system định nghĩa trong SNMPv2 giống trong MIB-II và bổ sung một vài đối tượng mới.
Nhóm SNMP: Nhóm này gần giống như nhóm SNMP đươc định nghĩa trong MIB-II nhưng có thêm một số đối tượng mới và loại bỏ một số đối tượng ban đầu. Nhóm SNMP chứa một vài thông tin lưu lượng cơ bản liên quan đến toán tử SNMPv2 và chỉ có một trong các đối tượng là bộ đệm chỉ đọc 32-bit.
Nhóm đối tượng MIB: Nhóm các đối tượng MIB chứa các đối tượng thích hợp thêm vào việc điều khiển các đối tượng MIB.
Hình 1.7: Cấu trúc bản tin SNMPv2
Cấu trúc bản tin SNMPv2 :
Trường phiên bản (Version) thể hiện phiên bản của giao thức SNMPv2.
Trường Community là một chuỗi password xác nhận cho cả tiến trình lấy và thay đổi dữ liệu. SNMP PDU chứa kiểu điều hành (get, set), yêu cầu đáp ứng (cùng số thứ tự với bản tin gửi đi) - cho phép người điều hành gửi đồng thời nhiều bản tin. Biến ghép gồm các thiết bị được đặc tả trong RFC 2358 và chứa cả giá trị đặt tới đối tượng.
Trường đơn vị dữ liệu giao thức (PDU) gồm có các trường con: Kiểu đơn vị dữ liệu giao thức, nhận dạng các yêu cầu (Request ID), trạng thái lỗi, chỉ số lỗi, các giá trị và đối tượng.
Các kiểu đơn vị dữ liệu giao thức PDU thể hiện các bản tin sử dụng trong SNMPv2 gồm có:
GetRequest: Câu lệnh GetRequest được sử dụng giữa Manager tới Agent. Câu lệnh này được sử dụng để đọc biến MIB đơn hoặc danh sách các biến MIB từ các Agent đích.
GetNextRequest: Câu lệnh GetNextRequest tương tự như câu lệnh GetRequest, tuy nhiên tuỳ thuộc vào agent trong khoản mục kế tiếp của MIB. Các biến được lưu trong thiết bị và được coi như đối tượng bị quản lí. Vì vậy,câu lệnh GetNextRequest mở rộng các biến và được đọc theo tuần tự.
SetRequest: Câu lệnh SetRequest là câu lệnh được gửi đi từ Manager tới Agent như hai câu lệnh trên. SetRequest tìm kiếm các thông tin mở rộng trongbảng MIB và yêu cầu Agent đặt giá trị cho các đối tượng quản lý hoặc các đối tượng chứa trong câu lệnh.
GetResponse: Câu lệnh GetResponse là câu lệnh từ Agent tới Manager. Câu lệnh này cung cấp cơ chế đáp ứng cho các câu lệnh GetRequest, GetNextRequest và SetRequest.
Trap: Trap là câu lệnh độc lập, không phụ thuộc vào đáp ứng hoặc yêu cầu từcác Manager hoặc các Agent. Trap đưa ra các thông tin liên quan tới các điều kiện được định nghĩa trước và được gửi từ các Agent tới Manager.
GetBulkRequest: Chức năng của câu lệnh GetBulkRequest tương tự như câu lệnh GetNextRequest ngoại trừ vấn đề liên quan tới số lượng dữ liệu được lấy ra. GetBulkRequest cho phép Agent gửi lại Manager dữ liệu liên quan tới nhiều đối tượng thay vì từng đối tượng bị quản lý. Như vậy, GetBulkRequest có thể giảm bớt lưu lượng truyền dẫn và các bản tin đáp ứng thông báo về các điều kiện vi phạm.
InformRequest: Câu lệnh InformRequest cung cấp khả năng hỗ trợ các Manager bố trí theo cấu hình phân cấp.Câu lệnh này cho phép một Manager trao đổi thông tin với các Manager khác.
Hình 1.8 : Bảng thông tin trong trường PDU Type
Trong trường PDU Type, các giá trị thể hiện như sau:
- Phiên bản SNMPv3: SNMPv3 dựa trên việc thực hiện giao thức, loại dữ liệu và uỷ quyền như SNMPv2 và cải tiến phần an toàn. SNMPv3 cung cấp an toàn truy nhập vào các thiết bị bằng cách kết hợp sự xác nhận và mã khoá các gói tin trên mạng. Những đặc điểm bảo mật cung cấp trong SNMPv3 là:
Tính toàn vẹn thông tin : Đảm bảo các gói tin không bị sửa trong khi truyền.
Sự xác nhận: Xác nhận nguồn của thông tin gửi đến.
Mã khoá: Đảo nội dung của gói tin, ngăn cản việc gửi thông báo từ nguồn không được xác nhận.
Tuy nhiên việc sử dụng SNMPv3 rất phức tạp và cồng kềnh dù nó là sự lựa chọn tốt nhất cho vấn đề bảo mật của mạng. Việc sử dụng sẽ tốn rất nhiều tài nguyên do trong mỗi bản tin truyền đi sẽ có phần mã hóa BER. Phần mã hóa này sẽ chiếm một phần băng thông đường truyền do đó làm tăng phí tổn mạng. Mặc dù được coi là phiên bản đề nghị cuối cùng và được coi là đầy đủ nhất nhưng SNMPv3 vẫn chỉ là tiêu chuẩn dự thảo và vẫn đang được nghiên cứu hoàn thiện.
Khuôn dạng bảng tin SNMPv3: RFC 2572 định nghĩa các khuôn dạng bản tin SNMPv3. Khuôn dạng bản tin SNMPv3 được phân chia trong trong bốn phần
Dữ liệu chung (Common data)- Trường này xuất hiện trong tất cả các bản tin SNMPv3.
Bảo mật mô hình dữ liệu (Security model data)- Vùng này có ba phần: phần chung, phần dành cho sự chứng thực và phần cho dữ liệu riêng.
Context – Hai trường nhận dạng và tên được dùng để cung cấp context cho PDU nào sẽ phải xử lý.
PDU –Vùng này chứa một SNMPv2c PDU.
Quản lý truyền thông trong SNMP.
Hệ thống quản lý mạng dựa trên SNMP gồm ba thành phần: bộ phận quản lý
(manager), thiết bị chịu sự quản lý – còn gọi là đại lý (agent) và cơ sở dữ liệu gọi là Cơ sở thông tin quản lý (MIB). Mặc dù SNMP là một giao thức quản lý việc chuyển giao thông tin giữa ba thực thể trên, song nó cũng định nghĩa mối quan hệ client-server (chủ tớ). Cơ sở dữ liệu do agent SNMP quản lý là đại diện cho MIB của SNMP. Minh họa mối quan hệ giữa ba thành phần SNMP này.
Hình 1.9: Mối quan hệ giữa các thành phần SNMP
Bộ phận quản lý (manager).
Bộ phận quản lý là một chương trình vận hành trên một hoặc nhiều máy tính trạm.
Tùy thuộc vào cấu hình, mỗi bộ phận quản lý có thể được dùng để quản lý một mạng con, hoặc nhiều bộ phận quản lý có thể được dùng để quản lý cùng một mạng con hay một mạng chung. Tương tác thực sự giữa một người sử dụng cuối (end-user) và bộ phận quản lý được duy trì qua việc sử dụng một hoặc nhiều chương trình ứng dụng mà, cùng với bộ phận quản lý, biến mặt bằng phần cứng thành trạm quản lý mạng (NMS). Ngày nay, trong thời kỳ các chương trình giao diện người sử dụng đồ họa (GUI), hầu hết những chương trình ứng dụng sẽ cho ra giao diện sử dụng con trỏ và chuột để phối hợp hoạt động với bộ phận quản lý tạo ra những bản đồ họa và biểu đồ cung cấp những tổng kết hoạt động của mạng dưới dạng thấy được. Qua bộ phận quản lý, những yêu cầu được chuyển tới một hoặc nhiều thiết bị chịu sự quản lý ban đầu SNMP được phát triển để sử dụng trên mạng TCP/IP và những mạng này tiếp tục làm mạng vận chuyển cho phần lớn các sản phẩm quản lý mạng dựa trên SNMP. Tuy nhiên SNMP cũng có thể được chuyển qua NetWare IPX và những cơ cấu vận chuyển khác.
Agent.
Thiết bị chịu sự quản lý (Agent) là một nút mạng hỗ trợ giao thức SNMP và thuộc về mạng bị quản lý. Thiết bị có nhiệm vụ thu thập thông tin quản lý và lưu trữ để phục vụ cho hệ thống quản lý mạng. Những thiết bị chịu sự quản lý, đôi khi được gọi là những phần tử mạng, có thể là các bộ định tuyến và máy chủ truy nhập (Access Server), switch, bridge, hub và máy tính hay là máy in trong mạng. Mỗi thiết bị chịu sự quản lý bao gồm phần mềm hoặc phần sụn (firmware) dưới dạng mã phiên dịch những yêu cầu SNMP và đáp ứng của những yêu cầu đó. Phần mềm hoặc phần sụn này được coi là một agent. Mặc dù mỗi thiết bị bắt buộc bao gồm một agent chịu quản lý trực tiếp, những thiết bị không tương thích với SNMP cũng có thể quản lý được nếu như chúng hỗ trợ một giao thức quản lý độc quyền. Để thực hiện được điều này phải có agent ủy nhiệm (proxy agent). Proxy agent này có thể được coi như một bộ chuyển đổi giao thức vì nó phiên dịch những yêu cầu SNMP thành giao thức quản lý độc quyền của thiết bị không hoạt động theo giao thức SNMP. Mặc dù SNMP chủ yếu là giao thức đáp ứng thăm dò (poll-respond) với những yêu cầu do bộ phận quản lý tạo ra dẫn đến những đáp ứng trong agent, agent cũng có khả năng đề xướng ra một “đáp ứng tự nguyện”. Đáp ứng tự nguyện này là điều kiện cảnh báo từ việc giám sát agent với hoạt động đã được định nghĩa trước và đáp ứng này cảnh báo việc agent đã tới ngưỡng định trước. Dưới sự điều khiển SNMP, việc truyền cảnh báo này được gọi là cái bẫy (TRAP).
Cơ sở thông tin quản lý – MIB.
Mỗi thiết bị chịu sự quản lý có thể có cấu hình, trạng thái và thông tin thống kê định nghĩa chức năng và khả năng vận hành của thiết bị. Thông tin này rất đa dạng, có thể bao gồm việc thiết lập chuyển mạch phần cứng, những giá trị khác nhau lưu trữ trong các bảng ghi nhớ dữ liệu, bộ hồ sơ hoặc các trường thông tin trong hồ sơ lưu trữ ở các file và những biến hoặc thành phần dữ liệu tương tự. Nhìn chung, những thành phần dữ liệu này được coi là Cơ sở thông tin quản lý của thiết bị chịu sự quản lý. Xét riêng, mỗi thành phần dữ liệu biến đổi được coi là một đối tượng bị quản lý và bao gồm tên, một hoặc nhiều thuộc tính và một tập các hoạt động (operation) thực hiện trên đối tượng đó. Vì vậy MIB định nghĩa loại thông tin có thể khôi phục từ một thiết bị chịu sự quản lý và cách cài đặt thiết bị mà hệ thống quản lý điều khiển.
Mô hình giao thức SNMP.
SNMP sử dụng các dịch vụ chuyển tải dữ liệu thông qua các giao thức UDP/IP. Một ứng dụng của Manager phải nhận dạng được Agent cần thông tin với nó. Một ứng dụng của Agent được nhận dạng bởi địa chỉ IP của nó và một cổng UDP. Một ứng dụng Manager đóng gói yêu cầu SNMP trong một UDP/IP, UDP/IP chứa mã nhận dạng cổng nguồn, địa chỉ IP đích và mã nhận dạng cổng UDP của nó. Khung UDP sẽ được gửi đi thông qua thực thể IP tới hệ thống chịu sự quản lý, tại đó khung UDP sẽ được phân phối bởi thực thể UDP tới Agent. Tương tự, các bản tin TRAP phải được các Manager nhận dạng. Các bản tin sử dụng địa chỉ IP và mã nhận dạng cổng UDP của Manager SNMP. SNMP sử dụng 3 lệnh cơ bản là Read, Write, Trap và một số lệnh tùy biến để quản lý thiết bị
Lệnh Read: Được SNMP dùng để đọc thông tin từ thiết bị. Các thông tin này
được cung cấp qua các biến SNMP lưu trữ trên thiết bị và được thiết bị cập nhật.
Lệnh Write: Được SNMP dùng để ghi các thông tin điều khiển lên thiết bị bằng cách thay đổi giá trị các biến SNMP.
Lệnh Trap: Dùng để nhận các sự kiện gửi từ thiết bị đến SNMP. Mỗi khi có
một sự kiện xảy ra trên thiết bị một lệnh Trap sẽ được gửi tới NMS.
SNMP điều khiển, theo dõi thiết bị bằng cách thay đổi hoặc thu thập thông tin qua các biến giá trị lưu trên thiết bị. Các Agent cài đặt trên thiết bị tương tác với những chip điều khiển hỗ trợ SNMP để lấy nội dung hoặc viết lại nội dung.
Giao thức SNMP sử dụng kiểu kết nối vô hướng (connectionless) để trao đổi thông tin giữa các phần tử và hệ thống quản lý mạng (cụ thể là UDP - User Datagram Protolcol - Giao thức dữ liệu đồ người sử dụng). UDP truyền các gói tin theo các khối riêng biệt. Tuy vậy có thể tùy ý sử dụng các giao thức khác để truyền các gói tin SNMP. Khi gửi các gói tin qua mạng, các phần tử mạng hay hệ thống quản lý mạng vẫn giữ nguyên định dạng của SNMP.
Hình 1.10 : Mô hình giao thức hoạt động SNMP
Ta thấy, SNMP thuộc về lớp ứng dụng trong mô hình giao thức, nó sử dụng UDP làm
giao thức lớp vận chuyển trên mạng IP.
Quản lý liên lạc giữa manager với các agent: Nhìn trên phương diện truyền thông, manager và các agent cũng là những người sử dụng, sử dụng một giao thức ứng dụng. Giao thức quản lý yêu cầu cơ chế vận chuyển để hỗ trợ tương tác giữa các agent và manager. Manager trước hết phải xác định được các agent mà nó muốn liên lạc. Có thể xác định được ứng dụng agent bằng địa chỉ IP của nó và cổng UDP được gán cho nó. Cổng UDP 161 được dành riêng cho các agent SNMP. Manager gói lệnh SNMP vào một tiêu đề UDP/IP. Tiêu đề này chứa cổng nguồn, địa chỉ IP đích và cổng 161. Một thực thể IP tại chỗ sẽ chuyển giao gói UDP tới hệ thống bị quản lý. Tiếp đó, một thực thể UDP tại chỗ sẽ chuyển phát nó tới các agent. Tương tự như vậy, lệnh TRAP cũng cần xác định những manager mà nó cần liên hệ. Chúng sử dụng địa chỉ IP cũng như cổng UDP dành cho SNMP manager, đó là cổng 162.
Hình 1.11 : Vị trí của SNMP trong chồng giao thức TCP/IP
Cơ chế vận chuyển thông tin giữa manager và agent: Việc lựa chọn cơ chế vận chuyển là độc lập với giao thức truyền thông đó. SNMP chỉ đòi hỏi cơ chế vận chuyển không tin cậy dữ liệu đồ (datagram) để truyền đưa các PDU (đơn vị dữ liệu giao thức) giữa manager và các agent. Điều này cho phép sự ánh xạ của SNMP tới nhiều nhóm giao thức. Mô hình vận chuyển datagram giảm được độ phức tạp của ánh xạ tầng vận chuyển. Tuy nhiên, vẫn có một số lựa chọn cho tầng vận chuyển. Các tầng vận chuyển khác nhau có thể sử dụng nhiều kĩ thuật đánh địa chỉ khác nhau. Các tầng vận chuyển khác nhau có thể đưa ra những hạn chế quy mô của PDU. Ánh xạ tầng vận chuyển có trách nhiệm phải xử lý các vấn đề đánh địa chỉ, hạn chế quy mô PDU và một số tham số tầng vận chuyển khác. Trong phiên bản thứ hai của SNMP, người ta đã đơn giản hóa quá trình ánh xạ tới các chuẩn vận chuyển khác nhau. Giao thức quản lý được tách khỏi môi trường vận chuyển và điều này cũng được khuyến khích sử dụng cho bất cứ nhóm giao thức nào.
Bảo vệ truyền thông liên lạc giữa manager và các agent khỏi sự cố: Trong điều kiện mạng thiếu ổn định và tin cậy thì việc truyền thông quản lý càng trở nên quan trọng. Làm thế nào để các manager liên lạc với các agent một cách tin cậy? Việc SNMP sử dụng cơ chế UDP để liên lạc đã làm thiếu đi độ tin cậy vì UDP hoạt động theo kiểu dữ liệu đồ. SNMP để lại cho chương trình manager hoàn toàn chịu trách nhiệm và xử lý việc mất thông tin. Các lệnh GET, GET-NEXT và SET đều được phúc đáp bằng một lệnh GET-RESPONSE. Hệ thống có thể dễ dàng phát hiện ra việc bị mất một lệnh khi không nhận được lệnh trả lời. Nó có thể lặp lại yêu cầu đó một lần nữa hoặc có những hành động khác. Tuy nhiên, các bản tin TRAP do agent tạo ra lại không yêu cầu phúc đáp. Khi bị thất lạc bản tin TRAP, các chương trình agent sẽ không biết được điều đó (tất nhiên là manager cũng không hay biết về điều này). Thông thường các bản tin TRAP mang những thông tin hết sức quan trọng cho manager, do vậy manager cần chú ý và cần bảo đảm việc vận chuyển chúng một cách tin cậy. Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để vận chuyển mà tránh được mất mát, thất lạc các bản tin TRAP? Ta có thể thiết kế cho các agent gửi lặp lại bản tin TRAP. Biến số MIB có thể đọc số lần lặp lại theo yêu cầu. Lệnh SET của manager có thể đặt cấu hình cho biến số này. Có một cách khác là agent có thể lặp lại lệnh TRAP cho đến khi manager đặt biến số MIB để chấm dứt sự cố. Tuy nhiên, cả hai phương pháp trên đều chỉ cho ta những giải pháp từng phần. Trong trường hợp thứ nhất, số lần lặp lại có thể không đủ để đảm bảo liên lạc một cách tin cậy. Trong trường hợp thứ hai, một sự cố mạng có thể dẫn đến việc hàng loạt bản tin TRAP bị mất tùy thuộc vào tốc độ mà các agent tạo ra chúng. Điều này làm cho sự cố mạng trở nên trầm trọng hơn. Trong cả hai trường hợp, nếu ta cần chuyển những bản tin TRAP tới nhiều manager thì có thể xảy ra tình trạng không nhất quán giữa các manager hoặc xảy ra hiện tượng thất lạc thông tin rất phức tạp. Nếu các agent phải chịu trách nhiệm thiết kế cho việc phục hồi những bản tin TRAP thì càng làm tăng thêm độ phức tạp trong việc quản lý các agent trong môi trường đa nhà chế tạo. Người ta cũng đã cố gắng cải tiến cơ chế xử lý bản tin sự cố cho phiên bản thứ hai của SNMP. Thứ nhất là đơn nguyên TRAP được bỏ đi và thay thế nó bằng một lệnh GET/RESPONSE. Lệnh này do agent tạo ra và chuyển đến cho “manager bẫy” tại cổng UDP-162. Điều này phản ánh quan điểm là bộ phận quản lý sự cố có thể thống nhất các bản tin sự cố rồi trả lời cho các yêu cầu ảo. Bằng cách bỏ đi một đơn thể, giao thức được đơn giản hóa. Người ta cũng bổ sung thêm một cơ sở thông tin quản lí đặc biệt TRAP MIB để thống nhất việc xử lý sự cố, các manager nhận bản tin về các sự cố này và việc lặp lại được thực hiện để cải thiện độ tin cậy trong việc vận chuyển thông tin.
Ảnh hưởng của tầng vận chuyển tới khả năng quản lí mạng: Việc sử dụng mạng bị quản lý để hỗ trợ các nhu cầu thông tin liên lạc quản lý (quản lý trong băng) đã gây ra nhiều vấn đề thú vị. Việc quản lý trong băng và ngoài băng độc lập với việc lựa chọn giao thức quản lý. Quản lý trong băng có thể dẫn đến tình trạng mất liên lạc với một agent đúng lúc agent đó cần sự chú ý về quản lý (tùy thuộc vào nguồn của sự cố). Người ta có thể làm giảm nhẹ được vấn đề này nếu chính các thực thể mà agent quản lý lại bảo vệ đường truy nhập tới các agent này. Có một ảnh hưởng nhỏ về khả năng quản lý xuất hiện trong việc đánh địa chỉ tầng vận chuyển. Ví dụ: có thể xác định duy nhất một agent SNMP bằng địa chỉ IP và số cổng UDP. Điều này có nghĩa là với một địa chỉ IP cho trước thì ta chỉ có thể tiếp cận được một agent duy nhất. Hơn thế nữa agent này lại chỉ duy trì một cơ sở thông tin quản lí MIB duy nhất. Do vậy, với một địa chỉ IP duy nhất chỉ tồn tại một MIB. Việc gắn kết MIB với địa chỉ IP có thể hạn chế được độ phức tạp của biến số liệu mà agent cung cấp. Xem xét trong cùng một hoàn cảnh trong đó hệ thống yêu cầu nhiều MIB để quản lý các thành phần khác nhau của nó. Cần phải thống nhất các MIB khác nhau này dưới một cây MIB tĩnh duy nhất để có thể truy nhập chúng thông qua một agent duy nhất. Trong một số hoàn cảnh nhất định, việc thống nhất đó không thể thực hiện được. Trong những trường hợp như vậy, mỗi MIB đòi hỏi phải có riêng một nhóm giao thức SNMP/UDP/IP. Điều này làm tăng phức tạp trong việc tổ chức quản lý (các thông tin tương quan từ nhiều MIB thuộc một hệ thống cho trước) cũng như việc truy nhập nó (thông qua nhiều địa chỉ IP). Có một cách khác là một agent duy nhất trong một hệ thống có thể giữ vai trò như một proxy mở rộng cho các agent phụ đóng gói những cơ sở dữ liệu MIB khác nhau cùng liên quan tới một phân hệ cho trước. Các phiên bản mở rộng SNMPv2 hỗ trợ phương pháp này để xử lý nhu cầu truyền thông của manager. Các phiên bản mở rộng này cho phép agent đóng vai trò như một manager của các agent con tại chỗ, do vậy cho phép tiếp cận hàng loạt các agent con.
Các thành phần trong giao thức SNMP
Hình 1.12: Giao tiếp giữa management và element
Kiến trúc của SNMP bao gồm 2 thành phần : các trạm quản lý mạng (network management station) và các thành tố mạng (network element). Network management station thường là một máy tính chạy phần mềm quản lý SNMP (SNMP management application), dùng để giám sát và điều khiển tập trung các network element Network element là các thiết bị, máy tính, hoặc phần mềm tương thích SNMP và được quản lý bởi network management station. Như vậy element bao gồm device, host và application. Một management station có thể quản lý nhiều element, một element cũng có thể được quản lý bởi nhiều management station. Vậy nếu một element được quản lý bởi 2 station thì điều gì sẽ xảy ra? Nếu station lấy thông tin từ element thì cả 2 station sẽ có thông tin giống nhau. Nếu 2 station tác động đến cùng một element thì element sẽ đáp ứng cả 2 tác động theo thứ tự cái nào đến trước. Ngoài ra còn có khái niệm SNMP agent. SNMP agent là một tiến trình (process) chạy trên network lement, có nhiệm vụ cung cấp thông tin của lement cho station, nhờ đó station có thể quản lý được lement. Chính xác hơn là application chạy trên station và agent chạy trên element mới là 2 tiến trình SNMP trực tiếp liên hệ với nhau.
Các cơ chế bảo mật SNMP.
Một SNMP management station có thể quản lý/giám sát nhiều SNMP element, thông qua hoạt động gửi request và nhận trap. Tuy nhiên một SNMP element có thể được cấu hình để chỉ cho phép các SNMP management station nào đó được phép quản lý/giám sát mình. Các cơ chế bảo mật đơn giản này gồm có: community string, view và SNMP access control list.
Community string: Community string là một chuỗi ký tự được cài đặt giống nhau trên cả SNMP manager và SNMP agent, đóng vai trò như “mật khẩu” giữa 2 bên khi trao đổi dữ liệu. Community string có 3 loại: Read-community, Write-Community và Trap-Community. Khi manager gửi GetRequest, GetNextRequest đến agent thì trong bản tin gửi đi có chứa Read-Community. Khi agent nhận được bản tin request thì nó sẽ so sánh Read-community do manager gửi và Read-community mà nó được cài đặt. Nếu 2 chuỗi này giống nhau, agent sẽ trả lời; nếu 2 chuỗi này khác nhau, agent sẽ không trả lời.
View: Khi manager có read-community thì nó có thể đọc toàn bộ OID của agent. Tuy nhiên agent có thể quy định chỉ cho phép đọc một số OID có liên quan nhau, tức là chỉ đọc được một phần của MIB. Tập con của MIB này gọi là view, trên agent có thể định nghĩa nhiều view.
SNMP access control list: SNMP ACL là một danh sách các địa chỉ IP được phép quản lý/giám sát agent, nó chỉ áp dụng riêng cho giao thức SNMP và được cài trên agent. Nếu một manager có IP không được phép trong ACL gửi request thì agent sẽ không xử lý, dù request có community string là đúng. Đa số các thiết bị tương thích SNMP đều cho phép thiết lập SNMP ACL.
TRIỂN KHAI QUẢN LÝ MẠNG VỚI PHẦN MỀM CACTI
GIỚI THIỆU VỀ CACTI.
Cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp là sự gia tăng không ngừng của các thiết bị phần cứng mạng, như: máy tính cá nhân, máy chủ, thiết bị định tuyến, Switch, Hub… và các dịch vụ mạng như truyền file FTP, VPN, MAIL.. cùng với sự đòi hỏi lớn hơn về băng thông mạng. Nhu cầu về một hệ thống quản lý mạng ngày càng trở nên cần thiết. Quản lý mạng có thể xem như quản lý tất cả các tài nguyên trong mạng nhằm duy trì và đảm bảo sự ổn định của toàn bộ hệ thống mạng, đảm bảo an toàn thông tin trên mạng và mở rộng mạng. Hiện nay có rất nhiều phần mềm quản lý hệ thống tài nguyên mạng sử dụng thiết bị phần cứng đắt tiền. Tuy nhiên một số phần mềm nguồn mở cũng đáp ứng một cách toàn diện với nhiều tính năng linh hoạt vượt trội. Với phần mềm CACTI có khả năng bổ sung nhiều chương rình plugins giúp giải quyết được toàn bộ những khó khăn của doanh nghiệp trong việc quản lý tài nguyên, cho phép quản lý sự cố, quản lý topo mạng và cấu hình thiết bị mạng. Tạo nên môt hệ thống mạng chủ động.
MÔ HÌNH TRIỂN KHAI.
Hình 2.1: Mô hình triển khai
Mô hình gồm có 1 Server Cacti cài đặt hệ điều hành Centos, 3 PC cài đặt hệ windows, 1 Router kết nối ra internet và mạng LAN, nhiệm vụ của Server Cacti sẽ thực hiện chức năng quản lý thiết bị và các thông số trong mạng trên hệ thống.
CÀI ĐẶT CACTI.
Cài đặt các gói cần thiết trước khi cài đặt Cacti
Snmp-mysql, net-snmp, php-snmp, mysql-server, php-mysql, php, phpmyadmin.
Sử dụng lệnh: yum install
Cài đặt Cacti: Download gói cacti version mới nhất để cài đặt tại địa chỉ .Hoặc cài trực tiếp bằng lệnh: yum install cacti.
Cấu hình thông số cho mysql thực hiện lưu trữ cơ sở dữ liêu cho cacti.
Sau khi cài đặt xong tiến hành đăng nhập vào giao diện quản lý của cacti.
Hình 2.2: Đăng nhập vào giao diện quản lý
CẤU HÌNH CACTI.
Giao diện chính của chương trình.
Hình 2.3: Giao diện chính của chương trình
Thêm Thiết bị quản lý.
Sau khi đăng nhập thành công vào hệ thống chúng ta thực hiển mốt sô thao tác cấu hình cơ bản như: Create devices for network, create graphs for your new devices, view your new graphs. thêm mới một thiết bị để thực hiện quản lý
Hình 2.4: Thiết lập thiết bị mới
Chọn add để cấu hình thông tin thiết bị thêm vào quản lý.
Hình 2.5: Thông tin cơ bản về host
Chúng ta tiến hành điền những thông tin cơ bản về thiết bị.
Description: tên cần thể hiện của host.
Hostname: địa chỉ IP hoặc hostname của máy trạm.
Host template: có thể chọn none hoặc template có sẳn.
Downed device detection: phương pháp được cacti sử dụng để lấy thông tin SNMP.
SNMP version: phiên bản sử dụng của SNMP trên host.
SNMP community: được cài đặt trên SNMP service của host.
Hình 2.6: Danh sách monitor
Tạo graphs quản lý theo sơ đồ.
Lựa chọn những data cần monitor và add vào danh sách, sau đó save để hoàn tất. Sau khi tạo xong new device chúng ta chọn “create graphs for this host” để tạo graphic cho những data thu thập được của device này, chúng ta chỉ nên chọn những dữ liệu thông số thiết bị nào mà chúng ta cần quan tâm để tạo graphic.
Hình 2.7 : Tạo graphs mới cho host
Quản lý cơ bản hệ thống.
Tùy thuộc vào từng thiết bị chúng ta sử dụng những templates khác nhau có thể download templace tại êm xong thiết bị tiến hành xây dựng sơ đồ hình cây để hiển thị tất cả các dữ liệu thu thập hệ thống để quản lý dễ dàng.
Hình 2.8: Sơ đồ quản lý hình cây của chương trình
Hình 2.9: Import thêm templates mới
Chúng ta có thể import các templace mới để quản lý thiết bị dưới dạng các biểu đồ được dễ dàng hơn.
Tùy thuộc vào mỗi thiết bị và dịch vụ chúng ta muốn quản lý sẽ có một templates thích hợp giúp người quản trị dễ dàng hơn.
Hình 2.10: Thông tin của một templates
Những thiết bị được quản lý rất chi tiết về các thông số như: Memory, CPU, proceses…
Hình 2.11: Thông tin quản lý của các thiêt bị trong mạng
Từ những thông tin cấu hình kết hợp với templace chúng ta có thể quan sát hệ thống dưới dạng những sơ đồ.
Hình 2.12: Quản lý dưới dạng sơ đồ
Có thể xem lại những thông tin theo ngày giúp người quản trị nẵm vững tình hình hệ thống của mình.
Hình 2.13: Quản lý theo lịch
Chuyển sang tab graphs để quản lý theo sơ đồ có thể lựa chọn ngày, tháng.
Cấu hình ngưỡng cảnh báo cho hệ thống
Hình 2.14: Thiết lập ngưỡng cảnh báo cho hệ thống
Chúng ta có thể add thêm những ngưỡng mới tuy thuộc theo yêu cầu của hệ thống. Thông thường sẻ có mặc định một số ngưỡng cần thiết trước.
Hình 2.15: Thông tin giới hạn của hệ thống
.
Thiết lập được sơ đồ mạng của hệ thống giúp quan sát thiết bị được toàn diện hơn.
Hình 2.16: Sơ đồ mạng hệ trên hệ thống
KẾT LUẬN
Đứng trước sự phát triển nhanh mạnh của nền công nghệ thông tin thế giới nói chung cũng như nền công nghệ thông tin Việt Nam nói riêng thì hệ thống mạng phát triển ngày cạnh mạnh, có thể nói một hệ thống mạng là rất quan trọng cho ngành Công nghệ thông tin. Với việc phải quản lý được một hệ thống mạng thật sự là rất khó khăn đối với nhiều người, việc phát triển và quản lý hệ thống mạng toàn cầu rất phù hợp với nhu cầu người dùng.
Trong phạm vi đồ án môn học quản lý hệ thống mạng, nhóm chúng em được nhận đồ án tìm hiểu về giao thức SNMP và quản lý hệ thống mạng với Cacti, trong quá trình nghiên cứu ngoài một số thuận lợi như rất nhiều tài liệu trên mạng sự chỉ bảo nhiệt tình của thầy giáo bộ môn, cách làm việc nhóm hiệu quả với sự nhiệt tình của các thành viên trong nhóm ... thì vẫn tồn tại một số khó khăn như phải triển khai thử trên hệ điều hành centos và nhiều nguồn tài liệu không chính thống, hạn chế về khả năng tự nghiên cứu của mỗi thành viên ..... tuy vậy trong quá trình thực hiện nhóm cũng đã tìm hiểu được tổng quan về giao thức SNMP và cách triển khai quản lý hệ thống mạng với cacti, kiến trúc, công nghệ và quan trọng hơn nữa là bước đầu triển khai thành công cách quản lý hệ thống mạng với cacti trên hệ điều hành centos.
Tuy nhiên Do thời gian hạn chế và trình độ hiểu biết của bản thân chưa nhiều nên chưa thể nghiên cứu và triển khai quản lý hệ thống mạng hoàn thiện, đồ án vẫn mang tính chất học hỏi, trao đổi và bắt đầu làm quen với thực tế. Nhưng qua đồ án môn học này, các thành viên trong nhóm đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong quá trình làm việc theo nhóm và nghiên cứu một đề tài quan trọng, đồng thời cũng bổ sung kiến thức cho bản thân.
Tài liệu tham khảo:
[1] Insertion, Evatsion and Denial of Service: Eluding Network Intrusion Detection (Thomas H.Ptacek, Timothy N.Newsham.
[2] Diep Thanh Nguyen, 04-2010, SNMP toàn tập.
[3]
[4]
[5]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- timhieugiaothucSNMPvaphanmemcacti.doc