Độ đạm trong nước tương là nồng độ nitơ toàn phần, nói cách khác nó là chỉ số
protein tính theo đơn vị g/lít. Ngoài đạm, nước tương còn có một số chất dinh dưỡng và
chất khoáng khác nhưng lượng vitamin và chất dinh dưỡng chiếm không nhiều do đây vẫn
là một trong những loại gia vị dùng khi nêm nếm, làm “dậy” mùi món ăn.
Thông thường mỗi mẻ nước tương lấy được 2 lần “nước cốt”, nước 1 có độ đạm
trung bình từ 20-25N, nước 2 còn khoảng 10N.
41 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 14936 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu quy trình sản xuất nước tương theo phương pháp lên men, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..............
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Chữ ký của giảng viên hướng dẫn
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ XÌ DẦU (NƯỚC TƯƠNG)
1.1. Nguồn gốc của xì dầu (nước tương)
Xì dầu, tàu vị yểu hay nước tương (phương ngữ miền Nam Việt Nam) là một
loại nước chấm được sản xuất bằng cách lên men hạt đậu tương, ngũ cốc rang
chín, nước và muối ăn. Nước chấm này, có nguồn gốc từ Trung Quốc, được sử dụng khá
phổ biến trong ẩm thực châu Á tại khu vực Đông Á và Đông Nam Á, gần đây cũng xuất
hiện trong một số món ăn của ẩm thực phương Tây, đặc biệt là một thành phần của nước
chấm Worcestershire.
Xì dầu đích thực được lên men bằng men (là một trong hai loài nấm Aspergillus
oryzae hay A. sojae) cùng các vi sinh vật liên quan khác. Xì dầu đích thực được sản xuất
từ hạt đậu tương nguyên vẹn, nhưng nhiều loại rẻ tiền được làm từ protein đậu tương thủy
phân. Các loại xì dầu này không có màu sắc tự nhiên của xì dầu đích thực và nói chung
được nhuộm màu bằng nhuộm màu caramel để có màu nâu đen.
Hình 1.1. Xì dầu được làm từ đậu tương
Ngoài ra, theo truyền thống thì hạt đậu tương được lên men trong các điều kiện tự
nhiên, chẳng hạn như trong các bình hay lọ to để ngoài trời mà người ta tin rằng sẽ tạo
thêm hương vị cho sản phẩm. Ngày nay, phần lớn xì dầu sản xuất ở quy mô thương mại
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
2
được lên men trong môi trường do máy móc kiểm soát.
Dường như tất cả các loại xì dầu đều được bổ sung thêm một chút rượu khi đóng
chai, có tác dụng như là chất bảo quản chống hư hỏng. Xì dầu nói chung nên được bảo
quản nơi râm mát, tránh bị nắng chiếu trực tiếp. Chai xì dầu đã mở nắp mà không được lưu
giữ nơi có nhiệt độ thấp sẽ hơi bị đắng.
Mặc dù có nhiều loại xì dầu, nhưng tất cả đều là chất lỏng màu nâu có vị mặn, được
sử dụng để tạo gia vị khi nấu ăn hay làm nước chấm. Cái mà một số người phương Tây chỉ
có thể miêu tả như là một loại vị ngọt có mùi thơm thì đối với người phương Đông lại là
một vị cơ bản, được người Nhật gọi là "umami", còn người Trung Quốc gọi là "tiên vị" (,
nghĩa văn chương là "vị tươi"). Chất tạo ra vị umami này là glutamat mononatri, có tự
nhiên trong xì dầu.
Giống như các sản phẩm khác được chế biến bằng cách lên men đậu tương
như miso, sữa đậu nành, đậu phụ v.v, xì dầu cũng có thể sản xuất thủ công tại gia. Phương
pháp truyền thống đòi hỏi việc trộn loại nấm men đặc biệt là Aspergillus oryzae với đậu
tương.
1.2. Sơ lược một số loại xì dầu ở các quốc gia Đông Nam Á
Xì dầu có nguồn gốc từ miền nam Dương tử, cư dân thờ Thần Nông, nơi cư trú của
cộng đồng người Việt và kể từ thời kỳ đó nó đã xâm nhập vào ẩm thực truyền thống của
nhiều nền văn hóa Á Đông. Xì dầu được sử dụng rộng rãi như là một thành phần quan
trọng để tạo hương vị trong ẩm thực Trung Hoa, ẩm thực Nhật Bản, ẩm thực
Philippines, ẩm thực Triều Tiên v.v. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mặc dù bề ngoài khá giống
nhau, nhưng các loại xì dầu được sản xuất tại các khu vực khác nhau là không giống nhau
về mùi vị, hương thơm, độ mặn và thời hạn sử dụng. Chính vì thế, có thể là không hợp lý
khi thay thế một loại xì dầu cho một loại xì dầu khác trong ẩm thực của một nền văn hóa
nào đó.
1.2.1. Trung Quốc
Xì dầu Trung Quốc (tương du/thị du) chủ yếu được làm từ đậu tương, với một lượng
tương đối ít ngũ cốc. Có hai dạng chính là:
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
3
Xì dầu nhạt màu/tươi (Sinh trừu): Là loại xì dầu màu nâu sẫm trong mờ, loãng
(không nhớt). Nó là loại xì dầu chủ yếu dùng để ướp thực phẩm, do nó mặn hơn, chủ yếu
để bổ sung hương vị nhưng cũng bổ sung thêm một chút màu sắc cho món ăn cho dù nó
nhạt màu và ít ảnh hưởng tới màu sắc của món ăn. Loại xì dầu nhạt màu làm từ nước ép
đầu tiên của đậu tương lên men gọi là đầu trừu, nghĩa văn chương là xì dầu nước đầu hay
xì dầu nhạt màu thượng hạng. Đầu trừu thông thường được bán đắt hơn, do có mùi vị tốt
hơn (tương tự như dầu ôliu thượng hạng). Ngoài ra, phân loại Song Hoàng còn nhắc đến
quá trình lên men kép để bổ sung và tăng thêm mùi vị.
Xì dầu sẫm màu/để lâu (Lão trừu): Loại xì dầu sẫm màu hơn và đặc hơn một chút,
được ngâm ủ lâu hơn và chứa mật đường bổ sung để tạo cho nó biểu hiện bề ngoài khác
biệt. Loại xì dầu này chủ yếu được dùng khi nấu ăn do mùi vị của nó sẽ tạo ra khi đun
nóng. Nó ngọt hơn và ít hương vị hơn khi so sánh với loại xì dầu nhạt màu. Nó dùng để bổ
sung màu sắc cho món ăn nhiều hơn là tạo mùi vị.
Trong ẩm thực Trung Hoa truyền thống, một trong hai loại này hoặc hỗn hợp của
chúng, được sử dụng để thu được hương vị và màu sắc cụ thể cho mỗi món ăn cụ thể nào
đó.
Các loại khác:
Xì dầu đặc (Tương du cao hay Ấm du cao): Loại xì dầu sẫm màu được cô đặc bằng
tinh bột và đường. Nó đôi khi cũng được tạo vị bằng glutamat mononatri. Loại xì dầu này
ít khi được sử dụng trực tiếp trong nấu ăn, mà thường được sử dụng để pha nước chấm hay
rót lên trên thực phẩm đã chế biến để bổ sung hương vị.
Xì dầu bột nhão (Hoàng tương): Nó không phải là xì dầu thực sự mà là một loại
sản phẩm mặn khác từ đậu tương. Nó là một trong những thành phần chính của món ăn gọi
là tạc tương miến (nghĩa văn chương là "mì sợi chiên xì dầu").
Tại Singapore và Malaysia, xì dầu nói chung được người gốc Trung Quốc gọi là đậu
du, loại xì dầu sẫm màu gọi là tương du còn loại xì dầu nhạt màu là tương thanh. Angmoh
tauyew (Hồng mạo đậu du), nghĩa văn chương là "xì dầu nước ngoài" là tên gọi trong tiếng
Mân Nam để chỉ nước xốt Worcestershire.
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
4
1.2.2. Đài Loan
Tại Đài Loan, người ta chỉ sử dụng loại xì dầu nhạt màu và gọi nó là tương du, còn
các thuật ngữ như sinh trừu và lão trừu thì không sử dụng. Ngoài loại xì dầu làm từ đậu
tương và lúa mì thì còn có loại làm từ đậu thị. Loại này nói chung đắt tiền hơn do mất nhiều
thời gian sản xuất hơn và được coi là có giá trị dinh dưỡng cao hơn cũng như có hương vị
thơm ngon hơn.
Lịch sử sản xuất xì dầu tại Đài Loan có thể lần ngược lại tới vùng đông nam Trung
Quốc lục địa, tại các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông. Sự chia cắt chính trị và văn hóa giữa
Đài Loan và Trung Quốc kể từ khi kết thúc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1895,
khi Trung Quốc phải nhượng Đài Loan cho Nhật Bản, đã tạo ra một sự thay đổi ngoài dự
kiến trong sản xuất xì dầu tại Đài Loan. Ngoài ra, Đài Loan cũng là nơi duy nhất sản xuất
xì dầu đậu thị ở quy mô thương mại, xuất khẩu tới các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật
Bản, Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Đức và Vương quốc Anh.
1.2.3. Indonesia
Tại Indonesia, xì dầu hay nước xốt được gọi chung là kecap, mà có lẽ từ đó đã xuất
hiện từ ketchup trong tiếng Anh. Có hai loại xì dầu cơ bản:
Kecap asin: Xì dầu mặn, tương tự như loại nhạt màu của Trung Quốc, nhưng hơi
đặc hơn và mùi vị mạnh hơn; có thể dùng thay thế cho loại xì dầu nhạt màu của
Trung Quốc trong các công thức chế biến.
Kecap manis: Loại xì dầu ngọt, đặc gần như xi rô, hương vị tương tự như mật
đường do sự bổ sung nhiều của đường thốt nốthoặc đường chà là.
Kecap inggris ("nước xốt lên men của người Anh") hay "saus inggris" ('nước xốt
Anh') là tên gọi trong tiếng Indonesia để chỉ nước xốt Worcestershire. Kecap Ikan là
loại nước xốt cá của người Indonesia.
1.2.4. Malaysia
Malaysia là quốc gia có nhiều liên kết văn hóa với Indonesia. Tại đây, người ta dùng
từ 'kicap' để chỉ xì dầu. Kicap có hai loại cơ bản: kicap lemak và kicap cair. Kicap lemak
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
5
tương tự như kecap manis nhưng với rất ít đường trong khi kicap cair là tương tự như kecap
asin. Tuy nhiên, kiểu kecap manis của Indonesia hiện nay có các phiên bản tương đương
tại Malaysia do số lượng đang gia tăng các nhà sản xuất Mã Lai trong ngành đã từng là
ngành công nghiệp chiếm ưu thế của người Trung Quốc. Kicap là một đồ gia vị quan trọng
trong ẩm thực Mã Lai và ẩm thực Trung Quốc tại Malaysia. Kicap cũng thâm nhập vào ẩm
thực Ấn Độ tại Malaysia. Một món ăn phổ biến là 'daging masak hitam' của người Hồi giáo
gốc Ấn Độ, trong đó thịt bò hay thịt cừu được hầm với nước xốt ngọt làm từ kicap. Một số
người còn thêm một chút kicap vào món ca ri hay cơm để tăng gia vị cho món ăn. Nhiều
trẻ em Malaysia ưa thích món ăn từ gạo với kicap và trứng rán.
1.2.5. Nhật Bản
Xì dầu Nhật Bản, theo truyền thống được chia thành 5 loại chính, phụ thuộc vào các
khác biệt trong thành phần và phương pháp sản xuất. Xì dầu Nhật Bản có thành phần chính
là lúa mì, và điều đó làm cho xì dầu ngọt hơn loại của Trung Quốc; chúng có hương vị hơi
giống của một loại rượu vang Tây Ban Nha là sherry. Xì dầu Nhật Bản và xì dầu Trung
Quốc không thể thay thế lẫn nhau trong nhiều công thức chế biến. Loại xì dầu sẫm màu
của Trung Quốc gần với xì dầu Nhật Bản ở màu sắc tổng thể, nhưng không gần về độ mạnh
của hương vị hay kết cấu.
Koikuchi: Có nguồn gốc từ khu vực Kantō, việc sử dụng nó dần dà phổ biến khắp Nhật
Bản. Trên 80% sản lượng xì dầu sản xuất tại Nhật Bản là koikuchi và nó có thể coi là
loại xì dầu điển hình của người Nhật. Nó được sản xuất từ lượng gần bằng nhau của
đậu tương và lúa mì. Loại xì dầu này còn được gọi là kijōyu hay namashōyu khi không
được tiệt trùng theo phương pháp Pasteur.
Usukuchi: Đặc biệt phổ biến tại khu vực Kansai, nó mặn hơn và nhạt màu hơn so
với koikuchi. Màu nhạt hơn là do sử dụng amazake (cam tửu), một chất lỏng có vị ngọt,
được làm từ gạo lên men trong sản xuất loại xì dầu này.
Tamari: Được sản xuất chủ yếu tại Chūbu. Tamari được làm từ đậu tương với một
lượng nhỏ hạt lúa mì. Do vậy, nó sẫm màu hơn và nhiều hương vị hơn so với koikuchi.
Nó có lẽ là loại xì dầu "nguyên bản" Nhật Bản, do công thức chế biến nó có gần như
khi đậu tương được đưa từ Trung Quốc vào Nhật Bản. Về mặt kỹ thuật, loại này còn
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
6
gọi là miso-damari do nó là chất lỏng chảy ra từ miso khi ngấu.
Shiro: Loại xì dầu rất nhạt màu. Ngược với xì dầu "tamari", xì dầu "shiro" được làm
chủ yếu từ lúa mì và rất ít đậu tương, tạo ra màu nhạt và vị ngọt. Nó được sử dụng phổ
biến tại khu vực Kansai để làm nổi bật bề ngoài của món ăn, ví dụ của sashimi.
Saishikomi: Loại này thay thế cho koikuchi để ướp thực phẩm. Nó sẫm màu và hương
vị mạnh hơn. Nó còn được gọi là kanro shoyu hay "xì dầu ngọt".
Các loại xì dầu mới tại Nhật Bản có:
Genen: Cũng có loại xì dầu ít muối, nhưng không được coi là loại xì dầu riêng biệt, do
việc khử hàm lượng muối là công đoạn thực hiện ngoài phạm vi sản xuất tiêu chuẩn
của xì dầu.
Amakuchi: Được gọi là "xì dầu Hawaii" ở một số ít khu vực có người Mỹ, nó là biến
thể của xì dầu "koikuchi".
Tất cả các loại xì dầu này được bán tại cửa hàng theo 3 cấp khác loại, tương ứng với
với quy trình sản xuất chúng:
Honjōzō hōshiki: Chứa 100% sản phẩm lên men tự nhiên.
Shinshiki hōshiki: Chứa 30-50% sản phẩm lên men tự nhiên.
Aminosanekikongō hōshiki: Chứa 0% sản phẩm lên men; là nước chiết thực vật đã biến
đổi. Nó được gọi là "liquid aminos" (các amino lỏng) tại Hoa Kỳ và Canada.
Tennen jōzō: Means no added ingredients except alcohol.
Tất cả các loại và cấp xì dầu trên đây có thể được chia thành các mức chất lượng
chính thức như sau:
Hyōjun: Vô trùng Pasteur tiêu chuẩn.
Tokkyū : Chất lượng đặc biệt, không vô trùng.
Tokusen: Chất lượng thượng hạng, thông thường chỉ có số lượng rất hạn chế.
Hatsuakane: Nói tới cấp công nghiệp được sử dụng cho bột và tạo vị.
Chōtokusen: Được những người tiếp thị sử dụng để chỉ loại tốt nhất.
1.3. Một số sản phẩm xì dầu (nước tương) trong nước
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
7
1.3.1. Nước tương Chin-su
Masan là một doanh nghiệp tạo ra thương hiệu thực phẩm Chin-su nổi tiếng trong
và ngoài nước. Sản phẩm nước tương Chin-su cũng là một thành công nữa của Masan Food
trong lĩnh vực gia vị, nước chấm bởi lẽ mặc dù chỉ mới xuất hiện trên thị trường trong một
thời gian ngắn nhưng với nhãn hiệu nổi tiếng Chin-su, nước tương Chin-su đã có ảnh hưởng
lớn trong tâm thức người tiêu dùng nội địa và chiếm được 70% thị phần nước tương cao
cấp. Đây là điều mà có lẽ không phải bất kì sản phẩm nào cũng dễ dàng đạt được.
Nước tương chin-su được phân làm 2 nhóm chính:
Nước tương trung cấp : Nước tương chin su, nước tương tam thái tử nhị ca, nước
tương tam thái tử nhất ca, nước tương Chin-su tỏi ớt.
Nước tương cao cấp : Chin-su nếp cái hoa vàng, nước tương Siêu ca, nước tương
Chin-su táo đỏ.
Với thành phần chính là đậu nành, đậu phộng, đường, hương chiết xuất tự nhiên...
cùng với công thức pha chế đặc biệt được cải tiến nên nước tương cao cấp Chin-su mới có
hương vị tuyệt ngon, màu sắc hấp dẫn và mùi thơm kích thích người sử dụng trong các bữa
ăn. Nước tương cao cấp Chin-su mới rất ngon khi chấm trực tiếp với món ăn và thích hợp
với việc tẩm ướp các món kho, chiên, nướng với nhiều trường phái ẩm thực. Chất lượng
tuyệt ngon của sản phẩm này sẽ giúp cho bữa ăn gia đình Việt thêm đậm đà, hấp dẫn.
Mới đây nhất, vào ngày 18/04/2009, nước tương Chin-su cao cấp vinh dự là một
trong 8 sản phẩm của Masan Food được chứng nhận là sản phẩm an toàn vệ sinh thực
phẩm, tức là nước tương không có 3-MPCD, không bị đóng cặn ở đáy chai, an toàn cho
sức khỏe người tiêu dùng và không gây ô nhiễm môi trường.
Có được điều này là nhờ Masan đã sử dụng công nghệ sản xuất hiện đại, dây chuyền
thiết bị khép kín, tự động hóa cao của AVE - ITALIA., áp dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt
về an toàn thực phẩm.
Hơn nữa, đa số các doanh nghiệp sản xuất nước tương trong nước sử dụng phương
pháp hóa giải. Với phương pháp chế biến này, thời gian thủy phân nhanh, giá thành rẻ, ít
choáng mặt bằng, mùi vị được người tiêu dùng ưa chuộng, nhưng nhược điểm lớn khó khắc
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
8
phục và cũng đang gây hoang mang đối với người tiêu dùng chính là việc sản phẩm tạo ra
có chứa độc tố 3- MCPD vượt mức cho phép nhiều lần có nguy cơ gây bệnh ung thư cho
người tiêu dùng.
Khắc phục nhược điểm trên, Masan Food đã đầu tư mặt bằng, dây chuyền thiết bị
mới để áp dụng quy trình sản xuất nước tương sạch theo một quy trình kết hợp giữa phương
pháp dùng enzyme và phương pháp hóa giải. Phương pháp kết hợp này mang lại nhiều
điểm ưu việt hơn phương pháp truyền thống đã đề cập ở trên, rút ngắn thời gian sản xuất
còn 3 ngày, mùi vị nước tương được người tiêu dùng ưa chuộng, nồng độ 3-MCPD < 0.5
ppm.
Ngoài ra, chin-su còn đạt được: Tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm HACCP của
Châu Âu ; Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 ; Hoạt động duy trì năng suất toàn
diện TPM.
Hình 1.2. Nước tương Chin-su
1.3.2. Nước tương Maggi
Không chỉ có các bà nội trợ mới biết đến cái tên Maggi. Đây là thương hiệu gia vị
hảo hạng và lừng danh mà ai cũng biết đến, từ trẻ nhỏ cho đến người già. Một bữa ăn chưa
ngon, một món ăn nhạt miệng là buộc người ta nhớ đến ngay gia vị Maggi đậm đà, tinh
khiết với hương vị đặc trưng cho các món ăn mặn.
Chương 1. Tổng quan về nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
9
Không chỉ ở Thuỵ Sĩ, hay ở châu Âu, nơi bắt nguồn của Maggi mà cả châu Á và
trên toàn thế giới, thương hiệu Maggi đã đồng nghĩa với thứ nước chấm quen thuộc trong
bữa ăn. Ở Việt Nam cũng vậy, nói đến maggi là ai cũng hiểu đó là nước tương (gọi theo
tiếng miền Nam) hay xì dầu (gọi theo tiếng miền Bắc).
Thương hiệu thực phẩm Maggi là một trong những thương hiệu quốc tế có từ lâu
đời. Maggi ngày nay có trên 300 sản phẩm khác nhau và gần như có mặt trên giá hàng thực
phẩm tại bất cứ mội siêu thị lớn nào trên thế giới. Hàng năm Maggi đã bán được trên 800
triệu sản phẩm của mình trên toàn cầu.
Hình 1.3. Nước tương Maggi
1.4. Vai trò của nước tương trong đời sống
Nước tương không phải là chất bổ sung đạm mà chỉ là nước chấm làm tăng khẩu
phần vị, chứ không có tác dụng bổ sung dinh dưỡng, không nên ăn nhiều. Theo các nhà y
học, mỗi ngày cơ thể con người cần 60g chất đạm, nên nước tương không phải là chất cung
cấp đạm chính. Độ đạm thấp nhất trong nước tương là 10N. Người bình thường, tối đa mỗi
ngày ăn 10ml nước tương thì chất đạm do nó mang lại là không đáng kể
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
10
Chương 2. QUY TRÌNH SẢN XUẤT NƯỚC TƯƠNG THEO PHƯƠNG PHÁP LÊN
MEN
2.1. Nguyên liệu chính
2.1.1. Đậu phộng (lạc)
Đậu phộng là loại nông sản nhiệt đới, tập trung nhiều ở các nước Phi châu. Thành
phần hóa học hạt đậu phộng như sau:
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của đậu phộng
Thành phần Hàm lượng (% chất khô)
Nước
Protide
Lipide
Glucide
Cellulose
Tro
Vitamin PP
7,3
26,9
43,6
15,2
2,4
2,4
15,7 mg/100g
Trong Protein của hạt đậu phộng thì globulin là cao nhất chiếm khoảng 97% hàm
lượng protein, ngoài ra còn có một hàm lượng không đáng kể các loại albumin, prolamin,
glutelin...
2.1.2. Đậu nành
Đậu nành là một trong những cây trồng được thuần hóa và trồng sớm nhất của loài
người. Các nhà khoa học đã thống nhất rằng đậu nành có nguồn gốc từ Mãn Châu (Trung
Quốc), từ đó lan truyền khắp thế giới, phải đến sau thế chiến thứ hai đậu nành mới thật sự
phát triển ở Mỹ, Canada và Brazil… Và cũng từ đó việc dùng đậu nành làm thực phẩm,
trong chăn nuôi, trong công nghiệp mới ngày càng được mở rộng diện tích và sản lượng
đậu nành ngày được tăng vọt và tập trung ở bốn quốc gia lớn như: Mỹ, Brazil, Argentina,
Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, khí hậu, đất đai rất thích hợp cho việc trồng đậu nành đặc
biệt là miền Nam có nhiều khả năng đẩy mạnh sản xuất đậu nành.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
11
Đối với loại nước tương sử dụng hạt đậu nành là nguyên liệu chính thì lại áp dụng
quy trình lên men tự nhiên. Đây là quy trình sản xuất nước tương “sạch” bằng phương pháp
lên men vi sinh (còn gọi là nấm men nấm mốc có lợi), không sử dụng acid. Phương pháp
này mất nhiều thời gian (3-4 tháng) hơn để sản xuất ra một lô.
Bảng 2.2. Thành phần hóa học của hạt đậu nành
Thành phần Tỷ lệ
(%)
Protein (%) Lipid (%) Cacbohydrate
(%)
Tro (%)
Nguyên hạt
nhân
Tử điệp
Vỏ hạt
Phôi
100,0
90,3
7,3
2,4
40,0
43,0
8,8
41,0
20,0
23,3
1,0
11,0
35,0
29,0
86,0
43,0
4,9
5,0
4,3
4,4
Protein đậu nành được tạo bởi các acid amin, trong đó có đủ các loại acid amin
không thay thế (ngoại trừ hàm lượng methionin thấp). Có thể nói protein đậu nành gần
giống protein của trứng và được xem là một trong những nguyên liệu chế biến thực phẩm
thay thế protein động vật.
Hàm lượng protein tổng dao động trong hạt đậu nành: 29,6 -50,5%, trung bình là
36-40%. Các nhóm protein đơn giản (% so với tổng số protein): albumin 6-8%, globulin
25-34%, glutelin 13-14%, prolamin chiếm lượng nhỏ không đáng kể.
2.2. Nguyên liệu phụ
2.2.1. Chủng vi sinh vật
Người ta thường sử dụng các loại nấm mốc Aspergillus Oryzae, A. soyae, A.niger,
A.Terriol, A.mellius, A.ochracus, A.awamori ... Nhưng giống được sử dụng nhiều nhất là
loài A.Oryae.
Aspergillus Oryzae là loại nấm vi thể, thuộc bộ Plectascales, lớp Ascomycetes (nang
khuẩn), cơ thể sinh trưởng là một hệ sợi, bao gồm những sợi rất mảnh, chiều ngang 5-7𝜇m,
phân nhánh rất nhiều và có vách ngăn, chia sợi thành nhiều tế bào(nấm đa bào).
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
12
Điều kiện sinh trưởng của A.Oryzae: môi trường có độ ẩm 45% là điều kiện thích
hợp nhất cho sự hình thành bào tử để làm giống, còn độ ẩm thích hợp để sinh tổng hợp
enzyme là 55-60%. PH môi trường là 5,5-5,6. Độ ẩm không khí là 85-95%.
Loài nấm mốc A.Oryzae cho ra 3 loại enzyme chính là amylase, protease và các
loại enzyme oxy hóa khử như glycooxydase.
Nấm Aspergillus Oryzae là loài mốc chính trong quá trình chế tạo tương và tương
do Aspergillus oryzae lên men ngon hơn các tương khác vì loại mốc này có khả năng biến
đổi tinh bột của gạo nếp thành đường làm cho tương có vị ngọt. Hai loài không độc làm
tương là Aspergillus oryzae và Aspergillus sojae có hình thái và màu sắc rất giống với 2
loài rất nguy hiểm là Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus sản sinh ra độc tố
Aflatoxin gây bệnh ung thư.
Mốc giống được nuôi trong môi trường thạch sẽ được nhân ra và cấy vào hỗn hợp
khô đậu tương (bã đậu nành) hoặc khô lạc (bánh dầu đậu phộng) và bột mì (bột làm bánh
mì không phải bột khoai mì) đã hấp chín, đánh tơi ra và để nguội. Sau đó ủ mốc ở nhiệt độ
ấm (30-38oC), nơi thoáng khí, có độ ẩm tương đối của không khí hơn 90%. Khi giai đoạn
phát triển mốc kết thúc, làm tơi nguyên liệu đã lên mốc, pha trộn vào đó dung dịch nước
muối 20% theo tỷ lệ từ 25-30% và đem ủ ấm ở nhiệt độ 50-60oC. Sau đó chiết rút và pha
tiếp nước muối vào và tiếp tục chiết rút nước tương,... (nước cốt hay nước 1, nước 2, nước
3,..).
Yêu cầu giống :
- Có hoạt lực protease cao.
- Không có độc tố aflatoxin.
- Có khả năng tạo hương.
2.2.2. Phụ gia
2.2.2.1. Chất bảo quản Natri benzoate (E211)
Tên hóa học: Sodium benzoate
Công thức phân tử: C7H5NaO2
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
13
Công thức cấu tạo:
Khối lượng phân tử: 114,14
Natri benzoate là chất bền vững, mùi nồng, hạt màu trắng, có vị hơi ngọt và tan
trong nước. Natri benzoate dễ tan trong nước, ở nhiệt độ phòng cũng có thể cho dung dịch
nồng độ 5 – 6 %. Muốn đảm bảo hiệu quả tác dụng bảo quản, nồng độ natri benzoate trong
sản phẩm đạt từ 0,07 – 0,1%.
Tính chất vật lý
Acid benzoic là chất rắn không màu, không mùi, dễ bay hơi, dễ thăng hoa, khó tan
trong nước, dễ tan trong rượu và ete,
0 0121,7nct C
,
0 0249,2st C
.
Natri benzoate là chất rắn bền vững, không mùi, hạt màu trắng hay bột kết tinh, có
vị hơi ngọt, dễ tan trong nước (độ tan trong nước gấp 180 lần acid benzoic và khi tan trong
nước tạo ra acid benzoic) nên có ứng dụng rộng rãi hơn acid benzoic.
Kỹ thuật sử dụng
Gia vị, muối được cho vào sản phẩm tại công đoạn thanh trùng. Chất bảo quản natri
benzoate được cho vào sản phẩm cuối cùng vì natri benzoate không bền ở nhiệt độ cao, có
thể bị mất hoạt tính tại nhiệt độ thanh trùng.
Cơ chế hoạt động của acid benozic và natri benzoate
Làm ức chế quá trình hô hấp của tế bào vi sinh vật, ức chế quá trình oxy hóa glucose
và pyruvat, đồng thời làm tăng nhu cầu oxy trong suốt quá trình oxy hóa glucose. Tác dụng
vào màng tế bào vi sinh vật làm hạn chế khả năng nhận cơ chất.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
14
Tác dụng bảo quản chỉ xảy ra ở môi trường acid pH = 2.5 – 3.5. Nồng độ natri
benzoate trong sản phẩm có tác dụng bảo quản là 0,07 – 0,1%. Các nồng độ này không có
hại đến sức khỏe con người.
Hoạt tính chống khuẩn của acid benzoic và natri benzoate phụ thuộc rất nhiều pH
của thực phẩm. Thường hoạt tính này cao nhất ở pH thấp. Ví dụ, ở pH=4 ta cần sử dụng
benzoate 0,1%, còn ở pH = 3 thì cần sử dụng 0,05% là có hiệu quả.
Công dụng
Dùng bảo quản sản phẩm thực phẩm, chống nấm mốc (có hiệu quả cao trong môi
trường acid). Trong sản xuất thực phẩm, người ta thường sử dụng natri benzoate làm chất
bảo quản.
2.2.2.2. Caramen
Công thức chung:
2( )m nC H O
Tỷ lệ (m/n) = 1,3
Công dụng
Nước chấm sau khi lọc đã có màu nâu nhạt. Muốn cho sản phẩm có màu đẹp, hấp
dẫn người ta dùng caramen. Caramen là sản phẩm thu được từ saccharose khi đun tới 230
– 1900C, là chất lỏng màu sẫm tối, hơi đắng, gọi là keo đắng.
Tất cả sản phẩm caramen đều có vị đắng:
2
012 22 11 6 12 6 6 12 6 2
H O
t
C H O C H O C H O H O
Saccharose Glucose Frutose
6 12 6 6 12 6 12 22 10C H O C H O C H O
(
0 0185 190t
)
Glucose Fructose Isosacchrosal
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
15
2 2 2 2
0 0 0
2 2
(12%) (15%)
12 22 11 12 20 10 12 18 9 36 50 35 36 48 24(120 )
(20%) 19
96 102 51 3 2( )
H O H O H O H O
TrungHopt C t
H O H O
xTrungHop
C H O C H O C H O C H O C H O
C H O C H O
2.2.2.3. Chất điều vị (E621- Natri glutamat)
Cấu tạo
Công thức cấu tạo:
2 2 2( )HOOC CH CH CH NH COONa
Là tinh thể màu trắng có vị ngọt, hơi mặn, tan nhiều trong nước, được sản xuất chủ
yếu từ củ khoai mì. Việc sử dụng natri glutamat làm tăng thêm giá trị dinh dưỡng cho sản
phẩm. Tùy theo độ đạm mà cho hàm lượng bột ngọt khác nhau.
Ví dụ:
+
018 N
cần 35 kg bột ngọt /1000L.
+
010 N
cần 2.1 kg bột ngọt / 1000L.
Công dụng
Natri glutamat hay bột ngọt là sản phẩm được dùng làm chất tạo vị trong sản xuất
nước tương. Natri glutamat là muối của acid glutamic, nó là một trong các acid amin cần
thiết cho cơ thể người. Ngoài ra nó còn có trong cơ thể động vật và một số loài thực vật.
Nó có vị đặc trưng của rau và thịt.
2.2.2.4. Chất tạo sánh
Chất tạo sánh: có kích thước cực mịn, tốc độ hydrate cao nên dễ kết dính vào nhau
gây hiện tượng óc trâu. Để tránh hiện tượng này, khi đưa chất tạo sánh vào môi trường lỏng
ta phải đảm bảo phân tán tốt.
Chất tạo sánh thích hợp cho môi trường có nồng độ muối cao. Trong sản xuất nước
chấm, chất này được dùng với tỉ lệ 0,1%.
Công dụng: sử dụng để làm treo các chất keo trong môi trường lỏng, tạo độ sánh
đồng thời tạo cảm giác ngon hơn.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
16
2.2.2.5. Hương liệu
Công dụng
Trong sản xuất nước tương, hương liệu thường được sử dụng để tăng mùi thơm cho
sản phẩm, tạo ra mùi tương ứng với mùi của nước tương và có khả năng làm cho sản phẩm
hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng. Các chất này có cường độ mùi cao và bền nên cho
mùi vào sản phẩm tại công đoạn đóng bao bì.
Liều lượng sử dụng
0,1% cho nhiều quá sản phẩm sẽ có vị đắng khó chịu. Mùi thơm của thực phẩm do
các nhóm hợp chất hóa học khác nhau tạo nên, thường là các chất dễ bay hơi. Chúng có
hàm lượng rất bé nhưng hoạt tính cao.
2.3. Quy trình sản xuất nước tương theo phương pháp lên men
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
17
Sơ đồ quy trình sản xuất nước tương theo phương pháp lên men
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
18
2.3.1. Các quá trình trong quy trình công nghệ
2.3.1.1. Quá trình làm sạch
Mục đích:
Quá trình này có mục đích chuẩn bị, loại bỏ các tạp chất có trong đậu nành hay bám
trên bề mặt vỏ đậu nành như: đá, đất, bụi, hạt cỏ, kim loại và đồng thời loại bỏ được một
số vi sinh vật bám trên đó.
Biến đổi:
Cảm quan: làm cho hạt sạch hơn, sáng hơn, tăng giá trị cảm quan, đồng thời cũng
tăng chất lượng sản phẩm. Các biến đổi khác không đáng kể.
Phương pháp thực hiện: cho đậu nành qua hệ thống làm sạch để loại bỏ tạp chất.
2.3.1.2. Quá trình ngâm rửa
Mục đích:
Ngâm trong nước với mục đích làm mềm hạt đậu nành.
Các biến đổi xảy ra trong quá trình:
Vật lý: thay đổi khối lượng hạt.
Hóa lý: một số chất hòa tan vào nước và ngược lại nước và một số chất trong nước
ngấm vào hạt.
Hóa học: giảm một số thành phần do hòa tan trong nước, do bị oxy hóa như vitamin,
khoáng.
Phương pháp thực hiện:
Quá trình rửa gồm hai giai đoạn: ngâm và rửa xối. Đầu tiên nguyên liệu sẽ được đưa
vào bồn ngâm sau đó được băng chuyền chuyển vào hệ thống xối tưới của máy ngâm rửa
xối tưới. Ngâm làm cho nước thấm ướt nguyên liệu, làm chất bản mềm, bong ra. Rửa xối
là dùng tác dụng chảy của dòng nước để kéo chất bẩn còn lại trên mặt nguyên liệu sau khi
ngâm. Thường dùng tia nước phun (p=2-3atm) hay vòi hoa sen để xối.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
19
2.3.1.3. Quá trình hấp
Mục đích: Khai thác các chất dinh dưỡng có trong đậu nành.
Các biến đổi của nguyên liệu:
Vật lý: thay đổi cấu trúc hạt tinh bột và protein, nguyên liệu mềm hơn.
Hóa học: làm chín tinh bột, làm protein bị biến tính sơ bộ thành những chất mà vi
sinh vật có thể sử dụng được.
Sinh học: quá trình này cũng tiêu diệt vi sinh vật bám trên bề mặt nguyên liệu làm
cho mốc phát triển thuận lợi.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Trong quá trình hấp yếu tố cần chú ý nhất là nhiệt độ và thời gian hấp. Nguyên liệu
là đậu nành chỉ cần hấp với thời gian như thế nào để có hàm lượng nước thích hợp và
nguyên liệu mềm hóa đầy đủ là được.
Đối với nguyên liệu là tinh bột thì thời gian hấp cũng phải hợp lý. Nói chung với
phối liệu như trên thì hấp ở áp lực 0,7 – 0,9 kg/cm2, hấp khoảng 1 – 1,5 giờ là thích hợp.
Nói chung khi nhìn thấy hạt đậu chuyển sang màu hơi nâu là được, không nên để quá sậm
màu.
2.3.1.4. Quá trình làm nguội
Mục đích: Chuẩn bị cho quá trình phối trộn.
Các biến đổi:
Vật lý: nguyên liệu rời ra, nhiệt độ khối nguyên liệu giảm.
Hóa lý: có sự bay hơi nước trên bề mặt.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Nguyên liệu đã hấp được trải lên mặt sàn bằng gỗ, có quạt thổi nguội đến 33 – 350C
(vào mùa hè) và 400C (vào mùa đông). Quá trình này còn làm tăng hàm lượng O2 giúp cho
quá trình nuôi mốc sau này được tốt hơn.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
20
2.3.1.5. Quá trình cấy giống
Mốc là cơ sở để sản xuất nước tương lên men, chất lượng mốc ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng sản phẩm và hiệu suất sử dụng nguyên liệu.
Chủng vi sinh vật trong sản xuất nước tương lên men là nấm mốc Aspergillus
oryzae, nấm mốc này có màu vàng nên người ta quen gọi là mốc vàng. Mốc này có đặc
tính cho protease có hoạt lực cao, không độc tố, được phép dùng trong công nghệ thực
phẩm.
Ngoài ra trong quá trình lên men còn có dùng một số vi khuẩn và nấm men để thủy
phân tạo hương vị màu sắc đặc trưng cho sản phẩm. Chẳng hạn như vi khuẩn Pediococcus
soyae và các nấm men Saccharomyces rouxii và Torulopsis.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Khi đưa giống vào nên trộn giống trước với một số bột mì cho đều, sau đó dùng
nguyên liệu này rắc đều lên nguyên liệu định cấy giống. Khi rắc nên rắc đều và trộn kỹ để
có mốc giống đều khắp trên khối nguyên liệu và mốc phát triển đồng đều cũng làm cho
nhiệt độ của khối nguyên liệu tăng đều.
2.3.1.6. Nuôi mốc
Mục đích: khai thác.
Tạo điều kiện cho mốc phát triển đều trên môi trường nuôi cấy hình thành các hệ
enzyme cần thiết (đặc biệt là enzyme protease và amylase) có hoạt lực cao, có khả năng
thủy phân protein và tinh bột cao hơn.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Bột mì được phối trộn sẽ là nguồn tinh bột mà mốc sử dụng để làm nguồn thức ăn
để sinh trưởng và phát triển mạnh. Sự phát triển mạnh của mốc giống sẽ lấn át được các
loại tạp mốc khác xâm nhập và phát triển giúp cho độ thủy phân cao hơn. Vì vậy ta phải
phối trộn nguyên liệu giàu tinh bột với tỉ lệ thích hợp cùng với nguyên liệu giàu protein là
khô đậu nành. Ngoài ra bột mì cho vào còn có tác dụng giúp cho nước tương thành phẩm
có vị ngọt nhẹ và màu sắc sáng hơn.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
21
Các thông số cần lưu ý khi nuôi mốc là: nhiệt độ, độ ẩm và thông gió. Trong đó yếu
tố nhiệt độ là quan trọng nhất.
Trong quá trình nuôi mốc, nhiệt độ có quan hệ trực tiếp đến sinh sản của mốc. Nhiệt
độ của khối nguyên liệu sẽ tăng dần theo sự phát triển của mốc và có thể đạt tới 450C nếu
ta để nguyên. Vì vậy ta phải đảo mốc để điều hòa nhiệt độ và ẩm độ trong khối nguyên liệu
nuôi mốc nhằm xúc tiến sự sinh trưởng của khuẩn ty. Thực tiễn sản xuất cho thấy nuôi mốc
ở nhiệt độ phòng nuôi 28 – 300C và hàm lượng nước trong khối nguyên liệu nuôi mốc 27
– 37% sẽ cho hoạt tính enzyme protease và enzyme đường hóa cao nhất. Hai loại enzyme
này đóng vai trò quyết định những thành phần chủ yếu của nước tương như đạm toàn phần,
acid amin và đường…
Phương pháp nuôi mốc thủ công:
Sau khi tiếp giống xong, đánh đống cho tới khi nhiệt độ đạt 30 – 350C thì tải ra khay,
mành hoặc nong thưa thành lớp dày 1 – 2 cm cho vào phòng nuôi mốc. Giữ nhiệt độ phòng
28 – 300C trong thời gian 8 – 9 giờ và hàm ẩm trong phòng là 84 – 90%. Nói chung nhiệt
độ này không thích hợp với Mucoz, Penicillium và vi khuẩn và thời gian này bào tử mốc
phát mầm nhanh át các tạp mốc khác. Sau thời kỳ này nhiệt độ tăng nhanh gọi là thời kỳ
sinh trưởng cần đặc biệt chú ý nhiệt độ có thể đạt 31 – 340C.
Khoảng 3 – 4 giờ sau thấy khuẩn ti xuất hiện rõ rệt lúc này nguyên liệu hơi kết bánh.
Khi nhiệt độ đạt 370C thì phải lật mốc, đảo mốc để hạ nhiệt độ vì nếu nhiệt độ quá cao sẽ
làm cho khuẩn ty phát triển không tốt, enzyme của mốc tích tụ không nhiều. Khi nhiệt độ
lên cao phải mở cửa thông gió, cấp không khí cho mốc và đẩy khí CO2 trong phòng ra
ngoài. Sau đó tiếp tục đảo nhiều lần để duy trì nhiệt độ 30 – 310C trong khối mốc.
Phương pháp nuôi mốc khối:
Nguyên liệu được trải vào trong thùng, hộp hoặc bể. Phương pháp này đã được áp
dụng từ lâu ở một số nước, có ưu điểm là: năng suất cao hơn nuôi mốc trên khay, mành. 1
m2 có thể nuôi được 75 – 80 kg nguyên liệu (trong khi 1 m2 phòng nuôi mốc theo phương
pháp thủ công chỉ được 24 – 27 kg), giảm nhẹ sức lao động của công nhân và dễ cơ giới
hóa. Quá trình phát triển của mốc có thể chia làm ba giai đoạn.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
22
2.3.1.7. Đánh tơi
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật: nguyên liệu từ bể nuôi mốc được
đánh tơi để mốc trộn đều hơn với nguyên liệu giúp cho quá trình lên men tốt hơn.
2.3.1.8. Phối trộn
Mục đích: chuẩn bị cho quá trình ủ và thủy phân.
Các biến đổi:
Vật lý: tăng khối lượng, giảm độ cứng, giảm độ xốp,…
Hóa học: trộn nước có tác dụng làm cho nguyên liệu có độ ẩm thích hợp với sự phát
triển của nấm mốc.
Phối trộn theo tỷ lệ 90% khô đậu nành và 10% bột mì. Sau đó, thêm 60 – 70% nước
so với tổng nguyên liệu.
2.3.1.9. Quá trình ủ
Mục đích: chuẩn bị cho quá trình thủy phân.
Các biến đổi:
Nguyên liệu mềm hơn, nước thấm đều nên làm tăng khả năng truyền nhiệt. Đậu sẽ
mau chín và chín đều hơn khi hấp.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Ủ có tầm quan trọng như nuôi mốc nếu xử lý nguyên liệu tốt, nuôi mốc đúng kỹ
thuật mà lên men không bảo đảm thì nước chấm vẫn không đạt yêu cầu, hiệu suất thu hồi
nguyên liệu thấp, giá thành cao.
Nhiệt độ khi ủ: Nhiệt độ khi ủ hết sức quan trọng vì nó tạo điều kiện cho enzyme
của mốc xúc tác các quá trình thủy phân tinh bột và protein thành đường và các acid amin.
Nhiệt độ ủ nên giữ là 37 – 450C trong suốt quá trình ủ. Để giữ được nhiệt độ này về mùa
đông phải gia nhiệt. Ở các nước có khí hậu lạnh phải gia nhiệt gián tiếp bằng hơi nước để
giữ nhiệt. Ở Việt Nam dùng ủ ẩm để nấm mốc hô hấp tỏa nhiệt là cho enzyme protease
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
23
hoạt động. Trong quá trình ủ không nên để nhiệt độ quá cao sẽ làm cho sản phẩm có mùi
khét, cháy, đắng hoặc nếu nhiệt độ thấp quá sẽ kéo dài thời gian lên men, sản phẩm có màu
sắc nhạt, không sánh.
2.3.1.10. Quá trình thủy phân
Mục đích: tạo pH thích hợp cho enzyme protease và amylase của nấm mốc hoạt động.
Biến đổi sâu sắc thành phần nguyên liệu theo hướng tạo ra sản phẩm nước tương.
Các biến đổi:
Hóa sinh: enzyme protease thủy phân phân tử protein thành những chất trung gian
tương đối đơn giản peptide, polypeptide và cuối cùng thành các acid amin đơn giản. Tinh
bột enzyme amylase thủy phân thành đường maltose và cuối cùng thành glucose.
Vật lý:
+ Nhiệt độ: trong quá trình thủy phân nhiệt độ dịch thủy phân tăng dần vì quá trình
thủy phân là quá trình tỏa nhiệt.
+ Nồng độ chất khô: phản ứng thủy phân tạo ra các hợp chất đơn giản như đường,
acid amin…làm cho nồng độ chất khô trong dịch tăng lên.
+ Độ nhớt: protein bị thủy phân dần thành acid amin và peptide cùng với tác dụng
của nhiệt độ cao làm cho độ nhớt dịch thủy phân giảm dần.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Lượng nước cho vào: Mục đích cho nước là để tăng nhiệt và giữ nhiệt của sản phẩm,
(mốc thường có hàm ẩm 27 – 30%), thúc đẩy tác dụng phân giải và cải tiến hương vị của
nước tương cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Vì nếu nước quá ít sẽ làm cho
nước tương có màu đậm và có mùi hồ cháy, còn nếu nước quá nhiều thì thời gian lên men
sẽ rất lâu. Thường lượng nước trộn vào 40 – 50% so với nguyên liệu tương đương 60 –
70% so với mốc. Nguyên liệu sau khi đã ủ xong (lên mốc vàng hoa cau), làm tơi, để ủ đống
cho tới khi nhiệt độ đạt 37 – 450C thì bắt đầu cho nước vào. Khi cho nước vào nên dùng
nước có nhiệt độ 600C để khi cho vào bể lên men, nguyên liệu có nhiệt độ 530C. Khi trộn
nước phải trộn nhanh rồi cho ngay vào thùng hoặc bể lên men. Trên mặt nguyên liệu rải
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
24
một lớp muối kín để phòng tạp khuẩn xâm nhập. Đậy nắp để hơi nước không bay đi và
nhiệt độ không bị giảm.
2.3.1.11. Quá trình trích ly – lọc
Mục đích: trích ly các chất hòa tan trong nguyên liệu để tạo ra nước tương thành phẩm và
lọc ra lấy dịch nước tương.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Dùng nước muối có nồng độ 20 – 30% ở nhiệt độ 600C cho vào thiết bị lên men để
hòa tan đạm và đường đã thủy phân trong quá trình lên men.
Sau khi cho muối nên tiến hành đảo trộn ngâm trong khoảng 24 giờ để những chất
hòa tan vào trong nước muối sau đó lọc rút nước chấm ra.
Mục đích cho muối vào là để tạo mùi vị mặt khác để phòng thối. Vì vậy sau khi lên
men xong phải nhanh chóng cho nước muối vào và cho với lượng chính xác. Độ muối thấp
hơn 16% về mùa hè thường hay chua hoặc váng trắng, nếu nồng độ muối quá cao lại ảnh
hưởng đến chất lượng về vị của nước tương, thường tốt nhất là 18 – 20%.
Trích ly lần thứ nhất: thường được nước tương đậm màu, ngọt và chiếm khoảng 60
– 80% lượng nguyên liệu lên men.
Trích ly lần thứ hai: sau khi trích ly lần thứ nhất, bã vẫn còn lưu lại một lượng nước
tương vì vậy phải đổ thêm nước muối 15 – 18% vào ngâm 12 – 16 giờ rồi lại tiến hành
trích ly lần thứ hai (lọc rút lần hai).
Trích ly lần thứ ba: Để lợi dụng nguyên liệu một cách triệt để, bã sau khi trích ly
xong lần 2 vẫn chứa muối và nước tương, để tiếp tục chiết rút, chúng ta cho vào nước
(không cho muối). Lượng nước cho vào khoảng 100 – 150% so với nguyên liệu mốc, ngâm
6 giờ rồi tiến hành trích ly lần ba. Nước tương rút ra được ở lần này nồng độ tương đối
thấp, dùng để hòa nước muối sử dụng cho các trích ly lần hai của các đợt kế tiếp. Làm như
vậy sẽ tiết kiệm được nguyên liệu muối và nâng cao chất lượng nước tương.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
25
2.3.1.12. Quá trình chiết chai – dán nhãn
Mục đích: Hoàn thiện sản phẩm.
Phương pháp thực hiện và thông số kỹ thuật:
Vô chai: chai và nút được rửa bằng nước sôi sau rửa lại bằng cồn nồng độ 98% để
ráo, sau đó đem thanh trùng thời gian 10 – 20 phút để loại bỏ các bụi bẩn bám trên chai và
tiêu diệt vi sinh vật bám trên chai. Sau đó, sản phẩm được rót vào chai theo đúng quy định.
Dán nhãn: nhãn in theo mẫu và đúng quy cách, có đầy đủ thông tin cần thiết cho
người tiêu dùng.
2.4. Thiết bị sử dụng trong sản xuất nước tương theo phương pháp lên men
2.4.1. Thiết bị nghiền
Trong công nghiệp sản xuất thực phẩm sử dụng rất nhiều loại máy nghiền nhưng
trong sản xuất nước tương thì sử dụng chủ yếu là máy nghiền búa.
Cấu tạo:
Máy nghiền búa được thiết kế đặc biệt sử dụng búa chuyển động với tốc độ cao va
đập vào vật liệu để nghiền vỡ vật liệu . Máy có các đặc điểm nổi bật như: kết cấu đơn giản
, tỉ lệ nghiền lớn , hiệu quả sản xuất cao . Máy có thể nghiền được hai loại là khô và ướt.
Đặc biết máy có thể nghiền nhỏ được các vật liệu có độ cứng và độ giòn trung bình.
Hình 2.1. Máy nghiền búa
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
26
Bộ phận làm việc chủ yếu của máy nghiền búa là roto có mang búa (còn gọi là đầu
búa), động cơ kéo roto quay với tốc độ cao trong khoang nghiền, vật liệu từ của cấp liệu
trên cấp vào trong máy nghiền, vật liệu nghiền dưới tác dụng đập, cắt,mài nghiền của búa
quay với tốc độ lớn mà được nghiền nhỏ. Ở phần dưới roto có lắp sàng lọc , có thể thay đổi
cỡ hạt liệu ra để đáp ứng yêu cầu.
Nguyên lý hoạt động:
Phân chính làm việc của máy nghiền búa là roto với búa . Bao gồm khối quay trục
chính, đĩa, trục ống và búa, các ổ đĩa của động cơ roto xoay quanh trong khoang nghiền.
Khi nạp nguyên liệu thô vào máy qua cửa cấp liệu do tác động của búa tốc độ cao kích
thước nguyên liệu được nghiền nhỏ . Dưới Roto có đĩa sàng để sàng các vật liệu với kích
thước nhỏ hơn so với lưới sàng sẽ được ra và giữ lại phần chưa đạt tiêu chuẩn cho việc
nghiền tiếp tục nghiền cho đến khi đạt đến kích thước chuẩn . Kích thước của sản phẩm
cuối cùng có thể được điều chỉnh bằng cách thay đổi các đĩa sàng . Khoảng cách giữa các
Roto và các đĩa sàng cũng có thể chỉnh theo yêu cầu khác nhau.
2.4.2. Chum vại dùng để thủy phân đậu tương
Chum vại làm bằng đất nung, bên trong cũng như bên ngoài có một lớp da sành nên
muối mặn không ngấm vào được, dung tích từ 200 – 300 lít.
Vại cũng làm bằng đất nung (thường ở Móng Cái sản xuất nhiều) miệng để rộng
nên dễ đánh khuấy, bên trong có lớp tráng men da lươn mà nhờ lớp men dày muối mặn nên
không thấm vào được.
Hình 2.2. Các chum vại dùng để thủy phân đậu tương
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
27
2.4.3.Thiết bị lọc
Trong công nghệ sàn xuất nước tương thì sử dụng thiết bị lọc khung bản.
Hình 2.3. Thiết bị khung bản IC41D
Thiết bị lọc IC41D gồm 2 phần chính, phần thứ nhất là bộ phận lọc và phân thứ 2 là
bộ phận bơm để hút và nén dung dịch qua vật liệu lọc. Phần thứ nhất của thiết bị bao gồm
các khung và các tấm lọc được ép lại với nhau nhờ một đĩa quay bằng tay. Số tấm lọc sử
dụng tối đa đến 30 tấm với tổng diện tích lọc là 8200 𝑐𝑚2.
Phân thứ hai là bộ phân hút và nén dung dịch lọc gồm bơm nén áp suất cao và hai
thùng chứa bằng thép không rỉ. Mỗi thùng có dung tích 200 lít, có chỉ thị mức dung dịch
trong thùng .Một thùng đựng dung dịch lọc đục (hỗn hợp lọc), một thùng đựng dịch lọc
(Filtrat). Ngoài ra, còn có thùng thứ 3 cũng được nối với máy dùng để chứa hỗn hợp nước
và diatomit, chất này nhằm phủ lên màng lọc một lớp màng cho chất lỏng đi qua được dễ
dàng.
Trong quá trình lọc, chất rắn trong huyền phù được giữ lại nhở một lớp vật liệu lọc
(giấy lọc hoặc màng bán thấm). Chiều cao lớp chất rắn này tăng theo thời gian và tạo thành
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
28
một lớp bánh lọc có tác dụng như một lớp màng lọc mới làm tăng chất lượng của quá trình
lọc. Độ lọc hiệu dụng phụ thuộc vào kích cỡ hạt rắn và chiều cao của lớp bánh lọc. Vật liệu
lọc ban đầu có tác dụng giữ và tạo thành bánh lọc.
Bên trong vật liệu lọc không xảy ra quá trình tách giữ, có nghĩa là các tiểu phân nhỏ
hoặc được lưu lên lớp bánh lọc hoặc được chui qua. Dịch lọc ban đầu không trong suốt vì
các tiểu phân nhỏ đã chui qua vật liệu lọc. Chỉ khi nào các hạt chất rắn kết tụ lại thành các
lỗ rất nhỏ trên vật liệu thì chất lượng lọc mới tốt được. Song ở đây các hạt giữ lại cũng tạo
ra một sư cản trở của dòng chảy khi lọc. Độ cản trở tăng theo chiều cao của lớp bánh lọc
.Muốn đảm bảo tốc độ lọc nhanh, người ta phải tăng sự chênh lệch vể áp suất qua màng
và đến một chiều cao bánh lọc nhất định nào đó phải ngừng quá trình lọc lại để lấy chất rắn
ra.
Phương pháp này ứng dụng cho hỗn hợp lọc có chứa ít nhất 3-5% chất rắn và các
chất rắn tạo ra các lớp có lỗ hỏng.
2.4.4. Quá trình chiết chai – dán nhãn
Hình 2.4. Thiết bị chiết chai công nghiệp
Trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường thì phải trải qua quá trình chiết chai dán
nhãn để tại giá trị cảm quan và giá trị kinh tế trên thị trường cho thương hiệu của nhà sản
xuất.
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
29
2.5. Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm
2.5.1. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước chấm lên men
Bảng 2.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước chấm lên men
CHỈ TIÊU THÀNH PHẦN
Nito toàn phần 15 – 20 (g/l)
Nitơ formol trên nitơ toàn phần 8 – 13 (g/l)
Nito amin trên nito toàn phần
55%
Đường 1,4 – 5,3%
Chất béo 1,7 – 5,3%
NaCl 20 – 25%
NH3 0,1 – 0,2%
Nito Formol 7,49 (g/l)
Kim loại Fe 20 (mg/l)
pH 5,05 – 6,2
Tỉ trọng 1,01 – 1,04
2.5.2. Chỉ tiêu hóa lý của nước chấm hiện nay (TCVN 1763 – 86)
Bảng 2.4. Chỉ tiêu hóa lý của nước chấm hiện nay (TCVN 1763 – 86)
CHỈ TIÊU THÀNH PHẦN
Nito toàn phần 12 – 20 (g/l)
Nitơ formol trên nitơ toàn phần 55%
Nito NH3 1,57 – 3 (g/l)
Độ acid (theo acid acetic) 5 – 7 (g/l)
pH 5,5 – 6,2
NaCl 230 – 250 (g/l)
N-NH3/N-Formol 20 – 30%
Nito Formol 7,49 (g/l)
Kim loại Fe 20 (mg/l)
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
30
Cu 20 (mg/l)
Pb 5,5 (mg/l)
As 20 (mg/l)
2.5.3. Chỉ tiêu cảm quan của nước tương
Bảng 2.5. Chỉ tiêu cảm quan của nước tương
Tên chỉ
tiêu
Loại đặc biệt Loại 1 Loại 2
Độ trong Không vẩn đục, váng
Màu sắc
Màu nâu đậm hay nâu cánh gián
Mùi
Thơm ngon, không khét, không có các mùi đặc trưng của
mốc, không có các mùi không thích hợp khác
Vị
Ngọt đậm, sau khi
nếm
không có cảm
giác khé
cổ, không đắng
chua hay
có các vị không
thích hợp khác
Dịu ngọt, sau khi nếm
không có cảm giác khé
cổ, không đắng, chua hay
có các vị không thích hợp
khác.
2.5.4. Tiêu chuẩn về độ đạm, chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất
Độ đạm trong nước tương là nồng độ nitơ toàn phần, nói cách khác nó là chỉ số
protein tính theo đơn vị g/lít. Ngoài đạm, nước tương còn có một số chất dinh dưỡng và
chất khoáng khác nhưng lượng vitamin và chất dinh dưỡng chiếm không nhiều do đây vẫn
là một trong những loại gia vị dùng khi nêm nếm, làm “dậy” mùi món ăn.
Thông thường mỗi mẻ nước tương lấy được 2 lần “nước cốt”, nước 1 có độ đạm
trung bình từ 20-25N, nước 2 còn khoảng 10N.
2.5.5. Tiêu chuẩn về hóa chất
Chương 2. Quy trình sản xuất nước tương GVHD: Phan Thị Hồng Liên
31
Đối với 3-chloro-1,2- propanediol(3-MCPD) là 0.2 mg/kg tính dựa trên 40% trọng
lượng khô.
Đối với 1,3-dichloro-2-propanol(1,3 - DCP) là 0.005 mg/kg tính dựa trên 40% trọng
lượng khô
2.5.6. Chỉ tiêu vi sinh: (867/1998/QĐ – BYT ngày 04/4/1998)
Bảng 2.6. Chỉ tiêu vi sinh: (867/1998/QĐ – BYT ngày 04/4/1998)
Vi sinh vật
Giới hạn cho phép trong 1g hay 1ml
thực phẩm
Tổng vi sinh vật hiếu khí
Coliform
E.coli
S.aureus
Clotridium Perfringens
Samonella*
TSBTNM-M
104
102
0
3
10
0
10
(*) Samonella: không được có trong 25g thực phẩm.
- Không có men mốc nhìn thấy bằng mắt thường
- Tổng số vi khuẩn hiếu khí không lớn hơn 20.000 con/ml;
- Vi khuẩn gây bệnh: không được có;
- E.coli: không được có;
- Clostridium perfringens: không lớn hơn 2 con/ml;
- Aflatoxin: đối với nước chấm lên men, không có.
32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
[1]. Nguyễn Hoài Hương, Bài giảng thực hành công nghệ lên men, Đại học Kỹ thuật
Công nghệ Tp.HCM, 2009.
Tài liệu Internet
[2]. Tiêu chuẩn nước chấm 1763-86,
lieu/tcvn-1763-86.276242.html.
[3]. Công nghệ sản xuất nước tương,
san-xuat-nuoc-tuong-.425293.html.
[4]. Công nghệ sản xuất nước tương,
xuat-nuoc-tuong.htm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cong_nghe_san_xuat_nuoc_tuong_theo_phuong_phap_len_men_063.pdf