Hai trường phái tư tưởng đều chú trọng những vấn đề về con người, cùng mong
muốn giải quyết thế sự. Tuy nhiên, các nhà tư tưởng ở trong hai bối cảnh xã hội lịch
sử, môi trường tự nhiên khác nhau, và thân phận xã hội khác nhau, nên suy tư, lý luận
và giải quyết vấn đề theo những hướng khác nhau. Những đặc thù được đúc kết (bàn
về nhân sinh, hữu vi, tại thế, tự cường, miễn cưỡng, hiện thực) của dòng tư tưởng
miền Bắc gần như là những mắt xích trên một chuỗi thống nhất. Chuỗi này mang chất
dương tính khi so sánh với chuỗi đặc thù của dòng tư tưởng miền Nam (bàn về vũ trụ,
vô vi, ngoại thế, khiêm nhu, thuận tự nhiên, lãng mạn). Lâm Ngữ Đường có lẽ vì thế
mà nhận định “Tinh thần Đạo giáo và tinh thần Khổng giáo là hai cực âm dương của
tư tưởng Trung Quốc, sinh mệnh dân tộc Trung Quốc cũng nhờ đó mà hoạt động vậy”
[1:95]. Hai dòng tư tưởng Nam Bắc Trung Quốc với các đặc thù riêng được hình
thành như là kết quả tất yếu do hai diện mạo văn hóa sinh ra. Đó là diện mạo văn hóa
miền Bắc mang dấu vết du mục Tây Bắc và hoạt động nông nghiệp ruộng khô vùng
Trung Nguyên, nổi trội chất dương cương và diện mạo văn hóa vùng nông nghiệp lúa
nước miền Nam thiên về âm nhu.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3259 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu và so sánh hai trường phái triết học nho gia và đạo gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nho gia cũng có một số hạn chế đó là lối
sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong gia đình người
cha, người chồng, người anh cả là người có quyền lực cao nhất, người phụ nữ trong
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 13 -
gia đình bị phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, không có quyền tham gia vào những việc
đại sự trong gia đình. Đặc biệt đạo “tam tòng” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu từ tòng tử), (ở nhà thì phải nghe theo cha, đi lấy chồng theo chồng, chồng chết
theo con) đã trói buộc người phụ nữ họ không có quyền tự chủ quyết định cuộc đời và
tương lai của mình.
CHƢƠNG 2: TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
2.1 Những tiền đề cơ bản của Đạo gia
2.1.1 Nguồn gốc tư tưởng và sự ra đời
Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù
“Đạo”, một phạm trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia
xuất phát từ những quan điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh
Dịch…
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc và
sau đó có tác động ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết
học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở
Trung Quốc và một số nước châu Á khác.
2.1.2 Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được thừa nhận
và tôn vinh muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của Trang Tử
được sánh ngang với Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Lão Tử (khoảng 580 – 500 TCN), sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, nay là Lộc Ấp, tỉnh
Hà Nam. Tiểu sử của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương
truyền, trước khi Lão Tử cưỡi trâu qua nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn
Hy (người gác cửa ải phía tây Hàm Cốc) viết lại "Đạo Đức Kinh", gồm 81 chương.
Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Các học giả hiện đại đánh giá, đó là
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 14 -
một tập hợp những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như muốn người đọc phải tự
lí giải. Chính vì vậy, về sau có hàng trăm bản dịch nghĩa cho bộ sách này.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận
giải, ông phải sinh trước Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392 TCN).
Tư tưởng của ông được diễn đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những người ủng
hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ thuyết của ông là quý sự sống, trọng bản thân.
Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không chịu mất một sợi lông để làm lợi
cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Trang Tử (365 – 290 TCN), tên thật là Trang Chu, tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một
trong hai bộ kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có
nhiều điểm lấy từ Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng
thuận. Một số nhà nghiên cứu sau này cho rằng phần lớn nội dung tác phẩm Nam Hoa
kinh là do các đệ tử của ông biên tập.
2.2 Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia
Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức phong phú, đa dạng, song tựu trung lại
không đi sâu vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách lý giải của truyền
thống triết học phương Tây, mà tập trung vào vấn đề con người trong mối tương quan
và thống nhất với tự nhiên, trực giác tâm linh và phi lý tính. Nó được thể hiện qua các
tác phẩm “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, “Nam Hoa kinh” của Trang Tử và một số tư
tưởng của Dương Du được ghi chép tản mạn trong các sách “Mạnh Tử”, “Nam Hoa
kinh”, “Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt tử”…
Mặc dù cả Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử đều có những luận điểm khác nhau, đặc
biệt là giữa Dương Chu và Trang Tử, song về cơ bản, những tư tưởng triết học chính
yếu của phái Đạo gia đều thống nhất trên nên tảng các quan điểm về Đạo, tư tưởng
biện chứng và quan điểm “vô vi”. Dưới đây xin trình bày khái quát về ba quan điểm
triết học cơ bản đó.
2.2.1 Quan điểm về “ĐẠO”
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 15 -
“Đạo” là một danh từ triết học đã được người Trung Hoa dùng từ thời thượng cổ,
nhưng chỉ đạt được tầm quan trọng đặc biệt và trở nên phổ biến nhờ bộ Đạo Đức kinh
của Lão Tử. Theo tiếng Hán cổ, Đạo có nghĩa là "con đường", "phương tiện", "nguyên
lý"…
Còn “Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có
thể gọi được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là
mẹ của vạn vật” (Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh. Vô
danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu – Đạo Đức kinh)”. Bởi vì: “Đạo
chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải là nó. Đạo cũng chẳng có thể thấy
được, thấy được không còn phải là nó nữa.Có thể nào lấy trí mà hiểu được cái hình
dung của cái không hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho đạo” (Nam
Hoa kinh).
Khái niệm Đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của
tồn tại và phi tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương
và nhờ sự chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
“Vạn vật trong trời đất sanh từ hữu, hữu sanh từ vô. Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo
Đức kinh).
Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được trình bày dưới ba dạng thức: Thể, Tướng, Dụng.
Nhưng nó không đồng nhất với phạm trù “bản thể” của triết học phương Tây.
2.2.1.1 Thể của Đạo
Chỉ nguồn gốc, nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn
không tồn tại, cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái đậm đặc
và cái trống rỗng. Nó là “đạo huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thần”,
“thái cực” và đồng nhất với “đạo” nói chung, có sức sáng tạo vô lượng vô biên: “Đạo
sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”…
Thể của Đạo là vô thủy vô chung: “Ta không biết Đạo con ai mà hình hiện ra ngoài
trước cả tiên đế” (Lão Tử, Đạo Đức kinh). “Đạo tự bản tự căn, vốn tồn tại như xưa,
khi chưa có trời đất, làm thiêng liêng quỷ thần, Thượng đế, sinh ra trời đất, ở trước
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 16 -
thái cực mà chẳng là cao, ở dưới lục cực mà chẳng là sâu. Sinh trước trời đất mà
chẳng là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng là già” (Nam Hoa kinh, Đại tông sư). Đạo
sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất một cách tự nhiên, không ý
chí, không mục đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình. Nhờ đó mà trời đất
vạn vật phó mặc tự nhiên, cứ sinh sinh hóa hóa không ngừng…
2.2.1.2 Tướng của Đạo
Nhằm ngụ ý đến hình dáng, trạng thái của Đạo. Nó không có một thuộc tính quy định
nào ngoài vẻ tự nhiên chất phác, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền
diệu, nhìn không thấy, nghe không được, không nắm được, không nếm được, không
ngửi được, không sáng, không tối… “Thoắt lặng không hình, biến hóa không
thường...” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, Thiên hạ). Nói chung, Đạo không thể cảm giác,
không thể diễn tả dưới bất cứ hình thức nào.
2.2.1.3 Dụng của Đạo
Nhằm nói đến công dụng và năng lực của Đạo. Đó là trạng thái vận động, biến đổi,
sản sinh, nuôi dưỡng và “huyền đồng”, làm cho vạn vật hiện ra muôn hình vạn trạn,
vô cùng, vô tận… theo trật tự của Đạo. Đạo làm cái không làm, săn sóc cái không
việc, không làm mà như đã làm, đã làm mà như không làm…
Nói tóm lại, Đạo gia đã đề cập đến Đạo một cách phi thường, siêu việt, không đứng
trên lập trường duy vật hay duy tâm thuần túy, mà ta chỉ nhận biết được điều đó khi
xem xét trong quá trình đề cập đến sự vận hành, tác động của nó.
Khi dùng hai chữ “đạo đức”, tức là vừa nói tới mặt bản thể của “đạo” nói chung vừa
nhấn mạnh thêm mặt Dụng. Khi Đạo ở dạng “thể” thì không có tên, nhưng đến
“dụng” (đức) thì có tên. Vạn vật nhờ “đức” mà có tên, phân biệt, lễ nghĩa… Cho nên:
“Mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi sinh nhân, mất nhân sinh nghĩa, mất nghĩa sinh
lễ…” (Đạo đức kinh). Nó ẩn chứa lý lẽ sống chưa hiển lộ.
2.2.2 Quan điểm “Vô vi” về chính trị - xã hội
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 17 -
“Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là
phải tiến hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác; không làm trái với Đạo,
không cố gắng hoạt động mang tính giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Bởi vì
“Đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng
nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính” (sđd,
Chương 42). Dương Chu giải thích thêm: “Các sinh vật khác không phải là của ta,
nhưng đã có chúng rồi thì không được diệt trừ chúng đi” (Liệt Tử, chương VII).
Như vậy, “vô vi” nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của sự
vật. Nếu để mất nó, tức là ham muốn, dục vọng… thì sẽ chuốc lấy tai họa. Cũng như:
“Ngũ sắc làm cho mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán, cưỡi
ngựa săn bắn làm cho lòng phát cuồng, vật khó khiến cho lòng tà vậy” (Đạo đức kinh,
chương 12). Những ai không biết thuận theo bản tính tự nhiên thuần phác, theo Dương
Chu, đó là những kẻ “ham sống lâu, ham danh vọng, ham địa vị, tiền tài. Vì ham bốn
cái đó nên sợ quỷ, sợ người, sợ kẻ có quyền uy, họ sống hay chết thì số mệnh của họ
cũng tùy thuộc vào ngoại vật” (Liệt Tử, chương VII).
Về mặt chính trị - xã hội, Đạo gia chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”,
chống lại chủ trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì
coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Nó là
nguyên nhân gây ra điều ác và bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục,
nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng
nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng
thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, chương 57).
Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc thống trị
là bọn ăn bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng. Bọn họ
chẳng “vô vi”.
Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà dân tự
giàu. Ta vô dục mà dân chất phác” (sđd, chương 57). Do đó, cần phải xóa bỏ mọi lễ
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 18 -
giáo, pháp luật, văn hóa, kỹ thuật, nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những gì do con
người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên thuần phác.
Tư tưởng “vô vi” chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho
dân sáng mà làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (sđd,
chương 18). Bởi hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham
muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự
nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt,
bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48). Cũng như: “Không chuộng
hiền khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không thấy
vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm
cho dân lòng trống, bụng no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không
biết, không muốn” (sđd, chương 3).
Bản thân Dương Chu, mặc dù có lúc trọng trí khôn, nhưng ông vẫn bảo: “Trời kia còn
không biết, huống chi là con người”. Hễ “cái gì không biết tại sao, thì gọi đó là mệnh
trời”, “thuận mệnh” tự nhiên (Liệt Tử, chương VI).
Mẫu hình xã hội lý tưởng của Lão Tử là “nước nhỏ, dân ít. Dù khí cụ gấp trăm gấp
chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi
đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ
văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm
chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể
nghe thấy gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong những nước ấy đến già chết
mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, chương 80). Xã hội được cai trị bằng
cách không cai trị, không cai trị mà coi như đã được cai trị… Con người sống tự nhiên
thuần phác, bỏ mọi ham muốn dục vọng, không cần đến cả tri thức, văn hóa hay bất
cứ sự tiến bộ xã hội nào…
Tư tưởng “vô vi” quan niệm về mẫu người lý tưởng như sau: “Bậc toàn thiện xưa tinh
tế, nhiệm màu, siêu huyền thông suốt, sâu chẳng khả dò… thận trọng dường qua sông
lạnh, do dự dường sợ mắt ngó bốn bên, nghiêm kính dường khách lạ, chảy ra đường
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 19 -
băng tan, quê mùa dường gỗ chưa đẽo gọt, trống không dường hang núi, phan lẫn
dường như nước đục” (sđd, chương 15). Trang Tử bảo họ “không ham sống, không
gét chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi” (Nam hoa
kinh, Đại tông sư). Ấy là bậc “thánh nhân”, “chân nhân”.
2.2.3 Một số tư tưởng biện chứng
Quan điểm biện chứng của Đạo gia được thể hiện ngay trong tư tưởng về Đạo, nơi cội
nguồn của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn
gốc là do các mối liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi
phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập, tương phản với chính nó; khuynh
hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy luật
căn bản chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
2.2.3.1 Luật quân bình (luật bù trừ)
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung trong trời
đất; là trạng thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật vận động biến
đổi theo một trật tự điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất cập, “gãy thì liền,
cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ thì mới, ít thì được, nhiều thì mất” (Lão Tử, Đạo đức
kinh, chương 22); “Đạo của trời bớt chỗ dư bù chỗ thiếu” (sđd, chương 42); “Một âm
một dương”; “rắn thì nát, nhọn thì nhụt” (Trang Tử, Nam Hoa kinh).
Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng phẳng tất
cả. Nước ở chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như biển mênh
mông rộng lớn, không gì không thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu
hơn nước, mà công phá vật rắn mạnh thì không gì hơn được nó, không lấy gì thay thế
được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 78).
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 20 -
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn
vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót lên thì
không đứng vững, xoạc chân ra thì không bước được…”.
2.2.3.2 Luật phản phục
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính nó; sự
vật khi phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi ngược
lại để trở thành tính chất tương phản. Điều đó cần phải hiểu thao hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều đặn,
nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày, trăng
tròn lại khuyết, trăng khuyết lại tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi đầy khi
vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là vòng biến đổi tuần hoàn bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi động”),
“đến chỗ cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh
ra, ta lại thấy nó trở về với gốc. Ôi! Mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó.
Trở về với cội rễ gọi là tĩnh, thế gọi là quay về với mạng” (Đạo đức kinh, chương 16).
Sự trở về với Đạo của vạn vật chính là sự trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên sơ,
tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và không thể cưỡng lại. “Đạo pháp tự nhiên” là
vậy. Mọi sự can thiệp vào Đạo – luật tự nhiên – nhất định sẽ thất bại.
2.3 Ý nghĩa phƣơng pháp luận
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây hơn hai
ngàn năm, và tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực
về mặt phương pháp luận, gợi mở cho chúng ta nhiều điều cả trong hoạt động nhận
thức lẫn trong hoạt động thực tiễn.
2.3.1 Ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động nhận thức
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 21 -
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một
số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách
quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới ấy thống nhất trong đa dạng và phong
phú, thể hiện ra muôn hình vạn trạng, với các mặt đối lập và vô vàn các mối liên hệ.
Thế giới ấy không do ai sáng tạo ra hoặc chi phối nó dưới bất kỳ hình thức nào, mà tự
sinh thành và hoạt động theo những quy luật tự nhiên vốn có.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc,
siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận
thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp
nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con
người hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham
muốn, mơ tưởng hão huyền.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược
bánh xe lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ
cho chúng ta những khát vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ
mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế độ tư hữu và nhà nước, con người được
sống tự do… Nó khiến chúng ta liên tưởng tới và rất có thể là nguồn gốc lịch sử gián
tiếp cho những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng ở Tây Âu sau này.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân tư tưởng tích cực
và tiến bộ, thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở quan trọng để xây dựng và
phát triển quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; chống lại chủ nghĩa duy
tâm, quan điểm siêu hình… Ngược lại, nếu nhìn về những mặt hạn chế, nó sẽ dẫn
chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tư tưởng biện chứng tuần hoàn
thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri…
2.3.2 Ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 22 -
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng ta, trong
hoạt động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và
vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống, nếu không sẽ phải trả giá và
chuốc lấy hậu quả khôn lường, như Lão Tử cảnh báo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà
khó lọt” (Đạo đức kinh, chương 73).
Đặc biệt, Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải “thuận theo
tự nhiên”, không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo
những toan tính lợi ích tầm thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu
sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, với thiên tai và dịch bệnh luôn
đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những bất ổn về chính trị - xã hội, một hệ lụy trực
tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”, tạo dựng một nền “văn minh”
không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải biết quý trọng mọi sự sống
nói chung, gắn với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn sát sinh vật và hủy
hoại môi trường một cách tùy tiện.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi
con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải
luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ
động trước các điều kiện khách quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại,
không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham
lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ…
Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên
mà đến, thản nhiên mà đi”…
Tuy nhiên, nếu xét ngược lại, với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ
trương con người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang
trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống như thời nguyên
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 23 -
thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một loài động vật bậc cao được sinh
ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người.
CHƢƠNG 3: SO SÁNH HAI DÒNG TƢ TƢỞNG NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
3.1. Nét đặc thù của hai dòng tƣ tƣởng Nho gia và Đạo gia
3.1.1 Bàn về vũ trụ và bàn về nhân sinh
Hai trường phái tư tưởng này nói chung đều bày tỏ về nhân sinh quan và vũ trụ
quan. Tuy nhiên, nội dung của Nho gia hầu như đặt trọng tâm ở những vấn đề của thế
sự, xã hội. Đó là các vấn đề chính trị, pháp luật, việc trị - loạn, việc bình định xã hội,
quan điểm về giá trị đạo đức, thẩm mỹ, v.v..
Tất cả những cố gắng của Nho gia là tổ chức ổn định trật tự xã hội. Một trong
những nội dung quan trọng của học thuyết là nói về chính trị. Khổng Tử khẳng định
“Đạo người thì chính trị là việc lớn” (Nhân đạo chính vi đại - Lễ ký: Ai công vấn,
XXVII). Ông đề ra cái gốc của chính trị, nguyên nhân của trị loạn, và rất nhiều các
biện pháp làm chính trị (noi theo thánh hiền, bồi dưỡng người quân tử, thuận lòng dân,
v.v.). Những vấn đề khác mà Khổng Tử đề cập đến cũng nhằm ổn định xã hội là việc
giáo dục, kỷ cương luân thường đạo lý, lễ nhạc, v.v. đều là những vấn đề của nhân
sinh.
Mục tiêu của Nho gia là đào tạo con người thành “thánh nhân”. Khái niệm
“thánh nhân” ở đây không siêu hình, không phải chỉ bậc tiên thánh có phép thuật, có
năng lực siêu nhiên, mà chỉ người có tài đức, có khả năng cai trị thiên hạ. Chữ “Nho”
được nhiều sách diễn giải ý nghĩa là chỉ người cần dùng cho xã hội. Khái niệm “Đạo”
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 24 -
của Nho gia nguyên thủy cũng không mang tính siêu hình. “Đạo” đây là đạo của thánh
nhân truyền lại, cụ thể là đạo truyền từ Nghiêu Thuấn, là đường đi, là cái lý, cái giá trị,
cái chuẩn mực, v.v. phải theo.
Nội dung của những vần đề về bản thể luận, vũ trụ, thiên địa, quỷ thần, v.v.
trong Nho gia không đủ sâu rộng. Quyển Chu Dịch là một trong những quyển sách
căn bản của Nho gia, chứa nội dung phong phú về hình nhi thượng. Nhưng xét cho
cùng, với nguồn gốc còn chưa được truy cứu rõ ràng, với thời gian hoàn thành được
xác định trong hàng ngàn năm, và là thành quả của công sức nhiều người, nên điều có
thể khẳng định là đây là tác phẩm của phái Dịch học. Đặc biệt, phần Dịch truyện được
viết từ cuối Xuân Thu trở đi, bao gồm cả tư tưởng của Nho và Đạo. Những tác giả
phần Truyện có đem tư tưởng của Nho, Lão “cột” vào phần Kinh, làm cho Chu Dịch
trở thành một tác phẩm triết lý có đủ vũ trụ quan và nhân sinh quan [5:105]. Nho gia
mãi đến đời Tống mới xây dựng hoàn chỉnh Đạo học, có hấp thu tư tưởng của Đạo gia
và Phật học.
Đạo gia quan tâm nhiều đến vũ trụ quan trước khi bàn về nhân sinh quan. Sở dĩ
gọi là Đạo gia, lý do cơ bản là ở chữ “Đạo”. Lão Tử đã xây dựng một học thuyết hoàn
chỉnh về vũ trụ quan. “Đạo” ở đây là khái niệm trừu tượng, là “bản nguyên của vũ
trụ”, “có trước trời đất”, v.v.. Ở học thuyết của Khổng, phần hình nhi thượng là phần
tinh thần của Khổng giáo, phát hiện ra ở phần hình nhi hạ, tức là phần thiết thực ở đời
[7:69]. Ở học thuyết của Lão, “chỉ Lão Tử mới trình bày rõ ràng một vũ trụ quan làm
cơ sở cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ; nhân sinh quan và chính
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 25 -
trị quan chỉ là tự nhiên quy kết của phần vũ trụ quan” [4: 53]. Như vậy, Nho gia đặt
phần nhân sinh quan làm nội dung nền móng, ngược lại, Đạo gia đặt phần vũ trụ quan
làm nền móng.
3.1.2. Hữu vi và vô vi
Hai từ hữu vi và vô vi, về nghĩa đen của từ, chỉ hai trạng thái trái ngược nhau
“có làm” và “không làm”. Hai khái niệm này trong phạm trù tư tưởng triết học thì
chưa hẳn là hoàn toàn trái nghĩa nhau, bởi khái niệm “vô vi” của Đạo gia khá phức
tạp. Tuy nhiên, đây vẫn là tôn chỉ khác nhau cơ bản giữa hai dòng tư tưởng Nam Bắc.
Nho gia, với tư tưởng mưu cầu “bình thiên hạ”, chủ về “hành động” và có các
thủ thuật hành động riêng.
Một số “hành động” được Nho gia đề ra như phải dạy dỗ dân, tề dân, khiến
dân, ngăn cấm dân: thánh nhân trị dân và hóa dân là phải dùng cả chính lẫn hình. Bậc
thái thượng lấy đức dạy dân, mà lấy lễ tề dân. Bậc thứ nhì lấy chính sự mà khiến dân,
và lấy hình mà ngăn cấm: hình đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc hóa dân mà
dân không theo, để đến hại nghĩa nát tục, thì bấy giờ mới phải dùng hình vậy” [7:136]
(“Thánh nhân chi trị, hóa dã, tất hình chính tương tham yên. Thái thượng dĩ đức giáo
dân, nhi dĩ lễ tề chi. Kỳ thứ, dĩ chính sự đạo dân, dĩ hình cấm chi, hình bất hình giã.
Hóa chi phất biến, dân chi phất tòng, thương nghĩa nhi bại tục, ư thị hồ dụng hình hỹ”
Khổng Tử gia ngữ: Ngũ hình giải, XXX); phải làm cho dân nhiều, làm cho dân giàu,
và dạy cho dân biết lễ nghĩa: Học trò Nhiễm Hữu hỏi: “(dân) đã đông vậy, lại nên
thêm gì nữa?” Khổng trả lời “Làm cho dân giàu”. Học trò lại hỏi tiếp “Đã giàu rồi lại
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 26 -
thêm gì nữa?. Khổng trả lời “Phải dạy dân” (Nhiễm Hữu viết “Ký thứ hỹ, hựu hà gia
yên? Viết “Phú chi”. Viết “ký phú hỹ, hựu hà gia yên? Viết “giáo chi” - Tử Lộ, Luận
ngữ); phải nghĩ cho lòng dân: dân ưa thích điều gì, (người cai trị) phải thích theo, dân
ghét điều gì phải ghét theo. Thế mới gọi là cha mẹ dân (“Dân chi sở hiếu, hiếu chi;
dân chi sở ố, ố chi. Thử chi vị dân chi phụ mẫu” - Đại học); v.v..
Ngoài bậc Thánh ra, Nho gia cũng bỏ bao công sức đề ra những việc mà những
thành phần khác trong xã hội (vua, tôi, cha, con, chồng, vợ, anh, em, người quân tử)
phải làm: vua sáng suốt tôi trung thành, cha hiền con hiếu, chồng có nghĩa vợ kính
trọng, anh tốt em nhường, bạn bè tín nhiệm (quân minh thần trung, phụ từ tử hiếu, phu
nghĩa phụ kính, huynh lương đệ đễ, bằng hữu hữu tín). Người quân tử phải đạt đạo
(ngũ luân), đạt đức (ngũ thường) và biết thi thư lễ nhạc. Tóm lại, Khổng Tử cho rằng:
Trên từ bậc thiên tử xuống đến hạng thứ dân, ai cũng phải lấy sự “tu thân” làm gốc
(“Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” - Đại học).
Đạo gia không cho rằng “hành động” mang lại tác dụng trong mối quan hệ
nhân luân và bồi dưỡng nhân cách, mà chính “vô vi” mới mang lại hiệu quả cao nhất.
“Vô vi” có thể hiểu là đừng can thiệp, lo liệu, giải quyết, cứ để mọi việc diễn ra theo
cách tự nhiên của chúng. Lão Tử cho rằng “Đạo không lo liệu, giải quyết bất cứ việc
gì, nhưng không có việc gì mà làm không thành” (“Đạo thường vô vi nhi vô bất vi” -
chương 37, Lão Tử). Vô vi thể hiện một cách tập trung nhất tư tưởng của Lão Tử. Lão
Tử chủ trương vô vi trên nhiều phương diện.
Về chính trị, người trị nước phải rũ bỏ hết những cố gắng nhằm can thiệp vào
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 27 -
xã hội: Trị nước lớn giống như hầm cá nhỏ (“Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên” -
chương 60, Lão Tử); đừng đặt ra cái tiêu chuẩn cho thánh nhân hay cho các hạng
người trong xã hội: Loại trừ thánh hiền, gạt bỏ trí tuệ, dân chúng mới có được phúc lợi
gấp trăm lần; đoạn tuyệt nhân ái, vứt bỏ nghĩa khí, dân chúng mới có thể khôi phục lại
hiếu kính và từ ái; triệt kỷ xảo, bỏ tài vật, thì đạo tặc mới không còn (“Tuyệt thánh khí
trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc
vô hữu” - chương 19, Lão Tử); Không cần phải tìm dùng người hiền tài để tránh loạn:
Không trọng hiền đức để dân không tranh danh đoạt lợi (“Bất thượng hiền, sử dân bất
tranh” - chương 3, Lão Tử); Không phải đặt pháp lệnh, điều cấm kỵ, không phải dùng
thủ thuật: Thiên hạ có quá nhiều khuôn phép, thì bách tính càng bần cùng; dân chúng
có quá nhiều khí cụ sắc bén, thì nước sẽ càng hỗn loạn; con người nắm được nhiều kỷ
xảo thì tranh đấu càng nhiều; pháp lệnh quy định càng rõ ràng thì đạo tặc càng nhiều
(“Thiên hạ đa kỵ húy, nhi dân di bần; dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kỳ xảo,
kỳ vật tư khởi; pháp vật tư chương, đạo tặc đa hữu” - chương 57, Lão Tử). Và trên
hết,
Lão Tử khẳng định “hữu vi” không có tác dụng trong làm chính trị: Muốn đạt được
thiên hạ mà thực hiện trị lý, thì tôi thấy họ không thể thành công. Người có mưu đồ
hành động làm thay đổi, nhất định thất bại; người có mưu đồ chiếm giữ, nhất định sẽ
mất (“Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kỳ bất đắc dĩ. Vi giả bại chi, chấp
giả thất chi” - Chương 29 Lão Tử). Mặt khác, ông lại khẳng định hiệu quả của “vô vi”:
Ta không có hành động gì, mà dân chúng tự nhiên cải hóa; ta thích hư tĩnh, mà dân
chúng tự nhiên an định; ta không lo toan trằn trọc, mà bách tính tự nhiên giàu có; ta
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 28 -
không có lòng ham muốn, mà bách tính tự nhiên trở nên thuần phác (“Ngã vô vi nhi
dân tự hóa; ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính; ngã vô sự nhi dân tự phú, ngã vô dục nhi
dân tự phác” - Chương 57 Lão Tử).
Về nhân tình thế thái, Khổng và Lão có hai cách diễn đạt khác nhau. Khổng
đưa ra trách nhiệm và bổn phận cho từng đối tượng trong xã hội, buộc họ làm đúng để
giữ hòa khí, trật tự trên dưới. Lão không quan tâm cái trật tự đó, diễn giải một hướng
hoàn toàn khác, cho rằng, trong xử thế không cần phải hành động gì vẫn được lợi về
mình: Quy luật tự nhiên là không tranh đoạt mà lại khéo lấy được thắng được, không
nói mà được đáp ứng, không kêu gọi mà tự tới, thản nhiên mà khéo sinh mưu kế
(“Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai,
thiện nhiên nhi thiện mưu” - chương 73, Lão Tử).
Về giá trị của cá nhân, đối với Nho gia, con người phải học lễ nghĩa, trau dồi
tài đức, nói chung phải làm rất nhiều trong việc “tu thân”. Đạo gia không cho rằng cần
phải tu dưỡng những “nhân, nghĩa, lễ” đó, mà trở về với tự nhiên, hợp với Đạo.
Chương 38 Lão Tử, viết “Người có đức hạnh cao không hành động gì cả, nhưng việc
gì cũng có thể thành công; người có đức hạnh thấp luôn hành động, mà luôn mượn lý
do, mục đích cho hành động” (Thượng đức vô vi, nhi vô dĩ vi; hạ đức vi chi, nhi hữu
dĩ vi). Lại nói “Mất đạo mới có đức, mất đức mới có nhân, mất nhân mới có nghĩa,
mất nghĩa mới có lễ. Lễ nghi là sản phẩm của sự suy đồi trung tín, cũng là khởi đầu
của họa loạn” (Thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa,
thất nghĩa nhi hậu lễ. Phu lễ giả, trung tính chi bạc, nhi loạn chi thủ). Như vậy, hành
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 29 -
động tu dưỡng là đồng nghĩa với “mất đạo”, là mầm họa loạn.
3.1.3 Tại thế và ngoại thế
Lâm Ngữ Đường khi bàn về tính cách người Trung Quốc, viết rằng “Người
Trung Quốc là những chiến sĩ kém nhất thế giới, chỉ vì nó là một giống người thông
minh được giáo dục bằng tư tưởng khinh thế ngạo vật của Đạo giáo hòa hợp với sự cổ
lệ tích cực lý tưởng hòa đồng của Khổng giáo [1:101]. Hay “Chủ nghĩa Khổng Tử ở
trong chúng ta là nỗ lực kiến thiết và cần lao, chủ nghĩa Đạo giáo, là bó gối ngồi xem
và cười tủm tỉm. Chỉ vì vậy nên những bậc văn nhân của Trung Quốc khi còn tại chức
thì giảng dạy đức hạnh, lúc nhàn cư thì ngâm vịnh túy tình, thường trước tác nhiều thơ
phú có tư tưởng Đạo giáo [1:94]. Một hình ảnh “tham gia và tận sức” với một hình
ảnh “ngồi ngoài và ngạo thế” chính là hai lối ứng xử “lo việc đời người” và “mặc cho
thuận tự nhiên”, xuất phát từ hai chủ trương “hữu vi” và “vô vi”.
Cách diễn tả hai thái độ “nỗ lực kiến thiết và cần lao” và “bó gối ngồi xem và
cười tủm tỉm” của Lâm Ngữ Đường khiến liên tưởng đến hình ảnh hai nhân vật
Khổng và Lão. Dung mạo của Khổng trong tranh hay tượng khắc đều mang phong
cách đạo mạo, áo mão cân đai của một nhà quan. Khổng Tử khuyên học trò ra làm
quan để thi hành nhân nghĩa, cứu đời. Chính cuộc chu du của Khổng Tử là một minh
chứng cho thái độ nỗ lực vì đời của ông. Trần Trọng Kim nhận định “Cái chủ nghĩa
của Ngài là cái chủ nghĩa của những người Nho học cốt ở sự hành đạo. Ai có tài có trí
thì phải ra ứng dụng ở đời để làm những điều ích lợi cho dân chúng, chứ không phải là
chỉ cầu lấy sự an nhàn ở chỗ ẩn dật và sự vui thú trong vòng tư tưởng. Cái chí của
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 30 -
Ngài là muốn ra làm quan để thực hành cái đạo của mình” [7:21]. Lão Tử thì luôn
trong phong thái “tiếu ngạo” bên con trâu nước, Trang Chu thì “nguyện bơi lội trong
dòng suối mà tìm vui, không để người trị quốc ràng buộc” [3: 38], cho thấy họ ít chịu
“dấn thân” vào chính trường.
Quan điểm về gia đình, Khổng Mạnh suy tư xây dựng một chế độ tông tộc
vững chắc. Lão Trang thì vui điền viên và ẩn dật.
Tất cả những khuôn phép của Nho gia (tam cương, ngũ thường, ngũ luân,...)
đều cho thấy Nho gia quan tâm đến trách nhiệm của người đối với người, của người
đối với xã hội, cũng có nghĩa là con người không thể đứng ngoài thế sự. Nho gia vừa
là triết học nhằm mục đích tổ chức xã hội, vừa là triết học của đời sống hằng ngày.
Nếu Nho gia nhấn mạnh đến nghĩa vụ xã hội, thì Đạo gia chú trọng đến cái tự nhiên
và hồn nhiên ở con người. Sách Trang Tử chép rằng Nho gia chơi trong cõi nhân
quần, còn Đạo gia thì chơi ngoài cõi nhân quần. Khổng Tử ưa thích danh giáo, còn
Lão Trang ưa thích tự nhiên [6:38].
Con đường phát triển của Đạo gia theo lịch sử ngày càng thiên về siêu hình,
ngày càng nặng tính chất tôn giáo. Trong khi đó, Nho gia ngày càng được xã hội hóa
bằng con đường chính trị. Kinh điển Nho gia trở thành nội dung thi cử để tuyển chọn
người ra làm quan. Vị trí của Nho gia trong xã hội từ nhà Hán về sau cũng nói lên vai
trò “làm chính trị” của Nho gia.
3.1.4 Tự cường và khiêm nhu
So sánh hai dòng tư tưởng về phương diện này, trước tiên cần nói rõ rằng
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 31 -
không phải hai dòng tư tưởng hoàn toàn đối lập theo kiểu một bên đề cao “tự cao, kiên
cường, mạnh mẽ”, một bên đề cao “khiêm tốn, nhu mềm”. Khổng và Lão đều giảng
về khiêm tốn và nhu hòa, tuy nhiên phân tích sâu và suy xét đến tường tận, sẽ thấy
được đặc sắc riêng trong tư duy và lối diễn đạt của hai nhà. Đặc sắc riêng của hai nhà
sẽ được vạch ra qua ba khía cạnh: sức mạnh nội tại của bản thân, lối ứng xử và làm
chính trị.
Về quan điểm “cường” trong nội lực, Nho gia chú trọng đời sống tại thế, chủ
trương hành động, một trong những đức tính cần cho hành động là tính tự cường. Tuy
chủ trương trung dung, nhưng về mặt rèn luyện bản thân, Nho gia luôn mong muốn
đạt đến chữ “chí” (tột cùng), chữ “đại” (lớn) hoặc chữ “minh” (sáng tỏ), như chí
thành, đại đức, minh đức, đại hiếu, v.v.. Muốn tu dưỡng chữ “nhân”, muốn khép mình
vào “lễ”, muốn đạt đến “chí thành”, “đại đức” ắt phải có chí khí lớn, sức phấn đấu lớn,
bản lĩnh lớn. Ông nhấn mạnh cái nội lực vốn có của sinh vật như sau: Trời hóa sinh
vạn vật thế gian, tất nhiên phải dựa vào chất tài của mỗi vật mà dốc lòng (đối đãi) với
chúng. Do vậy, (giống như trồng cây) cây nào còn sức sống có thể trồng được thì bồi
dưỡng thêm cho chúng, cây nào nghiêng ngã thì chặt bỏ đi (“Thiên chi sinh vật, tất
nhân kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi” - Trung dung). Như
vậy, muốn bồi dưỡng cá nhân, trước phải có sức mạnh nội tại ở mức độ nhất định.
Vì cho rằng cái dáng vẻ bên ngoài thể hiện cái tư chất bên trong, nên Khổng Tử
rất chú trọng cái vẻ uy nghiêm bên ngoài, còn chủ trương không kết bạn với những
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 32 -
người không bằng mình: Quân tử nếu không tự trọng, thì sẽ không được uy nghiêm;
Phải lấy trung tín làm đầu; Không kết bạn với người không bằng mình (“Quân tử bất
trọng, tắc bất uy; Chủ trung tín; Vô hữu bất như kỷ giả” - Học nhi, Luận ngữ).
Lão Tử coi thường nhân nghĩa, trung hiếu: Đạo mất mới xuất hiện nhân nghĩa,
giữa cha con, anh em, chồng vợ bất hòa mới đề xướng hiếu kính từ ái, nước nhà hỗn
loạn mới sinh ra trung thần (“Đại đạo phế hữu nhân nghĩa, lục thân bất hòa hữu hiếu
từ, quốc gia hôn loạn hữu trung thần” - chương 18, Lão Tử). Đã coi thường các đức
tính trên, ông không mong muốn đạt được chúng, và cũng không cần bàn đến điều
kiện tư chất thế nào để tu dưỡng.
Về lối ứng xử, Tứ thư - Ngũ kinh nhiều lần nhắc đến chữ dũng và cường: Ba
loại trí nhân và dũng là những đức hạnh mà người trong thiên hạ phải đạt được (“Tri
nhân nghĩa tam giả, thiên hạ chi đạt đức dã” - Trung dung); Biết xấu hổ, nhục nhã là
gần với dũng (“Tri sỉ cận hồ dũng” - Trung dung); Thấy điều nghĩa mà không làm, ấy
là chẳng có dũng (“Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã” - Vi chính, Luận ngữ); hay Người
quân tử nhu hòa nhưng không chạy theo số đông, ấy là cường. Ở vào vị thế trung lập
không thiên lệch theo hai cực, ấy là cường. Lúc nước thái bình, không đổi biến thân,
ấy là cường. Lúc nước loạn, đến chết cũng không thay đổi tiết tháo, ấy là cường
(“Quân tử hòa nhi bất lưu, cường tai kiểu! Trung lập nhi bất ỷ, cường tai kiểu! Quốc
hữu đạo, bất biến tắc yên, cường tai kiểu! Quốc vô đạo, chí tử bất biến, cường tai
kiểu!” - Trung dung). Như vậy, Nho gia nói về chữ “dũng” và “cường” gắn liền với
trách nhiệm và bổn phận đối với người, với nước.
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 33 -
Lão Tử không bàn đến những biểu hiện của cường, chỉ đem “cường” đối lập
với “nhu”, phủ nhận giá trị của tính “cường” như “Mềm yếu thắng cứng mạnh” (“Nhu
nhược thắng cương cường” - chương 36, Lão Tử), “Kiên cường luôn đi theo tử vong,
nhu mềm luôn đi theo sự sống” (“Kiên cường giả tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi
đồ” - chương 76, Lão Tử). Đạo gia nói đến “cường” trong đối nhân xử thế, chỉ đơn
giản là “Chiến thắng người khác là có lực, tự chiến thắng được chính mình mới là
cường” (“Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” - chương 33, Lão Tử). Lão Tử
nói về chữ “dũng” càng khác với Khổng, “Dùng cái dũng khí ở hành động quả quyết
cương nghị dám làm thì sẽ mang đến họa sát thân, dùng cái dũng khí ở hành động cẩn
thận tự kiềm chế thì sẽ sống tốt” (“Dũng ư cảm tắc sát, dũng ư bất cảm tắc hoạt” -
chương 73, Lão Tử).Nho gia dạy người quân tử biết khiêm tốn trong ứng xử, tuy
nhiên luôn nhấn
mạnh phải ở đúng cái vị trí của họ, giữ đúng cái phong độ của họ, giữ đúng cái tư thái
của họ, đó là cái tư thái của bậc cai trị, của người bề trên. Những lý luận trên cũng đã
thể hiện cái “tự cường” của Nho gia.
Khổng Tử dạy giữ cái tư thái đúng với vị thế, Lão Tử dạy biết giữ cái ngu để
thành cái trí (khôn), giữ cái yếu để thành cái mạnh: “giữ lấy nhu, chính là cường”
(“Thủ nhu viết cường” - chương 52, Lão Tử), “Thánh nhân tự đặt mình ở phía sau dân
chúng, nhưng lại được ở trước, tự đặt thân mình ra ngoài, lại được bảo toàn thân
mình” (“Thánh nhân hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn” - chương 7,
Lão Tử).
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 34 -
Biểu hiện tự cường và khiêm nhu trong lý thuyết về chính trị, Khổng Tử mưu
cầu “bình thiên hạ”, còn Lão Tử thì vui với nước nhỏ: “Nước nhỏ dân ít. Các nước
láng giềng có thể trông thấy nhau, có thể nghe tiếng gà gáy tiếng chó sủa, dân chúng
đến già chết cũng không qua lại” (“Tiểu quốc quả dân. Lân quốc tương vọng, kê
khuyển chi thanh tương văn, dân chí lão tử bất tương vãng lai” - chương 80, Lão Tử)
Khổng Tử cho rằng muốn được thiên hạ quy thuận về, người cai trị trước phải
“làm sáng, làm lớn cái đức” của họ, làm tôn nghiêm cái vị thế của họ, làm uy nghiêm
cái tư thái của họ. Theo Lão Tử, muốn được thiên hạ quy thuận về thì phải đứng sau
thiên hạ, hàng loạt các chương (chương 7, 8, 16, 22, 24, 30, 31, 38, 39, 42, 52, 61, 63,
66, 67, 68, 69, 72, 76, 77, 78, 80) trong Lão Tử - Đạo đức kinh đều đề cao tính khiêm
nhu này của người cai trị. Như chương 66 viết “Sông biển sở dĩ có thể làm vua trăm
khe lạch, là do cam lòng ở nơi hạ lưu, vì thế mới có thể làm vua của các khe lạch”
(Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ thiện hạ chi, cố năng vi bách cốc
vương).
3.1.5 Miễn cưỡng và thuận tự nhiên
Nho gia và Đạo gia đều quan tâm vấn đề “con người”. Đối với Nho gia, “Trong
trời đất, con người là quý” (“Thiên địa chi tính nhân vi quý” - Hiếu Kinh, Thánh trị).
Đối với Đạo gia, “Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái
lớn, mà người là một trong số đó” (“Đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực
trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên” - Chương 25, Lão Tử).
Tuy nhiên, Nho và Đạo thể hiện quan điểm về thực hiện nhân sinh của con
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 35 -
người khác nhau. Nho gia nhấn mạnh tầm quan trọng của con người và việc thực hiện
nhân sinh trong quan hệ nhân luân. Đạo gia lấy học thuyết “Đạo” làm trung tâm. Nhìn
chung, khung lý luận của Đạo gia là “tự nhiên”. Lão Tử chủ trương thông qua “pháp
tự nhiên” (bắt chước theo tự nhiên) mà thực hiện nhân sinh, thuận theo tự nhiên mà
phát triển, “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên”
(chương 25, Lão Tử).
Chính vì nhấn mạnh đến tính xã hội của con người, hàng loạt các luân lý nhân
sinh được thiết lập, hình thành một vòng nhân nghĩa lễ giáo, và đặt những thành phần
xã hội vào trong đó. Con người phải “khắc kỷ phục lễ”, gò bó trong vòng lễ giáo nhân
nghĩa đó. Nói đến “khắc” và “phục” là nói đến miễn cưỡng.
Đạo gia nhấn mạnh tính tự nhiên của con người, nhấn mạnh sự bắt chước tự
nhiên của con người, và tính tự chủ, độc lập, tự do của con người. Đạo gia muốn thoát
khỏi những trói buộc của luân lý. Trong khi điểm đích của Nho gia là “thành thánh”,
thì điểm đích của Đạo gia là “quy chân”. Đạo là bản nguyên của vũ trụ, vạn vật đều
hóa sinh từ Đạo, “nhân” mà hợp với “Đạo”, thì đó là “chân nhân”. Tính chất của Đạo
là tự nhiên , “nhân” mà hợp với “Đạo”, thì phải thoát khỏi những trói buộc đối với
tính tự nhiên của con người, tức thoát khỏi nhân nghĩa đạo đức của xã hội nhân luân
thế tục, trở về với cái tính “thuần – chân” vốn có của con người.
3.1.6 Hiện thực và lãng mạn
Hai dòng tư tưởng Nho và Đạo mang hai sắc thái hiện thực và lãng mạn đã
được đúc kết bởi nhiều nhà nghiên cứu trước đây. Lâm Ngữ Đường trong Trung Hoa
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 36 -
đất nước con người đã khẳng định điều này rất nhiều lần. Ông cho rằng đức Khổng
Tử là một triết gia về thực nghiệm, thuộc chủ nghĩa nhân văn. Và còn nói “chủ nghĩa
hiện thực trong lý tưởng nhân sinh của Trung Quốc và đặc tính chú trọng về hiện thế
bắt nguồn từ học thuyết Khổng Tử [1:166]. Mặc khác, ông chứng minh Đạo gia mang
sắc thái lãng mạn như sau: “Học thuyết Khổng Tử quá chú trọng vào thực tế, không
có thành phần ý tưởng nào thuộc về hư không. Học thuyết Khổng giáo không nói đến
thần tiên, nhưng Đạo giáo thì thường nói đến điểm đó. Từ trước tới sau, Đạo giáo vẫn
có tính cách lãng mạn: điểm thứ nhất, luôn chủ trương trở lại với tự nhiên, vì thế mà
nảy sinh tính cách lánh đời và phản kháng những gì làm mất tự nhiên và những trách
nhiệm do văn hóa Khổng giáo; điểm thứ hai, Đạo giáo chủ trương giữ nếp phong vị
đồng ruộng trong lý tưởng nhân sinh, văn học, nghệ thuật và chú trọng vào điểm thuần
phác của nguyên thủy; điểm thứ ba, nó đại biểu cho cái thế giới tưởng tượng, biến hóa
lạ lùng, đi đôi với thần thoại ngây thơ về thuyết sáng chế. Sống trong vòng lễ giáo
chặt chẽ của Khổng Tử nếu không có cái tình cảm đó (tư tưởng lãng mạn) làm dịu bớt
đi, thì có lẽ khổ cực đến không chịu nổi. Bởi vậy Đạo giáo là thái độ vui chơi của
người dân Trung Quốc, Khổng giáo là thái độ cần cù của họ vậy” [1:184-185]. Ông
dẫn chứng thêm: Bao giờ chủ nghĩa lãng mạn chẳng đả kích phái cổ điển (việc sùng
thượng lễ nghĩa, chôn cất trọng hậu, để tang quá lâu, khuyên học trò ra làm quan để
thi hành nhân nghĩa, cứu đời). Triết học của Đạo gia bao giờ cũng giữ tư tưởng lánh
cõi đời, ở ẩn trong rừng núi để tu luyện dưỡng sinh. Do điểm này chúng ta có thể hiểu
rõ được đặc tính làm mê người của văn hóa Trung Quốc là phong vị điền dã trong nếp
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 37 -
sống và phong hoa tuyết nguyệt trong văn chương và nghệ thuật [1:187]. Phùng Hữu
Lan thì so sánh Nho và Đạo như sau “Hai dòng tư tưởng kia của triết học Trung Quốc
tương đương trong đại thể với truyền thống của chủ nghĩa cổ điển và lãng mạn trong
tư tưởng Tây phương” [6: 38].
Nhìn lại những điểm khác biệt giữa hai dòng tư tưởng như đã phân tích ở trên.
Nho gia chú trọng chính trị xã hội, quan tâm những sự việc tại thế, đề ra trách nhiệm
và bổn phận của từng hạng người trong xã hội để định hướng hành động cho con
người, xây dựng các nguyên tắc nhân luân để ép đưa con người vào vòng trật tự, mưu
cầu đạt được những giá trị tối cao trong phẩm hạnh và “bình thiên hạ” trong trị nước,
thể hiện cái tự cường, v.v., tất cả đều mang sắc thái hiện thực rõ nét. Đạo gia xây dựng
một học thuyết về “Đạo” khá vững chắc, một học thuyết về vũ trụ quan hoàn chỉnh,
đặt ra vấn đề nằm ngoài nhận thức và nội dung đời sống hiện thực của con người. Đạo
gia chủ trương ẩn dật, dùng cách nói của Phùng Hữu Lan là “chơi ngoài cõi nhân
quần”; đả phá tất cả những chủ trương hành động theo trách nhiệm và bổn phận, hay
hành động nhằm nắm bắt, điều chỉnh, chi phối, can thiệp vào sự thế; đả phá tất cả
những luân thường đạo lý trói buộc con người; ca ngợi sự tự do, tự tại, thong dong,
sùng bái thiên nhiên; v.v.. tất cả đều thể hiện tinh thần lãng mạn, yêu chuộng tự nhiên.
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 38 -
KẾT LUẬN
Hai trường phái tư tưởng đều chú trọng những vấn đề về con người, cùng mong
muốn giải quyết thế sự. Tuy nhiên, các nhà tư tưởng ở trong hai bối cảnh xã hội lịch
sử, môi trường tự nhiên khác nhau, và thân phận xã hội khác nhau, nên suy tư, lý luận
và giải quyết vấn đề theo những hướng khác nhau. Những đặc thù được đúc kết (bàn
về nhân sinh, hữu vi, tại thế, tự cường, miễn cưỡng, hiện thực) của dòng tư tưởng
miền Bắc gần như là những mắt xích trên một chuỗi thống nhất. Chuỗi này mang chất
dương tính khi so sánh với chuỗi đặc thù của dòng tư tưởng miền Nam (bàn về vũ trụ,
vô vi, ngoại thế, khiêm nhu, thuận tự nhiên, lãng mạn). Lâm Ngữ Đường có lẽ vì thế
mà nhận định “Tinh thần Đạo giáo và tinh thần Khổng giáo là hai cực âm dương của
tư tưởng Trung Quốc, sinh mệnh dân tộc Trung Quốc cũng nhờ đó mà hoạt động vậy”
[1:95]. Hai dòng tư tưởng Nam Bắc Trung Quốc với các đặc thù riêng được hình
thành như là kết quả tất yếu do hai diện mạo văn hóa sinh ra. Đó là diện mạo văn hóa
miền Bắc mang dấu vết du mục Tây Bắc và hoạt động nông nghiệp ruộng khô vùng
Trung Nguyên, nổi trội chất dương cương và diện mạo văn hóa vùng nông nghiệp lúa
nước miền Nam thiên về âm nhu.
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 39 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu in, ấn phẩm
1. Lâm Ngữ Đường 2001: Trung Hoa đất nước con người. – HN: NXB Văn hóa
Thông tin
3. Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý 1994: Đại cương lịch sử văn hóa Trung
Quốc (Lương Duy Thứ và nnk dịch). – Tp. HCM: NXB Văn hóa Thông tin
4. Nguyễn Hiến Lê (chú dịch và giới thiệu) 1998: Lão Tử - Đạo đức kinh. – Tp.
HCM: NXB Văn hóa Thông tin
5. Nguyễn Hiến Lê 1994: Kinh Dịch – Đạo của người quân tử. – Tp. HCM: NXB
Văn học
6. Phùng Hữu Lan 1968: Đại cương triết học sử Trung Quốc (Nguyễn Văn
Dương dịch). – Sài Gòn: Ban tu thư viện đại học Vạn Hạnh ấn hành
8. Trần Trọng Kim 1971a: Nho giáo (quyển thượng). – Trung tâm Học liệu xuất
bản
9. Trần Trọng Kim 1971b: Nho giáo (quyển hạ). – Trung tâm Học liệu xuất bản,
B. Tài liệu điện tử:
1.
2.
3.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 55_n4k22_detai3_le_thi_to_quyen_0615.pdf