Đề tài Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào

Những nét đẹp của văn hóa ẩm thực bắt nguồn từ chính cuộc sống, bởi cuộc sống là mạch nguồn trong trẻo nhất cho văn hóa tồn tại và phát triển. Ẩm thực, bản thân nó đã là văn hóa bởi đó là sản phẩm của con người, thông qua nét đẹp của quá trình chọn, chế biến, cách làm ra những món ăn và thưởng thức đã làm cho nó trở thành một nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của đất nước Lào. Văn hóa ẩm thực Lào rất đa dạng và còn chứa đựng trong nó những đặc trưng riêng. Những đặc trưng ấy có thể là cách dùng gia vị, cách chế biến, cách trình bày cho đến cách thưởng thức các món ăn, từ những món ăn đơn giản, thường ngày tới những món ăn sử dụng trong các dịp lễ Tết. Và chính những đặc trưng ấy đã trở thành yếu tố tạo nên nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của người Lào.

doc44 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6974 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hật hóa thân) vào tháng 1; Bun Visakha Puya (lễ Phật đản) vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng 5; Bun Khao PhanSa – (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ những người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội tại Lào luôn gắn liền với chùa. Tuy nhiên người Lào cũng rất có ý thức trong việc tiếp nhận có chọn lọc những yếu tố từ bên ngoài. Với các đặc điểm của vị trí địa lí nên người Lào luôn sẵn sang tiếp thu văn hóa từ các dân tộc cả phương Đông và phương Tây như Thái Lan, Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp, Mỹ…Chính sự hòa quyện giữa yếu tố mở tiếp thu bên ngoài và yếu tố văn hóa bản địa đã làm cho văn hóa Lào ngày càng đa dạng, nhiều màu sắc trong đời sống hiện nay. Ngoài ra, một đặc điểm khác là hiện nay Lào lưu giữ nhiều nét văn hóa gắn liền với nông thôn: nền móng nông nghiệp lúa nước gắn với tổ chức làng xã, tổ chức làng xã có tính tự quản. 1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ẩm thực Lào 1.2.1. Ảnh hưởng của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Như chúng ta đã biết, mỗi nền ẩm thực sẽ có những nhân tố khác nhau tác động đến khiến nền ẩm thực đó hình thành nên những đặc trưng riêng. Với đất nước Lào, dấu ấn văn hóa ẩm thực cũng được hình thành bởi sự tác động của khá nhiều nhân tố, trong đó có các yếu tố về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. vVị trí địa lý Lào là một quốc gia có đất liền bao quanh tại vùng Đông Nam Á với diện tích khoảng 236.800km2 vào loại rộng trung bình trên thế giới. Đây là nước có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất, không có biển, bị kẹp giữa dãy Trường Sơn và dòng sông Mêkông. Lào là một đất nước với 4 mặt là đất liền nên có sự giao lưu chặt chẽ với các nước láng giềng trên mọi phương diện, điều này đã ảnh hưởng khá lớn tới nền văn hóa ẩm thực. Lào có đường biên giới đất liền tiếp giáp với Thái lan, Campuchia, Việt Nam, Trung Hoa nên mọi sự giao lưu diễn ra hết sức thuận lợi. Vì văn hóa Lào là một nền văn hóa mở nên họ tiếp thu mọi tinh hoa văn hóa của các đất nước láng giềng, điều này đã tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của người dân nơi đây. Nền ẩm thực cũng không nằm ngoài sự vận động đó. Hầu hết các món ăn của Lào đều mang đậm màu sắc của ẩm thực Thái Lan và Campuchia, do vậy đến với ẩm thực Lào ta sẽ tìm thấy trong đó sự kết hợp tuyệt vời giữa cái béo mà không ngậy trong ẩm thực Thái và vị giòn tan của các món ăn từ côn trùng hết sức đặc trưng trong ẩm thực Campuchia. v Điều kiện tự nhiên Địa hình cũng là nhân tố chi phối khá lớn tới văn hóa ẩm thực Lào. Được coi là tiểu lục có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất với những dòng sông trải dài như một mạng lưới trên khấp đất nước với dòng sông Mêkong hùng vĩ, Lào có một nguồn cá tôm nước ngọt dồi dào để phục vụ cho các bữa ăn, vì thế cá chính là thực phẩm chủ yếu của người dân nơi đây. Ngoài ra với một diện tích rừng khá lớn cùng những cao nguyên trù phú đã giúp cho họ có thể tận dụng những nguồn thức ăn từ tự nhiên như thú rừng, rau quả hay những loại côn trùng… Khí hậu Lào chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 tới tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. Đất nước Lào có một nguồn khí hậu vô tận, thuận lợi cho sự phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới. Cường độ bức xạ mặt trời cao, lượng ánh sáng dồi dào (khắp nơi trong toàn quốc đều có ít nhất 1500 giờ nắng trong mỗi năm), cán cân bức xạ luôn luôn dương đã quy định ở nhiệt độ cao trên toàn lãnh thổ Lào: nhiệt độ trung bình cả năm ở các địa phương đều trên 260C (trừ các miền núi cao), tổng nhiệu độ hoạt động vượt quá 75000C. Điều kiện nhiệt đới này là yếu tố thiên nhiên rất thuận lợi cho sự phát triển thâm canh tăng vụ, vì cây trồng có thể sinh trưởng và phát triển quanh năm. Yếu tố thiên nhiên này lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới của Lào. Điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm với lượng mưa phong phú, ánh nắng chan hòa và lộng gió mùa cũng tại ra một nguồn năng lượng vô tận. Người ta còn tìm thấy sự tươi đẹp của khí hậu ở kho tàng vô giá của rừng nhiệt đới với nhiều loại động thực vật đặc hữu cơ có giá trị cao về kinh tế. Tuy là xứ sở của núi và cao nguyên, nhưng Lào có một nguồn dự trữ lớn về đất nông nghiệp – cơ sở cho việc phát triển toàn diện một nền nông nghiệp nhiệt đới với các loại nông phẩm khác nhau. Diện tích đồng bằng phù sa mới trải suốt dọc sông Mêkông và vùng hạ lưu của các phụ lưu của nó chiếm khoảng 10% diện tích lãnh thổ toàn quốc. Nhưng đồng bằng phù sa màu mỡ này được bồi đắp từ kỷ đệ từ, những đồng bằng này còn đang ở trong quá trình phát triển và là vựa lúa của nước Lào. Ở Lào, có nguồn tài nguyên thủy văn dồi dào có giá trị kinh tế quan trọng và đa dạng đồng thời là trục chính của đất nước, dòng Mêkông với 1300 km chiều dài, là yếu tố của sự thống nhất nước Lào về mặt địa lý. Vai trò đó cũng đủ nói lên tầm quan trọng có tính chất lồng kép về kinh tế của dòng sông này đối với nước Lào. Dòng Mêkông với hệ thống phụ lưu của nó đã tạo ra những đồng bằng màu mỡ, đã là chiếc nôi hồng lịch sử của các dân tộc Lào từ thời buổi xa xưa. Hệ thống thủy văn khá dày đặc phân bố rộng khắp trên lãnh thổ Lào, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, không những là nguồn cung cấp nước dồi dào cho những nhu cầu phát triển công nông nghiệp trong tương lại mà còn là hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện cho việc nối liền các vùng nội địa với nhau. Cũng cần phải kể đến giá trị kinh tế của mạng lưới sông ngòi và hệ thống các hồ chứa nước sẽ xây dựng về sau này đối với việc phát triển nghề nuôi cá nước ngọt – một nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao cho nhân dân, nhất là tỏng điều kiện nước Lào không có vùng biển. Nguồn tài nguyên thủy văn là một thành phần quan trọng trong tổng thể lãnh thổ tự nhiên, là một tặng phẩm rất quý mà thiên nhiên đã dành cho đất nước Triệu Voi. Tài nguyên động, thực vật của Lào rất phong phú. Lào được mệnh danh là vương quốc của rừng. Điều đó nói lên vị trí kinh tế quan trọng của kho vàng xanh giàu có của Lào. Nếu đất nước Lào là một thiên đường của các nhà thực vật học thì cũng có thể nói rằng đây chính là một vườn bách thú thiên nhiên lý tưởng ở miền nhiệt đới với thành phần đa dạng của các loài động vật, chim chóc có giá trị kinh tế cao. Loại động vật đặc hữu có giá trị nhất của Lào là voi. Sự phong phú của loài động vật ấy khiến cho đất nước này từ xưa đã được mệnh danh là đất nước của Triệu Voi. Ngoài voi, còn có các loại động vật đặc hữu khác như hổ, báo, gấu, hươu, nai, bò rừng… và nhiều giống chim quý. Thú rừng của Lào có giá trị kinh tế lớn, chúng cung cấp một khối lượng thịt ngon và bổ đáng kể. 1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội Lào là nước nằm sâu trong lục địa, không có đường thông ra biển và chủ yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng, có một số đồng bằng nhỏ ở thung lũng sông Mê Kông, hoặc các phụ lưu như đồng bằng Viêng Chăn, Champasack. Theo thống kê, 45% dân số sống ở vùng núi, Lào có 800000ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề nông. Lào có tài nguyên phong phú về lâm nghiệp, nông nghiệp, khoáng sản và thủy điện tạo điều kiện rất lớn cho việc phát triển kinh tế. Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sử dụng 80% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác cũng như từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng. Tuy nhiên, chính sách quản lý và khai thác chưa hợp lý của nhà nước chưa mang lại hiệu quả khiến cho bức tranh kinh tế của Lào còn khá ảm đạm. Mức sống của cư dân nhìn chung còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng những nhu cầu sống vật chất (điện, nước, sinh hoạt..), nhu cầu giao lưu văn hóa, tinh thần, hoạt động phúc lợi xã hội cần được nâng cao hơn nữa. Hiện nay, nền kinh tế Lào có rất nhiều khởi sắc với việc thực hiện tốt chương trình kế hoạch 5 năm. Lào đang nắm bắt thời cơ, tạo những bước đột phá và tạo nên những tiền đề kinh tế - xã hội vững chắc. Tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 7,9%, thu nhập bình quân đầu người đạt 841 USD/người/năm. Đây được xem là những bước tiến quan trọng nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời có sự ảnh hưởng đáng kể đến nền văn hóa ẩm thực của đất nước. Bên cạnh việc khai thác hiệu quả trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phục vụ nhu cầu sống, Lào đã tạo cho mình phong cách ẩm thực riêng trong hệ thống ẩm thực Đông Nam Á. Ngoài ra một nhân tố quan trọng hình thành nên đặc trưng trong ẩm thực Lào chính là bản chất của một nước nông nghiệp lúa nước. Là một quốc gia cũng xuất phát từ nền nông nghiệp nên nền ẩm thực nơi đây luôn mang đậm dấu ấn của những cánh đồng màu mỡ và những con sông phì nhiêu. Chính điều này đã giúp cho người Lào có thể duy trì được những thói quen trong sinh hoạt văn hoá nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng. CHƯƠNG 2. ẨM THỰC LÀO – MỘT NÉT ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA CỦA ĐẤT NƯỚC TRIỆU VOI 2.1. Khái niệm về văn hóa ẩm thực 2.1.1. Khái niệm văn hóa Có thể nói chưa bao giờ khái niệm văn hoá, những vấn đề văn hoá lại được dư luận quan tâm và sử dụng rộng rãi như hiện nay. Từ góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn hoá học trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Định nghĩa đầu tiên về văn hoá có thể kể đến Edward. Burnett Tylor – nhà khoa học người Anh: “Một toàn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục và tất thảy những năng lực khác nhau và những tập quán mà con người hoạch đắc với tư cách là thành viên của xã hội”. Fediro Mayor, tổng giám đốc UNESCO chỉ rõ: “Đối với một số người, văn hoá chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy sáng tạo, đối với những người khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến những tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu biết thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise ”. Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hoá “Văn hoá là hình thức hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Như vậy, định nghĩa về văn hoá là khá đa dạng và phức tạp. Từ những định nghĩa khác nhau về văn hoá có thể hiểu rằng: Văn hoá là bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho chính mình và làm cho con người thực sự người hơn. Văn hoá là một khái niệm thuộc phạm trù giá trị - nó gắn với sự nhìn nhận, đánh giá của con người; văn hoá là sự hoà nhịp với lao động sáng tạo. Như vậy, có thể xem văn hóa là cái còn đọng lại, tinh túy nhất, không dễ thay đổi của một dân tộc, đó là nếp sống của một dân tộc. 2.1.2. Khái niệm ẩm thực Ẩm thực là những nguyên liệu cần và đủ để chế biến nên các món ăn, ẩm thực cũng được hiểu là thưởng thức những món ăn. Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Theo Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép rất phong phú, có đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong từ điển Tiếng Việt có liên quan đến “ăn”. Sở dĩ từ “ăn” chiếm vị trí lớn ngôn ngữ và tư duy người Việt vì từ xưa đến đầu thế kỷ XX, nước ta đất hẹp, kỹ thuật chưa phát triển, mức sống còn thấp do đó cái ăn luôn là yếu tố quan trọng nhất: “có thực mới vực mới vực được đạo”, “dĩ thực vi tiên”… 2.1.3. Khái niệm văn hóa ẩm thực Trong cuốn “Từ điển Việt Nam thông dụng” định nghĩa văn hoá ẩm thực được hiểutheo 2 nghĩa: Theo nghĩa rộng, “Văn hóa ẩm thực là một phần văn hóa nằm trong tổng thể, phức thể các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm… khắc họa một số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia… Nó chi phối một phần không nhỏ trong cách tứng xử và giao tiếp của một cộng đồng, tạo nên đặc thù của cộng đồng ấy”. Theo nghĩa hẹp, “Văn hóa ẩm thực là những tập quán và khẩu vị của con người, những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục kiêng kỵ trong ăn uống, những phương thức chế biến bày biện trong ăn uống và cách thưởng thức món ăn”. Hay có định nghĩa nêu “Văn hoá ẩm thực là những gì liên quan đến ăn, uống nhưng mang nét đặc trưng của mỗi cộng đồng cư dân khác nhau, thể hiện cách chế biến và thưởng thức các món ăn, uống khác nhau, phản ảnh đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội của tộc người đó”. Theo Jean Anthelme Brillat Savarin “Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý, là những gì chính tạo hóa giúp con người kiếm thức ăn, nuôi sống họ lại còn cho họ nếm mùi khoái lạc với các món ăn ngon”. Như vậy, Văn hóa ẩm thực là một phần của văn hóa ứng xử, thể hiện những thói quen ăn uống và cách thức chế biến món ăn của mỗi dân tộc, mỗi khu vực khác nhau. 2.2. Phong cách ẩm thực Lào 2.2.1. Nguyên liệu Người Lào ăn gạo là chính nhưng rất ít ăn gạo tẻ, họ chủ yếu ăn gạo nếp và được nấu lên thành xôi. Thức ăn cùng với xôi gồm có cá, thịt bò, thịt trâu, thịt heo, thịt vịt và các loại rau khác. Thức ăn quan trọng nhất là "cheo" (một loại nước chấm truyền thống của Lào). Có nhiều loại "cheo" khác nhau nhưng người Lào thích nhất là loại "cheo pa đẹt" (giống mắm nêm của người Việt). Trong mỗi bữa ăn, nếu thiếu "cheo" thì cảm thấy ăn không ngon miệng. "Cheo" dùng để chấm rau. Nếu không có thức ăn, có thể ăn xôi với "cheo" cũng rất ngon và no bụng. Vì là một quốc gia có diện tích sông hồ lớn nên nguồn thực phẩm chính của người Lào là cá, tôm nước ngọt trong đó cá là thực phẩm chủ yếu. Ngoài cá nước ngọt thì thịt heo, gà, trâu và vịt là những thành phần quan trọng để nấu nướng nhiều thứ món ăn thông thường. Người Lào cũng ăn những thứ thịt thú săn như nai, gà rừng, chim cút nếu có dịp kiếm được. Một món ăn Lào tiêu biểu phải có vị pha trộn giữa cay và ngọt, được trung hòa bằng các gia vị thảo mộc. Điều này khiến cho các món ăn Lào trở nên nổi bật hơn các nước trong khu vực. Lào rất chuộng ăn ớt. Họ có món ớt chiên giòn, ớt muối, ớt luộc. Rau thơm cũng là nguyên liệu không thể thiếu được của người Lào. Bên cạnh nhà là vườn rau, trong đó rau thơm chiếm diện tích lớn. Người Lào thường xây dựng bên cạnh nhà mình một vườn rau, trên đó người ta trồng các lọai rau như hành, khoai, dưa chuột, đậu ván ,củ cải, cần tây, xà lách… Nó là những thứ bổ sung cho bữa ăn hàng ngày của người Lào. 2.2.2. Gia vị Cũng như rất nhiều các quốc gia trong khu vực, nền ẩm thực của Lào đa dạng không kém, điển hình là ba hương vị đặc trưng: Chua, cay và ngọt đã “hữu ý” kết hợp với nhau làm nên linh hồn và sắc màu riêng trong ẩm thực của người dân Lào. Một món ăn tiêu biểu của người Lào phải là sự pha trộn giữa cay và ngọt, được trung hòa thêm thảo mộc. Các món ăn có đặc điểm là dùng những gia vị như gừng, me, lá chanh, và nhiều loại ớt khô rất cay. Vị chính trong các món ăn hầu hết các món ăn đều có rất nhiều ớt. Chỉ riêng ớt có hàng chục món: từ ớt chiên giòn, ớt muối chua, ớt sa tế , ớt hầm, ớt luộc … Chính vị cay này cũng là một nét văn hóa vì phần đông người Lào sử dụng nguồn lao động chân tay, vị cay gây kích thích, tạo món ăn ngon, giúp người lao động ăn được nhiều, tăng sức lao động. Ở mỗi vùng cũng có các món ăn đặc trưng, có các tên gọi khác nhau và được chế biến theo đặc trưng của từng vùng, nhưng không thể không có vị cay của ớt… Ngoài ra trong cách chế biến món ăn của người Lào còn sử dụng hai loại gia vị chính là hai vị thuốc “gialang” và “macụt”. Hai vị thuốc này chủ yếu dùng trong món canh măng, có tác dụng không gây đau nhức, không đầy bụng. 2.2.3. Phương pháp chế biến Một đặc trưng trong phong cách chế biến của người Lào là họ thường làm chín thức ăn bằng hơi nước. Hầu hết các món luộc của người Lào đều được đưa lên xửng hấp và được làm chins hoàn toàn nhờ hơi nước bốc lên. Đây chính là điểm đặc biệt trong phong cách ẩm thức của người Lào mà ta khó có thể tìm thấy ở đâu. Ngoài ra người Lào còn làm chín thức ăn bằng phương pháp nướng. Có rất nhiều cách nướng từ đưa trực tiếp thực phẩm lên lửa hay vùi trong than hồng đến nướng bằng lò nướng hay chảo điện. Nhưng người Lào vẫn thích nướng thực phẩm bằng cách cho vào ống nứa, ống vầu hay ống bương, để tạo mùi vị thơm ngon cũng như màu sắc đặc trưng rất riêng của xứ sở. Người Lào đặc biệt thích ăn các món nướng, tất cả những thực phẩm mà có thể nấu được bằng cách nướng thì họ đều sử dụng, từ thịt, cá đến cả rau củ và gia vị. Cơm lam cũng là một món được chế biến bằng hình thức này. Một đặc điểm trong cách nấu nướng của Lào khiến cho nó trở nên nổi bật là cách thức pha trộn cá, thịt và gia vị thảo mộc trong cùng một món ăn. Mắm cá (pa dek) và nước mắm (nam pa) cũng là những thành phần quan trọng trong bữa ăn của người Lào. Người ta thường nấu nướng thức ăn trên cái lò đốt bằng củi hoặc than. Và đến với ẩm thực Lào, ta sẽ rất khó để bắt gặp những món ăn qua cách chế biến chiên rán, bởi đây là một nước nhiệt đới nên các món ăn được làm qua dầu mỡ hầu hết không được người dân ưa chuộng. 2.3. Các món ăn tiêu biểu Món ăn Lào từ món ăn trong đời sống hang ngày tới dịp lễ Tết đều có khá nhiều món ngon, có thể kể ra như : gà nướng, lạp, lạp xưởng, thịt heo hấp măng (hoặc cá hấp lá chuối), gà (cá) nấu me, rau luộc, cơm (xôi). Ngoài ra còn có các món khác như như: ếch, mực chiên tỏi, sườn nướng, nem chua cá thịt… Ẩm thực Lào, ngoài các món này, còn có những món được xem là đặc sản như : Món Tam Maak Hung còn gọi là nộm chay gồm dưa muối, đu đủ, đậu đũa, cà dĩa giã rồi trộn chung với cùng hàng chục gia vị ăn rất lạ…Tất cả đều mang hương vị vừa quen lại vừa lạ, quen vì các nguyên liệu không quá khó tìm, nhưng lạ vì cách chế biến tinh tế và rất đặc trưng. 2.3.1. Các món ăn hàng ngày v Cơm lam Cơm lam là loại cơm đặc trưng của người Lào, được nấu từ gạo, là thực phẩm rất được người Lào trân trọng. Cơm lam thơm hơn, dẻo hơn, ngon hơn cơm nấu theo phương pháp thông thường nên dần trở thành món ăn đặc sản, được rất nhiều người Lào ưu thích. Để làm được ống cơm lam ngon cần phải có sự chăm chút, khéo léo của người nấu, từ khâu chọn ống lam, chọn gạo nếp, tới cách ngâm gạo và cách nướng… trong đó việc chọn tre, nứa (ống lam) là quan trọng hơn cả. Ống nứa dùng nấu cơm lam phải còn tươi, không quá non cũng không quá già (để khi cơm chín, hạt cơm quyện thêm chút vị ngọt và mùi vị đặc trưng của tre, nứa), ống nứa có độ dài khoảng 15cm, ống thẳng dài. Đặc biệt, nếu chọn được những cây nứa có nước ở trong ống và sử dụng nước đó để nấu cơm, lúc đó cơm sẽ ngon hơn khi sử dụng nước thường. Ống nứa được chọn về chặt hở một đầu, sau đó rửa sạch và lót lá dong vào bên trong. Gạo được vo đãi sạch, rắc thêm một chút muối, trộn đều rồi cho vào ống lam, đổ nước xâm xấp gạo, sau đó ngâm khoảng một tiếng. Sau khi gạo trong ống lam đã đủ thời gian ngâm, nước sẽ được đổ thêm vào cho ngập gạo rồi dùng lá chuối rừng hoặc lá dong nút chặt đầu ống nứa, để cơm lam vẫn giữ được nguyên hương vị của nó. Quá trình nướng cũng đòi hỏi người nấu phải khéo léo, dựng ống lam trên kiềng, khi nướng ống lam phải được xoay đều trên ngọn lửa, hoặc trên than hồng, tránh để lửa quá to làm ống lam cháy khiến cơm chín không đều, còn nếu để lửa quá nhỏ sẽ làm cho cơm lam bị nhão, ướt. Thời gian nấu cơm lam khoảng một giờ đồng hồ là cơm chín, tuy nhiên người Lào thường dựa theo kinh nghiệm của mình. Khi thấy ống lam cháy hết vỏ ngoài, đồng thời ngửi thấy mùi thơm từ ống lam bay ra là người ta đã biết cơm chín hay chưa mà không cần mở nút lá để kiểm tra. Khi cơm chín, hạt cơm có vị thơm ngọt của gạo nếp, có mùi thơm và màu xanh của lá dong, đồng thời quyện thêm một chút vị ngọt đặc trưng của tre giang. Cách thưởng thức và trình bày cơm lam tuy đơn giản nhưng cũng thể hiện sự khéo léo của người chế biến. Khi cơm chín, người ta chẻ bỏ lớp vỏ ống giang cháy đen bên ngoài đến khi thấy lớp màng lụa mỏng bao bọc phần ruột cơm là được. Cắt các ống cơm thành từng khẩu, có độ dài khoảng 10cm và bày vào đĩa. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ lớp lụa bên ngoài. Người Lào thường ăn cơm lam cùng với cá nướng, thịt gà hay thịt lợn rừng nướng (những thực phẩm này có khi cũng được nướng trong ống tre, giang). Tuy nhiên, thưởng thức cơm lam ngon nhất là khi ăn cùng với muối vừng. Sự kết hợp của hương vị nếp ngọt thơm với vị bùi béo của muối vừng càng làm cho món cơm lam thêm hấp dẫn. Người Lào còn cho rằng: phụ nữ sau khi sinh ăn cơm lam sẽ tránh được các chất kim loại khi nấu bằng nồi: gang, nhôm, đồng... nên không gây ảnh hưởng tới sức khỏe và chất lượng nguồn sữa mẹ. Ngày nay khi chế biến cơm lam người ta còn cho thêm một vài gia vị khác để món cơm lam đậm đà và ngon hơn. v Cơm (xôi) Ở Lào người ta ít trồng cấy gạo tẻ mà chủ yếu là gạo nếp, vì thế 90% người Lào chủ yếu ăn xôi. Người ta cho rằng người Lào ăn xôi nhiều hơn ăn cơm và gạo nếp gần như lương thực hàng ngày của họ. Nhà nào cũng có những cái chõ hong xôi được sử dụng thường xuyên mỗi ngày. Xôi là lương thực chính trong ngày thường được người Lào ăn cả ngày, sáng, trưa, chiều, tối. Hạt nếp Lào là loại gạo hạt dài, màu trắng trong. Khi nấu, để xôi ngon hơn, người ta không nấu như cách bình thường (đổ ít nước vào nếp) mà nấu bằng chõ. Tuy nhiên, cách nấu xôi theo kiểu truyền thống của người Lào là đựng trong ống nứa và nấu bằng nước suối. Tương tự như cách nấu cơm lam, gạo nếp sau khi được nhặt sạch sạn, sẽ được ngâm trong nước khoảng 2 – 3 giờ để nước ngấm dần vào trong gạo và gạo được mềm hơn, nở hơn trước khi nấu xôi. Trong thời gian ngâm nước, gạo được đảo đi đảo lại 2 - 3 lần để gạo được ngấm đều nước. Sau khi ngâm, gạo được vớt ra, đãi lại một lần nữa cho thật sạch, cho một chút muối vào gạo và trộn đều (trước đây khi chưa có muối hoặc muối còn khan hiếm người Lào thổi cơm xôi không. Ngày nay khi xóc gạo người ta cho một chút muối trắng vào gạo để tăng thêm vị đậm cho món xôi). Sau đó, gạo nếp và nước suối được cho vào trong ống nứa, dùng lá chuối hoặc lá dong nút chặt đầu ống nứa lại, rồi tiến hành nướng trên lửa hoặc trên than hồng (lưu ý là không để lửa quá to hoặc quá nhỏ vì nó đều làm cho xôi mất ngon). Khi ống nứa cháy sém cũng là lúc xôi cạn nước, sau đó ủ xôi cho chín. Khi ăn, gọt lớp vỏ nứa bên ngoài là lộ ra phần xôi nếp màu trắng được bọc bằng lớp vỏ lụa của ống nứa. Khối xôi nếp lúc này có hình dáng như một cái ống, thơm mùi nứa, chỉ việc dùng tay bốc ăn. Nếp Lào dẻo, ráo nên khi ăn sẽ không bị dính vào tay. Gạo ngoài chế biến thành cơm lam và xôi nếp thì nó còn là thứ lương thực có nhiều công dụng, như: dùng để làm vỏ bọc cho các loại bánh, làm khuôn cho các món tráng miệng và bánh kẹo. Cơm trộn với khoai sọ, nước cốt dừa, và ngó hoa súng để làm món điểm tâm, chẳng hạn như món Khao tom - gồm cơm trộn với chuối, gói vào lá chuối rồi đem hấp. Một món điểm tâm thông dụng khác là Tom nam hua bua, được làm bằng cách trộn cơm với nước cốt dừa và hoa sen. Một điều đáng chú ý nữa là ở Lào, không chỉ là thực phẩm hàng ngày, lúa gạo còn được liên tưởng mạnh mẽ với những người phụ nữ. Trong nhiều làng bản hẻo lánh có truyền thuyết kể rằng nữ thần lúa đã hiến dâng mình cho ngọn lửa, và sau khi chết, tro của nữ thần đã giúp cho dân làng có được một mùa bội thu, tránh được nạn đói trong năm đó. Ở một số làng bản người Phuan, hài cốt của các bà tổ bà sơ được giữ trong ngôi tháp nhỏ xây giữa ruộng lúa của gia đình họ thờ cúng rất trang nghiêm và dành một ngày nhất định trong năm để tưởng nhớ đến vị nữ thần ấy. v Rau luộc Rau là một món ăn hàng ngày không thể thiếu với bất kì quốc gia nào ở Đông Nam Á và các món ăn được chế biến từ rau cũng vô cùng đa dạng trong đó rau luộc có thể coi là món ăn làm từ rau đơn giản nhất. Thế nhưng món rau luộc ở Lào lại mang một màu sắc đặc biệt và khiến người ta ấn tượng dù chỉ một lần thưởng thức. Nó đặc biệt không phải ở nguyên liệu mà chính là ở phương pháp chế biến. Nếu như hầu hết rau luộc ở các quốc gia khác đều dùng nước sôi để luộc chín rau thì người Lào lại dùng phương pháp của riêng mình. Họ cho rau vào những nồi hấp cách thủy và dùng hơi nước để rau chin, như thế rau vẫn giữ được màu xanh và vị ngọt nguyên chất. Rau luộc chấm với nước mắm sẽ là một lựa chọn không thể thiếu trong bất kì mộn bữa ăn thông thường của người Lào. v Cá nướng Người Lào đặc biệt thích ăn các món nướng, tất cả những thực phẩm mà có thể nấu được bằng cách nướng thì họ đều sử dụng, từ thịt, cá đến cả rau củ và gia vị. Là đất nước có nhiều sông suối nên các loại thủy sản đã trở thành nguồn thực phẩm quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người Lào, trong đó món ăn được đồng bào yêu thích và có cách chế biến đơn giản nhất đó là món cá nướng. Cá nướng có thể làm được bất cứ lúc nào và với bất kỳ loại cá nào, bởi phương thức chế biến khá đơn giản. Dù vậy người dân ở đây cho rằng cá nướng vẫn là món ngon nhất trong các món ăn được chế biến từ cá. Nguyên liệu để làm món cá nướng là loại cá to khoảng nửa cân trở lên, phải còn tươi sống, thường là các loại cá sông, suối như cá chép, cá trắm…Cá sau khi được làm sạch, bỏ ruột, sẽ được ướp với muối, rồi để một thời gian khoảng từ 10 tới 15 phút cho muối ngấm đều vào cá. Sau đó kẹp cá vào gắp nướng rồi tiến hành nướng cá. Người ta dùng thân cây tre dày, còn tươi (để tránh lửa làm cháy kẹp tre) chẻ đôi ra rồi kẹp cá vào giữa. Khi nướng cần phải kiên trì hơ cho con cá chín dần, chín đều trên than củi. Khi cá đã chín, tỏa ra mùi thơm, người ta dùng sợi chỉ vuốt dọc theo chiều kẹp cá, con cá được gỡ ra vẫn nguyên vẹn, không vỡ nát. Do cá đã được ướp muối trước khi nướng nên khi nướng chín da cá không cháy mà lại được phủ một lớp muối, thịt cá không dính vào da, thịt rất thơm. Món cá nướng được ăn kèm với các loại rau và có thể dùng thêm nước mắm hoặc muối chấm, tùy vào khẩu vị của từng người. Tuy nhiên loại nước chấm được người Lào ưu thích nhất khi ăn cá nướng là chẻo. Chẻo chế biến từ gan heo băm nhỏ, nêm cùng các loại gia vị: bột năng, ớt, tỏi, hành, mắm, muối, chanh và thêm một chút lạc rang. Món cá nướng phải ăn với cơm lam, xôi dẻo thì mới có thể cảm nhận được hết vị ngọt béo của cá, vị cay của ớt, mùi thơm của các loại gia vị. Cơm xôi ăn với cá nướng, chấm muối ớt là món ăn được sử dụng phổ biến cả trong đời thường, vào các dịp lễ hội và dâng cúng tổ tiên của người Lào. Ngoài cách nướng bằng kẹp tre, người Lào còn thích cho cá vào trong ống giang, nứa để nướng (tương tự như khi chế biến cơm lam), họ cho rằng cá nướng theo cách này sẽ giữ được vị ngọt của cá, đồng thời cũng giữ được mùi thơm của các loại gia vị đi kèm. Ngoài cá nướng, người Lào còn có các món ăn nướng khác như gà nướng, thịt nướng, tuy nhiên các món ăn này ít được sử dụng hơn. v Tép nhảy Món “Tép nhảy” được xem là đặc sản trên đất Lào. Tép sống được đánh bắt trên sông Mê Kông nên tươi ngon, có vị ngọt rất đặc trưng. Để chế biến món tép nhảy thì tép sẽ được rửa sạch, loại bỏ hết các tạp chất rồi để ráo nước. Khi ăn người ta vắt chanh vào tép (chanh vừa làm cho tép chín tái, vừa làm giảm đi vị tanh của tép), sau đó tép được nêm thêm các loại gia vị vừa ăn. Món tép nhảy được ăn sống kèm với nước chấm. v Món Tam Maak Hung Món Tam Maak Hung được coi là đặc sản mang đậm phong vị của người dân Lào. Món Tam Maak Hung hay còn gọi là nộm chay. Món ăn nổi tiếng này bao gồm các nguyên liệu: dưa muối, đu đủ, cà chua, đậu đũa sống, mắm nêm, ớt, tỏi, đường, muối. Các nguyên liệu trên sau khi được giã sẽ được trộn chung với cácloại gia vị khác nhau. Khi ăn Tam Maak Hung chúng ta có thể cảm nhận thấy đây là món ăn có sự hòa trộn tổng thể của những mùi vị khác nhau, chua, cay, mặn, ngọt, với cái cay lè lưỡi đẫm mắm nêm cùng rất nhiều ớt xắt nhỏ và mùi thơm của các gia vị, của rau thơm chắc chắn sẽ để lại dư vị khó quên cho bất cứ ai đã một lần được thưởng thức món ăn dân giã này. v Phở Lào Chịu ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Việt Nam, ẩm thực Lào cũng có nhiều món ăn với phương pháp chế biến và hương vị tương tự như món ăn Việt. Tuy nhiên để phù hợp với khẩu vị của mình, người Lào đã có những thay đổi nhất định, tạo nên sự khác biệt với món ăn gốc. Trong đó, nổi bật nhất là món phở Lào. Trong cách chế biến, về cơ bản phở Lào và phở Việt đều giống nhau, có chăng chỉ khác ở cách chế nước và cách sử dụng các loại gia vị khi ăn. Nếu người Việt khi nấu nước phở thường cho vào một số hương liệu như hoa hồi, quế, gừng, hành khô… còn người Lào thì không, họ chỉ ninh xương và để nước thật nhạt, để khi khách ăn có thể chế thêm các loại gia vị tùy thích. Về vấn đề gia giảm thì phức tạp hơn, bởi đi kèm một bát phở dành cho người Lào cần có nhiều loại, thứ nhất là phải kể đến rau, gồm: rau húng chó, mùi tàu, giá, cà pháo, ớt tươi và đặc biệt là phải có đậu đũa, được cắt hoặc bẻ thành từng khúc và được chấm với một loại nước chấm tương tự như nước chấm nem lụi ở Huế. Thứ đến là các loại gia vị, gồm đường, nước mắn, dấm, xì dầu, tương ớt, ớt khô chưng. Và khi ăn, người Lào thường cho rất nhiều các loại gia vị này bởi theo phong cách ẩm thực Lào, phải thật chua, cay và ngọt mới ngon. Ngoài các món ăn tiêu biểu kể trên, người Lào còn rất nhiều món ăn ngon, hấp dẫn và mang hương vị rất đặc biệt như: Thoót mú đẹt điêu, tôm dâm cung, gà nướng, lạp xưởng, thịt heo hấp măng (hoặc cá hấp lá chuối), gà (cá) nấu me, rau luộc, cùng các món: ếch, mực chiên tỏi, sườn nướng, nem chua cá thịt… Ngày nay, do chịu ảnh hưởng nhất định từ các quốc gia khác, nhất là các nước phương Tây trong ẩm thực, người Lào bắt đầu làm quen và ưa chuộng các món ăn của phương Tây, đặc biệt là các món ăn của Pháp. Hiện nay, người Lào có thễ dễ dàng tìm thấy các món ăn Pháp ở mọi nơi, nhất là trong những nhà hàng ở Vientiane và Luang Phrabang. Món đùi ếch và filet Mignon, bít tết vẫn được ưa chuộng trong nhân dân. Bánh mỳ giòn kiểu Pháp hay baguette là món ăn sáng của người Lào. Người Lào nhúng baguette vào cà phê sữa để ăn hay ăn với trứng rán hay nhét pate vào trong như bánh sandwich. Người Lào còn thường dùng bánh mì croissant và bánh mì socola với một ly cà phê đậm. v Măng ống nhồi thịt Đây là một món ăn khá phổ biến ở Lào, món măng này được họ chế biến bằng thịt lợn xay nhuyễn kết hợp với một số hương liệu thông dụng mà tạo nên một món ăn rất đặc trưng cho đất nước mình. Trong đó việc sử dụng hai vị thuốc “gialang” và “macụt” làm gia vị chính với tác dụng không gây đau nhức, không đầy bụng đã làm nên điều đặc biệt cho món ăn. Vì thế măng ống nhồi thịt không chỉ được xem như một món canh thông thường mà còn như một bài thuốc quý lưu truyền trong dân gian hàng bao đời nay.  Nguyên liệu để làm món ăn này bao gồm: măng ống tươi, hành lá, trứng, bột mì, thịt nạc xay nhuyễn, muối, hạt tiêu, nước mắm, hành tím băm nhuyễn, lá chuối và các phụ gia khác. Thực hiện: Chọn mua những ống măng to, ruột nhiều phần rỗng. Luộc măng kỹ với ít nhất 3 lần nước sôi, rồi rửa lại với nước lã cho sạch. Cắt bỏ phần cứng và dai. Khoét bỏ phần vắt ngăn giữa ống măng. Trộn đều thịt heo xay với muối, nước mắm, hành tím, tiêu, nửa phần hành lá thái nhỏ và 1 muỗng canh bột mỳ. Để hỗn hợp sang một bên khoảng 15-20 phút cho ngấm đều gia vị. Nhồi hỗn hợp thật chặt vào ống măng sao cho vừa đủ. Bọc lá chuối bên ngoài, cột lại bằng chỉ sạch. Cho măng vào xửng tre, hấp chín khoảng 15 phút. Sau đó bóc lớp lá chuối bên ngoài ra, để măng sang một bên cho ráo nước. Đun nóng một ít dầu ăn trong 1 nồi vừa. Đánh đều trứng với muối và 1 muỗng canh bột mỳ còn lại trong 1 tô lớn. Dùng đũa gắp từng ống măng, nhúng vào tô trứng và chiên nóng trong nồi. Lần lượt chiên những ống măng còn lại. Khi món ăn đã xong, cắt từng khúc măng tròn và bày ra bàn ăn. Nếu không thích chiên nhúng trứng, có thể dùng măng ngay sau khi hấp xong, mùi vị cũng vẫn rất ngon. v Món ăn từ côn trùng Giống như người Camphuchia và Thái Lan, người Lào cũng rất thích các món ăn được chế biến từ côn trùng. Từ dế cơm, trứng kiến, đến con cà cuống, nhền nhện trong các món chiên, xào, dồn đậu phộng đến hấp cơm hay ngâm giấm đều rất ngon. Các món ăn từ côn trùng rất giàu đạm, được người Lào chế biến đa dạng, hấp dẫn và lạ mắt cũng giống như chính mùi vị của nó vậy. Cà cuống – một côn trùng có ích sống nhiều ở các đồng ruộng Campuchia được người Lào nhập về với giá rất đắt là côn trùng được ưa chuộng nhất với hương vị thơm cay. Ngoài ra, châu chấu chiên cũng là một món ăn độc đáo của xứ sở hoa Champa này. Châu chấu sau khi đã cấu đầu, vặn cánh, bẻ càng sẽ được rửa sạch rồi để ráo. Khi chế biến, người ta đun nóng chảo, cho một chút dầu, mỡ rồi cho châu chấu vào chiên, sau đó nêm thêm gia vị để món ăn đậm đà hơn. Sau khi chiên xong, châu chấu được bày ra đĩa, rắc lá chanh đã thái chỉ lên trên. Khi ăn, người ta bốc những con châu chấu chiên kẹp thêm vài sợi lá chanh đưa vào miệng và lim dim tận hưởng hương vị giòn tan, ngọt, bùi của những con châu chấu. v Các loại nước chấm thường dùng s Muối ớt Vị chính trong các món ăn ở Lào là vị cay của ớt. Do đó muối ớt là một loại đồ chấm đơn giản và khá phổ biến trong các bữa ăn thường ngày cũng như trong các dịp tết, lễ hội của người dân nơi đây. Muối ớt có thể chấm được tất cả các loại thức ăn từ xôi đồ cho tới các món luộc, nướng, rán… Do vậy, khi không có điều kiện chế biến các loại nước chấm khác thì đĩa muối ớt trở thành thứ không thể thiếu trong mỗi bữa cơm của người Lào. Để làm được một đĩa muối ớt ngon cần phải có muối trắng, hạt tiêu, ớt. Người Lào cho muối giã cùng với ớt và hạt tiêu đã được nướng thơm, giã nhỏ. Muối ớt có thể ăn với bất kỳ loại thức ăn nào cũng hợp. s Mắm Muok Mắm Muok là loại nước chấm chỉ có riêng ở Lào, đó là loại nước chắm được làm từ lòng cá trộn ớt, sả, hành … Lòng cá sau khi làm sạch được chưng cùng với các loại gia vị. Mắm Muok thích hợp cho mọi món ăn và là loại nước chấm phổ biến trong các bữa ăn của người Lào. s Mắm Cheo Mắm Cheo là loại nước chấm rất đặc biệt của người Lào, gồm có da trâu, ớt nướng, tỏi nướng, riềng nướng, đường cùng nhiều gia vị thảo mộc trộn lẫn với nhau. Mắm Cheo chấm với các món nướng, luộc, hấp đều rất hợp. Mắm có vị mặn, ngọt vừa phải, và thú vị hơn nữa khi thưởng thức miếng da trâu dai dai, sần sật trong mắm Cheo. s Nước Chẻo Là loại nước chấm thường dùng kém với cơm lam hoặc xôi. Nguyên liệu chính gồm gan heo băm nhuyễn, lạc rang, bột năng, ớt, tỏi, hành, mắm, muối, chanh. Gan heo sau khi được bằm nhuyễn và trộn với cá gia vị trên đem nấu chin sẽ tạo ra một loại nước chấm sền sệt, mang đủ các vị đặc trưng trong món ăn cảu người lào, tạo thành một loại nước dùng khiến món ăn đi kèm trở nên đậm đà hơn. 2.3.2. Món ăn dịp lễ, Tết Đối với các quốc gia Châu Á, mỗi khi Tết đến lại là một dịp để gia đình sum họp, quây quần quanh bàn ăn ấm cúng. Những món ăn ngày Tết đôi khi cũng có chút khác so với những ngày thường, ẩn chứa trong đó những ý nghĩa sâu xa, những mong muốn tốt đẹp nhất cho gia đình, công việc. Nhắc tới văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia Châu Á không thể không nhắc tới nét văn hóa ẩm thực Tết rất đặc trưng, rất riêng biệt. Và ẩm thực Lào trong dịp lễ tết cũng chính là một nét hấp dẫn khơi dậy trong vị giác mỗi người sự thích thú, trong đó ta không thể không nhắc tới món Lạp và xôi nếp. v Lạp Lạp là món ăn truyền thống gần gũi nhất, không thể thiếu trong ngày Tết và trong các lễ hội của người Lào. Người Lào cho rằng đây món ăn mang lại cho con người sự may mắn, hạnh phúc và sung túc bởi “Lạp” trong tiếng Lào nghĩa là may mắn, phúc lộc dồi dào. Và ngay tên gọi thôi cũng đã tiềm ẩn ý nghĩa hết sức lớn lao của món ăn này trong đời sống ẩm thực của người dân Lào. Không có sắc màu rực rỡ giống như món xôi gấc của Việt Nam, cũng không cầu kỳ như những món ăn truyền thống khác của Lào, món lạp cũng giản dị như chính những nguyện ước bình an của người dân nơi đây trong cuộc sống. Thành phần, nguyên liệu chủ yếu để chế biến món lạp là thịt nạc băm nhỏ, có thể là thịt bò, thịt gà, vịt, thịt hươu, thịt lợn… Ðôi khi người ta còn làm lạp bằng thịt hổ với cái tên là Hổ lạp. Thịt được trộn đều với tim, gan bằm nhuyễn cùng với rau bạc hà xắt nhỏ và và các loại gia vị như nước cốt chanh, riềng, sả, thật nhiều ớt, đặc biệt, món này mà không có thính nếp thì sẽ làm giảm hương vị độc đáo. Lạp chính là sự pha trộn khéo léo giữa chua, cay và ngọt. Cũng giống như những món ăn khác của đất nước Triệu Voi, món lạp không thể thiếu một chút hương vị thơm cay của thảo mộc. Vài cọng ngò gai, húng lủi mơn mởn vừa được hái ở mé vườn nhà điểm xuyết thêm nét xanh tươi và thanh mát, cho đĩa thịt nâu hồng hấp dẫn. Món ăn này thường được người dân Lào ăn sống để cảm nhận được đầy đủ nhất hương vị đặc biệt của nó. Vị chua của chanh, cay xè của ớt, các loại gia vị và thảo mộc đặc biệt đã làm cho miếng thịt tai tái nhưng vẫn giữ được cái tươi ngon roi rói. Tuy nhiên, nếu không quen ăn bạn vẫn có thể được mời thưởng thức món lạp với phần thịt đã được làm chín.  Lạp là món ăn dễ kết hợp, có thể ăn kèm với xôi hoặc cơm lam đều mang đến một vị ngon, thơm và vừa miệng. Hạt nếp Lào thong dài, trắng trong, khi đồ lên vẫn còn giữ nguyên hình dáng và cái sắc trong lúc ban đầu. Thế nhưng chớ tưởng là xôi khô, xôi cứng, nhón một nắm đưa lên miệng mới thấy hết cái thơm dẻo quyện hòa với vị beo béo đặc trưng của xôi nếp Lào sao mà tuyệt diệu. Món xôi này “đẩy đưa” cùng với vị bùi ngậy đậm đà của lạp thì không còn gì tuyệt bằng. Miếng lạp dậy vị tươi ngọt của thịt, béo bùi của tim, gan, chua cay của đủ loại gia vị, thính nếp thơm quyện vào hỗn hợp ấy như làm giảm bớt sự ngấy ngán. Hương vị tinh tế của thảo mộc càng thêm kích thích vị giác của người ăn. Vị cay xè của món lạp dễ khiến người ăn lần đầu… giàn giụa nước mắt, nhưng những hạt xôi nếp dẻo thơm ngọt mát đã cân bằng lại vị giác rất kịp thời. Cái ngon của mỗi món ăn bổ trợ cho nhau là vậy, một đậm đà, một lại thanh tao. Người Lào vốn quen ăn bằng tay, nên bạn đừng ngại ngần nắm từng nắm xôi nếp từ chiếc giỏ tre xinh xắn thành một chiếc “thìa” nho nhỏ, chấm miếng xôi vào đĩa lạp hoặc dùng tay như một chiếc thìa để lùa thức ăn vào miệng. Theo văn hóa Lào thì lạp được xem như là “linh hồn” của người Lào trong năm mới. Người ta có thể tặng nhau món lạp thay lời chúc may mắn đầu năm. Gia đình nào nhận được nhiều món này thì hy vọng năm mới sẽ có nhiều tài lộc... nên món này được làm rất cẩn thận vì nếu không ngon, người ta tin rằng cả năm sẽ gặp xui xẻo. Trong các bữa tiệc lớn, vào những dịp đặc biệt hay có khách sang trọng thì lạp là món ăn luôn có mặt và mang lại rất nhiều ý nghĩa cho mọi người. Người Lào còn quan niệm lạp là món ăn đòi hỏi sự chế biến công phu, cẩn thận, vì nếu trong ngày tết món này mà làm không ngon tì năm mới sẽ gặp nhiều xui xẻo. So với món thịt nướng của người Tác - ta hay món bít tết Cerviche của người Mexico, lạp của người Lào cũng không kém phần hấp dẫn. v Xôi nếp Nhắc đến đặc sản hay giản dị hơn là những món ăn dân dã, người Lào luôn tự hào và coi gạo nếp, lạp là những món ăn truyền thống, mang đến sự may mắn, không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là các ngày lễ Tết. Trong đó một món ăn được chế biến từ những hạt gạo nếp thơm ngon đã trở thành món ăn truyền thống của người Lào, đó chính là món xôi nếp. Vì ở Lào người ta chủ yếu ăn gạo nếp nên xôi là món ăn quanh năm của người Lào, tuy nhiên vào những dịp lễ tết thì món xôi thường được làm cầu kì hơn. Người ta chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất để dùng đồ xôi. Khi ăn xôi, các thành viên trong gia đình ăn từ một cái thố chung hoặc dùng riêng mỗi người một bát và ăn bốc bằng tay. Người ăn sẽ nắm cơm thành từng viên nhỏ, và sau đó dùng nó như cái thìa để vét và lùa thức ăn trên đĩa vào miệng, hoặc chấm vào nước chấm. Cách ăn mộc mạc này theo người dân Lào có như thế mới cảm nhận được hết hương thơm và vị ngọt tự nhiên của từng hạt gạo. Xôi được ăn kèm với thịt gà nướng hay cá kho riềng và thêm món rau như bông bí, đọt bầu, đọt bí luộc chấm với một loại mắm giống như mắm nêm của Việt Nam. Ngày nay, người Lào chủ yếu nấu xôi bằng chõ. Dụng cụ dùng để nấu xôi là một chiếc nồi đồng và một chiếc chõ gỗ hoặc nhôm, có hình dáng bầu tròn. Ninh đồng được thiết kế phần đựng nước phía dưới to và thon nhô về phía trên có vành đựng nước ở phần tiếp giáp khi đặt chõ xôi để nước bốc hơi tập trung độ nóng về một hướng. Phía trong chõ đặt một phên nứa đan để đỡ không cho gạo rơi xuống. Gạo nếp vo sạch được đổ vào chõ, đổ khoảng nửa nồi nước để cách không cho nước gần gạo tạo một khoảng trống cho nước trong nồi sôi và bốc hơi lên chõ. Rồi để sôi khoảng 1 đến 1,5 giờ tùy thuộc vào lượng gạo nấu. Khi nấu lửa phải được đun cháy đều để giữ nước trong nồi luôn sôi và hơi luôn bốc đều, như vậy xôi mới chín đều từ dưới đáy chõ lên đến trên. Sau khi nấu xong, người ta lại xới xôi bỏ ra một cái rổ khác (cho có độ thoáng, xôi ráo, ngon, không bị ứ nước). Cái ngon đặc trưng của hạt nếp Lào là dẻo và thơm. Thoạt nhìn dĩa xôi thấy hạt gạo nếp còn nguyên hình dáng, dễ lầm tưởng là xôi bị khô, cứng. Tuy nhiên, ăn vào mới cảm nhận được độ dẻo, ngọt và hơi có chút vị béo giống như là xôi có nước dừa nhưng hoàn toàn không phải! Cái ngon từ miếng xôi mềm, vị béo của nếp tạo nên vị ngon đặc trưng của xôi nếp Lào. Có cảm giác như chưa kịp nhai thì xôi đã rã trong miệng! Đặc biệt, nếp Lào nấu cơm rượu cũng ngon không kém. Hạt nếp tơi, rời và mềm còn nguyên dáng vẻ ban đầu cho dù đã qua quá trình lên men. Thêm nữa, lẫn trong vị ngọt của cơm rượu có lẫn vị béo của hạt nếp, khác hẳn với cơm rượu nấu bằng nếp thường. Ở Lào, xôi nếp thường được dát lên những bức tượng Phật hoặc những bức tường của tư gia để cúng cho các vị thần cư ngụ tại đó. 2.4. Các đồ uống tiêu biểu Nói tới văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia, bên cạnh các món ăn tiêu biểu, chúng ta phải kể đến những loại đồ uống mang đặc trưng của các quốc gia, các vùng miền khác nhau. Các loại đồ uống thông dụng nhất mà người Lào sử dụng trong cả ngày thường và cả ngày lễ tết, có thể kể tới như LauLao, Fanthong (gần giống với rượu cần), NamSa (trà pha nhạt), cà phê, nước dừa… Laulao là một loại rượu nhẹ làm từ cơm nếp lên men, uống với chút chanh và nước ngọt. Còn Fanthonglà loại đồ uống tương tự như rượu cần của người Việt. Rượu Lào dễ uống, khó say, nhưng khi say không gây nhức đầu. Theo tập quán, trong các bữa tiệc lễ hội, vài người ngồi uống Laulao cùng một lúc bằng những cái ống dài hút rượu từ một bình sứ. Cà phê Lào thì tuyệt vời, đa số được trồng từ cao nguyên Bolovens màu mỡ ở Nam Lào. Người Lào thích uống cà phê đậm và ngọt, vì thế người ta hay cho thêm đường và sữa đặc vào cà phê. Cà phê thường được pha từng ly, uống kèm với một cốc Nam Sa - một thứ trà Tàu pha nhạt. Nam Sa là loại đồ uống được sử dụng rộng rãi, dùng mọi lúc, mọi nơi ở Lào. Tuy nhiên, loại đồ uống nổi tiếng nhất phải kể khi nhắc tới ẩm thực Lào, đó chính là món dừa nướng. Dừa để nguyên trái, nướng vừa phải, sau đó lột vỏ rồi ướp lạnh. Khi thưởng thức nước dừa có vị ngọt và thơm rất lạ, cơm dừa dẻo tạo nên hương vị khá đặc biệt, mà không loại đồ uống nào có thể sánh được. Ngoài ra nước dừa còn được tìm thấy hầu hết trong các loại thức uống, người Lào có thói quen hay pha trộn nước dừa với các loại thức uống khác để tạo nên vị thanh ngọt cho đồ uống. Lào cũng có thương hiệu bia riêng, cũng như ở Việt Nam bia Lào dễ uống và có thể dễ dàng tìm thấy ở hầu hết quán ăn hay nhà hàng nào trên khắp đất nước. 2.5. Những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Lào Ẩm thực Lào tuy gần gũi với các nước láng giềng Đông Nam Á như Thái Lan, Việt Nam, Campuchia… nhưng vẫn có những nét đặc sắc riêng. Hầu hết các món ăn của Lào thường nấu tái hơn là chín, với các vị phổ biến là chua, cay, ngọt. Điều này giúp mọi người hiểu nhiều hơn về văn hóa Lào - một nền văn hóa có tính chất “hoang dã” mà thực phẩm chủ yếu đến từ săn bắn. Ở Lào có đặc điểm là nhiều rừng núi nên người ta hay tổ chức những cuộc săn bắn và sau mỗi cuộc đi săn đó họ lại tổ chức những bữa tiệc có thịt - đồ uống. Những thú rừng hoang dã như hươu, nai sẽ được dùng ngay vì dân làng không có tủ lạnh để giữ thịt tươi. Người Lào ăn gạo là chính. Món ăn Lào có chung đặc điểm là các gia vị như gừng, me, lá chanh và nhiều loại ớt khô rất cay. Nhìn vào nền ẩm thực Lào với các món ăn thức uống tiêu biểu trên tq có thể nhận thấy văn hóa ẩm thực Lào có những đặc trưng sau: Tính hòa đồng đa dạng: Người Lào dễ dàng tiếp thu văn hóa ẩm thực của các dân tộc khác, vùng miền khác để từ đó chế biến thành của mình. Đây cũng là điểm nổi bật của ẩm thực Lào Tính ít mỡ: Các món ăn Lào chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên ít mỡ, không dùng nhiều thịt như các nước phương Tây, cũng không dùng nhiều dầu mỡ như món của người Hoa. Tính đậm đà hương vị: Khi chế biến thức ăn người Lào thường dùng nước mắm để nêm, lại kết hợp với rất nhiều gia vị khác …nên món ăn rất đậm đà. Mỗi món khác nhau đều có nước chấm tương ứng phù hợp với hương vị. Tính tổng hòa nhiều chất, nhiều vị: Các món ăn Lào thường bao gồm nhiều loại thực phẩm như thịt, tôm, cua cùng với các loại rau, đậu, gạo. Ngoài ra còn có sự tổng hợp của nhiều vị như chua, cay, ngọt, bùi béo… mà đặc biệt là vị cay trong ẩm thực Lào. Tính cay trong ẩm thực Lào: Vị chính trong các món ăn hầu hết các món ăn đều có rất nhiều ớt. Chỉ riêng ớt có hàng chục món: từ ớt chiên giòn, ớt muối chua, ớt sa tế , ớt hầm, ớt luộc … Cụm từ ngon lành đã gói ghém được tinh thần ăn của người Lào. Ẩm thực Lào là sự kết hợp giữa các món, các vị lại để tạo nên nét đặc trưng riêng. Tính cộng đồng: Tính cộng đồng thể hiện rất rõ trong ẩm thực Lào. Không giống như Phương Tây, người Lào không ăn quanh bàn ăn cao mà người Lào ngồi xổm trên nền nhà, người Lào mang lên bàn cùng một lúc các món ăn. Tính hiếu khách: Trước mỗi bữa ăn người Lào thường có thói quen mời. Lời mời thể hiện sự giao thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng người khác… Khách đến nhà sẽ tuân theo những quy tắc bắt buộc được xem là nét văn hóa rất riêng của mình, khách không được ngồi ăn trong khi những người khác đã đứng dậy. Tập quán của người Lào là luôn chừa lại thức ăn trong đĩa khi đã ăn xong, nếu khách không chừa lại thức ăn, người ta sẽ cho là khách ăn không đủ no. chủ nhà sẽ bị mất thể diện Đặc biệt trong bữa ăn, người Lào ngồi quanh mâm cơm đặt dưới sàn nhà, đàn ông ngồi xếp bằng, đàn bà ngồi gập gối đưa bàn chân về phía sau. người Lào mang các món ăn lên bàn cùng một lúc. Quan niệm Piep – là cha mẹ, là bề trên luôn ăn miếng đầu tiên để khai mạc bàn ăn, theo thứ tự tuổi tác sẽ ăn các món sau tiếp theo. Mọi thành viên đều dùng tay để nhón xôi trong "típ khậu" (bát) của mình. Mỗi người có một cái muỗng riêng để lấy thức ăn hoặc canh trong mâm. Họ ăn chậm chạp, vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ, đặc biệt khi nhón xôi họ không làm rơi vãi một hạt cơm nào. Khách đến nhà sẽ tuân theo những quy tắc bắt buộc được xem là nét văn hóa rất riêng của mình, khách không được ngồi ăn trong khi những người khác đã đứng dậy. Tập quán của người Lào là luôn chừa lại thức ăn trong đĩa khi đã ăn xong, nếu khách không chừa lại thức ăn, người ta sẽ cho là khách ăn không đủ no, chủ nhà sẽ bị mất thể diện. Người Lào rất sạch sẽ đến mức kỹ tính, họ có thói quen rửa tay không chỉ trước mà cả sau bữa ăn. 2.6. Ẩm thực Lào- nét tương đồng và khác biệt với một số nước trong khu vực Vì Lào có diện tích biên giới giáp với Thái Lan và Campuchia khá dài nên việc giao lưu văn hóa giữa Lào với hai quốc gia này diễn ra khá mạnh mẽ. Nền ẩm thực của Lào cũng mang những phong cách tương tự như Campuhia và Thái Lan. Điều này thể hiện ở việc dùng gia vị. Hầu hết các món ăn của ba quốc gia này đều có sự tổng hòa giữa vị cay của ớt, ngọt của đường và chua của các loại trái cây. Khi chế biến, bằng bàn tay khéo léo của mình, họ đã biết pha trộn tỉ lệ, dung hòa các loại gia vị để mõi món ăn mang một đặc trưng riêng. Ngoài ra các món ăn của Lào, Campuchia, Thái Lan cũng có khá nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là các món ăn làm từ côn trùng. Loại thức ăn giàu đạm này được tìm thấy rất nhiều trên đất nước ba đất nước này. Tuy nhiên, món ăn từ côn trùng của Lào lại ít món hơn người Thái Lan và ít phổ biến hơn. Mang phong cách tương tự các quốc gia láng giềng là Campuchia và Thái Lan: cay, chua và ngọt. Tuy nhiên, ẩm thực Lào lại có những nét đặc trưng rất riêng. Ngoài cá nước ngọt thì thịt heo, gà, trâu, và vịt là những thành phần quan trọng để nấu nướng nhiều món ăn thông thường. Người Lào ăn gạo là chính, các món ăn có đặc điểm là dùng các gia vị như gừng, me, lá chanh và đặc biệt là nhiều loại ớt khô rất cay. Ớt là một phần không thể thiếu trong ẩm thực của người Lào và vị cay của nó đã trở thành một nét văn hóa. Người Lào cũng thích ăn nhiều rau, đó là những thứ bổ sung cho bữa ăn hằng ngày của họ và họ thường trồng rau ngay trong vườn. 2.7. Giá trị văn hoá trong ẩm thực Lào KẾT LUẬN Những nét đẹp của văn hóa ẩm thực bắt nguồn từ chính cuộc sống, bởi cuộc sống là mạch nguồn trong trẻo nhất cho văn hóa tồn tại và phát triển. Ẩm thực, bản thân nó đã là văn hóa bởi đó là sản phẩm của con người, thông qua nét đẹp của quá trình chọn, chế biến, cách làm ra những món ăn và thưởng thức đã làm cho nó trở thành một nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của đất nước Lào. Văn hóa ẩm thực Lào rất đa dạng và còn chứa đựng trong nó những đặc trưng riêng. Những đặc trưng ấy có thể là cách dùng gia vị, cách chế biến, cách trình bày cho đến cách thưởng thức các món ăn, từ những món ăn đơn giản, thường ngày tới những món ăn sử dụng trong các dịp lễ Tết. Và chính những đặc trưng ấy đã trở thành yếu tố tạo nên nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của người Lào. Cùng với sự tiếp thu những yếu tố văn hóa mới để tạo nên một nền văn hóa hiện đại, tiến bộ hơn, văn hóa Lào, bao gồm cả văn hóa ẩm thực vẫn lưu giữ trong mình những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha để lại từ bao đời. Thông qua quá trình giao lưu, tiếp xúc với văn hóa các nước, văn hóa ẩm thực Lào đã có sự thay đổi đáng kể, bên cạnh những món ăn truyền thống của dân tộc, những món ăn mới, mang phong vị khác đã xuất hiện, góp phần làm đa dạng hơn cho nền văn hóa ẩm thực Lào. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Tuyết Đào (1978), Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Lào, Nxb Khoa học Xã hội. 3. Hoài Nguyên (2008), Lào, Đất nước – con người, Nxb Chính trị Quốc gia. 4. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 5. Nguyễn Thị Hải Yến (2007), Lào – xứ sở Triệu Voi, Nxb Thế Giới. 6. Nguồn: www.google.com www.dulichlao.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_tom_tat_khoa_hoc_6724.doc
Luận văn liên quan