Đề tài Tìm hiểu văn hóa kinh doanh mỹ để nâng cao khả năng thâm nhập thị trường này của doanh nghiệp Việt Nam

Nói tóm lại văn hóa kinh doanh l à một v ấn đề rộng và phức tạp. Văn hóa kinh doanh ở thị trường Mỹ, m ột thị trường quy mô và đa dạng lại càng rộng và phức tạp hơn. Nghiên cứu vấn đề này, khóa luận chỉ xin nên ra những nét đặc trưng nhất của thị trường Mỹ về lịch sử địa lý, v ăn hóa xã hội – chính là môi trường tạo nên văn hóa kinh doanh Mỹ. Trong Chương II là chương chính của đề tài, kh óa luận lần lượt tìm hiểu các định nghĩa về văn hóa kinh doanh, vai trò của văn hóa kinh doanh và cụ th ể hóa ở Phần 2.2 của Chương II :Văn hóa kinh doanh Mỹ. Văn hóa kinh doanh Mỹ được chia ra thành văn hóa doanh nghiệp, văn hóa giao dị ch và văn hóa tiêu dùng, trong đó khóa luận chủ yếu nêu ra những đi ểm mà doanh nghiệp cần lưu ý về văn hóa kinh doanh trong chiến lược thâm nhập thị trường này.

pdf106 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2346 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu văn hóa kinh doanh mỹ để nâng cao khả năng thâm nhập thị trường này của doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y tín đối với người tiêu dùng. Người Mỹ đặc biệt tin tưởng vào chất lượng của các siêu thị bán lẻ và xem việc đi shopping như là một nơi gặp gỡ trò chuyện giao lưu. Trong khi đó nhà xuất khẩu Việt Nam chủ yếu quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn hạn chế sẽ không thể xây dựng một kênh phân phối riêng ngay từ ban đầu. Nếu bán hàng với số lượng nhỏ thì doanh nghiệp Việt Nam thì không cần đến hệ thống phân phối. Nhưng nếu muốn bán hàng với số lượng lớn thì bắt buộc phải sử dụng đến hệ thống phân phối hàng. Bởi vậy, khả năng thâm nhập thị trường Mỹ trong trường hợp này đối với doanh nghiệp Việt Nam chính là khả năng sử dụng hiệu quả kênh phân phối bán lẻ khổng lồ của Mỹ để từ đó từng bước xây dựng thương hiệu riêng của mình. Chiến lược quảng cáo và xúc tiến thương mại: Để thâm nhập một thị trường mới thì quảng cáo và xúc tiến thương mại là điều cần thiết, càng quảng cáo và xúc tiến thương mại thành công thì hàng hóa càng dễ được tiêu thụ trên thị trường. Tuy nhiên, với các thị trường khác nhau thì các nhà xuất khẩu phải có những chiến lược khác nhau. Với thị trường Mỹ, chi phí quảng cáo rất tốn kém, nên các nhà xuất khẩu phải lựa chọn được một cách thức quảng cáo vừa phù hợp khả năng tài chính vừa có hiệu quả cao. Đặc biệt là với đặc điểm tiết kiệm thời gian và làm việc coi trọng hiệu quả, doanh nghiệp Việt Nam 76 phải thiết kế cho mình một chiến lược quảng cáo gây ấn tượng cho người Mỹ về mẫu mã, chất lượng, giá cả ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên. Về hỗ trợ và xúc tiến thương mại, khả năng thâm nhập thị trường lại thể hiện ở khả năng thúc đẩy quá trình làm ăn ngày càng phát triển, ngày càng rộng mở. Đó là khả năng giữ được bạn hàng, tìm ra được những đối tác mới kinh doanh có hiệu quả cũng như làm cho sản phẩm càng ngày càng được ưa thích với những dịch vụ hậu mãi, chịu trách nhiệm sản phẩm cao. Tuy nhiên, hỗ trợ và xúc tiến thương mại ở Mỹ không phải là dễ dàng do khoảng cách về địa lý cũng như những rào cản về luật pháp, tài chính mà ta đã đề cập ở chương hai. Đây chính là những vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự tác động, hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức chính phủ để cùng giải quyết và nâng cao khả năng thâm nhập thị trường này. Chiến lược nhân sự: Yếu tố con người luôn là yếu tố tối quan trọng trong mọi lĩnh vực nên có được một chiến lược nhân sự có hiệu quả cao cũng chính là nâng cao khả năng thâm nhập của doanh nghiệp vào thị trường. Đặc biệt, kinh doanh với người Mỹ, những người coi trọng hiệu quả làm việc và năng lực thực sự thì chiến lược nhân sự càng cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Ta đã biết rằng người Mỹ có thể không phiền lòng khi cùng bàn bạc công việc trong một bữa ăn sáng vội hay với một nhân viên cấp thấp hơn nhưng họ sẽ không chịu đựng nổi nếu đối tác không có năng lực để giải quyết vấn đề hay không có khả năng quyết định. Do đặc tính của người Mỹ bị ấn tượng bởi tư duy sắc bén và tầm nhìn chiến lược với đối tác nên để làm ăn tốt với họ ta nên có một chiến lược nhân sự thật kỹ lưỡng. 3.2.2. Sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trƣờng Muốn một sản phẩm được tiêu thụ và đứng vững trên một thị trường, bất cứ nhà kinh doanh nào cũng biết rằng sản phẩm đó phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường đó, có nghĩa là phải phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị 77 trường. Qua nghiên cứu văn hóa tiêu dùng Mỹ ở chương hai, ta thấy rằng ở thị trường Mỹ, khả năng thâm nhập này thể hiện ở chỗ hàng hóa Việt Nam đã có tính phong phú, mẫu mã độc đáo và được chứng nhận chất lượng mà người Mỹ vốn rất ưa chuộng hay chưa? hàng hóa Việt Nam đã có cơ cấu mặt hàng phong phú để đáp ứng được nhu cầu khổng lồ và đa dạng của dân Mỹ hay chưa? cũng như hàng hóa Việt Nam đã có thiết kế một cách tiện dụng và thuận lợi đáp ứng với đức tính tiết kiệm thời gian không rườm rà của người Mỹ hay chưa? Bên cạnh đó, khả năng thâm nhập còn thể hiện ở tính ổn định về chất lượng và số lượng của sản phẩm trên thị trường, bởi người Mỹ rất coi trọng chữ Tín, hợp đồng với họ là thiêng liêng và họ cũng không ngần ngại tìm một đối tác mới nếu bên cung cấp hàng không ổn định. Bởi vậy, nâng cao khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ cũng chính là các doanh nghiệp Việt Nam cải thiện sản phẩm đa dạng, chất lượng đảm bảo theo xu hướng tiêu dùng của người Mỹ cũng như lấy được chữ Tín với người tiêu dùng. 3.2.3. Tính linh hoạt của doanh nghiệp trƣớc những biến động của thị trƣờng: Ta đã biết nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế năng động và có tính cạnh tranh gay gắt nhất trên thế giới. Những biến động, các yếu tố ngoại cảnh trên thị trường tác động đến hàng hóa Việt Nam là điều không thể tránh khỏi. Ví dụ như vụ kiện phá giá cá da trơn, cá ba sa năm 2003 của hiệp hội các nhà sản xuất thủy sản Mỹ đã ảnh hưởng xấu đến kim nghạch xuất khẩu mặt hàng này vào Mỹ đã cho thấy lúc này khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp ta còn yếu. Đó là chưa nói đến sức ép cạnh tranh từ các nước có cùng mặt hàng xuất khẩu như Trung Quốc, Ấn Độ. Có linh hoạt phản ứng trước những đối thủ cạnh tranh này để luôn đứng vững trên thị trường mới là có khả năng thâm nhập tốt. Bởi vậy, khả năng thâm nhập vào thị trường này cũng thể hiện sự nhạy bén và tiên liệu được diễn biến thị trường kết hợp với sự linh hoạt cải tiến sản phẩm hoặc vận dụng các chiến lược kinh doanh khác nhau. 78 3.3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG MỸ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM. 3.3.1. Nhóm giải pháp cho các doanh nghiệp 3.3.1.1. Xây dựng đội ngũ nhân sự hiểu biết về thị trường Mỹ nói chung và văn hóa kinh doanh Mỹ nói riêng. Như ta đã nói ở trên, chiến lược nhân sự đóng một vai trò quan trọng tạo nên khả năng thâm nhập thị trường Mỹ đối với doanh nghiệp Việt Nam. Để có được một chiến lược nhân sự hiệu quả thì trước hết phải có một đội ngũ nhân sự chất lượng tốt, có kiến thức sâu rộng về thị trường Mỹ nói chung và văn hóa kinh doanh Mỹ nói riêng. Thực trạng hiện nay cho thấy rất ít doanh nghiệp Việt Nam có được sự thông hiểu thị trường, cán bộ xuất nhập khẩu thậm chí còn không thông thạo ngoại ngữ. Bởi vậy, doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh chóng bằng các biện pháp đào tạo, huấn luyện hay tuyển dụng để xây dựng đội ngũ nhân sự có chất lượng tốt như: a. Cử cán bộ đi học Ngoại Ngữ và cũng như văn hóa kinh doanh của thị trường Mỹ Như ta đã nói ở các phần trên, ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng của văn hóa kinh doanh. Tuy nhiên, chính ngôn ngữ lại là một rào cản văn hóa rất lớn trong kinh doanh quốc tế. Bởi vì ngôn ngữ chính là cầu nối giao tiếp phổ biến nhất mà con người sử dụng. Bất đồng ngôn ngữ khiến con người không thể hiểu được thông tin mà người khác truyền đạt. Không thể ký hợp đồng chỉ bằng cử chỉ và điệu bộ. Bởi vậy, vấn đề ngôn ngữ luôn được xem xét: phải làm cách nào đó để vượt qua được hạn chế bất đồng ngôn ngữ. Đặc biệt giao dịch với người Mỹ, vấn đề này lại càng quan trọng vì người Mỹ vốn không kiên nhẫn, họ không muốn mất thời gian nhiều cho những vấn đề không liên quan đến thương vụ. Vẫn có trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng phiên dịch nhưng rõ ràng đây hoàn toàn chỉ là bất đắc dĩ. Ta biết rằng người 79 Mỹ dành thời gian cho đàm phán thường không nhiều, nhưng lại phải mất nửa thời gian cho phiên dịch thì lại rất phiền. Bởi vậy, đã làm ăn với người Mỹ tức là phải sử dụng thành thạo ngôn ngữ của họ (tiếng Anh), nhưng không phải cán bộ xuất nhập khẩu Việt Nam cũng đều đạt được điều này, đặc biệt là những thế hệ đầu tiên. Bởi vậy, không phải là một giải pháp mới nhưng luôn là một giải pháp cần thiết gián tiếp nâng cao khả năng thâm nhập thị trường Mỹ, đó là việc doanh nghiệp khuyến khích đào tạo cán bộ về ngoại ngữ (tiếng Anh), bao gồm giao tiếp quốc tế trong thương mại, thư tín thương mại, v.v. Bên cạnh vấn đề ngoại ngữ, doanh nghiệp cũng có thể tổ chức các khóa học ngắn hạn phổ biến kiến thức về văn hóa kinh doanh cho cán bộ nhân viên. Ví dụ như một doanh nghiệp chuyên xuất khẩu gỗ sang Hoa Kỳ, thì những khóa học về văn hóa kinh doanh của thị trường Hoa Kỳ là điều cần thiết. b. Khuyến khích nhân viên tham gia diễn đàn doanh nghiệp về văn hóa kinh doanh Có một kênh thông tin mà các doanh nghiệp đã tận dụng được và rất cần được phát huy, đó là thông tin từ chính giới của mình. Các nhà xuất khẩu Việt Nam không chỉ có thể cùng nhau hợp sức để đáp ứng một đơn hàng lớn của mà còn có thể hợp sức với nhau về mặt thông tin, đặc biệt là thông tin về thị trường. Thực ra, cũng đã có những sân chơi cho doanh nghiệp Việt Nam như phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức diễn đàn doanh nghiệp trên mạng ( Vietnam Business Online) để có doanh nghiệp trên cả nước có thể chia sẻ thông tin, kinh nghiệm lẫn nhau. Hoặc rất nhiều những diễn đàn doanh nhân doanh nghiệp khác được tổ chức trên Internet là nơi các doanh nghiệp trao đổi và bình luận rất nhiều vấn đề trong kinh doanh quốc tế. Vấn đề là doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc những doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường, chưa có tiềm lực lớn cần xem đây là 80 một nguồn lực để khai thác: vừa tiết kiệm chi phí, vừa là một cách để mở rộng kiến thức của mình về văn hóa kinh doanh của đối tác. 3.3.1.2. Sử dụng dịch vụ tư vấn khi thâm nhập thị trường Như đã nói ở trên, người Mỹ cực kì coi trọng luật pháp. Đặc biệt là trong kinh doanh, luật pháp chi phối môi trường kinh doanh Mỹ rất nhiều. Các doanh nghiệp thường có thói quen kiện tụng, đưa nhau ra tòa để giải quyết các tranh chấp thương mại. Mặt khác, pháp luật của Hoa Kỳ cũng rất phức tạp, chặt chẽ và bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ các hiệp hội nghành nghề nên các doanh nghiệp Việt Nam không thể không lưu ý vấn đề này. Trong những năm gần đây, nhiều vụ kiện tụng kinh tế vừa như vụ Hiệp hội Cá da trơn Hoa Kỳ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra/cá basa hay vụ kiện tôm của Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp Việt Nam đã gây không ít trở ngại cho công việc kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp hai nước. Nắm rõ vấn đề luật pháp cũng là cách chúng ta bảo hiểm cho các chiến lược thâm nhập thị trường của mình, là một cách để luôn chủ động và xử lý linh hoạt trước những biến động về môi trường luật pháp. Nếu không doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể tiên liệu được những rủi ro trong hệ thống luật pháp nước ngoài cũng như sẽ không chuẩn bị trước được những phương án đối phó dẫn đến tính linh hoạt trước những biến động thị trường bị hạn chế. Trong khi đó ở Việt Nam lại chưa thể có đủ dịch vụ tư vấn đủ lực và khả năng để giải quyết những vấn đề luật phức tạp. Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện chỉ có khoảng 3 – 4 công ty luật có khả năng tư vấn cho các dự án lớn có tầm cỡ quốc tế. Tuy nhiên, ngay cả các công ty này cũng không thể làm nổi những vụ tầm cỡ như kiện chống phá giá... mà cần phải nhờ các công ty luật, luật sư giỏi của Mỹ. Trong khi đó, hoạt động luật sư ở Mỹ có tính chuyên môn hóa rất cao, kinh doanh của doanh nghiệp thuộc ngành nghề nào thì tìm luật sư chuyên về lĩnh vực đó tư vấn sẽ có hiệu quả. Phí tư vấn khá cao, song điều quan trọng 81 trước mắt là nó giúp cho doanh nghiệp lường trước được những khó khăn, rắc rối có thể gặp phải. Bỏ ra một khoản tiền lớn để lường trước rủi ro còn hơn là đang buôn bán thuận lợi lại bị đứt đoạn vì một điều luật nào đó mà mình không hề lường trước. Ngoài tư vấn luật, khi khởi sự doanh nghiệp tại Mỹ doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể sử dụng các nhà ngân hàng, kế toán tư vấn kinh doanh giúp vì họ là những người rất thông hiểu về hệ thống thu nhập, thuế... có thể giải thích cho doanh nghiệp biết công việc kinh doanh có liên quan đến việc nộp thuế... tại Mỹ như thế nào. Cũng theo các chuyên gia về pháp luật, một vướng mắc khác mà doanh nghiệp hay gặp là thủ tục hải quan khi xuất hàng vào thị trường Mỹ. Phần lớn những trục trặc về thủ tục này rơi vào trường hợp doanh nghiệp chưa biết cách điền vào tờ khai, khai không đúng số lượng, chi tiết về hàng hóa trong bảng kê…Theo các chuyên gia, doanh nghiệp cần tìm nhà môi giới hải quan chuyên nghiệp thông qua sự giới thiệu của các doanh nghiệp có kinh nghiệm. Nói chung, tư vấn ở Mỹ có rất nhiều dạng : tư vấn thâm nhập thị trường, tư vấn quảng cáo, tư vấn luật v.v. Doanh nghiệp có thể chọn một loại hình phù hợp nhất. Tuy nhiên, sử dụng tư vấn doanh nghiệp Việt Nam cũng cần lưu ý đến vấn đề chi phí bởi phí tư vấn Mỹ rất đắt. Dịch vụ tư vấn ở Mỹ phát triển mạnh và những người cung cấp dịch vụ như luật sư, kế toán, tư vấn tài chính... thường tính phí hoặc tiền công dựa trên số giờ làm việc cho khách hàng, đôi khi kể cả thời gian tiếp và/hoặc nói chuyện qua điện thoại với khách hàng. Do vậy, các nhà kinh doanh, khi cần sử dụng luật sư, cần phải chuẩn bị rất kỹ các câu hỏi và nội dung cần tư vấn, và đi thẳng vào vấn đề để tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng luật sư, tức là tiết kiệm chi phí cho chính mình. 82 3.3.1.3.Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng: Muốn cạnh tranh trên thị trường Mỹ, sản phẩm của chúng ta phải phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Khả năng thâm nhập của Việt Nam chính là ở chỗ sản phẩm có thiết kế đẹp, bắt mắt, chất lượng không cần quá tốt nhưng mẫu mã phải phong phú và độc đáo. Cụ thể ở các ngành khác nhau các doanh nghiệp sẽ có những biện pháp riêng để cải tiến sản phẩm của mình nên khóa luận chỉ đưa ra một vài ví dụ các ngành hàng điển hình mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu vào Mỹ: Trước hết là ngành hàng dệt may, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm thông qua nâng cao tay nghề công nhân; tiếp tục đầu tư đổi mới trang thiết bị; quan tâm đầu tư thỏa đáng vào công nghiệp thiết kế thời trang, có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các công ty may lớn đầu tư vào máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất công nghệ CAD - CAM; tạo những thương hiệu sản phẩm may có uy tín; chú ý tính độc đáo của sản phẩm thông qua việc sử dụng chất liệu thổ cẩm, sản phẩm thêu tay, đan, ren...; chú ý chất liệu làm ra sản phẩm may (phần lớn người Mỹ thích dùng hàng dệt kim hàng vải cotton hoặc chất liệu có hàm lượng cotton cao); đầu tư thỏa đáng vào công nghệ bao bì. Hiện nay, do công nghiệp may mặc Mỹ chưa có nhiều thông tin về chất lượng hàng may mặc Việt Nam, các công ty dệt may Việt Nam nên tiêu chuẩn hóa chất lượng sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, tạo lòng in cho khách hàng nước ngoài nói chung và Mỹ nói riêng. Về nghành xuất khẩu chủ lực thứ 2 của Việt Nam sang thị trường Mỹ là thủy sản, ta thấy rằng thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian qua cho thấy xuất khẩu thủy sản đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn 83 chế, khó khăn nhất định như các rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe, người tiêu dùng càng ngày càng quan tâm đến vấn đề an toàn thực phẩm. Bởi thế, trước hết, doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng của nguồn nguyên liệu thủy sản theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm, giá cả hợp lý. Có thể nói chất lượng nguyên liệu thủy sản cần đảm bảo ngay từ khi nuôi trồng. Trước hết phải có giống tốt, có khả năng cho năng suất và chất lượng cao. Kế tiếp, khâu nuôi trồng thủy sản phải tuân thủ theo đúng quy định, tránh dịch bệnh, tránh sử dụng những loại thuốc không được phép sử dụng, không thu hoạch thủy sản đã sử dụng kháng sinh trước thời hạn cho phép. Đồng thời các doanh nghiệp cũng nên đầu tư vào công nghệ, áp dụng công nghệ mới và đồng bộ để nâng cao năng suất lao động cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Về mặt hàng gỗ, tuy có sự phát triển nhanh chóng trong những năm vừa qua nhưng thách thức trước mắt là tình hình gỗ nguyên liệu trong nước ngày càng khan hiếm cả về số lượng và chủng loại, việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu gặp nhiều khó khăn ách tắc từ nước ngoài, giá đầu vào nguyên liệu gỗ nhập tăng đột biến. Bởi vậy, các doanh nghiệp có thể đầu tư trồng rừng trong nước và nước ngoài, nhất là liên kết trồng rừng nguyên liệu tại Lào và Cămpuchia. Theo nhu cầu về nội thất của người Mỹ rất lớn, các doanh nghiệp cũng có thể chuyển từ chế biến các mặt hàng gỗ ngoài trời sang sản xuất các mặt hàng gỗ nội thất để đáp ứng nhu cầu của họ. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thể hiện ở chỗ doanh nghiệp Việt Nam có đủ khả năng cung hàng cho các đơn đặt hàng lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là vừa và nhỏ. Nhưng người Mỹ tiêu dùng rất nhiều, thị trường Mỹ có sức mua lớn và kéo theo đó, doanh nhân Mỹ thường có tầm nhìn lớn, thích những thương vụ có giá trị cao. Bởi vậy nhược điểm của doanh nghiệp Việt Nam chính là năng lực xuất khẩu còn hạn 84 chế nên không đủ sức thực hiện những hợp đồng lớn trong thời hạn ngắn. Để khắc phục hạn chế này, chúng ta không còn cách nào khác là phải liên kết với nhau để đáp ứng những đơn hàng lớn. Đây chính là giải pháp trực tiếp tác động đến khả năng cung ứng hàng ổn định ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thâm nhập của doanh nghiệp. Thí dụ như ở Mỹ, khi người ta mua nhà, nghĩa là người đó sẽ đồng loạt thay tất tật các loại đồ dùng vải vóc trong căn nhà đó như rèm cửa, khăn phủ giường, nệm, gối, thảm trải nhà…nên các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất các mặt hàng trên có thể thông tin cho nhau, liên kết với nhau cùng cung cấp hàng hóa chất lượng cao, có uy tín mà các bên đều có lợi. Tương tự, người Mỹ có rất nhiều ngày tặng quà cho nhau, tặng quà quanh năm. Quan trọng là chúng ta phải chú ý từ chi tiết nhỏ như hộp đựng quà tặng. Nhịp sống ở Mỹ rất nhanh và bận rộn nên những dịch vụ bổ trợ cho nhau như thế là rất cần thiết. Tại sao các doanh nghiệp Việt Nam không cùng hợp tác với nhau để cung cấp những dịch vụ trọn gói như thế? Mô hình đó vừa giúp doanh nghiệp Việt Nam có doanh thu cao mà còn tạo được phong cách làm việc chuyên nghiệp, gây được niềm tin cho người tiêu dùng. 3.3.1.4. Hợp tác với người Mỹ (nhà sản xuất và phân phối bán lẻ) Mỹ là một thị trường đã có tổ chức và đã được phân chia. Mặc dù nguyên tắc “tự do cạnh tranh” và “bình đẳng cơ hội” vẫn được tôn trọng nhưng hệ quả của nó, tức là sự cạnh tranh gay gắt và sự nỗ lực không ngừng đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thâm nhập thị trường này. Đã có ý tưởng cho rằng chúng ta nên thâm nhập thị trường Mỹ bằng cách đưa hàng vào thị trường Hoa Kỳ bằng cách thành lập một công ty tại Hoa Kỳ để đứng ra giao dịch với những người bán hàng, hoặc có người đứng ra đại diện cho công ty tại một địa phương cụ thể nào đó. Tuy nhiên, đây là vấn đề không dễ thực hiện, bởi đối với các doanh nghiệp Việt Nam, 85 cử người sang làm việc tại thị trường này rất tốn kém, khó khăn về việc xin visa nhập cảnh, năng lực cán bộ. Mặt khác, trong thời gian chào hàng, tiếp cận thị trường doanh nghiệp phải chấp nhận doanh thu thấp, phải chịu các khoản chi phí, giá dịch vụ cao. Trong thời gian gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã đặt ra vấn đề thâm nhập thị trường bằng thương hiệu bởi tâm lý người tiêu dùng Mỹ rất ưa thích các sản phẩm đã có thương hiệu. Tuy rằng thương hiệu là vấn đề quan trọng và không sớm thì muộn chúng ta cũng cần phải làm. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp nhỏ và mới bắt đầu xâm nhập thị trường Mỹ, có lẽ sẽ không đủ tiềm lực tài chính để tiến hành các chiến dịch quảng cáo liên tục dài hạn trên diện rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng và các chiến dịch tốn kém khác. Trong khi chưa hội tụ đủ điều kiện để xây dựng thương hiệu riêng của mình như đã phân tích ở trên thì sự lựa chọn thích hợp nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong vòng 5 năm tới để tăng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ là hợp tác với người Mỹ. Hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc hiện đang phát triển theo hướng này, và Trung Quốc đang được coi là công xưởng của thế giới. Năm 2005, Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ gần 250 tỉ USD, nhưng hầu như không có hàng hóa mang thương hiệu Trung Quốc. Như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói trong bài viết “WTO cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta” là: “Cái chúng ta lựa chọn và quyết định là cái tốt nhất có thể chứ chưa phải là cái mà chúng ta mong muốn” thì trong hoàn cảnh này kết hợp với các doanh nhân Mỹ để thâm nhập thị trường này nên là điều chúng ta lựa chọn [24]. Kết hợp với họ thì lại phải chia sẻ lợi nhuận. Cũng có thể có trường hợp trong chuỗi giá trị, những mắt xích có giá trị gia tăng cao hơn sẽ rơi hết vào tay người khác. Tuy nhiên, kết hợp với người Mỹ để làm ăn vẫn là cách đúng đắn nhất để khởi đầu sự nghiệp kinh doanh ở đó. Không ai hiểu thị trường Mỹ bằng chính người Mỹ, hơn nữa họ 86 đã có sẵn các kênh phân phối, khu vực phân phối hàng. Kết hợp với họ, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tận dụng được sự thông hiểu thị trường đó, tận dụng được kênh phân phối của họ để tập trung hơn vào cải tiến chất lượng sản phẩm và ổn định khả năng cung hàng. Một khi các doanh nghiệp Việt đã có được sự hiểu biết, có được các mối quan hệ, thì hãy nên tính tới chuyện “ở riêng”. Vậy kết hợp với người Mỹ với môi trường văn hóa kinh doanh như vậy thì có thể thực hiện thông qua những hình thức nào? Đối với các công ty của Hoa Kỳ, nếu công ty nào có chi nhánh hay văn phòng tại Việt Nam thì chắc chắn họ sẽ tổ chức thu mua ngay tại Việt Nam, do vậy các doanh nghiệp Việt Nam nên tự tìm đến họ. Bằng cách tiếp cận này, doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện trao đổi thông tin trực tiếp, ít chi phí, không lo ngại về việc kiểm tra tư cách của khách hàng. Nhưng các công ty có trụ sở, văn phòng đại diện chỉ là một con số rất nhỏ nên chúng ta không thể không tính đến chuyện hợp tác với các nhà phân phối Mỹ. Văn hóa tiêu dùng của người Mỹ có đặc điểm là người tiêu dùng Mỹ rất tin tưởng các hệ thống phân phối bán lẻ và các nhà bán lẻ ở Mỹ có một quy mô và sức mạnh khổng lồ, có thể tác động ngược lại đến cả các nhà sản xuất. Các công ty bán lẻ ở Mỹ có thể nhận hàng từ người bán buôn, hoặc qua trung gian nhưng cũng có thể lấy hàng trực tiếp từ người sản xuất. Doanh nghiệp sản xuất nhỏ của Việt Nam có thể chấp nhận hình thức bán theo hợp đồng cho các nhà bán lẻ này để đưa hàng hóa vào thị trường. Để hàng của mình tiếp cận người tiêu dùng, doanh nghiệp sản xuất có thể chấp nhận bán hàng thanh toán sau, đưa hàng đến cho nhà bán lẻ trưng bầy giới thiệu để xem hàng hóa có tiêu thụ được hay không. Bên cạnh các nhà bán lẻ ở Mỹ, chúng ta cũng có thể hợp tác với mô hình OEM (original equipment manufacturer) khác là những công ty bán buôn, bán lẻ, phân phối, hoặc kinh doanh thương mại chuyên bán các sản 87 phẩm do các công ty khác sản xuất. Tuy được gọi là Original Equipment Manufacturer, song các công ty này thực tế không sản xuất mà chỉ bán hàng đến người tiêu dùng. Những hàng hóa họ tiêu thụ có thể do chính họ thiết kế sau đó đặt sản xuất hoặc do chính các nhà sản xuất thiết kế. Ví dụ, giày thể thao Wilson chắc chắn không phải do Công ty Wilson sản xuất mà chỉ mang thương hiệu Wilson mà thôi. Thương vụ Việt Nam những năm gần đây cũng nhận được khá nhiều hỏi hàng của các OEM [28]. Các OEM này có mẫu thiết kế sản phẩm đang cần tìm nhà sản xuất ổn định và cạnh tranh. Chúng ta ta chỉ cần sản xuất ra sản phẩm như thiết kế, cung ứng đầy đủ nguồn hàng chất lượng và ổn định, phần còn lại sẽ do các OEM phân phối. Vậy thì tại sao các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn thâm nhập thị trường này mà chưa thể xây dựng kênh phân phối riêng lại không tận dụng những kênh phân phối này để dần dần xây dựng bản sắc riêng của mình? Có một dạng hợp tác với người Mỹ mà chúng ta có thể tận dụng được đó là hình thức kinh doanh “outsourcing” đang rất phát triển ở Hoa Kỳ : Để tiết kiệm chi phí sản xuất, bản thân các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ cũng đặt gia công toàn bộ hoặc một phần hàng hóa và dịch vụ ở nước ngoài thay vì cho sản xuất tại cơ sở của mình ở trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận gia công cho họ, từ gia công chi tiết, bộ phận, tiến đến gia công toàn bộ. Ví dụ, một công ty sản xuất đồ gỗ Hoa Kỳ có thể đặt gia công linh kiện gỗ ở Việt Nam mang về lắp ráp thành tủ rượu và bán tại Hoa Kỳ (họ không đặt thành phẩm vì tủ rượu cồng kềnh chi phí vận tải cao). Kinh nghiệm các nước có quan hệ với thị trường Hoa Kỳ từ lâu cũng đã chỉ ra rằng doanh nghiệp của họ đưa hàng vào thị trường này qua hệ thống người đại diện. Theo họ, ban đầu có thể gặp nhiều khó khăn khi tạo chỗ đứng nhưng sau khi có được mạng lưới khách hàng ổn định thì vấn đề còn lại chỉ cung ứng hàng hóa. Bởi vậy, tùy theo từng quy mô sản xuất, ngành hàng, mặt 88 hàng mà doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn cho mình một biện pháp hợp tác tối ưu để đứng vững trên thị trường này. 3.3.1.5. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ: Việc bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài là một vấn đề cần được doanh nghiệp đặc biệt chú ý. Doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các phương thức đăng ký bảo hộ ở nước ngoài để bảo vệ nhãn hiệu một cách hữu hiệu, nhanh chóng và tiết kiệm. Đối với thị trường Hoa Kỳ, nơi đã nổi tiếng với rất nhiều vụ kiện, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cần được doanh nghiệp đặc biệt lưu tâm. Dù các doanh nghiệp Việt Nam có thể đang xuất khẩu dựa trên nhãn hiệu của nước ngoài nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tính đến việc đăng ký thương hiệu tại thị trường này, trước khi để "nước đến chân mới nhảy". Doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ cũng cần nhớ lại những kinh nghiệm xung quanh việc tranh cãi về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá mà các thương hiệu Vinataba, Trung Nguyên, Duy Lợi...đã gặp phải trong thời gian qua. Các chuyên gia thương mại và luật sư nhấn mạnh, trước khi tính đến việc đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp cần phải thực hiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá để tránh những vụ kiện mà nếu có thắng thì cũng hao tổn không ít tiền bạc và công sức. Vậy mà tính đến tính đến tháng 10/2007, mới có 2.000 nhãn hiệu Việt Nam đăng ký ra nước ngoài - con số rất khiêm tốn so với 58.866 nhãn hiệu của nước ngoài vào Việt Nam [23]. Cho nên các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức được đây là một việc cấp thiết ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập của mình để từ đó có được những chiến lược cụ thể. Ví dụ như, lệ phí đăng ký thương hiệu tại Hoa Kỳ ít nhất là 500 USD, cao nhất có thể từ vài ngàn USD tùy theo phẩm chất chủng loại, hình dạng cho mỗi sản phẩm dịch vụ. Những doanh nghiệp nhỏ có thể liên kết với những doanh nghiệp cùng ngành nghề, để đăng ký thương hiệu tập thể hay nhóm, hội. Chẳng hạn, Hiệp hội Sản xuất cà phê 89 tại Việt Nam có thể đăng ký thương hiệu dành riêng cho hiệp hội của mình. Các doanh nghiệp cần phải xem đăng kí nhãn hiệu trên thị trường Mỹ là một việc cần thiết để có thể tránh được những rủi ro về lâu về dài, tăng cường tính linh hoạt trước những tác động của môi trường kinh doanh bên ngoài. 3.3.1.6. Tích cực áp dụng thương mại điện tử Ngày nay, trang web và email đã trở thành một phương tiện không thể thiếu trong kinh doanh, đặc biệt là trong kinh doanh quốc tế. Các công ty không có website sẽ rơi vào thế bất lợi, sẽ bị khách hàng đánh giá là nhỏ, nghèo và không biết làm ăn trong thế giới thương mại ngày nay. Điều này lại càng đúng với thị trường Hoa Kỳ, một xã hội có trình độ cao có đến 170 triệu người sử dụng Internet. Sử dụng trang web sẽ tạo cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội hơn để khách hàng biết tới. Như ta đã nói, người Mỹ rất tiết kiệm thời gian, các doanh nhân ít có thời gian gặp gỡ trao đổi trực tiếp và vì thế họ có thói quen sử dụng Internet để tìm kiếm cũng như kiểm tra thông tin. Hơn nữa, ta thấy rằng trang web cung cấp đầy đủ, nhanh và cập nhật thông tin hơn catalogue trên giấy: chỉ cần báo cho khách hàng địa chỉ trang web thì toàn bộ thông tin về doanh nghiệp sau vài ba phút đã đến ngay được với khách hàng. Nếu gửi catalogue chúng ta sẽ mất nhiều thời gian, phí tổn cao và quan trọng nhất là bỏ lỡ cơ hội kinh doanh bởi không phù hợp với phong cách kinh doanh của người Mỹ. Cho nên áp dụng thương mại điện tử là điều doanh nghiệp nên làm trong chiến lược quảng cáo và xúc tiến thương mại của mình. Tuy nhiên, trong việc áp dụng thương mại điện tử, doanh nghiệp Việt Nam cũng nên lưu ý một số điểm như: trang web nên được thiết kế một cách chuyên nghiệp, đẹp, dễ bắt mắt và dễ hiểu. Ví dụ như tên miền của web nên được đặt theo tiếng Anh bởi người nước ngoài hầu như không biết tiếng Việt và không nhớ được tiếng Việt. Trang web phải đảm bảo cho người tìm tìm 90 được thông tin cần thiết một cách nhanh nhất bởi người Mỹ rất thiếu kiên nhẫn, họ có thể chuyển sang xem một trang web khác. Nếu sử dụng email, doanh nghiệp cũng phải thể hiện tính chuyên nghiệp trong giao dịch. Thứ nhất, không sử dụng hộp thư miễn phí như yahoo hay gmail để giao dịch, mà nên dùng hộp thư có đuôi là tên miền trang web của công ty. Thứ hai, không nên gửi thư chào hàng cho nhiều người nhận một lúc bởi sẽ không gây ấn tượng được với khách hàng. Đặc biệt, không nên gửi thư chào bán hoặc giới thiệu dịch vụ cho khách hàng không có quan hệ quen biết từ trước mà không được họ đồng ý. Những thư rác như thế sẽ không đem lại được hiệu quả mà còn sẽ bị tự động xóa những thư sau, như vậy sẽ hạn chế cơ hội cho chúng ta tiếp cận đối tác hơn. 3.3.1.7. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại ở thị trường Mỹ: a. Tích cực tham gia hội chợ thương mại ở Mỹ Tham gia gian hàng hội chợ là dịp thuận lợi nhất để doanh nghiệp gặp gỡ khách hàng và tìm kiếm đối tác mới. Thường những hội chợ tại Mỹ luôn thu hút đông đảo các khách hàng thương mại khắp nơi tham gia. Ví dụ như với mặt hàng đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng năm tại Mỹ thường có các triển lãm có quy mô tầm cỡ và luôn được giới kinh doanh quan tâm đến như Las Vegas, High Point, Dallas. Tuy nhiên, vấn đề là các doanh nghiệp Việt Nam phải tận dụng được những cơ hội này. Cụ thể như khi tham gia hội chợ, chúng ta luôn luôn phải chú ý đến khâu tổ chức, chuẩn bị. Đây là một thiếu sót của các doanh nghiệp khi tham gia ở các kỳ triển lãm ở trong nước. Hầu hết các doanh nghiệp còn chuẩn bị sơ sài về mặt thông tin cung cấp cho khách hàng. Không ít trường hợp, không có người am hiểu thông tin đứng ở quầy hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nên quan tâm các hoạt động xúc tiến sau triển lãm. Chủ động liên lạc với khách hàng sẽ tạo cơ hội cho mọi người nhớ đến mình lâu hơn dù cho hoạt động giao dịch không thành công. Thêm 91 nữa, các doanh nghiệp thường có tâm lí chán nản sau một lần đi tham dự hội chợ bởi những kết quả không mấy thành công nhưng nếu kiên nhẫn tiếp tục đến sang năm thứ 2 và thứ 3 trở đi thì khách mua hàng sẽ có thể sẵn sàng làm việc với chúng ta vì họ đã nhận ra doanh nghiệp là ai. b. Mở rộng quan hệ, giao lưu với doanh nghiệp Việt kiều Các doanh nghiệp Việt kiều có rất nhiều lợi thế, về kinh nghiệm, ngôn ngữ, sự hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán và phương cách kinh doanh của nước sở tại, nơi họ đang sinh sống. Bằng mối quan hệ và uy tín của cá nhân, các doanh nghiệp Việt kiều sẽ làm tốt vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp Việt Nam và thị trường Mỹ. Cụ thể như doanh nghiệp Việt kiều có khả năng giúp các doanh nghiệp trong nước có những hiểu biết cơ bản khi tìm kiếm thông tin thị trường và cách thức phân phối hàng hóa, cách thức giao dịch, tập quán kinh doanh của nước ngoài. Chúng ta đã biết thị trường Mỹ có sức mua cao nhưng luôn có sự cạnh tranh gay gắt, các quy định bảo vệ người tiêu dùng rất nghiêm ngặt và hệ thống pháp luật rất phức tạp. Vốn rất am hiểu thị trường Mỹ, doanh nghiệp Việt kiều tại Mỹ có thể đóng vai trò như một kênh tư vấn hiệu quả giúp các doanh nghiệp trong nước tránh những rủi ro. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên tiếp cận thị trường Mỹ thì sự tư vấn này đóng vai trò then chốt và quyết định. Đây là cách mà các doanh nghiệp Trung Quốc, Hồng Công đã làm rất tốt trong nhiều năm qua ở thị trường Mỹ và họ đã rất thành công. Doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể áp dụng cách này để hỗ trợ cho các chiến lược phân phối cũng như chiến lược sản phẩm, chiến lược xúc tiến thương mại nhằm nâng cao khả năng thâm nhập của mình. Hiện nay ở Mỹ, có hơn 150.000 doanh nghiệp Việt kiều đang hoạt động, phần lớn tập trung ở California và Texas, chủ yếu trong lĩnh vực bán lẻ. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi mà các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng. Doanh nghiệp Việt kiều chính là kênh phân phối và tiêu thụ 92 hàng Việt Nam tại Mỹ cũng như trên thị trường thế giới. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp trong nước đã biết tận dụng vai trò của Việt kiều để thiết lập hệ thống phân phối hàng hóa. Tuy nhiên, để “cầu nối” hoạt động thực sự có hiệu quả, chúng ta cũng cần nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp Việt kiều. Trong đó Nhà nước cũng như các tổ chức hiệp hội người Việt Nam ở nước ngoài cần xây dựng một kênh thông tin nhạy bén, liên lạc thường xuyên để doanh trong nước và doanh nghiệp Việt kiều luôn tiếp cận và trao đổi dễ dàng nhằm giải quyết tốt nhất các yêu cầu nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, cạnh tranh có hiệu quả cao trên thương trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế. 3.3.2. Một số kiến nghị đối với Nhà Nƣớc Bên cạnh những giải pháp ở tầm vi mô, thâm nhập thị trường nước ngoài thành công cũng đòi hỏi sự hỗ trợ can thiệp từ cấp vĩ mô của Nhà nước bởi hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp lâu dài của toàn Đảng toàn dân chứ không chỉ của riêng doanh nghiệp. Đối với thị trường Mỹ là thị trường đầy tiềm năng và cạnh tranh cao, sự can thiệp của Nhà nước, hay nói đúng hơn là các biện pháp hỗ trợ và quản lý của Nhà Nước là rất quan trọng. Sau đây khóa luận xin đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước để nâng cao khả năng thâm nhập thị trường Mỹ cho doanh nghiệp Việt Nam: 3.3.2.1. Đẩy mạnh quan hệ song phương, kết hợp giao lưu kinh tế và giao lưu văn hóa Từ bình thường hóa quan hệ ngoại giao cho đến bình thường hóa quan hệ ở tất cả các lĩnh vực, liên tục đẩy mạnh quan hệ thương mại với các hiệp định thương mại và gần đây nhất là được Hoa Kỳ trao quy chế đối xử thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), có thể nói nhà nước Việt Nam đã thực hiện rất nhiều biện pháp để giao lưu thương mại với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, như ta đã nói văn hóa kinh doanh thể hiện mối quan hệ rõ nét nhất mối quan hệ 93 giữa văn hóa và kinh doanh. Bởi vậy, giao lưu kinh tế chưa thể đủ để cải thiện nhận thức của doanh nghiệp về văn hóa kinh doanh của nước bạn, giao lưu kinh tế cần phải được kết hợp với giao lưu văn hóa. Cũng đã có những dự án như ủy ban nhân dân Hải phòng kết hợp với đại sứ quán Hoa Kỳ xây dựng dự án nghiên cứu Việt Nam - Hoa Kỳ tại thành phố Hải Phòng, mở cửa phục vụ đông đảo công chúng và cung cấp các dịch vụ miễn phí. Dự án phục vụ tất cả những người muốn tìm hiểu về cuộc sống, xã hội, học tập, hợp tác kinh doanh với các công ty hay thiết lập các mối quan hệ Tuy nhiên, với số lượng lớn các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này với rất đa dạng các nghành các nghề các lĩnh vực thì quy mô của những dự án như thế vẫn chưa thể đáp ứng được. Hơn nữa đối tượng phục vụ là tất cả mọi người nên doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất thời gian tìm kiếm những thông tin cần thiết của mình. Bởi vậy, Nhà nước ta có thể tiếp tục đầu tư xây dựng trung tâm văn hóa Việt – Mỹ với những mục đích thiết thực như vậy nhưng với quy mô rộng hơn và có một mảng riêng dành cho các doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường này. Văn hóa kinh doanh là vấn đề rất rộng và phức tạp nên để hiểu được văn hóa kinh doanh của một thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường rộng và đa dạng như Mỹ phải thông qua một quá trình lâu dài giao lưu và hợp tác. Bởi vậy, giải pháp này phải được nhà nước quan tâm trong dài hạn. 3.3.2.2.Hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại: a. Đầu tư mở rộng quy mô của các tổ chức xúc tiến thương mại : Tìm hiểu văn hóa kinh doanh thị trường Mỹ ta biết rằng xúc tiến thương mại là rất cần thiết cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường này, thậm chí doanh nghiệp cần phải xem xúc tiến thương mại là một phần quan trọng trong chiến lược thâm nhập thị trường của mình. Trong khi đó, có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ thì chiến lược xúc tiến thương mại 94 rất cần sự hỗ trợ từ các cơ quan Nhà nước. Trước nhu cầu đó, Nhà nước đã thành lập nhiều tổ chức xúc tiến thương mại có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thông tin thương mại, tư vấn xuất khẩu, tổ chức hội chợ triển lãm, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm cơ hội giao thương tại thị trường Mỹ như Cục xúc tiến thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Thương vụ Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với số lượng lớn các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này với rất đa dạng các nghành các nghề các lĩnh vực thì quy mô của thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, cũng như các phòng xúc tiến thương mại vẫn chưa thể đáp ứng được. Bởi thế, nhà nước cũng nên tìm giải pháp mở rộng quy mô của những tổ chức này, với những bộ phận chuyên sâu vào các khu vực khác nhau. Ví dụ như thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, do đặc thù của Hoa Kỳ là thị trường đa dạng, phức tạp, mỗi một vùng, một bang lại có những đặc điểm riêng nên cần phải đầu tư hơn nữa về quy mô nhân sự, tài chính và có thể phân ra từng mảng thị trường riêng. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp dễ dàng liên lạc mà còn có thể cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật hơn, những tư vấn sâu sắc hơn. b. Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các chương trình thương hiệu quốc gia: Xây dựng thương hiệu quốc gia trong chiến lược xúc tiến thương mại dài hạn cũng là vấn đề mà Bộ Công Thương cần quan tâm và hỗ trợ. Thương hiệu quốc gia rất quan trọng trong việc quảng bá sản phẩm Việt Nam, nâng cao uy tín sản phẩm Việt Nam từ đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, một số dự án của cục xúc tiến thương mại vẫn còn chưa đạt hiệu quả. Ví dụ như đề án xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia đến năm 2010 là một trong những chương trình xúc tiến thương mại dài hạn, nhằm xây dựng và quảng bá nhãn hiệu sản phẩm mang biểu trưng của “thương hiệu quốc gia” trên thị trường nội địa và quốc 95 tế. Trong khuôn khổ chương trình, các sản phẩm đạt tiêu chí chung, đã có xuất xứ, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý…sẽ được gắn biểu trưng “Giá trị Việt Nam” (Vietnam Value).Tuy nhiên, đề án này từ năm 2002 đến nay (tháng 10/2007) mới được Bộ Công thương kết hợp với Đài truyền hình Việt Nam khởi động thực hiện. Bởi vậy, kiến nghị mà khóa luận đưa ra là phải đẩy mạnh hơn nữa chương trình “thương hiệu quốc gia” này như là một động lực để các doanh nghiệp Việt Nam cùng xây dựng, gián tiếp nâng cao khả năng thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam. c. Hợp tác với các tổ chức Việt kiều ở Mỹ: Như ta đã biết, doanh nghiệp Việt kiều là một kênh hỗ trợ xúc tiến thương mại rất hiệu quả cho doanh nghiệp trong nước ở thị trường nước ngoài. Do có kinh nghiệm sinh sống và làm ăn ở nước ngoài nên doanh nghiệp Việt kiều rất có thế mạnh về thông hiểu thị trường cũng như quan hệ với các doanh nghiệp Mỹ. Bởi vậy, các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước nên đẩy mạnh hơn nữa hợp tác của doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp Việt kiều thông qua tổ chức các buổi giao lưu, tọa đàm. Hơn nữa, do Việt kiều có vai trò rất quan trọng nên Nhà nước và tổ chức Nhà nước cũng nên thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó như thông qua hợp tác với Ủy ban người Việt ở nước ngoài, các tổ chức khác của cộng đồng người Việt ở Mỹ. 3.3.2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ và phát triển nhân lực Đầu tư vào công nghệ và xây dựng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là giải pháp mà ta đã đề cập đến trong phần giải pháp cho các doanh nghiệp. Nhưng để thực hiện được giải pháp này doanh nghiệp cũng rất cần sự hỗ trợ của các chính sách Nhà nước như chính sách ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian đầu mới thâm nhập thị trường. Chính sách ưu đãi tín dụng này có thể tạo thuận lợi về nguồn vốn đề đầu tư 96 vào công nghệ, cải tiến chất lượng sản phẩm, đầu tư vào xúc tiến thương mại. Sở dĩ khóa luận nêu ra kiến nghị này là bởi vì tìm hiểu văn hóa kinh doanh Mỹ, ta thấy để thâm nhập thị trường Mỹ, doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính tốt do thị trường này đòi hỏi tiêu chuẩn mặt hàng khắt khe, phí quảng cáo lớn, cạnh tranh gay gắt. Nếu không có vốn để đầu tư vào công nghệ để cải tiến chất lượng hàng cũng như trang trải chi phí xúc tiến thương mại thì rất nhiều dự án xuất khẩu sẽ không thực hiện được. Chính sách hỗ trợ tín dụng với lãi suất thấp dựa trên tính khả thi của dự án cũng như tình hình xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ là sự khuyến khích thúc đẩy rất lớn nâng cao khả năng thâm nhập của doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nguồn nhân lực cũng là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần Nhà nước quan tâm. Doanh nghiệp vẫn có thể tự thực hiện đào tạo nhân lực bằng các khóa học ngắn hạn, hoặc tham gia hội thảo hội đàm nhưng các biện pháp này vẫn chỉ là đáp ứng nhu cầu tự phát, và chưa có được sự đồng bộ giữa các doanh nghiệp. Bởi vậy, Bộ Công Thương có thể giao nhiệm vụ cho các ban ngành chức năng, các tổ chức xúc tiến thương mại như VCCI, cục xúc tiến thương mại có thể tập hợp các doanh nghiệp từng ngành hàng để tổ chức những khóa đào tạo có tính cập nhật cao, về những vấn đề xuất khẩu của từng ngành hàng. Cụ thể như, đối với các doanh nghiệp dệt may, nên có những buổi đào tạo chuẩn bị cho doanh nghiệp những kiến thức về cơ chế giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ sau khi hạn ngạch bị xóa bỏ, doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với thách thức và cơ hội gì và cần phải làm gì trước thách thức và cơ hội đó. Những khóa học như vậy sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp nâng cao chất lượng nhân sự một cách đồng bộ và có bài bản, một yếu tố tối quan trọng cho chiến lược thâm nhập vào thị trường Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam. 97 3.3.2.4. Hoàn thiện hệ thống quản lý xuất khẩu Làm ăn với Người Mỹ vốn là những người tôn trọng chữ tín, dứt khoát và thẳng thắn, doanh nghiệp Việt Nam cần tạo cho mình một uy tín nhất định đối với đối tác để có thể đứng vững trên thị trường này. Uy tín ấy không ở đâu khác là chất lượng tốt, giao hàng đúng thời điểm, khả năng cung hàng ổn định. Tuy nhiên, chảy vào thị trường Hoa Kỳ vẫn còn rất nhiều loại hàng xuất xứ từ Việt Nam trôi nổi, kém chất lượng, không có giấy phép xuất khẩu. Lấy điển hình như theo công bố chính thức trên website của cơ quan quản lý thực, dược phẩm (FDA) trong 6 tháng đầu năm 2007, đã có hàng trăm lô thực phẩm của Việt Nam bị từ chối khi sang Mỹ vì không phù hợp quy cách chất lượng, không hợp vệ sinh, không có hồ sơ thử nghiệm, thiếu thông tin về sản phẩm. Trong lúc đó, một số doanh nghiệp hàng bị trả về lại cho biết công ty không hề tiến hành xuất khẩu các mặt hàng đó. Bà Nguyễn Thùy Vân , trưởng phòng đảm bảo chất lượng của công ty Mekophar Thành Phố Hồ Chí Minh cho biết sản phẩm trà linh chi (Lingzhi Capsules – 66VAE99) bị trả về do không có hồ sơ thử nghiệm chỉ được công ty bán trên thị trường nội địa mà thôi [24]. Số lượng lớn loại hàng này đã làm ảnh hưởng đến uy tín của các mặt hàng chất lượng tốt xuất xứ từ Việt Nam. Đặc biệt, do thói quen của người tiêu dùng Mỹ nếu có ấn tượng xấu ban đầu thì rất khó có ấn tượng tốt lần sau nên sự ảnh hưởng này càng lớn. Ông bà ta có câu: “nhất ngôn bất tín, vạn sự bất tin”, chỉ vì có thể một số sản phẩm trong nước không đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vệ sinh hoặc sức khoẻ, có thể cả một nền công nghiệp tương tự bị vạ lây như trường hợp kem đánh răng Trung Quốc mà ta đã có dịp nêu ở trên. Có thể chỉ có một số sản phẩm của một số hãng sản xuất kem đánh răng bị nhiễm mà dẫn đến hậu quả cả một sản kem đánh răng Trung Quốc bị tẩy chay ở thị trường tiêu thụ khổng lồ nhất thế giới là Mỹ. Bởi vậy nên ở đây rất cần sự can thiệp chặt chẽ của hệ thống quản lý xuất khẩu ngay từ trong nước. Hệ thống 98 quản lý xuất khẩu này phải được cải thiện làm sao cho không mất quá nhiều thời gian cho doanh nghiệp nhưng cũng có thể phát hiện ra những mặt hàng xuất khẩu không đủ chất lượng, hàng cấm xuất khẩu, không được phép xuất khẩu. Cụ thể như, các Bộ các ngành cần tăng cường công tác kiểm soát và quản lý chất lượng sản phẩm. Cụ thể như đối với mặt hàng thủy sản, Bộ Thủy sản và các cơ quan chức năng có liên quan như Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng cần bổ sung những quy định cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng và biện pháp kiểm tra, giám định sản phẩm đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng thủy sản dựa trên tiêu chuẩn HACCP. Đồng thời hoàn thiện năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về kiểm tra và chứng nhận về vệ sinh thủy sản (hiện nay là Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản Việt Nam). Nếu làm được điều này thì sẽ giúp hàng Việt Nam có thể chiếm được lòng tin của thị trường Mỹ để có thể đứng vững. Dù biện pháp này là biện pháp gián tiếp nhưng không thể không quan tâm nếu Nhà nước ta muốn có được chỗ đứng vững chắc cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, để thực hiện giải pháp này cần sự hỗ trợ rất nhiều của không chỉ Bộ Công Thương mà còn sự phối hợp của các cơ quan chức năng như quản lý thị trường, hải quan, v.v. 99 KẾT LUẬN Nói tóm lại văn hóa kinh doanh là một vấn đề rộng và phức tạp. Văn hóa kinh doanh ở thị trường Mỹ, một thị trường quy mô và đa dạng lại càng rộng và phức tạp hơn. Nghiên cứu vấn đề này, khóa luận chỉ xin nên ra những nét đặc trưng nhất của thị trường Mỹ về lịch sử địa lý, văn hóa xã hội – chính là môi trường tạo nên văn hóa kinh doanh Mỹ. Trong Chương II là chương chính của đề tài, khóa luận lần lượt tìm hiểu các định nghĩa về văn hóa kinh doanh, vai trò của văn hóa kinh doanh và cụ thể hóa ở Phần 2.2 của Chương II :Văn hóa kinh doanh Mỹ. Văn hóa kinh doanh Mỹ được chia ra thành văn hóa doanh nghiệp, văn hóa giao dịch và văn hóa tiêu dùng, trong đó khóa luận chủ yếu nêu ra những điểm mà doanh nghiệp cần lưu ý về văn hóa kinh doanh trong chiến lược thâm nhập thị trường này. Những lưu ý đó sẽ giúp tránh được những xung đột về văn hóa giữa các thị trường khác nhau ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa, đồng thời là một cách biết “nhập gia tuy tục” “biết người biết ta trăm trận trăm thắng” mà các nhà xuất khẩu nước ngoài cần có để tạo dựng và giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài và tốt đẹp trong kinh doanh. Cũng nhằm vào mục đích đó, chương III, sau khi đưa ra những dự báo về mối quan hệ kinh tế xã hội Việt – Mỹ, sẽ rút ra các yếu tố tạo nên khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam trên thị trường Mỹ để từ đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị ở cả tầm vi mô và vĩ mô nhằm nâng cao khả năng thâm nhập đó. Trong thời gian nghiên cứu không phải là dài, cũng như khả năng nghiên cứu của một sinh viên chắc chắn còn nhiều hạn chế nên em rất mong nhận được sự đóng góp nhiệt tình của thầy cô và bạn bè. 100 Em cũng xin cảm ơn thấy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Hồng đã rất tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. i TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT [1] Nguyễn Hoàng Ánh – LuËn ¸n tiÕn sÜ “Vai trß cña v¨n hãa trong kinh doanh quèc tÕ vµ vÊn ®Ò x©y dùng v¨n hãa kinh doanh ë ViÖt Nam” [2] Trần Văn Chu - Cẩm nang thị trường Hoa Kỳ Nhà xuất bản thế giới 2006 [3] Trần Văn Chu - Doanh nghiệp Việt Nam với thị trường Hoa Kỳ Nhà xuất bản thế giới 2006 [4] Hồ Sĩ Hƣng, Nguyễn Việt Hƣng Cẩm nang xâm nhập thị trường Mỹ - Nhà xuất bản thống kê 2003 [5] Nguyễn Lân - Từ điển từ và ngữ Việt Nam – Nhà xuất bản từ điển Bách khoa 2002 [6] Đinh Tích Linh - Doanh nghiệp cần biết khi quan hệ thương mại với Hoa Kỳ - Nhà xuất bản thống kê 2002 [7] Dƣơng Thị Liễu - Bài giảng văn hóa kinh doanh - Đại học kinh tế quốc dân 2007 [8] Phạm Xuân Nam - Đạo đức và kinh doanh – Nhà xuất bản khoa học và xã hội 1996 [9] Hữu Ngọc – Hồ sơ văn hóa Mỹ – Nhà xuất bản thế giới 2007 ii [10] Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ - Xuất khẩu sang Hoa Kỳ, những điều cần biết – Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ 2006 [11] Hoàng Ngọc Thiết – Nguyên tắc cơ bản của hợp đồng mua bán ở Hoa Kỳ – Tạp chí Kinh tế đối ngoại 2/2004 - Đại học Ngoại Thương [12] Bộ ngoại giao Hoa Kỳ - Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 7/2007 TÀI LIỆU TRÊN INTERNET [13] Trang tin điện tử của Bộ Tài Chính [14] Trang tin điện tử của Bộ Tài Chính [15] Báo điện tử Vietnamnet [16] Trang web của hiệp hội doanh nghiệp Hồ Chí Minh [17] Sở thương mại thành phố Hồ Chí Minh 2007_0.15596793473885184.html [18] Chuyên trang xúc tiến thương mại của cổng thông tin điện tử Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn detail.asp?tn=tn&id=1741249 iii [19] Báo điện tử lao động [20] Cổng thông tin điện tử chính phủ D1F?OpenDocument&fullmode [21] Báo điện tử lao động www.laodong.com.vn/pls/bld/cate$.homepage [22] Hiệp hội các doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh www.uba.com.vn/uba/?id=102&ks=740&nn=0&noid [23] Báo thương mại [24] Diễn đàn doanh nghiệp www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/TinTuc/Thoi-Su/Vi_the_moi/ [25] Thông tin thương mại Việt Nam 263&ID=46992) [26] Bộ Công Thương Việt Nam www.mot.gov.vn [27] Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam [28] Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ www.vietnam-ustrade.com iv [29] Bách khoa toàn thư mở Wikimedia TÀI LIỆU TIẾNG ANH [30] Gary Althen - American ways , a guide for foreigners in the United States [31] Philip Kotler – Qu¶n trÞ Marketing [32] Department of Commerce - B¸o c¸o t×nh h×nh xuÊt nhËp khÈu cña bé th-¬ng m¹i Hoa Kú Release/current_press_release/ft900.pdf

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3764_3414.pdf
Luận văn liên quan