Khó khăn thứ hai có thể kể đến là thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp. Bởi vì, theo Basel II, các NHTM phải dựa vào rất nhiều yếu tố để có thể xác định hệ số rủi ro theo từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng khác nhau, mà một trong những yếu tố này là kết quả xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức xếp hạng độc lập. Hiện nay thực tế là mỗi ngân hàng đang từng bước xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, việc xếp hạng tín nhiệm này chủ yếu phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết định cho vay của ngân hàng, rất ít được chia sẻ thông tin hay phổ biến rộng rãi bên ngoài. Từ đó dẫn đến tự ngân hàng nào ngân hàng đó mới lo. Vì thế, kết quả đánh giá còn mang nặng yếu tố chủ quan, cảm giác hơn là khách quan. Ngoài ra, nó còn dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý do thông tin không đầy đủ. Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức được xem là chuyên nghiệp nhất hoạt động trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn chưa được tổ chức quốc tế công nhận và vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm.
52 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8579 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về Basel, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này
+ (3) Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định
+ (4) Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Trụ cột thứ III – Nguyên tắc thị trường và minh bạch thông tin
Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Những sửa đổi của hiệp ước vốn Basel II so với Basel I
Quá trình phát triển của Basel mà BCBS đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Basel II vẫn quy định mức an toàn vốn tối thiểu là 8% và chỉ thay đổi cách tính ở mẫu số trong thức tính tỷ lệ đủ vốn. Theo đó, mẫu số phải bao gồm cả ba loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động. Trong khi đó, Basel I có công thức tính CAR với mẫu số chỉ gồm rủi ro tín dụng, chỉ tập trung vào rủi ro tín dụng.
Basel II đưa ra nhiều phương pháp đo lường để lựa chọn, phức tạp hơn nhưng đánh giá chính xác mức độ an toàn vốn. Điều này cũng cho phép quyền tự quyết rất lớn trong giám sát hoạt động ngân hàng. Đối với rủi ro tín dụng, nếu Basel I đưa ra một phương pháp chung thì Basel II lại đưa ra lựa chọn. Cụ thể, 2 phương pháp được đề xuất: Phương pháp chuẩn và phương pháp phân hạng nội bộ.
+ Phương pháp chuẩn: Phương pháp tiếp cận này đo lường rủi ro tín dụng tương tự như Basel I, nhưng ở mức độ nhạy cảm với rủi ro hơn vì sử dụng xếp hạng tài chính do các tổ chức phân hạng độc lập cung cấp làm hệ số khi tính toán tài sản điều chỉnh theo rủi ro.
+ Phương pháp đánh giá nội bộ: Phương pháp này chủ yếu dựa vào đánh giá nội bộ của ngân hàng về hệ số rủi ro để xác định tỷ lệ vốn cần thiết. Tuy nhiên, vẫn dựa vào hướng dẫn của Ủy Ban Basel để xác định rủi ro cho từng loại tài sản, bao gồm: Yếu tố cấu thành rủi ro, Phương trình rủi ro, Mức yêu cầu vốn tối thiểu.
Basel II phân định các mức rủi ro trên cơ sở xếp hạng. Do đó, các ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu vào kết quả xếp hạng và đánh giá độ tín nhiệm của các tổ chức độc lập như Moody, S&P.
Xét về phạm vi áp dụng nói chung của Basel II rộng hơn so với Basel I, bao gồm không chỉ các ngân hàng quốc tế mà cả các công ty mẹ, hay thay đổi định nghĩa về tài sản có rủi ro. Basel I chỉ có thể vận dụng ở ngân hàng theo kiểu đơn thuần tuý.
Hữu ích của Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng:
Hiệp ước Basel II là một loạt các quy tắc nhằm điều chỉnh hoạt động ngân hàng đa quốc gia. Ngày nay, dường như không một ngân hàng nào có thể tách rời mà không có mối liên hệ với các ngân hàng trên thế giới. Do vậy, hiểu biết và áp dụng những quy định Basel II sẽ là rất quan trọng đối với phát triển và hoạt động ổn định của các ngân hàng.
Basel II đưa ra nhiều quy định để các ngân hàng tránh khỏi những rủi ro về mặt dữ liệu và thông tin ngân hàng có thể phát sinh từ khái niệm, quy tắc đến so sánh, kết hợp những yếu tố quản lý như một chìa khoá để giảm thiểu rủi ro. Ứng dụng Basel II giúp các ngân hàng quản trị rủi ro ngân hàng tốt hơn.
Hạn chế của Basel II
Dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II.
Thứ nhất, việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể được chấp nhận rộng rãi.
Thứ hai, các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu kỳ kinh doanh.
Thứ ba, các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
Basel III
Nội dung cơ bản của Basel III
Mục tiêu của Basel III:
Khắc phục những hạn chế về qui định vốn tăng cường quản lý rủi ro thông qua việc gia tăng tiêu chuẩn về an toàn vốn và đưa ra các tiêu chuẩn về thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại để tăng cường khả năng ứng phó, tự giải thoát của các ngân hàng trước những khủng hoảng tài chính mà không cần phải nhờ đến gói cứu trợ từ Chính phủ.
Để đối phó với những thiếu sót trong các qui định của Basel II, đồng thời nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, BCBS đã phát triển Hiệp ước vốn Basel II thành Hiệp ước vốn Basel III với những quy định nghiêm ngặt hơn dành cho 27 ngân hàng thành viên(gồm Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ) ký kết hôm 12/9/2010 tại Thành phố Basel, Thụy Sỹ. Như vậy, mục tiêu gói cải cách của BCBS là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính cho các nền kinh tế.
Basel III với những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn, cùng phương pháp giám sát an toàn vĩ mô được đánh giá là sự thay đổi lịch sử trong quy định về hoạt động ngân hàng. Bộ tiêu chuẩn này được coi là khá ngặt nghèo đối với hệ thống ngân hàng trên thế giới nói chung và đối với một số nước mới tham gia vào WTO nói riêng. Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Cụ thể,. Basel III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có mức độ rủi ro cao cần phải đạt hệ số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính toán tài sản có rủi ro sẽ nhân với 1.5 ).
Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018.
Những điểm mới cơ bản của Basel III
Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn.
Chất lượng vốn tốt hơn đồng nghĩa với việc khả năng bù đắp các khoản lỗ tốt hơn, điều này giúp cho ngân hàng “khỏe” hơn, do đó có khả năng chống đỡ tốt hơn trong thời kì khó khăn. Theo quy định này, vốn cổ phần thông thường được quy định chặt chẽ hơn. Theo quy định hiện tại, những tài sản có chất lượng kém sẽ phải khấu trừ vào vốn (bao gồm cả vốn cấp 1 và vốn cấp 2). Theo Basel III, việc khấu trừ sẽ nghiêm ngặt hơn, khấu trừ thẳng vào vốn cổ phần thông thường. Hơn nữa, định nghĩa vốn cấp 1 cũng quy định chặt chẽ hơn bao gồm vốn thường và các công cụ tài chính có chất lượng theo những tiêu chuẩn chặt chẽ.
Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn.
Theo quan điểm của Basel, chất lượng vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Rút kinh nghiệm từ bài học của cuộc khủng hoảng tài chính, Ủy ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng cần nhiều vốn hơn nữa. Do đó, những tiêu chuẩn về hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng sẽ tăng mạnh trong những năm tới. Theo quy định này, các ngân hàng phải duy trì mức vốn phù hợp trên mức vốn tối thiểu tùy vào mức độ rủi ro, mô hình kinh doanh, điều kiện kinh tế. Khả năng đưa ra các quy định chặt chẽ về vốn của cơ quan giám sát quốc gia sẽ là yếu tố quan trọng trong các nguyên tắc của Basel III.
Theo Basel III, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không thay đổi vẫn là 8%, nhưng tỷ lệ của loại vốn có chất lượng cao được nâng lên, cụ thể:
Tỷ lệ Vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên 6% trong Basel III.
Tỷ lệ Vốn của cổ đông thường (common equity) cũng được tăng từ 2% lên 4,5%.
Bên cạnh đó, những tài sản “Có” với chất lượng vốn có vấn đề cũng sẽ được loại trừ dần khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2, như các khoản đầu tư vượt quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính.
Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%. Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.
Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân hàng áp dụng.
Yếu tố quan trọng thứ 3 của quy định mới về vốn là phương pháp giám sát an toàn vĩ mô đề cập tới rủi ro hệ thống. Theo Ủy ban, có hai việc cần làm để hạn chế rủi ro hệ thống hiệu quả. Một là giảm mức độ khuyếch đại của khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế. Đó là xu hướng hệ thống tài chính có thể làm khuyếch đại giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế thực. Hai là mối quan hệ phụ thuộc và những rủi ro chung của các tổ chức tài chính, đặc biệt đối với những ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống. Như vậy, Basel III là một bước ngoặt trong việc xây dựng các quy định tài chính. Lần đầu tiên trong các quy định tài chính đề cập tới các thước đo giám sát an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ sung cho phương pháp giám sát an toàn vi mô của từng tổ chức tín dụng. Ủy ban Basel đang nghiên cứu các thước đo đối với những tổ chức có tầm quan trọng đối với hệ thống.
Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng.
Basel III đưa ra tiêu chuẩn về thanh khoản. Đây là điều đặc biệt quan trọng chưa có tiêu chuẩn quốc tế nào quy định về vấn đề này. Tỷ lệ thanh khoản sẽ được ban hành vào 1/1/2015, giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn. Thực tế, việc quản lý rủi ro thanh khoản rất khác nhau tại từng quốc gia. Ủy ban Basel sẽ sử dụng nhiều quy trình báo cáo để theo dõi các tỷ lệ trong quá trình chuyển đổi để đảm bảo các tiêu chuẩn được tính toán như dự kiến.
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày 1/1/2019.
Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực thi hiệp ước Basel III:
Đơn vị tính %
Chỉ tiêu/Năm
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu
3,5
4.0
4,5
4,5
4,5
4,5
4,5
Vốn đệm dự phòng
0,625
1.25
1,875
2,5
Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng vốn đệm dự phòng
3,5
4
4,5
5,125
5,76
6,375
7
Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn
20
40
60
80
100
100
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu
4,5
5,5
6,0
6,0
6,0
6,0
6,0
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu
8
8
8
8
8
8
8
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn đệm dự phòng bắt buộc
8
8
8
8,625
9,125
9,875
10,5
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2 các khoản không đủ tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
Vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ
Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5%
(Nguồn:
Hạn chế của Basel III
Điều kiện của các nền kinh tế phát triển và đang phát triển hoàn toàn khác nhau, không thể áp đặt cùng một bộ tiêu chuẩn cho cả hai. Đại bộ phận hiệp ước BASEL III nhắm tới ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển nhưng bỏ qua những yêu cầu của các thị trường mới nổi. Basel III đặt ra hai thách thức cơ bản đối với các thị trường mới nổi.
Thứ nhất là thời hạn thực hiện. Sau khi ngành ngân hàng thổi phồng lên nỗi lo sợ các yêu cầu trong hiệp định Basel III có thể chặn đứng đà phục hồi kinh tế còn non nớt, một thỏa hiệp được đưa ra: “Ừ thì tăng vốn, nhưng cứ từ từ đã.” Kết quả là việc thực hiện Basel III được kéo dài tới tận cuối thập niên này. Dù vậy các thị trường mới nổi cần một thời gian biểu khác. Họ đã vượt qua đợt suy thoái toàn cầu và một số nước còn đang bùng nổ kinh tế trong khi chính sách tiền tệ vẫn chưa được thắt chặt. Ngay lập tức tăng các tiêu chuẩn về vốn và thanh khoản dưới cái mác “quy định quốc tế” có thể sẽ có tác động “phản chu kỳ” rất tốt. Tuy vậy, thời gian chuyển đổi của Basel III khiến các nền kinh tế mới nổi không muốn là người thi hành đầu tiên. Giới ngân hàng tại các nước đang phát triển sẽ đưa ra một lập luận không phải không có lý rằng không nên bắt họ phải thất thế trước đối thủ cạnh tranh tại các nền kinh tế phát triển.
Thử thách thứ hai là liệu có nên buộc ngân hàng tại các thị trường mới nổi phải có nhiều vốn hơn, tính thanh khoản cao hơn ngân hàng tại các nước giàu hay không.
Trong quá khứ, có một “tín điều” rằng ngân hàng tại các thị trường mới nổi phải có nhiều vốn hơn, “tấm đệm” thanh khoản dày hơn vì môi trường kinh doanh của họ có nhiều biến động hơn. Nhưng khi tỷ lệ vốn cấp 1 tăng lên, liệu các nền kinh tế mới nổi có nên tăng các yêu cầu của chính mình lên để duy trì cái gọi là “phần bù rủi ro” cho thị trường mới nổi? Câu hỏi này đáng để quan tâm vì các nền kinh tế phát triển và đang phát triển có thái độ khác nhau với rủi ro. Các nước phát triển muốn tránh lập lại một cuộc khủng hoảng nữa. Ngược lại, mục tiêu của các thị trường mới nổi là tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu của dân số đang tăng nhanh. Điều tiết chặt hơn có thể khiến các ngân hàng của họ vững mạnh hơn nhưng lại có nguy cơ làm giảm sút tăng trưởng. Tóm lại là Ủy ban Basel cần đưa ra một bộ tiêu chuẩn khác đáp ứng riêng nhu cầu của các thị trường mới nổi.
Tổng kết so sánh Basel I, III, III
Về tiêu chuẩn
BASEL I
BASEL II
BASEL III
- Tỉ lệ thoả đáng về vốn (vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3).
- Vốn tính theo rủi ro gia quyền.
- Tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu.
- Nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát.
- Công khai thông tin
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
- Quy định mới về vốn là phương pháp giám sát.
- Nâng cao chất lượng vốn.
Về mục đích
BASEL I
BASEL II
BASEL III
Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế.
Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế.
Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Tăng cường quản lý rủi ro, đảm bảo ổn định hoạt động ngân hàng.
Các thành viên cũng đề ra qui chế giám sát khắt khe hơn và nhiều qui định khác, phần vốn tăng thêm đối với những ngân hàng lớn và cơ chế giải quyết toàn cầu đối với các doanh nghiệp đổ vỡ.
Về ưu – nhược điểm
Ưu điểm:
BASEL I
BASEL II
BASEL III
Cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng đầu tiên với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.
Phổ biến ở hầu hết các quốc gia.
- Ba cột trụ nhấn mạnh hơn về phương pháp luận nội bộ của ngân hàng, xem xét đánh giá, và quy luật thị trường.
- Linh hoạt hơn, các cách tiếp cận, khuyến khích quản lý rủi ro tốt hơn
- Nhạy cảm hơn với rủi ro
- Khắc phục nhược điểm của Basel I
Duy trì lượng tài sản có tính thanh khoản cao, duy trì việc tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn.
Đảm bảo nguồn vốn cho ngân hàng khi họ đối mặt với khủng hoảng.
Có khả năng đối phó với nợ xấu tốt hơn.
Cố gắng khắc phục nhược điểm của Basel II
Nhược điểm:
BASEL I
BASEL II
BASEL III
Không phân biệt theo loại rủi ro.
Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa.
“Có lợi” có tính hệ thống.
Không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành.
- Khủng hoảng tài chính năm 2008, các ngân hàng phải nhờ đến sự cứu trợ của chính phủ
- Đại bộ phận hiệp ước BASEL III nhắm tới ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển nhưng bỏ qua những yêu cầu của các thị trường mới nổi.Basel III đặt ra hai thách thức cơ bản đối với các thị trường mới nổi.
1. Thứ nhất là thời hạn thực hiện
2. Thứ hai là liệu có nên buộc ngân hàng tại các thị trường mới nổi phải có nhiều vốn hơn, tính thanh khoản cao hơn ngân hàng tại các nước giàu hay không.
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG BASEL II VÀ QUÁ TRÌNH TIẾP CẬN BASEL III Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM
Kinh nghiệm ứng dụng Basel II tại các nước khác
Khảo sát tình hình ứng dụng Basel II tại các nước trên thế giới
Nhằm nghiên cứu ứng dụng và tác động của basel đến các quốc gia, tính đến năm 2005, ủy ban basel đã thực hiện 5 cuộc khảo sát điều tra, với cuộc khảo sát gần nhất (QIS 5) được tổ chức vào tháng 10-12 năm 2005 nhằm đánh giá tác động của basel II đến hơn 350 ngân hàng thuộc 31 quốc gia. Trong cuộc khảo sát của QIS 5, ủy ban Basel đã chia các ngân hàng được khảo sát thành hai nhóm: Nhóm 1 có vốn cấp 1 từ 3 tỷ USD trở lên và hoạt động đa ngành, đa quốc gia; nhóm 2 dưới 3 tỷ USD.
Theo kết quả khảo sát việc ứng dụng basel II trong đánh giá rủi ro tín dụng, ta thấy các ngân hàng thuộc các quốc gia G10 chủ yếu ứng dụng phương pháp xếp hạng nội bộ (Ngân hàng nhóm 1 sử dụng phương pháp xếp hạng nội bộ nâng cao). Trong khi các ngân hàng quy mô vốn nhỏ hơn 3 tỷ không thuộc nhóm G10 lại chủ yếu ứng dụng phương pháp đơn giản (phương pháp chuẩn) của basel II.
Ngoài ra theo kết quả khảo sát QIS 5 của ủy ban Basel về việc ứng dụng các phương pháp trong đánh giá rủi ro hoạt động ở những nước G10 ( ngoại trừ Mỹ ) thì các phức tạp như phương pháp nâng cao cũng chỉ khoảng 39% các ngân hàng thuộc nhóm 1 áp dụng, còn các NH quy mô nhỏ hơn 3 tỷ USD chủ yếu ứng dụng phương pháp chuẩn và phương pháp cơ bản.
Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của việc khoa học phát triển đại học Sussex, Brighton thực hiện khảo sát vào năm 2004 và tiếp theo năm 2006 về việc ứng dụng basel II ở các nước không phải là thành viên của hội đồng basel, nhận thấy có 84% các nước được khảo sát trên thế giới có dự định ứng dụng basel II từ 2007 đến 2015. Cụ thể:
Bảng 2.1: Khảo sát tại các nước dự định ứng dụng basel mà không phải thành viên của hội đồng basel
Khu vực
Số lượng quốc gia được khảo sát
Số lượng quốc gia dự định ứng dụng basel
%
Châu phi
17
12
71%
Châu Á
16
16
100%
Vùng caribbean
7
4
57%
Châu mỹ la tinh
14
12
86%
Vùng trung đông
8
8
100%
Quốc gia châu âu không thuộc basel
36
30
83%
Tổng
98
82
84%
(Nguồn: Review of Basel II Implementation in Low – Income Countries done by Institute of Development Studies University of Sussex, Brighton)
Thông qua các cuộc khảo sát của các tổ chức uy tín trên thế giới, ta thấy các quốc gia đều có xu hướng ứng dụng basel trong quản trị rủi ro NH, nhưng chủ yếu sử dụng các phương pháp đơn giản, còn các phương pháp phức tạp thì chỉ có các NH quy mô lớn, đa ngành nghề, đa quốc gia.
Lộ trình ứng dụng Basel II tại một số nước trên thế giới
Đối với các NH của 30 quốc gia thuộc khối các nền kinh tế hợp tác và phát triển OECD, hiệp ước basel đã chỉ định rõ thời hạn áp dụng theo toàn bộ chuẩn mực của hiệp ước là cuối năm 2006. Tuy nhiên vào tại thời điểm đó, theo báo cáo của NHTW Châu Âu, chỉ có khoảng 20% số NH toàn bộ hệ thống là đảm bảo đầy đủ chuẩn mực của basel, các NH hàng còn lại áp dụng song song giữa phương án cũ và mới cho đến năm 2009.
Ở Mỹ, có nhiều điểm khác biệt trong việc ứng dụng basel II so với các nước khác trên thế giới. Basel II chỉ được áp dụng vào giữa năm 2008 và chỉ được ứng dụng ở 1 số tổ chức tài chính. Có 4 cơ quan liên quan đến việc thực hiện và ứng dụng Basel II: Cơ quan kiểm soát tiền tệ (OCC), tổ chức hệ thống dự trữ liên bang (Board), tập đoàn bảo hiểm tiền gửi (FDIC), cơ quan kiểm soát tiền gửi (OTS). Bốn cơ quan này mới xác định phân loại NH thuộc 3 nhóm sau:
CORE Banks: bao gồm 8 NH có tồng tài sản hợp nhất từ 250 tỷ USD trở lên và có bảng cân đối tài sản hoạt động chi nhánh nước ngoài từ 10 tỷ USD trở lên, 8 NH buộc phải sử dụng phương pháp nâng cao để đánh giá rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.
OPT-In Banks: là các NH được khuyến khích áp dụng phương pháp nâng cao trong đánh giá rủi ro.
GENERAL Banks: là các NH không áp dụng phương pháp nâng cao, mà chỉ áp dụng phương pháp đơn giản trong việc đánh giá rủi ro (có khoảng 6.500 NH Mỹ với quy mô vừa và nhỏ dự kiến sẽ vừa áp dụng theo basel II vừa duy trì theo basel I cho đến khi đạt được chuẩn của Basel II).
Tại một số quốc gia như Nhật bản, Hàn Quốc , Úc, tất cả các NH áp dụng basel trễ nhất đầu năn 2008, với các phương pháp áp dụng như phương pháp chuẩn (đối với rủi ro tín dụng và hoạt động), phương pháp IRB cơ bản và nâng cao, phương pháp chỉ số cơ bản BIA, phương pháp đo lường nâng cao AMA.
Nhóm những nước được xem là phát triển tương đối mạnh ở Châu Á là Trung Quốc, Singapore, Đài Loan sẽ có 1 số phương pháp đưa vào áp dụng vào đầu năm 2007 như phương pháp chuẩn, phương pháp IRB cơ bản và chỉ số cơ bản BIA. Phương pháp nâng cao dự kiến áp dụng vào đầu năm 2008. Đối với Thái Lan , Indonesia, Philippines, Malaysia thời hạn áp dụng basel II là cuối năm 2008. Những phương pháp phức tạp và nâng cao có thể ứng dụng vào cuối năm 2009 hoặc năm 2010 tuỳ theo điều kiện từng quốc gia.
Bảng 2.2: Lộ trình áp dụng Basel II của một số nước Đông Nam Á
Quốc gia
Rủi ro tín dụng
Rủi ro hoạt động
Phương pháp chuẩn
Phương pháp IRB cơ bản
Phương pháp IRB nâng cao
Phương pháp BIA cơ bản và TSA chuẩn
Phương pháp nâng cao
Thái Lan
Cuối 2008
cuối 2008
cuối 2009
cuối 2008
chưa xác định
Philippines
2007
2010
2010
2007
2010
Malaysia
đầu 2008
Đầu 2010
chưa xác định
đầu 2008 áp dụng BIA
chưa xác định
Indonesia
2008
2010
2010
2008 áp dụng BIA và năm 2010 áp dụng TSA
2010
(Nguồn: Basel II and financial stability: Singapore’s Experience done by Executive Director, Prudential Policy Monetary Authority of Singapore)
Tuy nhiên trái ngược với xu thế chung của các quốc gia trên, Trung Quốc đã chọn một hướng đi rất khác là áp dụng theo chuẩn mực basel 1.5, nghĩa là sẽ kết hợp các chuẩn mực trong hiệp ước basel I, với quy tắc 2 và 3 trong basel II. Lúc này tất cả các phương pháp mới được đề cập đến trong basel II để đánh giá rủi ro tín dụng không được quốc gia này lựa chọn áp dụng. Cho đến cuối năm 2007, Trung Quốc sẽ hoàn thành việc áp dụng đầy đủ về basel I về đánh giá rủi ro tín dụng.
Thực trạng ứng dụng Basel II tại Việt Nam
Về phía cơ quan quản lý nhà nước
NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM, tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong đó, NHNN là cơ quan ban hành các văn bản luật cập nhật các điều khoản của Basel mà cách tiếp cận phù hợp với tình hình Việt Nam. Đồng thời, NHNN cũng là cơ quan trực tiếp quản lý, giám sát việc thực hiện các văn bản luật này từ đó có hướng điều chỉnh thích hợp.
Mặc dù, NHNN chỉ mới ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) đầu tiên vào năm 1997. Tuy nhiên, chỉ sau 2 năm sau, tức năm 1999, NHNN cũng đã nhanh chóng cập nhật những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn vốn, nghiên cứu và cụ thể hóa bằng 2 Quyết định: (1) Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về giới hạn cho vay với một khách hàng của TCTD; (2) Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Tuy nhiên, mặc dù, NHNN đã có nhiều cố gắng nhưng hai Quyết định này đã không tránh khỏi những hạn chế. Bởi lẽ, khi NHNN ban hành văn bản luật tiếp cận với Basel I, cũng là lúc BCBS bắt đầu đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới (Basel II). Cho nên, đến ngày 23/4/2003, NHNN có Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN. Tiếp theo đến năm 2005, để cụ thể hơn các quy định của Basel, NHNN đã ban hành các quyết định nhằm thay thế các QĐ 296 và Quyết định 297, bao gồm: (1) Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trong đó quy định về cách xác định: Vốn tự có = vốn cấp I + vốn cấp II; thông qua đó, xác định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. (2) Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Theo đó, nợ của TCTD được chia làm 5 loại: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Tương ứng với từng nhóm nợ có các mức trích lập dự phòng khác nhau: Nhóm 1: 0%, Nhóm 2: 5%, Nhóm 3: 20%, Nhóm 4: 50% và Nhóm 5: 100%.
Các quy định tại QĐ 457 và 493 tuy đã đề cập đến 1 số vấn đề liên quan đến các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn còn ở mức hạn chế.
Chính vì vậy, vào tháng 5/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (thay thế QĐ 457 và các sửa đổi có liên quan). Trong đó ngoài việc quy định lại về việc xác định Vốn tự có = vốn cấp I + vốn cấp II, NHNN đã hướng dẫn cách xác định tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng lên 9%.
Về phía các tổ chức tín dụng
Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của các Basel. Các NHTM đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ động (với các đặc trưng: Quản lý sau đối với các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Đơn thuần thực hiện báo cáo các kết quả đã xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ động (với các đặc trưng: Quản lý trước và trong quá trình của các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Thực hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo những ngưỡng rủi ro; Đưa ra các báo cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Theo đó: (1) Các NHTM đã có bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt, ngoài việc quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, các TCTD đã quan tâm đến rủi ro tác nghiệp, một số NHTM lớn như BIDV, VCB, Vietinbank, Agribank, Techcombank, ACB… đã thành lập bộ phận quản lý rủi ro tác nghiệp; (2) Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ví dụ: BIDV đang hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thông lệ quốc tế với 3 nhóm khách hàng: khách hàng doanh nghiệp, khách hàng cá nhân và khách hàng là các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào các thông tin tài chính và phi tài chính của khách hàng, BIDV chấm điểm và xếp khách hàng thành 10 loại: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C và D. Đối với mỗi hạng khách hàng, BIDV có chính sách riêng, cụ thể như: chính sách về tiếp thị, chính sách về cấp tín dụng, chính sách về tài sản đảm bảo…
Để có cái nhìn cụ thể, chúng ta chia việc thực hiện các văn bản pháp luật về an toàn vốn theo 3 giai đoạn:
(1) Giai đoạn thứ nhất (1999-2005): Áp dụng Quyết định 297/1999/QÐ-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM. Mặc dù, QĐ 457/2005/QĐ-NHNN được ban hành vào ngày 19/04/2005, tuy nhiên,do độ trễ của vấn đề, ta vẫn xem xét đến hết năm 2005.
(2) Giai đoạn hai (2006-2010): Giai đoạn thực hiện Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN. Mặc dù, Thông Tư sô 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực vào ngày 01/10/2010, tuy nhiên, ta vẫn tính hết năm 2010.
(3) Giai đoạn thứ ba (2011- 2012): Thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN.
ê Giai đoạn 1999-2005
Vào giai đoạn này, thị phần hoạt động của 5 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM NN), gồm NHTM NN Ngoại Thương Việt Nam (VCB), NHTM NN Công Thương Việt Nam (CTG), NHTM NN Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM NN Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam (AGR), NHTM NN Phát triển Nhà đồng bằng song Cửu Long (MHB), chiếm đến 70-75 %. Ngoài ra, tại thời điểm năm 2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các NHTM NN, Chính phủ đã trực tiếp cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng cấp trái phiếu đặc biệt với thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho 4 NHTM NN đưa tổng mức vốn tự có của khối này lên mức hơn 18.000 tỷ VND, chiếm 51% vốn tự có của toàn hệ thống. Chính vì vậy, có thể nói sự an toàn trong hoạt động của nhóm ngân hàng này quyết định sự an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn vào hệ số an toàn vốn (CAR) của 5 NHTM NN tại thời điểm 31/12/2005, ta thấy, hầu hết các NHTM NN đều chưa đạt được yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, trừ MHB.
Hình 2.1: Hệ số an toàn vốn CAR của các NHTM thời điểm 31/12/2005
Tuy nhiên, nếu xét trên toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể nhận thấy, trong khi các NHTM NN gặp khó khăn trong việc đạt chuẩn an toàn vốn thì các NHTMCP thời điểm này lại đảm bảo được mức an toàn vốn.
Hình 2.2: Hệ số an toàn vốn của hệ thống TCTD đến ngày 31/12/2005
Cụ thể, ngoại trừ, nhóm NHTM NN có CAR rất thấp là 4.10%, tất cả các nhóm còn lại có CAR cao hơn quy định. Trong đó, NHTM CP đô thị có CAR là 8.00%, vừa đủ để đáp ứng yêu cầu của quy định. Đối với nhóm chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh lần lượt có hệ số CAR là 9.20% và 12.00%. Đặc biệt, NHTM CP nông thôn có hệ số CAR lên đến 24%. Tuy nhiên, do thị phần lớn cũng như tỷ trọng vốn tự có của nhóm NHTMNN cao hơn rất nhiều so với tất cả các nhóm còn lại, nên tổng thể, hệ thống NHTM vẫn có CAR rất thấp là 5.50%. Hơn thế nữa, mặc dù, các NHTM Việt Nam đã nỗ lực và hầu hết các NHTM CP đều đạt được hệ số an toàn vốn trên 8%, song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel II, tức là mẫu số phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam giai đoạn này đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%.
ê Giai đoạn 2005-2010
Trong giai đoạn này, nhìn chung, CAR của các NHTM đạt trên mức quy định là 8%. Tuy nhiên, vẫn là vấn đề của giai đoạn trước: các NHTM NN có ảnh hưởng lớn đến cả hệ thống nhưng lại không thỏa mãn yêu cầu theo QĐ 457. Trong đó, AGR không đạt được hệ sô CAR suốt giai đoạn thứ hai này. Thậm chí, CAR ở mức rất thấp. Ngoài ra, BIVD, CTG, VCB cũng có thời điểm không thỏa mãn yêu cầu về an toàn vốn của QĐ 457 và các sửa đổi, bổ sung có liên quan.
Bảng 2.3: CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010
CAR
2006
2007
2008
2009
2010
VCB
12.60
9.20
8.90
7.64
9
CTG
5.18
11.62
12.02
8.06
8.02
ARG
4.90
7.20
7.9
4.86
6.09
BIDV
5.50
6.67
6.50
7.55
9.32
TCB
17.28
14.30
13.99
9.6
13.11
STB
11.82
11.07
12.16
10.90
10.32
ACB
10.89
16.19
12.44
9.97
10.4
EAB
13.57
14.36
10.75
n.a
10.84
Hình 2.3: Hệ số CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010
Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn đầy biến động. Thứ nhất, giai đoạn 2006-2008, nhìn chung, đa số các ngân hàng đều có CAR trên mức quy định và có xu hướng tăng trưởng. Bởi vì, đây là giai đoạn có sự thuận lợi của môi trường kinh doanh cũng như sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, giai đoạn thứ hai, từ năm 2008 đến năm 2009, do tác động của chính sách kích cầu cũng như việc thực hiện nới lỏng tiền tệ của NHNN nên tín dụng tại các NHTM đã tăng đột biến. Ðiều này dẫn đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các NHTM tăng lên và kết quả là các NHTM trong nhóm trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an toàn vốn. Trong đó, VCB từ tình trạng đạt tiêu chuẩn trên 8%, giảm xuống chỉ còn 7.64%. Sau đó, giai đoạn 2009-2010, CAR của hầu hết các ngân hàng đều tăng trưởng đáng kể. Bởi lẽ, nếu căn cứ theo Nghị định 141/2006/NÐ-CP (ngày 22/11/2006), thì đến cuối năm 2010, các NHTMCP phải đạt mức vốn pháp định tối thiểu là 3.000 tỷ VND. Một số ngân hàng đã thực hiện tăng mức vốn pháp định theo qui định để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Vì thế, vốn tự có được nâng lên, nghĩa là phần tử số trong công thức tính CAR tăng lên, dẫn đến hệ số này tăng lên đáng kể.
ê Giai đoạn 2011-2012
Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an toàn vốn là khá phức tạp. Nếu nhìn vào mức tính toán cho toàn hệ thống, hệ thống NHTM Việt Nam đã đảm bảo được hệ số an toàn vốn tối thiểu 9% theo Thông tư số 03/2010/TT-NHNN. Đầu tiên, có những tín hiệu tốt khi hầu hết các NHTM đều đạt CAR trên 9%, mặc dù AGR chỉ đạt được 8% nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng vì nếu so với tiêu chuẩn của cả Basel I, II và III thì AGR cũng thỏa mãn quy định.
Hình 2.4: Hệ số CAR của một số NHTM năm 2011
Dấu hiệu đáng quan tâm thứ hai là, nếu xét trên toàn hệ thống ngành Ngân hàng thì CAR có xu hướng tăng lên, từ 11.92% vào thời điểm tháng 9/2011 đến 13.7% vào ngày 31/10/2012. Một trong những nguyên nhân là các NHTM CP đều cố gắng thực hiện theo NĐ 141/2006/NĐ-CP về việc tăng vốn điều lệ trên 3000 tỷ đồng. Tính đến 31/10/2012, không còn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ thấp hơn 3000 tỷ đồng.
Bảng 2.4: Tỷ lệ an toàn vốn của ngành NH
Đơn vị: phần trăm
9/2011
31/10/2012
CAR(%)
11.92
13.7
Tuy nhiên, với hai dấu hiệu trên, chúng ta vẫn chưa thể kết luận các NHTM Việt Nam đã sẵn sang đối phó với những nguy cơ từ các loại rủi ro bởi các nguyên nhân sau:
(1) Mặc dù là ngân hàng lớn nhất VN cả về vốn, tài sản lẫn đội ngũ nhân viên, mạng lưới hoạt động, số lượng khách hàng, Agribank vẫn không thể đạt được quy định về mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2011. Mặc dù, sau đó, CAR của Agribank lên mức 9,5% vào tháng 3/2012 nhờ vốn Chính phủ, nhưng cũng chỉ mới cao hơn chút đỉnh so với yêu cầu tối thiểu. Ngoài ra, chất lượng vốn vay suy giảm vẫn là một rủi ro lớn đối với vốn của Agribank xét tới viễn cảnh yếu kém về chất lượng tài sản và khả năng sinh vốn nội tại hạn chế của ngân hàng này. Ðiều này là đáng lo ngại nếu xét trên phương diện rủi ro hệ thống. Bởi lẽ, sự sụp đỗ của AGR sẽ dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng.
(2) Ðối với khối NHTMCP,các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế đạt được yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn. Cụ thể đến thời điểm 31/6/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các ngân hàng cổ phần như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Trong khi đó, đến tháng 11/2011, vẫn còn 5 NHTM cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu xem xét theo tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến thời điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 NHTMCP có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng 2.000 tỷ đồng. Như vậy, dù giãn tiến độ 1 năm nhưng một số ngân hàng nhỏ của Việt Nam vẫn không thể đạt được các quy định đảm bảo mức vốn pháp định. Mặc dù, sau đó, đến 31/10/2012, tất cả đều thỏa mãn quy định của NĐ 41/2006/NĐ-CP, nhưng rõ ràng, đã có sự phân nhóm trong hệ thống ngân hàng. Điều này tìm ẩn nhiều nguy cơ từ khối những ngân hàng nhỏ này, thậm chí ảnh hưởng đến cả hệ thống.
(3) Hơn thế, như khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số an toàn vốn ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống NHTM. Ðối với khối NHTMCP, xu hướng hệ số đòn bẩy tài chính cao có thể nhận thấy khá rõ.
(4) Trong giai đoạn này, thị trường bất động sản xuống dốc, nhiều khoản vay đến hạn không trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng (ngân hàng buộc phải chuyển nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tình hình thanh khoản bị suy giảm). Tỷ lệ nợ xấu được NHNN công bố cho toàn ngành Ngân hàng là 3,39%, tương đương với khoảng 20% mức vốn tự có. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chưa phản ánh đúng thực chất RRTD của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu chuẩn phân loại nợ cũng như công tác phân loại nợ của các ngân hàng còn nhiều bất cập. Nếu như các ngân hàng phân loại nợ đúng theo chuẩn mực quốc tế và định giá chính xác giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản vay (53% là bất động sản) thì chi phí dự phòng rủi ro sẽ tăng lên, và vốn tự có của hệ thống ngân hàng sẽ bị ăn mòn đáng kể.
(5) Xét trên khía cạnh toàn hệ thống, chỉ tiêu an toàn vốn của toàn bộ NHTM Việt Nam đạt trên mức 9%. Tuy nhiên, điều này chưa thể hiện được mức đủ vốn của hệ thống NHTM. Bởi lẽ, phần mẫu số theo quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN mới chỉ xác định rủi ro tín dụng chứ chưa tính đến rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động (rủi ro tác nghiệp). Hơn thế, theo Basel III, mẫu số còn bao gồm cả rủi ro do biến động kinh tế vĩ mô (rủi ro có tính chu kỳ) và rủi ro chéo trong trường hợp ngân hàng hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính. Nếu xét tình huống Việt Nam thì cả hai vấn đề rủi ro có tính chu kỳ và rủi ro chéo cần được tính tới. Ngoài ra, khi đánh giá trong mối quan hệ với các NHTM trong khu vực, mức độ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam ở mức khá thấp.
Hình 2.5: Hệ số CAR của hệ thống các TCTD tại VN và một số quốc gia khác
Quá trình tiếp cận basel III tại các nước khu vực Đông Nam Á và Việt Nam
Quá trình thực hiện basel III tại các nước trong khu vực Đông Nam Á
Tại Singapore
Singapore cho biết sẽ đặt ra tỷ lệ vốn áp dụng với các ngân hàng tại quốc đảo này cao hơn so với mức tối thiểu của toàn cầu để củng cố uy tín cho vị thế trung tâm tài chính. Cơ quan quản tiền tệ Singapore (MAS) tuyên bố: “Mỗi ngân hàng tại Singapore đều mang tầm quan trọng đối với hệ thống. Tỷ lệ vốn cao hơn sẽ giúp họ hoạt động vững vàng hơn trong các điều kiện căng thẳng”. Ngày 28/12/2011, MAS đã ra thông cáo sửa đổi Thông tư số 637 của MAS về yêu cầu vốn rủi ro đối với các ngân hàng tại Singapore để thực hiện Basel III. Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường (common equity tier 1- CET1) tối thiểu phải đạt 6,5% năm 2019 cao hơn 2% so với tỷ lệ CET1 của BCBS. MAS cũng yêu cầu các ngân hàng Singapore đáp ứng yêu cầu an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế từ ngày 01/01/2013, sớm hơn 2 năm so với yêu cầu của BCBS. Cách tiếp cận tăng tốc như vậy cũng có nghĩa là từ ngày 01/01/2013, các ngân hàng Singapore sẽ đáp ứng một tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường tối thiểu là 4,5%, tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tối thiểu là 6,0%, và tỷ lệ an toàn vốn CAR tối thiểu là 8,0%. Phù hợp với các yêu cầu của BCBS, MAS cũng sẽ đưa ra một tấm đệm bảo toàn vốn là 2,5% trên các yêu cầu an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ đòn bẩy là 3,0%, cũng như một số điều chỉnh và các khoản khấu trừ khác: Lợi thế thương mại (goodwill) và các tài sản vô hình khác cũng như tài sản thuế thu nhập hoãn lại (deferred tax assets- DTA) được khấu trừ khỏi CET1 thay vì vốn cấp 1. Do đó, 2,0% sẽ được tính vào tổng hệ số CAR, nâng tỷ lệ này lên thành 10,0% để có thể chống đỡ cho các rủi ro hệ thống. Dần dần tấm đệm bảo tồn vốn sẽ nâng tỷ lệ này lên đến 12,5% vào năm 2019.
Tại Philippines
Bangko Sentral of Philipinas (BSP) - NHTW và là cơ quan điều tiết của ngành công nghiệp dịch vụ tài chính Philippines, đã ban hành một dự thảo về các yêu cầu của Basel III đối với các ngân hàng thương mại, bao gồm các công ty con trong tháng 01/2012. Theo BSP, tỷ lệ CET1 tối thiểu sẽ được thiết lập 6,0%, tổng vốn cấp 1 sẽ là 7,5%, và tổng hệ số CAR à 10%. Bảo tồn vốn đệm 2,5% sẽ được áp dụng, sẽ đưa tổng số CAR lên 12,5%. Có hai điểm đặc biệt của giai đoạn hiện tại trong việc thực hiện Basel III ở Philippines: (1) Định nghĩa vốn cấp 2; và (2) một khấu trừ cụ thể của các khoản đầu tư vốn cổ phần trong các tổ chức phi tài chính. Trong khi xác định vốn cấp 2, BSP đã chọn và quy định rõ cổ phiếu ưu đãi là loại công cụ duy nhất, cho phép thuộc thể loại này. Đây là định nghĩa hẹp hơn so với định nghĩa được đề xuất trong các yêu cầu của BCBS. BSP cũng yêu cầu các ngân hàng xem xét các khoản đầu tư vốn cổ phần đặc biệt trong “các tổ chức phi tài chính liên kết và không liên kết” và khấu trừ chúng hoàn toàn ra khỏi tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường. Lý do chính cho vệc tiếp cận nghiêm ngặt như vậy là vì các ngân hàng lớn này của Phiippines liên kết với một số công ty cổ phần mẹ lớn nhất của nước này. Điều này không phải là không phổ biến cho các ngân hàng như vậy để có các khoản đầu tư khác (phi tài chính) vào các công ty cổ phần. Các khoản đầu tư này có thể là nguồn gốc của rủi ro hệ thống. Tại thời điểm này, BSP đã chọn để tập trung vào định nghĩa vốn và các khoản giảm trừ, tuy nhiên, 4các khía cạnh khác của việc thực hiện Basel III, chẳng hạn như là đòn bẩy, tính thanh khoản và tấm đệm ngược chu kỳ, cũng sẽ được đề cập trong những văn bản riêng có khả năng sẽ được công bố vào cuối năm nay.
Tại Malaysia
Ngân hàng Negara Maaysia (BNM) hỗ trợ đầy đủ việc thực hiện Basel III để tăng cường các tiêu chuẩn về vốn và tính thanh khoản cho các tổ chức ngân hàng trong nước. Cơ quan quản lý đã chọn để thực hiện gói cải cách phù hợp với thông lệ quốc tế theo đúng lộ trình thực hiện, với từng giai đoạn bắt đầu từng bước từ năm 2015 cho đến năm 2019. Các hướng dẫn về việc thực hiện Basel III, được ban hành trong tháng 12/2011, đã đưa ra những định nghĩa chặt chẽ hơn về vốn và tăng cường chất lượng của nó, cũng như thực hiện các tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản.
Tỷ lệ CET1 tối thiểu sẽ đạt 4,5%, trong khi tổng vốn cấp 1 sẽ được cố định ở mức 6,0%, và tổng số CAR ở mức 8% vào năm 2015. Như vậy, dần dần bộ đệm bảo toàn vốn sẽ mang lại tổng hệ số CAR mục tiêu cho các ngân hàng Malaysia là 10,5% vào năm 2019. Trên cơ sở xem xét các thông tin phản hồi, BNM lên kế hoạch sẽ ban hành các văn bản dự thảo các quy tắc và cơ chế để thực hiện tấm đệm vốn mới (ngược chu kỳ và bảo toàn vốn) vào năm 2014. Cơ quan quản cũng sẽ làm rõ các quy trình giám sát và các yêu cầu quản rủi ro hiện tại trước khi các yêu cầu mới được thực hiện.
Quá trình thực hiện basel III tại Việt Nam
Tại Việt Nam, văn bản đầu tiên có quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Tại quy định này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản và chưa phản ánh chính xác tinh thần Basel I. Đến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Basel I.
Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II, chính thức có hiệu lực từ 01/10/2010.
Cũng theo Thông tư 13, các khoản để tính vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật trừ đi phần dùng để mua cổ phiếu quỹ (nếu có). Trong khi các khoản để tính vốn cấp 2 được xác định là 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật, 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp luật, quỹ dự phòng tài chính, trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn các điều kiện đưa ra (như kỳ hạn ban đầu tối thiểu là 5 năm…), các công cụ nợ thỏa mãn các điều kiện đưa ra (như có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm…).
Theo nhận định của Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Vũ Viết Ngoạn cho biết, Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của việc thực hiện Basel II trong khi thế giới đã phấn đấu thực hiện Basel III, do đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ phải tiếp cận chuẩn an toàn này theo cách của riêng mình mà không nhất thiết phải đi theo trình tự Basel I, II, III.
Khó khăn và thuận lợi khi áp dụng hiệp ước vốn Basel tại Việt Nam
Hiện tại, các NHTM đang áp dụng các quy định về an toàn vốn theo Thông Tư 13/2010/TT-NHNN nên chúng ta sẽ xem xét những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng Basel II tại Việt Nam.
ê Thuận lợi
Một trong những thuận lợi cơ bản của việc áp dụng các Hiệp ước vốn đối với NHTM VN là việc NHNN đã từng bước hoàn thiện các văn bản luật theo hướng ngày càng tiếp cận các điều khoản của Basel. Cụ thể, hiện tại các NHTM đang thực thi theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN, đây là văn bản đã hoàn chỉnh hơn rất nhiều so với các văn bản trước. Theo đó, NHNN đã quy định rất cụ thể cách phân loại vốn cấp 1, vốn cấp 2, cũng như cách tính vốn tự có. Hơn thế nữa, NHNN đang soạn thảo Dự thảo thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, hứa hẹn tính hoàn chỉnh và cập nhật của văn bản pháp luật. Hơn thế nữa, các NHTM cũng tích cực, chủ động ứng dụng Hiệp ước vốn và hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình. Đồng thời, cả NHNN và NHTM cũng phối hợp với nhau để tìm ra phương pháp để nâng cao hiệu quả việc ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam.
ê Khó khăn
Một trong những khó khăn khi xem xét việc ứng dụng Hiệp ước Basel II vào công tác quản trị rủi ro tại các NHTM VN đó chính là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề chung đối với tất cả các NHTM và kể cả đối với cơ quan giám sát NHTM như Ngân hàng Nhà nước. Thông qua tìm hiểu những chuẩn mực Basel II, có thể thấy rằng để nắm vững và vận dụng được các chuẩn mực này đòi hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân hàng và nhân viên phụ trách phải có một tầm hiểu biết nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn kiến thức toán học và kiến thức quản trị. Ngoài ra, các kỹ năng phân tích, dự báo cũng là những kỹ năng không thể thiếu. Đây thực sự là những yêu cầu cao đối với các chuyên gia ngân hàng Việt Nam tại thời điểm này. Mặc dù, nhân lực ngành nhân hàng không hề thiếu, thậm chí là dư thừa nhưng để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe này thì số lượng có thể đáp ứng không là bao nhiêu. Ngoài ra, cũng có nhiều chuyên gia giỏi đang đảm nhiệm những vị trí cấp cao trong các NHTM, nhưng do không có điều kiện hoặc không đủ thời gian để được đào tạo và tiếp cận những kiến thức mới này nên cũng chưa có khả năng vận dụng vào công việc thực tế. Chí phí cho những khóa học với các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng thường rất cao, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của người đi học.
Khó khăn thứ hai có thể kể đến là thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp. Bởi vì, theo Basel II, các NHTM phải dựa vào rất nhiều yếu tố để có thể xác định hệ số rủi ro theo từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng khác nhau, mà một trong những yếu tố này là kết quả xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức xếp hạng độc lập. Hiện nay thực tế là mỗi ngân hàng đang từng bước xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, việc xếp hạng tín nhiệm này chủ yếu phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết định cho vay của ngân hàng, rất ít được chia sẻ thông tin hay phổ biến rộng rãi bên ngoài. Từ đó dẫn đến tự ngân hàng nào ngân hàng đó mới lo. Vì thế, kết quả đánh giá còn mang nặng yếu tố chủ quan, cảm giác hơn là khách quan. Ngoài ra, nó còn dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý do thông tin không đầy đủ. Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức được xem là chuyên nghiệp nhất hoạt động trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn chưa được tổ chức quốc tế công nhận và vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Một là, Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) vừa có chức năng thu thập và cung cấp thông tin tín dụng cho NHNN, lại vừa thực hiện việc xếp loại tín dụng doanh nghiệp (theo Quyết định số 473/QĐ-NHNN ngày 28/4/2004). Hai là, Công ty thông tin và xếp hạng doanh nghiệp (C&R), mới thành lập năm 2004, được tách ra từ công ty Giải pháp Việt Nam, là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên tại Việt Nam cung cấp các loại báo cáo tín nhiệm dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức lớn trên thế giới như Standard & Poor’s, Moody’s, …Ba là, Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRVC) thuộc công ty phần mềm và truyền thông VASC, được ra đời vào ngày 4/6/2005. Tuy nhiên, các đơn vị này vẫn chưa phải là tổ chức đánh giá tín nhiệm theo đúng nghĩa bởi lẽ hoạt động chính vẫn chỉ cung cấp các thông tin có liên quan tới các doanh nghiệp mà chưa thực hiện nghiệp vụ đánh giá tín nhiệm theo chuẩn mực quốc tế. Do đó, để xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ lớn, đa dạng, có chất lượng và được chấp nhận rộng rãi thì sẽ phải mất một khoảng thời gian đáng kể. Đó là chưa nói đến những tiêu chuẩn và hệ thống xếp loại của các tổ chức này đều đang tạm sử dụng từ các tổ chức khác nhau chứ chưa thể xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thống nhất cho Việt Nam, mà sự vay mượn này cũng sẽ ít nhiều gây khó khăn trong việc áp dụng vào tính toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, còn nhiều khó khăn khác ảnh hưởng đến việc ứng dụng Basel tại Việt Nam như trình độ quản lý của cơ quan giám sát ngân hàng còn yếu kém, chi phí ứng dụng Basel là khá cao, chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, rào cản về ngôn ngữ (Ngôn ngữ trong Basel hoàn toàn là tiếng Anh với những thuật ngữ chuyên ngành mới).
KẾT LUẬN
Với nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, ngày 12/9/2010, Hiệp định Basel III với những quy định nghiêm ngặt hơn dành cho các ngân hàng thuộc 27 thành viên đã được Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel ban hành. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, với quy định như vậy, chấp nhận khuôn khổ Basel III cho toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam tới thời điểm năm 2015 là hơi khó. Tuy nhiên, trong tương lai, các ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là những ngân hàng có hoạt động quốc tế, sớm hay muộn sẽ phải tuân thủ các chuẩn mực của Basel III để hoàn thiện chính hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì vậy, bản thân mỗi ngân hàng cần thiết phải nghiên cứu thật sâu và nắm rõ các quy định trong Basel III, cũng như nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân vì sao chưa ứng đụng được Basel III vào hoàn cảnh thực tế của chính ngân hàng mình. Từ đó, giải quyết các vấn đề và xây dựng lộ trình thực hiện hợp lý
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
www.vinacorp.vn
www.saga.vn
https://www.vietinbank.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_chinh_2268.doc