Lời Mở đầu
Xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ năm 1998 nhưng đến nay “chứng khoán phái sinh” chưa được biết đến với tư cách là một công cụ bảo hiểm rủi ro hữu hiệu cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, những cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, những biến động bất thường về nền kinh tế toàn cầu, những tăng giảm đột ngột của giá xăng, dầu thế giới, những bấp bênh của tỷ giá đồng USD đang là những vấn đề đáng lo lắng cho những nhà đầu tư, những doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vậy phải làm gì để giảm bớt rủi ro? Để tối thiểu tổn thất và tối đa hoá lợi nhuận?
Một đòi hỏi cấp thiết đối với thị trường là phải đa dạng hoá các sản phẩm tài chính phái sinh, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có, khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào thị trường này để loại bỏ bớt những rủi ro không đáng có.
80 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 99937 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về chứng khoán phái sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
càng giảm, năm 1998 là 38% nhưng đến năm 2003 con số này chỉ còn 17%, tức là giảm xuống gần một nửa. Trái lại, nghiệp vụ bán kì hạn thì lại tăng dần từ 62% năm 1998 lên 83% năm 2003.
Xét trường hợp của NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP bank) ta có bảng tính sau:
Bảng 2: Khối lượng mua ngoại tệ theo 2 loại giao dịch kỳ hạn và giao ngay tại VPBank giai đoạn 2002-2004
Giao dịch giao ngay (USD)
Giao dịch kỳ hạn (USD)
Tổng (USD)
Kỳ hạn/Tổng (%)
2002
81.128.305
67.000.000
148.128.305
45,23
2003
134.397.824
94.000.000
228.397.824
41,15
2004
118.007.984
83.200.000
201.207.984
41,35
Nguồn:Báo cáo hoạt động ngân quỹ VPBank
Qua bảng trên ta thấy tổng giao dịch kỳ hạn của năm 2003 và 2004 có tăng lên so với năm 2002. Trong đó, năm 2003 có con số mua kỳ hạn cao nhất (94.000.000). Tuy nhiên, nếu xét về tỷ lệ tiến hành giao dịch thì năm 2002 là năm có phần trăm giao dịch kỳ hạn là lớn nhất (45,23%). Con số này giảm xuống năm 2003 (41,15%) và 2004 (41,35%).
3.1.2. Hợp đồng quyền chọn:
Sau một thời gian nghiên cứu kỹ thuật giao dịch và những ứng dụng của nghiệp vụ trong việc hạn chế rủi ro tỷ giá, xét thấy nhu cầu của các NHTM và nhu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, ngày 12/02/2003, NHNN đã ban hành thông tư số 134/NHNN-QLNH, hướng dẫn các NHTM thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn. Đồng thời ngày 23/10/2003, NHNN đã ban hành văn bản số 1245/NHNN-QLNH cho phép Ngân hàng công thương Việt Nam (INCOMBANK) thực hiện thí điểm quyền chọn tiền tệ, đồng tiền giao dịch là các ngoại tệ tự do chuyển đổi ( không được giao dịch bằng đồng Việt Nam, giới hạn số dư cao nhất là 500.000 USD, thời hạn của giao dịch là từ 7 ngày đến tối đa là 3 tháng...).
Tiếp đó, NHNN lần lượt cho phép 6 ngân hàng khác là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Citibank, Vietcombank, Eximbank và ngân hàng Hongkong Bank chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện thí điểm quyền chọn.
Tới nay các ngân hàng đều đã thực hiện quyền chọn ngoại tệ với các đồng tiền tự do chuyển đổi như USD, CAD, JPY, CHF, SGD, AUD, GBP, HKD. Quy mô giao dịch cũng tương đối giống nhau ở các ngân hàng, ví dụ: Eximbank, ACB quy định mức giao dịch tối thiểu với cặp tiền tệ USD/VND là 10.000 USD, với các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi khác thì tối thiểu phải tương đương 100.000 USD quy đổi. Còn Techcombank thì quy định mức giao dịch tối thiểu của một hợp đồng quyền chọn ngoại tệ/VND là 100.000USD quy đổi, với mức giá thực hiện < tỷ giá kì hạn. Hình thức quyền chọn cũng khác nhau tuỳ Ngân hàng. Ví dụ: Techcombank quy định hình thức giao dịch quyền chọn kiểu châu Âu, tức là hợp đồng chỉ thực hiện khi đến ngày đáo hạn, thời gian kết thúc giao dịch là 13h Hà Nội hoặc 15h Tokyo. Nhưng với Eximbank thì chỉ nêu ra có hai loại quyền chọn kiểu Mỹ và quyền chọn kiểu châu Âu chứ không quy định khách hàng phải chọn loại nào....
Tuy nhiên, các nghiệp vụ quyền chọn phòng ngừa rủi ro đối với ngoại hối, vàng chưa phát triển mạnh bởi những lý do sau:
• Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có giám đốc tài chính như thông lệ thế giới. Tức là chưa có người chuyên lo, tính toán và dự báo biến động của thị trường, biến động của lãi suất, tỷ giá và giá cả để xử lý, chuyên lo về tài chính trong hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn làm theo lối kinh doanh truyền thống, khi nào cần vàng, cần USD thì mới mua.
• Mức phí giao dịch quyền chọn ở các NHTM Việt Nam đưa ra cho các doanh nghiệp còn cao: trong giao dịch tỷ giá loại kỳ hạn 1 tháng tới 1,3%, kỳ hạn 2 tháng tới 2,2% và kỳ hạn 3 tháng tới 2,8%.
3.1.3. Hợp đồng hoán đổi
Kể từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi trên thị trường Việt Nam, đã có một số ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD. Nhưng phải đến tháng 12/2004 mới xuất hiện giao dịch hoán đổi tiền tệ lần đầu tiên trên thị trường Việt Nam giữa hai đồng USD và VND. Đó là giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa USD và VND kỳ hạn 3 năm mà ngân hàng Hongkong Shanghai (HSBC) thực hiện cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD. Tuy nhiên, xét trên hoàn cảnh, mức độ áp dụng vẫn còn khác nhau tuỳ từng ngân hàng, như đối với ngân hàng Standard Chartered Bank (SCB), chi nhánh Hà Nội, doanh số bán và mua hoán đổi tỷ giá của ngân hàng cao hơn doanh số bán và mua giao ngay rất nhiều.
Bảng 3: Khối lượng mua bán ngoại tệ theo loại hình giao dịch tại SCB, chi nhánh Hà Nội trong năm 2004
Giao ngay (USD)
Hoán đổi (USD)
Tổng (USD)
Hoán đổi/tổng (%)
Doanh số mua
1.141.325
4.774.204
5.915.529
80,7
Doanh số bán
1.141.190
4.774.204
5.915.394
80,7
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2004 của SCB
Giao dịch hoán đổi ở ngân hàng SCB chủ yếu áp dụng đối với hoán đổi lãi suất, chưa áp dụng hoán đổi tỷ giá. Là một ngân hàng nước ngoài, nên hoạt động hoán đổi của SBC chiếm tỷ trọng lớn trong các loại hình giao dịch. So với doanh số giao ngay, doanh số mua và bán hoán đổi chiếm tỷ trọng gấp tới hơn 4 lần. Doanh số mua và bán khá cân nhau (đều vào khoảng 4.774.204). Có thể nói giao dịch hoán đổi là một trong những giao dịch được chú ý phát triển tại SCB.
Hay như đối với ngân hàng Eximbank, giá trị các hợp đồng giao ngay cũng gấp 2 lần so với giao dịch kì hạn tiền tệ.
Bảng 4: Giá trị hợp đồng của giao dịch tiền tệ tại ngân hàng Eximbank-Hà Nội
Tổng giá trị của hợp đồng(triệu đồng)
2006
2007
Giao dịch kì hạn tiền tệ
232.491
240.234
Giao dịch hoán đổi tiền tệ
536.299
623.881
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2007 của Eximbank
Có thể nhận thấy, giao dịch kì hạn tiền tệ ở Eximbank năm 2007 tăng không đáng kể so với năm 2006, còn giao dịch kì hạn tăng gần 100 triệu đồng. Các hợp đồng hoán đổi cũng mang lại giá trị cao hơn so với các giao dịch kì hạn.
Tại VP Bank, giao dịch giao ngay lại chiếm tỷ trọng lớn hơn so với giao dịch hoán đổi.
Bảng 5: Khối lượng mua bán ngoại tệ theo loại hình giao dịch tại VP Bank giai đoạn 2002 – 2004
Giao dịch giao ngay (USD)
Giao dịch hoán đổi (USD)
Tổng (USD)
Hoán đổi/Tổng (%)
2002
202.489.054
63.000.000
265.48.054
23,73
2003
265.410.668
20.000.000
285.410.668
7
2004
287.861.708
76.000.000
363.861.708
20,89
Nguồn: báo cáo hoạt động ngân quỹ VP Bank
Như vậy so với giao dịch giao ngay, giao dịch hoán đổi chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Năm 2003, giao dịch hoán đổi chỉ đạt mức 20.000.000 (chiếm 7% tổng số giao dịch hoán đổi và giao ngay). Đến năm 2004, VP Bank đã chú trọng áp dụng giao dịch hoán đổi nhưng tổng doanh số vẫn chỉ là 76.000.000USD, tăng 56.000.000USD so với năm 2003 và chiếm 20,89%.
Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, một loạt các nghiệp vụ giao dịch ngoại hối hiện đại đã được triển khai ở Việt Nam. Điều này phản ánh những nỗ lực to lớn của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam những phương tiện để phòng ngừa rủi ro tỷ giá có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu vẫn chưa thực sự khả quan, số doanh nghiệp sử dụng các nghiệp vụ này vẫn còn hết sức hạn chế.
3.2. Phái sinh vàng
Hiện nay ở Việt Nam có ba sản phẩm phái sinh vàng chủ yếu là đầu tư vàng kỳ hạn, quyền chọn vàng và đầu tư thông qua sàn giao dịch vàng. Thực chất đây là các hình thức đầu cơ trên biến động giá vàng chứ không hẳn là đầu tư, vì các nhà đầu tư khi tham gia các giao dịch này phần lớn muốn kiếm lời dựa trên biến động giá vàng chứ không thật sự muốn sở hữu vàng.
Mua vàng kỳ hạn: mua thông qua các sàn giao dịch vàng của Ngân hàng, mua vàng qua tài khoản....
Tham gia giao dịch vàng qua tài khoản, nhà đầu tư, doanh nghiệp sẽ tiếp cận một loại hình giao dịch mới, hiện đại và phù hợp với xu hướng của thế giới. Nhà đầu tư, doanh nghiệp có vàng sẽ mở một tài khoản tại ngân hàng và với một máy tính kết nối Internet cùng với hệ thống giao dịch của Ngân hàng đó, chủ tài khoản vừa truy cập, phân tích diễn biến thị trường, vừa đặt lệnh mua – bán một cách nhanh nhất. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có 5 ngân hàng là : Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), á châu (ACB), Phương Đông (OCB) và Việt á cùng với 3 công ty: Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), Công ty Kinh doanh Mỹ nghệ vàng bạc đá quý NHNN-PTNT và Công ty vàng bạc đá quý NHNN-PTNT thành phố Hồ Chí Minh là được triển khai giao dịch vàng qua tài khoản.
Quyền chọn vàng: Ngân hàng á châu (ACB) là ngân hàng đầu tiên được NHNN cho phép cung cấp cho khách hàng Quyền chọn mua, bán vàng vào ngày 15/12/2004. Theo đó, quy mô giao dịch của một hợp đồng quyền chọn giữa ACB với khách hàng tối thiểu là 100 lượng vàng, tối đa là 5.000 lượng vàng đối với cá nhân vá 10.000 lượng đối với các tổ chức. Thời hạn giao dịch của mỗi hợp đồng quyền chọn vàng giữa ACB với khách hàng tối thiểu là 2 tuần và tối đa là 3 tháng.
Ngoài ra, tuỳ theo thời hạn, khách hàng sẽ mua quyền chọn mua. Phương thức này chủ yếu áp dụng đối với những khách hàng mua số lượng lớn hoặc sử dụng nghiệp vụ mua bán vàng kỳ hạn của các ngân hàng để tránh rủi ro.
Hiện nay đã có thêm nhiều Ngân hàng triển khai dịch vụ này nhằm cung ứng cho khách hàng những lựa chọn tối ưu nhất, như Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), hay Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)...
Đầu tư thông qua sàn giao dịch: Ngân hàng ACB đã nâng hạn mức thanh toán tối đa tiền/vàng trong ngày lên 20 lượng/ngày thay cho trước đây chỉ 10 lượng vàng/ngày. Hiện nay các nhà đầu tư vàng trên sàn giao dịch vàng thường so sánh chênh lệch giữa giá vàng trên sàn vàng với giá vàng ngoài thị trường. Những lúc giá vàng trên sàn vàng thấp hơn giá vàng trên thị trường, nhiều nhà đầu tư đã chấp nhận đóng tiền vào để rút vàng đem ra ngoài bán hưởng chênh lệch giá. Thêm vào đó, khách hàng chỉ cần ký quỹ 7% và có thể được hỗ trợ vốn vay đến 13 lần vốn tự có nên số lượng tiền/vàng khách hàng có thể rút rất lớn. Điều này đã gây khó khăn đối với các sàn giao dịch vàng tại Việt Nam.
3.3. Repo chứng khoán
Hiện nay ở Việt Nam nghiệp vụ repo chứng khoán chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể, mặc dù repo chứng khoán mang lại rất nhiều lợi ích cho nhà đầu tư.
Ngày 27/05, khi các công ty đua nhau trình ra những bản báo cáo tài chính với chỉ số EPS cao ngất ngưởng, các nhà đầu tư không còn phân biệt được đâu là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh truyền thống, đâu là lợi nhuận từ đầu tư tài chính... Cùng với niềm tin chứng khoán tiếp tục tăng giá, do ham muốn lợinhuận, nhiều nhà đầu tư đã áp dụng công thức Repo chứng khoán xoay vòng để lấy tiền mua tiếp chứng khoán rồi lại đem chứng khoán mới mua repo tiếp. Vòng xoay này cuốn theo hàng chục ngàn tỉ đồng của nhà băng vào thị trường chứng khoán, chuỗi Repo này trở thành gánh nặng ngàn cân đối với các nhà đầu tư và ngân hàng khi thị trường có dấu hiệu chững lại.
Chính vì thế, ngày 28/05, UBCK Nhà nước đã yêu cầu các công ty chứng khoán dừng kí hợp đồng mới đối với loại hợp đồng giao dịch kì hạn (repo chứng khoán). Quyết định này của công ty chứng khoán xuất phát từ tình hình thị trường chứng khoán có biến động mạnh theo chiều hướng suy giảm từ cuối năm 2007 đến nay, đồng thời quy định pháp lý hướng dẫn về hoạt động giao dịch kỳ hạn chứng khoán chưa được ban hành.
Để nghiệp vụ Repo chứng khoán có thể tồn tại và phát triển trên thị trường Việt Nam thì các cơ quan chức năng có liên quan nên nhanh chóng có những quy định cụ thể về loại giao dịch này để tránh những rủi ro và tổn thất không đáng có.
III. Những tồn tại, hạn chế của việc phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
Thứ nhất, mức độ tham gia thị trường vốn của các doanh nghiệp chưa lớn, các nhà quản trị doanh nghiệp chưa có nhu cầu và cũng chưa có hiểu biết nhiều về bản chất của các loại công cụ tài chính phái sinh.
Có thể thấy hiện nay trên thị trường khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với nhu cầu thực tế. Các giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối lượng giao dịch này ở các NHTM còn rất ít, vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
+ Tỷ giá giữa USD/VND được NHNN can thiệp khá ổn định với mục đích hỗ trợ cho xuất khẩu. Và trong một thời gian khá dài, tỷ giá VND/USD dao động biên độ nhỏ nên phần lớn các doanh nghiệp không chú trọng đến công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
+ Nhận thức về các công cụ phái sinh nhưng chưa phổ biến và chưa am hiểu sâu sắc về các công cụ từ khách hàng. Ví dụ một doanh nghiệp biết rõ sẽ gặp rủi ro lãi suất khi đang vay tiền với lãi suất thả nổi, trong điều kiện lãi suất giao ngay đang tăng mạnh và biết rõ nếu sử dụng hợp đồng hoán đổi để chuyển sang lãi suất cố định, doanh nghiệp sẽ giảm thiệt hại rủi ro nhưng chủ doanh nghiệp không dám hành động.
+ Tính hiệu quả kém của thị trường làm cho các giao dịch phái sinh không phát huy hết vai trò là công cụ dựa trên những biến động ngẫu nhiên của thị trường để hạn chế rủi ro và tạo lợi nhuận
+ Hệ thống thông tin thị trường chưa kịp thời và đầy đủ….
Thứ hai, giao dịch phái sinh chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn lại trên các thị trường khác vẫn chưa hình thành hoặc trong giai đoạn phôi thai. Điều này một phần xuất phát từ nguyên nhân về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán phái sinh chưa đầy đủ, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia chưa được đảm bảo, do đó chưa tạo được sự quan tâm của các định chế tài chính cũng như các nhà đầu tư khi tham gia trên thị trường chứng khoán, trong vận dụng các biện pháp để hạn chế rủi ro và đầu tư kiếm lợi.
Thứ ba, các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại thì nguồn nhân lực còn hạn chế, hệ thống thông tin quản lý chưa phát triển, đối tác mua, bán công cụ tài chính phái sinh với các NHTM là các doanh nghiệp còn hạn chế. Do đó, các tổ chức tài chính cũng chưa có nhu cầu, chưa chủ động phát triển và cung ứng các sản phẩm dịch vụ về công cụ tài chính phái sinh.
Công cụ tài chính phái sinh vẫn được coi là những hàng hoá phức tạp không riêng gì ở Việt Nam mà kể cả ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Việc các doanh nghiệp thiếu hiểu biết về các công cụ này cũng là điều dễ hiểu. Một khi thiếu hiểu biết cặn kẽ, thiếu sự tin tưởng vào các nhà tư vấn cộng với tâm lí e sợ rủi ro và trách nhiệm, các doanh nghiệp sẽ sẵn sàng chấp nhận mức rủi ro mà họ đang phải đối mặt thay vì tìm biện pháp giải quyết nó. Do đó, vai trò của các NHTM trong trường hợp này là hết sức cần thiết và kiên nhẫn.
Thứ tư, về khuôn khổ pháp lý của Việt Nam: các luật lệ, các chính sách quản lý nhà nước còn thiếu, cơ chế nghiệp vụ chưa có. Các giao dịch phái sinh mà các NHTM kinh doanh trên thị trường ngoại hối được điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý của NHNN, còn lại trên các thị trường khác vẫn chưa có văn bản pháp lý nào điều chỉnh hoạt động của các giao dịch này.
Bên cạnh đó, môi trường chính sách của Việt Nam chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào thị trường này. Hiện nay trên thế giới khi các doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm phái sinh, họ không phải chịu thuế. Nhưng ngược lại ở Việt Nam, vẫn đang tồn tại những quy định về việc tính thuế như quy định về mức thuế đánh trên lãi thu được từ việc thực hiện hợp đồng hoán đổi. Quy định này vừa kìm hãm, vừa khó thực hiện vì lãi suất thả nổi biến động hàng ngày. Hơn nữa, công cụ phái sinh mang bản chất phòng ngừa rủi ro để tối đa hoá lợi nhuận chứ không phải để kiếm lợi.
Đặc biệt, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam còn chưa có các chuẩn mực tương đồng với các chuẩn mực kế toán quốc tế về công cụ tài chính, đặc biệt trong đó có các chuẩn mực IAS 39 “Các công cụ tài chính: Ghi nhận và xác định giá trị”, IAS 32 “Công cụ tài chính: thuyết minh và trình bày thông tin”, IFRS 7 “ Các công cụ tài chính: Thuyết minh và trình bày thông tin”, IFRS “ Các công cụ tài chính : Công bố”.
Việc thiếu vắng các tiêu chuẩn kế toán chất lượng cao để ghi nhận, đánh giá giá trị công cụ tài chính nói chung và công cụ tài chính phái sinh nói riêng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xác định kết quả tài chính, đến quản trị rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời cơ quan giám sát tài chính – ngân hàng – chứng khoán cũng không thể có được thông tin đầy đủ, trung thực để giám sát thị trường chung, giám sát an toàn hoạt động của từng tổ chức tài chính.
Thứ năm, thị trường thiếu hụt, thông tin chưa minh bạch.
Các công ty đại chúng sử dụng hợp đồng phái sinh thao túng thị trường do thông tin bất cân xứng. Khi các công ty đại chúng biết trước tình trạng tài chính thật của mình đang thua lỗ nhưng do thị trường chưa nắm bắt được thông tin này, họ có thể đặt lệnh bán khống(đầu cơ giá xuống) trên các hợp đồng giao sau hoặc quyền chọn, đến khi giá xuống họ sẽ thực hiện hợp đồng để kiếm lời.
Thứ sáu, chi phí giao dịch có liên quan để mua, bán giao dịch công cụ tài chính phái sinh còn cao. Chi phí giao dịch bao gồm:
+ Chi phí tìm kiếm thông tin
+ Chi phí thương lượng với đối tác.
+ Chi phí để điều chỉnh trạng thái nhằm thích nghi với điều kiện mới của thị trường và tài thương lượng
+ Chi phí phát sinh từ những yếu tố bất định và rủi ro về thông tin, thể chế.
+ Chi phí uỷ quyền tác nghiệp
+ Chi phí thực hiện và giám sát
CHƯƠNG III: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại việt nam
I . Định hướng phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
Theo quyết định số 163/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, mục tiêu của Việt Nam đến năm 2010 là phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
Đồng thời với mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán là việc áp dụng rộng rãi các công cụ phái sinh nhằm thúc đẩy thị trường phát triển ổn định.
1. Tổ chức thị trường
• Xây dựng và phát triển các Sở giao dịch hàng hóa theo hướng hiện đại hóa, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp khi tham gia qua Sàn giao dịch và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư có thể tham gia vào sàn giao dịch thế giới thông qua sàn giao dịch nội địa.
• Các công ty chứng khoán kết hợp với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước sớm hình thành các trung tâm lưu kí, thanh toán, bù trừ với trình độ công nghệ cao, tốc độ nhanh để có thể đảm bảo yêu cầu thời gian nhanh nhạy, chính xác cho các giao dịch chứng khoán phái sinh.
• Nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống công nghệ thông tin của các Sở giao dịch chứng khoán và các công ty chứng khoán, đáp ứng được các giao dịch mua bán của các thành viên tham gia thị trường.
2. Thành viên tham gia
2.1. Ngân hàng thương mại
• Cần đa dạng hoá các sản phẩm phái sinh, cung cấp thông tin cho thị trường về các dịch vụ phái sinh nhằm giới thiệu tới các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, cá nhân trên thị trường biết tới công cụ bảo hiểm rủi ro này. Đây là một hoạt động cần thiết phải thực hiện sớm để tránh rủi ro cho đối tượng sử dụng dịch vụ phái sinh trong thời kì kinh tế phát triển như hiện nay và cũng để tăng doanh thu cho các ngân hàng, các công ty chứng khoán kinh doanh dịch vụ phái sinh.
• Quan tâm phát triển nguồn nhân lực có đủ trình độ chuyên môn, đáp ứng đủ nhu cầu về nhân sự đối với các ngân hàng. Nâng cao học vấn, năng lực của các nhân viên đang làm việc tại ngân hàng.
• Hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.
2.2. Các công ty chứng khoán
Phải thành lập bộ phận chuyên trách về sản phẩm phái sinh tại các công ty chứng khoán nhằm đáp ứng một cách nhanh nhạy và kịp thời cho các nhu cầu của khách hàng, tạo tính chuyên nghiệp và độc lập trong hoạt động của công ty đồng thời có thể marketing sản phẩm tới khách hàng tiềm năng một cách tốt nhất. Đồng thời tư vấn cho khách hàng nên sử dụng công cụ phái sinh nào là tốt nhất, tuỳ từng đối tượng và nhu cầu.
3. Công cụ phái sinh
• Triển khai các dịch vụ phái sinh mới, phù hợp với thị trường và nền kinh tế Việt Nam, học hỏi kinh nghiệm từ các thị trường phái sinh trên thế giới để áp dụng vào Việt Nam.
• Tiếp tục phát triển và ổn định thị trường phái sinh hiện có, nâng cao giá trị, vai trò của các sản phẩm phái sinh.
4. Quản lý từ phía Nhà nước
• Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật thống nhất, đồng bộ đáp ứng được yêu cầu quản lý, giám sát, hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế và xây dựng khung pháp lý cho TTCK.
• Song song với việc triển khai, hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật về chứng khoán, cơ quan quản lý cũng không ngừng tiến hành rà soát các quy định có vướng mắc trong thực hiện, nghiên cứu kinh nghiệm thị trường các nước để có những đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới cho phù hợp với tình hình thị trường.
• Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
• Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động chứng khoán phái sinh.
• Nhanh chóng xây dựng luật chứng khoán phái sinh và các hướng dẫn đi kèm để thúc đẩy thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam
• Ban hành thông tư hướng dẫn hoạt động bán khống và nghiệp vụ repo tại thị trường Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, tránh tình trạng “lách luật” như hiện nay.
• áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc tế, đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành viên tham gia thị trường.
II. Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
1. Sự phát triển của nền kinh tế
Thị trường chứng khoán phái sinh là một bộ phận của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, muốn thị trường chứng khoán phái sinh phát triển thì nền kinh tế của Việt Nam cần phải ổn định và tăng trưởng sao cho phù hợp với sự phát triển của khu vực và thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn lạm phát, giá các sản phẩm trên thị trường tăng cao, nền kinh tế đang trong giai đoạn bất ổn. Sự thay đổi mạnh ở Thị trường chứng khoán thế giới ảnh hưởng đến sự biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam, gía tăng gây áp lực lên lạm phát. Bên cạnh đó, sự phát triển của các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam suy giảm dẫn đến chậm lại tốc độ tăng xuất khẩu và đà tăng trưởng GDP.
Chính vì vậy Việt Nam cần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời xây dựng khả năng vững chắc của nền kinh tế nhằm duy trì sự tăng trưởng kinh tế bền vững ở tầm trung và dài hạn. Bên cạnh đó, cần phải phối hợp chặt chẽ giữa chính sách giá, tiền tệ và tài khoá, giảm thiểu những xáo trộn và gánh nặng đối với các ngân hàng và cả nền kinh tế.
Bất kì bộ phận nào trên thị trường muốn phát triển đều cần sự ổn định của nền kinh tế. Đối với thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường sản phẩm tài chính phái sinh nói riêng, trong tương lai muốn phát triển thì rất cần sự hỗ trợ của nền kinh tế thị trường, có như thế mới hỗ trợ và thúc đẩy nhau đi lên.
2. Sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam
Hiện tại, thị trường tài chính Việt Nam còn tồn tại rất nhiều yếu kém. Ví dụ như trên thị trường chứng khoán vẫn còn ít các định chế tài chính quan trọng như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương hỗ, các nhà đầu tư chứng khoán chưa đóng vai trò nhà tạo lập thị trường.
Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ thì chưa phát triển và NHNN Ngân hàng Trung ương chưa thực sự đóng vai trò can thiệp hiệu quả vào thị trường này. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... còn thiếu linh hoạt.
Về thị trường chứng khoán: tiềm năng tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM Nhà nước cổ phần hoá thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng... sẽ tạo đà phát triển cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này , số lượng các công ty niêm yết trên sở giao dịch chưa nhiều, làm hạn chế tính sôi động của thị trường, tính thanh khoản chưa cao và thông tin chưa thật sự minh bạch.
Trên đây là những nhận xét cơ bản về thị trường tài chính Việt Nam hiện nay. Để phát triển được thị trường chứng khoán nói chung và thị trường phái sinh nói riêng thì Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế. Việc này đòi hỏi sự phát triển đồng bộ, có sự ưu tiên đối với tiền đề này, cơ sở kia nhưng phải trong một quy trình đồng bộ, có sự nghiên cứu, hướng dẫn thi hành của các cơ quan chủ quản, nhằm tạo sự ổn định cho thị trường tài chính và sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh.
3. Sự phát triển trong nhận thức của các nhà đầu tư
3.1. Các tổ chức đầu tư :
Bao gồm các quỹ đầu tư, cá quỹ phòng hộ, các tổ chức tài chính được phép đầu tư chứng khoán.... Đây là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp nên họ hiểu được nhu cầu cấp thiết của các giao dịch phái sinh, chính vì vậy họ luôn mong muốn có được một công cụ bảo hiểm trong trường hợp giá cả biến động mạnh, tỷ giá ngoại tệ lên xuống thất thường... để đảm bảo cho công việc kinh doanh của họ. Do vậy, với tư cách là chủ thể tham gia trực tiếp vào thị trường chứng khoán phái sinh, các thành viên phải chủ động phối hợp với các công ty chứng khoán, sở giao dịch trong việc kiến nghị với các cơ quan chức năng, phản ánh những mặt thiếu sót, bất cập của thị trường, để có thể sớm tìm được hướng đi đúng đắn cho thị trường phái sinh Việt Nam.
3.2. Các nhà đầu tư cá nhân
Các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường là những nhà đầu tư nhỏ, họ chưa thực sự nắm bắt được những hoạt động của thị trường chứng khoán, không dự đoán được những rủi ro tiềm ẩn... Phần lớn trong số họ đầu tư theo tâm lý số đông, liều lĩnh ... nhằm thu lợi ngắn hạn. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam có ít biến động, chưa ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của những nhà đầu tư này, nhưng trong tương lai, với sự phát triển như hiện nay, cùng sự tham gia ngày càng nhiều của các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư cần thiết phải có trình độ cao, khả năng thu thập và xử lí thông tin nhạy bén.
Chính vì thế, các nhà đầu tư cần chủ động nâng cao kiến thức về chứng khoán đặc biệt là chứng khoán phái sinh – vốn đã là một lĩnh vực hết sức phức tạp, để đảm bảo cho chính lợi ích của họ sau này.
4. Sự hoàn thiện của hệ thống chính sách
Việc xây dựng hoàn thiện môi trường pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh cần đảm bảo những yêu cầu sau :
• Tạo điều kiện tối đa cho việc phát triển một thị trường chứng khoán phái sinh năng động, hiện đại và phát huy hết năng lực tự chủ
• Thị trường chứng khoán phái sinh phải phát triển trên cơ sở thống nhất chặt chẽ với sự phát triển của thị trường chứng khoán cơ sở.
• Phù hợp với điều kiện kinh tế cụ thể, các định hướng phát triển thị trường Việt Nam, tương thích với môi trường pháp lý quốc tế nhằm đáp ứng quá trình hội nhập.
• Đảm bảo tính công khai, công bằng cho tất cả các nhà đầu tư, trong đó cần có những biện pháp để bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ, tránh tình trạng lũng đoạn của các nhà đầu tư lớn.
• Mở rộng mạnh mẽ quyền tham gia thị trường chứng khoán phái sinh cho các nhà đầu tư từ nước ngoài.
• Tăng cường khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán phái sinh bằng các chính sách ưu đãi.
III. Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
1. Đối với Chính phủ
Các công cụ tài chính phái sinh bản chất là để phòng ngừa rủi ro, mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp nhưng nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ chúng sẽ gây ra những hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Để tránh điều đó, Chính phủ cần xây dựng những quy định, chính sách nhằm đảm bảo việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh đựơc bền vững. Bên cạnh đó, phát triển thị trường chứng khoán phái sinh nhằm hỗ trợ thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, thực hiện chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2012 với mục tiêu “ …nâng khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế…”, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt mức từ 2%-3% GDP trong giai đoạn 2003 - 2005 lên 10% - 15% trong giai đoạn 2006 – 2010.
Thứ nhất: Quy định về giới hạn và giá mua
Quy định này nhằm để khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá cao hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy định nhằm kiểm soát các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các doanh nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phòng ngừa vừa tiến công khi có cơ hội.
Trên thực tế, mặt trái của quyền chọn đầu cơ là rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán. Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư vào hệ thống tỷ giá mà chúng ta đã hoạch định. Tuy nhiên, việc đầu cơ vào các hợp đồng quyền chọn tiền tệ chưa dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở bất cứ nước nào trên thế giới.
Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vào sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế quốc gia và Việt Nam là một nước được đánh giá cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì thế, chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện phù hợp với điều kiện các nước như Việt Nam đã từng áp dụng và thành công.
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ như một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần và sàn. Nếu tỷ giá vượt quá mức này thì quyền chọn sẽ không còn có giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó làm giảm đi đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có thể áp dụng cho toàn bộ các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam.
Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh
Việc thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh là rất cần thiết. Điều này để đảm bảo việc các công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá cho dù đó là công ty đang gặp khó khăn về tài chính hay công ty đang hoạt động rất tốt. Các công ty này sẽ phải đưa ra những khoản thế chấp hay mức duy trì đặt cọc cao.
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có thể lên tới 30% hợp đồng ( so với mức 5% trên thị trường thế giới). Đối với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng vì chúng giúp cho hệ thống các Ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới.
Thứ ba: Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tê
Yêu cầu này đưa ra nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống NHTM trong nước không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nước phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ các giao phái sinh trong nước.
Thứ tư: Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng phái sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược lại của độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế do , do giá chi phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hi vọng đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ điều kiện cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này.
Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả các thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh đều phải hiểu biết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau.
Ví dụ một ngân hàng Việt Nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho người từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn nhau để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.
Thứ sáu: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của sản phẩm phái sinh
Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ hạn và tương lai phải giao dịch trên các sàn nước ngoài như London hay NewYork. Còn lại là giao dịch qua quầy, điều này gây nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro tín dụng. Các hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ. Nói chung, hiện tại những thị trường này vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động được trôi chảy.
Đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ thuần nhất đến các công cụ lai tạp. Cần phải chú ý tới chất lượng hàng hóa, đa dạng hoá các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy cần hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật của công cụ tài chính phái sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ của thị trường.
Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập nội dung hợp đồng quyền chọn, quyền được mua ngoại tệ, do đối với các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện quyền chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu đến hạn.
Bên cạnh đó, Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng quyền chọn là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro hối đoái của các doanh nghiệp không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế.
Ngoài ra, đối với các quyền chọn chứng khoán, hiện nay chưa được áp dụng triển khai thì đây chính là thời điểm chín muồi để triển khai quyền chọn chứng khoán vì tốc độ phát triển thời gian quá nhanh, giá tăng – giảm đột biến, do đó nhu cầu về quyền chọn càng trở nên cấp bách. Nếu có công cụ quyền chọn, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua “bảo hiểm” về giá cho chứng khoán của mình.
Song song với việc triển khai các công cụ tài chính thuần nhất nên có những tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Trong tương lai, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ sở. Từ đó sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất.
Tóm lại: Trên đây là những kiến nghị mang tầm vĩ mô, là những công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kê hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị trường ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh.
2. Đối với Doanh nghiệp
Thế giới ngày càng trở nên bất ổn hơn, những bất ổn trong giá cả hàng hoá và các biến số tài chính ngày càng thay đổi theo những chiều hướng khó coa thể dự báo được. Trong thời gian vừa qua, tình hình giá cả biến động đến khôn lường. Giá vàng, giá dầu liên tục tăng vượt cả dự đoán của các chuyên gia kinh tế. Tiếp theo đó là giá xăng dầu, giá điện, giá nguyên vật liệu... làm cho nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nước phải lao đao. Những bất ổn này càng gia tăng dẫn đến những thay đổi xấu đi trong kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó, để hạn chế những tác động xấu của thị trường, ngoài việc chờ đợi những động thái can thiệp của Chính phủ, các doanh nghiệp cần phải hướng đến một phương pháp quản lý rủi ro chủ động cho bản thân mình.
Thứ nhất: Doanh nghiệp cần nắm bắt được cấu trúc của một quá trình quản trị rủi ro bao gồm:
• Nhận diện rủi ro: Các doanh nghiệp cần nhận diện được mức độ rủi ro mà doanh nghiệp phải đương đầu thông qua tính toán độ nhạy cảm.
• Phân biệt giữa quản trị rủi ro và đầu cơ. Các doanh nghiệp phải xác định là mình đang sử dụng các công cụ phái sinh để thực hiện quản trị rủi ro chứ không phải là đầu cơ vì đầu cơ sẽ có khả năng tạo ra thêm những rủi ro mới.
• Đánh giá chi phí của hoạt động quản trị rủi ro trên phương diện chi phí phát sinh do không thực hiện hoạt động quản trị rủi ro.
Chi phí cho hoạt động quản trị rủi ro đôi khi khiến nhà quản trị lưỡng lự khi quyết định thực hiện quản trị rủi ro vì một số chiến lược quản trị rủi ro là rất tốn kém. Đây là một trong những lý do chính khi các doanh nghiệp Việt Nam không muốn sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro.
Tuy nhiên, để đánh giá chính xác chi phí quản trị rủi ro, nhà quản trị rủi ro cần phải xem xét chúng trên phương diện chi phí tiềm ẩn của quyết định không thực hiện quản trị rủi ro. Trong hầu hết các trường hợp, chi phí tiềm ẩn này là tổn thất tiềm năng mà doanh nghiệp phải gánh chịu nếu các yếu tố thị trường như lãi suất hay tỷ giá hối đoái dao động theo chiều hướng xấu. Trong những trường hợp này, chi phí quản trị rủi ro phải đựơc đánh giá giống như phương thức đánh giá chi phí của một hợp đồng bảo hiểm ( so với khoản tổn thất tiềm năng).
• Sử dụng phương thức đánh giá đúng đắn để đánh giá hiệu quả của hoạt động quản trị rủi ro. Chìa khoá để đánh giá một cách chính xác được hiệu quả của tất cả các giao dịch phái sinh, kể cả quản trị rủi ro nằm ở chỗ thiết lập các mục tiêu hợp lý ngay từ ban đầu.
• Chương trình quản trị rủi ro không nên dựa vào quan điểm thị trường của nhà quản trị. Nhiều nhà quản trị rủi ro doanh nghiệp cố gắng xây dựng các nghiệp vụ quản trị rủi ro dựa trên quan điểm của họ về lãi suất, tỷ giá hối đoái hay một số nhân tố thị trường khác. Tuy nhiên, chỉ có thể có đựơc các quyết định quản trị rủi ro hiệu quả nhất khi các nhà quản trị rủi ro công nhận rằng những chuyển động của thị trường là không thể dự đoán trước được. Nghiệp vụ quản trị rủi ro cần luôn luôn tìm cách giảm thiểu rủi ro chứ không nên thực hiện theo hướng chuyển động của giá cả thị trường.
• Nắm rõ các công cụ quản trị rủi ro. Yếu tố cuối cùng cản trở nhiều nhà quản trị rủi ro doanh nghiệp không thực hiện quản trị rủi ro là việc thiếu hiểu biết về các sản phẩm phái sinh.
• Thiết lập hệ thống kiểm soát. Cũng như tất cả những hoạt động tài chính khác, chương trình quản trị rủi ro cần có một hệ thống các chính sách nội bộ, các quy trình và công cụ kiểm soát để đảm bảo chúng được sử dụng một cách hiệu quả.
Muốn quản trị rủi ro thành công cần phải có một cơ cấu tổ chức thật hiệu quả. Việc sử dụng các công cụ phái sinh để quản trị rủi ro có thể sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm nếu như không có các chuyên gia làm việc theo nhóm và một hệ thống kiểm soát với cơ cấu tổ chức khoa học.
Thứ hai: Cần phải đổi mới tư duy của những người lãnh đạo doanh nghiệp
Tư duy sợ chịu trách nhiệm khiến lãnh đạo Doanh nghiệp sợ ra quyết định. Khi quyết định hoán đổi lãi suất, nếu lãi suất cao hơn thì không được ban thưởng gì nhưng nếu lãi suất xuống thì uy tín và và “sinh mạng chính trị” của lãnh đạo cũng bị lung lay.
Chính vì vậy, những người lãnh đạo cần dám nghĩ dám làm. Bản chất của các công cụ tài chính phái sinh là tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro nên dù thị trường có biến động không như dự đoán thì doanh nghiệp vẫn đảm bảo được nguồn thu của mình.
Thứ ba: Cần công khai và minh bạch hóa thông tin
Cùng với quy mô và tốc độ phát triển nhanh như hiện nay, các công ty niêm yết đua nhau đưa ra những dự án mới để thu hút vốn đầu tư. Ví dụ như trường hợp của công ty cổ phần HAPACO và công ty cổ phần cơ điện lạnh REE đã kí kết hợp đồng xây dựng cao ốc 21 tầng và 2 tầng hầm có tổng diện tích sàn là 23.000m2, làm trung tâm thương mại, văn phòng và căn hộ cao cấp tại Hải Phòng với tổng vốn đầu tư hơn 12 triệu USD... Tuy nhiên, công ty này đưa ra kế hoạch mới chỉ dừng ở việc tính toán những lợi nhuận, tỷ suất sinh lời hấp dẫn mà không cung cấp những thông tin về mức độ khả thi, năng lực tài chính của công ty liệu có đáp ứng được nhu cầu của dự án?
Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần công khai hoá thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về các vấn đề như: cơ cấu sở hữu của công ty và quyền biểu quyết, những thông tin về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty, các thông tin về hội đồng quản trị... Bởi công khai và minh bạch thông tin mang ý nghĩa rất quan trọng:
• Là yếu tố quyết định mức độ hoạt động hiệu quả của thị trường, phát huy hiệu lực của hoạt động giám sát theo cơ chế thị trường đối với công ty.
• Tạo khả năng và điều kiện cho các cổ đông trong việc thực hiện được các quyền sở hữu, qua đó bảo vệ lợi ích của họ ở công ty.
• Công khai và minh bạch thông tin sẽ củng cố niềm tin của các nhà đầu tư và các bên có liên quan vào thị trường vốn.
• Giúp công chúng hiểu được cơ cấu và hoạt động của công ty, những chính sách và hoạt động của công ty.
Như vậy, về phía các doanh nghiệp cũng cần phải chủ động trong việc tìm đến các công cụ phòng ngừa rủi ro, đảm bảo lợi ích cho chính bản thân doanh nghiệp mình. Đồng thời từng doanh nghiệp cũng cần nắm rõ quy trình rủi ro, tự mình lập ra những biện pháp giảm thiểu tổn thất cho bản thân.
Kết luận
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, cùng với việc gia nhập WTO tháng 11 năm 2006 đã đánh dấu những bước đổi mới trong giai đoạn phát triển của kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn hội nhập này, các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro, những cạnh tranh gay gắt, những biến động khôn lường của thị trường quốc tế. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế là những bước tiến của thị trường chứng khoán, khi các công ty đua nhau niêm yết lên sàn, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tích cực tham gia vào việc mua bán chứng khoán.
Chính vì vậy các nhà đầu tư luôn mong muốn có được một công cụ bảo hiểm rủi ro cho mình cũng như các ngân hàng, các công ty chứng khoán luôn cố gắng hoàn thiện, đa dạng hoá sản phẩm phái sinh, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Tuy đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam gần 7 năm nhưng các công cụ tài chính phái sinh vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp đón nhận. Một phần các doanh nghiệp còn chưa hiểu rõ về công cụ này do tính phức tạp của nó, một phần chưa từng được giới thiệu về sản phẩm phái sinh từ những người cung ứng và phần còn lại đã biết nhưng lại “ngại” sử dụng. Đây là một trong những hạn chế đối với việc phát triển thị trường các công cụ phái sinh ở Việt Nam.
Để thị trường chứng khoán phái sinh đi vào ổn định và phát triển, điều kiện cần đối với Việt Nam là hoàn thiện các văn bản, hệ thống pháp luật, đưa ra những quy định về việc sử dụng các công cụ phái sinh. Chỉ khi nào có một môi trường pháp lý ổn định thì hoạt động giao dịch phái sinh mới có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, sự ổn định kinh tế, chính trị, sự phát triển của thị trường tài chính trong nước là điều kiện đủ để hoàn thành mục tiêu đưa ra ở Đại hội Đảng X là phát triển thị trường chứng khoán cả về chất và lượng năm 2010.
Tuy nhiên, để những nỗ lực từ phía cơ quan nhà nước thực sự phát huy được kết quả mong muốn thì cần có sự đồng tình ủng hộ của tất cả các thành phần đã và sẽ tham gia thị trường đó là : các doanh nghiệp, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư chứng khoán, các ngân hàng thương mại, các nhà đầu tư...để có thể khai thác được hiệu quả những tiềm năng vốn có của nền kinh tế, giúp thị trường chứng khoán phái sinh Việt nam thực sự phát huy được vai trò của nó: là công cụ bảo hiểm rủi ro an toàn nhất cho các nhà đầu tư.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo chứng khoán Việt Nam
2. Báo đầu tư chứng khoán
3. Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán
4. Ts Lê Đăng Doanh, “Làm gì để TTCK phát triển vững chắc”, Báo đầu tư chứng khoán (số ra ngày 12/02/2007).
5. Giáo trình chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Hà Nội.
6. Ths Lê Mai Linh, Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, 2003.
7. Hoàng Thị Bích Loan, “Thị trường chứng khoán Việt Nam – những vấn đề còn tồn tại và một số giải pháp”, Tạp chí Ngân hàng (số ra tháng 1/2007).
8. PGS.TS Nguyễn Đăng Nam (11/2006), “Phân tích và đầu tư chứng khoán”, NXB Tài chính, Hà Nội.
9. Quản trị rủi ro tài chính, NXB Thống kê, Hà Nội.
10. PGS, TS Lê Văn Tề, Ths Lê Thị Xuân Liễu, Phân tích thị trường tài chính, NXB Thống kê, 2000.
11. Ths. Phan Anh Tuấn , “Rủi ro về tỷ giá và biện pháp quản lý”, Tạp chí kinh tế đối ngoại ( Số 21/2006)
12. trang web của ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam.
13. trang web về các văn bản pháp luật Việt Nam.
14. trang web của sở giao dịch chứng khoán Philadelphia.
15. trang web của Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
16. trang web của Ngân hàng ngoài quốc doanh VP Bank
17.
18. Tạp chí tài chính tiền tệ.
19. Tạp chí Ngân hàng
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I. Tổng quan về thị trường chứng khoán phái sinh 4
I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán phái sinh 4
1. Giới thiệu về thị trường chứng khoán phái sinh 4
2. Công cụ tài chính phái sinh 5
2.1. Khái niệm 5
2.2. Các loại chứng khoán phái sinh cơ bản 7
2.2.1. Hợp đồng kỳ hạn 7
2.2.2. Hợp đồng tương lai 8
2.2.3. Quyền chọn: Mua và bán 12
2.2.4. Hợp đồng hoán đổi 14
2.2.5. Một số loại chứng khoán phái sinh khác 14
II. ứng dụng của các công cụ tài chính phái sinh 15
1. Quản trị rủi ro 15
2. Thông tin hiệu quả hình thành giá 17
3. Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả 17
3.1. Lợi thế 17
3.2. Hiệu quả 18
III. Kinh nghiệm phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
của một số nước 19
1. Sự ra đời của thị trường quyền chọn 19
2. Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia 21
Chương II. Đánh giá về quá trình phát triển thị trường
chứng khoán phái sinh ở Việt Nam 23
I.Sự hình thành và triển vọng của thị trường chứng khoán phái sinh ở
Việt Nam 23
1. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam 23
2.Quá trình hình thành và sử dụng các công cụ tài chính phái sinh
ở Việt Nam 26
2.1. Giao dịch kỳ hạn 26
2.2. Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng 27
2.3. Giao dịch hoán đổi 28
2.4. Repo chứng khoán 31
2.5. Đánh giá về mức độ áp dụng công cụ tài chính phái sinh
ở Việt Nam 31
3.Triển vọng phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh
Việt Nam 32
3.1. Sự tham gia tích cực vào thị trường kỳ hạn trên thế giới 32
3.2. Phát triển sở giao dịch hàng hoá nội địa 34
II.Đánh giá hiện trạng thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam 35
1.Cơ sở pháp lí 35
1.1. Đối với phái sinh ngoại hối và phái sinh vàng 35
1.1.1. Quyết định số 17/1998/QĐ - NHNN 35
1.1.2. Quyết định số 2554/QĐ - NHNN 36
1.1.3. Thông tư số 03/2008/TT – NHNN 36
1.2. Quy định về bán khống ở Việt Nam 37
1.2.1. Luật chứng khoán 2006 37
1.2.2. Công văn số 557/UBCK 38
2. Các thành viên tham gia thị trường chứng khoán phái sinh
ở Việt Nam 38
2.1. Ngân hàng thương mại 38
2.1.1. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) 38
2.1.2. Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) 39
2.2. Công ty chứng khoán 39
2.2.1. Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương 40
2.2.2. Công ty chứng khoán quốc tế SISecurities 40
3. Các công cụ chứng khoán phái sinh ở Việt Nam 41
3.1. Phái sinh đối với ngoại hối 41
3.1.1. Hợp đồng kỳ hạn 41
3.1.2. Hợp đồng quyền chọn 44
3.1.3. Hợp đồng hoán đổi 46
3.2. Phái sinh vàng 48
3.3. Repo chứng khoán 50
III. Những tồn tại, hạn chế của việc phát triển thị trường chứng khoán
phái sinh Việt Nam 51
Chương III. Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán
phái sinh tại Việt Nam 55
I. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam 55
1. Tổ chức thị trường 55
2. Thành viên tham gia 56
2.1. Ngân hàng thương mại 56
2.2. Các công ty chứng khoán 56
3.Công cụ phái sinh 57
4. Quản lý từ phía Nhà nước 57
II. Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
ở Việt Nam 58
1. Sự phát triển của nền kinh tế 58
2. Sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam 59
3. Sự phát triển trong nhận thức của các nhà đầu tư 60
3.1. Các tổ chức đầu tư 60
3.2. Các nhà đầu tư cá nhân 60
4. Sự hoàn thiện của hệ thống chính sách 61
III. Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường chứng khoán
phái sinh Việt Nam 61
1. Đối với Chính phủ 61
2. Đối với doanh nghiệp 67
Kết luận 71
Danh mục tài liệu tham khảo 73
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu về chứng khoán phái sinh.doc