Trong tác động của dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền cung ứng có thể dễ
dàng nhận ra rằng việc giới hạn cụ thể lượng tiền mỗi ngân hàng muốn đưa vào lưu thông
không phải là việc khó, bởi vì mỗi ngân hàng đơn lẻ chỉ có thể cho vay trong phạm vi dự
trữ của nó mà thôi. Trong khi đó, đối với cả hệ thống ngân hàng thì việc tôn trọng giới
hạn trên trở lên bấp bênh, cho dù NHTƯ có thể thực hiện tốt vai trò phát hành nhưng lại
khó có thể kiểm soát được một cách chính xác mức độ tạo tiền của toàn hệ thống, bởi lẽ,
ngoài tỷ lệ dự trữ bắt buộc ra thì khả năng tạo tiền còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác.
Mỗi ngân hàng có nhiều lý do để duy trì dự trữ của mình ở mức độ cao hay thấp, đó là:
đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng trong từng thời kỳ; lý do về sự an toàn cần phải
cân nhắc mỗi khi quyết định cho vay; lý do quản lý nợ lành mạnh. Ngoài những giới
hạn xuất phát từ chính bản thân ngân hàng thì những ràng buộc bên ngoài tác động đến
quá trình tạo tiền cũng rất đáng kể như: nhu cầu tín dụng của khách hàng có khả năng
hoàn trả; nhu cầu giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tê. Một trong những biểu hiện
của vấn đề này là sự vượt trội quá mức về dự trữ ở các ngân hàng so với dự trữ bắt buộc,
với tình trạng này sẽ gần như vô hiệu hóa khả năng chi phối quá trình cung ứng tiền của
NHTƯ. Và ngược lại, trong trường hợp nền kinh tế có xu hướng tăng trưởng, cầu về vốn
có xu hướng tăng, các ngân hàng thỏa mãn nhu cầu này bằng cách giảm mức dự trữ hiện
hữu và vì thế, khối cung tiền tệ được mở rộng nằm ngoài dự kiến của NHTƯ. Vì khả
năng gây ảnh hưởng của dự trữ bắt buộc là rất lớn cho nên, một mặt, cần quan tâm đến
những nhân tố tác động đến quá trình tạo tiền để có những ứng xử kịp thời và hiệu quả,
bên cạnh đó, cũng cần quan tâm và tìm ra phương pháp thích hợp để quản lý dự trữ nói
chung của các NHTM.
13 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4291 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về công cụ dự trữ bắt buộc và việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông qua công cụ dự trữ bắt buộc trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN CÁ NHÂN
MÔN HỌC: TIỀN TỆ - NGÂN HÀNG
Đề tài: Tìm hiểu về công cụ dự trữ bắt buộc và việc điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thông qua công cụ dự trữ bắt buộc trong thời gian qua?
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Hai Hằng
Sinh viên thực hiện: Hoàng Huy Phục
Lớp: K09404A
MSSV: K094040589
12/2012
1
MỤC LỤC
I. DỰ TRỮ BẮT BUỘC ............................................................................................. 2
1. Khái niệm ............................................................................................................. 2
2. Tác động của dự trữ bắt buộc ............................................................................. 3
a. Dự trữ bắt buộc và tiềm năng tín dụng của các ngân hàng .............................. 3
b. Dự trữ bắt buộc và lãi suất ................................................................................ 3
c. Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng ................................................... 3
3. Ưu và nhược điểm của công cụ Dự trữ bắt buộc ................................................ 4
a. Ưu điểm: ............................................................................................................ 4
b. Nhược điểm: ...................................................................................................... 4
II. VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM THÔNG QUA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC TRONG THỜI GIAN
QUA................................................................................................................................ 6
III. TÀI LIÊU THAM KHẢO: ................................................................................... 12
2
I. DỰ TRỮ BẮT BUỘC
1. Khái niệm
Dự trữ bắt buộc (Required Reserves)là một phần số dư tiền gửi các loại mà các
ngân hàng thương mại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTƯ.
Trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM sử dụng các khoản tiền gửi của khách
hàng để cho vay hoặc đầu tư một cách khá linh hoạt. Nếu như các khoản cho vay đều có
thời hạn, một ngày hay cho vay qua đêm cũng đều có thời hạn, thậm chí thời hạn có thể
còn kéo dài hơn dự kiến vì đến hạn thu nợ, có thể ngân hàng vẫn không thu được nợ -
trong khi đó, đối với nguồn tiền gửi của khách hàng thì các ngân hàng lại rất khó khăn
trong việc kiểm soát thời hạn, ngay cả khi gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì khách hàng gửi tiền
vẫn có thể rút tiền trước khi đến hạn; tình trạng tiền cho vay ra chưa thu hồi về nhưng
khách hàng gửi tiền lại có nhu cầu rút tiền trước hạn là hiện tượng luôn có thể... Điều này
cho thấy rủi ro thanh khoản luôn là mối lo của các NHTM. Mặt khác, trên thực tế, thời
hạn cho vay còn dài hơn thời hạn của nguồn tiền gửi, nói khác đi là kỳ hạn gửi tiền của
mỗi loại tiền gửi không phải lúc nào cũng là cơ sở để xem xét và quyết định thời hạn cho
vay, mà ngân hàng có thể khai thác tính ổn định tương đối của tổng số dư tiền gửi không
kỳ hạn để cho vay có thời hạn, dùng nguồn tiền gửi thời hạn ngắn để cho vay với thời hạn
dài hơn... nên nguy cơ rủi ro cao hơn. Khi rủi ro thanh khoản xảy ra, ngân hàng mất khả
năng thanh toán - các khoản tiền gửi ở các ngân hàng sẽ nhanh chóng “bay hơi”, không
những thế nó còn làm “bay hơi” giá trị tài sản và các khoản dự trữ của ngân hàng đó và
theo phản ứng dây chuyền thì rủi ro này sẽ làm chấn động toàn hệ thống ngân hàng. Vì
thế, như một kết quả cần phải có, các nhà phân tích đã chỉ ra rằng các NHTM phải để dự
trữ bắt buộc vì đây chính là kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong thời kỳ
hoảng loạn.
Việc bắt buộc các NHTM phải để dự trữ tối thiểu cần thiết lần đầu tiên được sử
dụng ở Mỹ vào năm 1913, với mục đích là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các
NHTM. Vào những năm 30 của thế kỷ 20, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc dần được sử dụng phổ biến ở các nước khác. Và lúc này, người ta
nhìn nhận dự trữ bắt buộc trong một vai trò khác - dự trữ bắt buộc là công cụ để NHTƯ
các nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế. Nói cách khác, dự trữ bắt buộc
làm tăng khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với quá trình cung ứng tiền. Thông qua việc
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ có thể tác động vào nguồn dự trữ, thay đổi vốn khả
dụng của các ngân hàng để làm thay đổi tiềm năng tín dụng của các ngân hàng - nhưng
NHTƯ không phải là người quyết định việc sử dụng các tiềm năng ấy.
3
Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế kỷ 20, song
ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ làm quen với khái niệm này vào năm
1990. Tháng 5/1990, sau khi “Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam”,
“Pháp lệnh Ngân hàng, các hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” được ban hành thì
các NHTM Việt Nam mới bắt đầu thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc.
2. Tác động của dự trữ bắt buộc
a. Dự trữ bắt buộc và tiềm năng tín dụng của các ngân hàng
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng
của mỗi ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng
thấp thì phần chênh lệch còn lại - vốn khả dụng của bản thân ngân hàng này càng cao,
khả năng cho vay ra của ngân hàng càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp
tín dụng cho một đối tượng nào đó thông qua chuyển khoản của ngân hàng - hoạt động
này mở ra một nguồn vốn mới cho một ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này
chính là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của
toàn hệ thống được nhân lên nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên
chính là hệ số nhân tiền. Qua đó cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với
nguồn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được
tiềm năng tín dụng, còn thực sự nó có làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại
phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng của các ngân hàng và nhu cầu tín dụng của
nền kinh tế.
b. Dự trữ bắt buộc và lãi suất
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng
cho nên lãi suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của các
ngân hàng ở NHTƯ không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi dự trữ bắt buộc
tăng lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các
NHTM. Điều này được các ngân hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho
vay trên thị trường tín dụng.
c. Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng tín
dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà NHTƯ muốn
đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ được nâng lên nếu
4
NHTƯ thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát và ngược
lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn,
việc làm cho người lao động thì NHTƯ sẽ hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tác động ngược chiều đến khối lượng tiền cung ứng thể hiện qua công thức tính hệ số
nhân tiền:
Có thể nói sự tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền trong nền
kinh tế là khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến quy mô, khối lượng tín
dụng mà cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác động không đơn giản chỉ làm tăng hay
giảm đơn thuần mà làm thay đổi theo số lần về tiền trong lưu thông.
3. Ưu và nhược điểm của công cụ Dự trữ bắt buộc
a. Ưu điểm:
- DTBB tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng không
phân biệt với những ngân hàng có điều kiện kinh doanh như nhau.
- NHTW chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng thông qua việc thay đổi
tỉ lệ DTBB.
- DTBB là công cụ đầy quyền lực của NHTW, tác động nhanh và mạnh đến lượng
tiền cung ứng. Bởi lẽ, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về tỉ lệ DTBB thì mức dự trữ dư thừa
và lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ thay đổi và dẫn đến thay đổi theo cấp số nhân
của khối lượng tiền cung ứng.
- Ngoài ra, DTBB còn được sử dụng để thiết lập mối quan hệ giữa việc tạo tiền của
hệ thống ngân hàng với nhu cầu tái cấp vốn tại NHTW vì bằng việc năng tỉ lệ DTBB lên
cao có thể buộc các ngân hàng phải tìm đến nguồn vốn từ NHTW.
b. Nhược điểm:
- Do DTBB là công cụ quyền lực mạnh nên nó thiếu tính linh hoạt. Vì chỉ cần một
sự thay đổi dù lớn hay nhỏ về tỉ lệ DTBB cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động của toàn hệ
thống ngân hàng.
5
- Có thể khiến cho một số ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp rơi vào tình
trạng mất "khả năng thanh toán ngay". Đồng thời, việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ
bắt buộc khiến cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lý thanh
khoản, làm phát sinh tăng chi phí.
- NHTW sẽ khó có thể thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ vì như
đã nói ở trên, DTBB tác động nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng.
- DTBB còn được coi là môt vô hình đối với các NHTM vì các ngân hàng phải giữ
lại một bộ phận tiền gửi cho yêu cầu DTBB mà không được sử dụng để kiếm lời trong
khi vẫn phải trả lãi huy động cho bộ phận này.
Với phân tích trên, dường như nhược điểm của công cụ này có phần lớn hơn ưu
điểm. Và đó là nguyên nhân chính của xu hướng ngày càng ít sử dụng công cụ này trong
điều tiết tiền tệ. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay ở nhiều quốc gia, công cụ này vẫn
được coi như một công cụ đắc lực trong điều hành chính sách tiền tệ trong sự kết hợp
hiệu quả với các công cụ khác.
6
II. VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM THÔNG QUA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC
TRONG THỜI GIAN QUA
NHTƯ các nước thường sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong vai trò là công cụ điều
hành chính sách tiền tệ, giúp NHTƯ kiểm soát hệ số nhân tiền và trên cơ sở đó kiểm soát
khối lượng tiền cung ứng, do đó, tùy vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ
mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau. Điều này được chứng minh rất rõ ở
nước ta trong thời gian qua:
Bảng 01: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Namtừ tháng 01/2008-
01/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc
(VND) Văn bản
11%- 5% 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%- 4% 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
8%- 2% 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
6%- 2% 2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
5%- 1% 3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
3% - 1% 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009
Nguồn:
Bảng 01 cho thấy từ tháng 01/2008 - 01/2011 đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được
điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng
tiền tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng
cho vay, kích thích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực
cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTƯ đang muốn điều
chỉnh hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho
7
ngân hàng của dự trữ bắt buộc vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó, không những thế, nó
còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt
buộc:
- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền gửi mà
nghĩa vụ dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức độ ổn định
càng cao và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại
tiền gửi này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn.
- Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường quy mô
của các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi. Về điều này, ta có thể tham khảo yêu cầu
tỷ lệ dự trữ bắt buộc của FED.
- Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác nhau
nên NHTƯ có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác nhau
(Xem bảng 03).
Bảng 02: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹtháng 12/2010
Reserve Requirements (Yêu cầu dự trữ)
Liability Type (Loại trách nhiệm) Requirement (Yêu cầu)
% of
liabilities
(% Của
các khoản
nợ)
Effective
date
(Ngày có
hiệu lực)
Net transaction accounts (Tài khoản giao dịch thuần)
$0 to $10.7 million ($0 đến $ 10.700.000) 0 30/12/2010
More than $10.7 million to $58.8 million (Nhiều hơn $
10.700.000 đến 58.800.000 $)
3 30/12/2010
More than $58.8 million (Nhiều hơn $ 58.800.000) 10 30/12/2010
Nonpersonal time deposits Nonpersonal (tiền gửi thời gian) 0 27/12/1990
Eurocurrency liabilities Eurocurrency (nợ) 0 27/12/2010
Reserve Requirements (Yêu cầu dự trữ)
Liability Type (Loại trách nhiệm) Requirement (Yêu cầu)
% of Effective
8
liabilities
(% Của
các khoản
nợ)
date
(Ngày có
hiệu lực)
Net transaction accounts (Tài khoản giao dịch thuần)
$0 to $10.7 million ($ 0 đến $ 10.700.000) 0 30/12/2010
More than $10.7 million to $58.8 million (Nhiều hơn $
10.700.000 đến 58.800.000 $)
3 30/12/2010
More than $58.8 million (Nhiều hơn $ 58.800.000) 10 30/12/2010
Nonpersonal time deposits Nonpersonal (Tiền gửi thời gian) 0 27/12/1990
Eurocurrency liabilities Eurocurrency (nợ) 0 27/12/2010
Nguồn:
Bảng 03: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79
Loại hình tổ chức tín dụng
379/QĐ-NHNN 79QĐ-NHNN
Tiền gửi
VND không
kỳ hạn và
dưới 12
tháng
Tiền gửi
VND từ 12-
24 tháng
Tiền gửi
ngoại tệ
không kỳ hạn
và dưới 12
tháng
Tiền gửi
ngoại tệ từ
12-24 tháng
1. NHTM nhà nước, NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, công ty cho thuê tài
chính.
3% 1% 4% 2%
2. Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam 1% 1% 3% 1%
3. NHTMCP nông thôn, ngân
hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân
dân.
1% 1% 3% 1%
4. Tổ chức tín dụng khác. 0% 0% 0% 0%
Nguồn:
Ngoài ra, tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn có thể quy định tùy theo quy mô và mức độ an
toàn chung của mỗi ngân hàng...
Khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ Trung Quốc cũng căn cứ vào quy mô
của ngân hàng, NHTM lớn chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn NHTM có quy mô nhỏ.
9
Ngày 27/11/2010, để kiềm chế lạm phát, NHTƯ Trung Quốc đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
từ 17,5% áp dụng cho ngân hàng lớn lên 18%; và từ 15,5% lên 16% áp dụng cho ngân
hàng nhỏ. Đồng thời với tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ Trung Quốc cũng tăng lãi suất
cơ bản từ 5,56% lên 5,81%. (www.thesaigontimes.vn)
Ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại
tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì
một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa
các ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp
dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ
01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau:
Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn ngày
08/12/2010, NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460; 461 về việc áp
dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp
và nông thôn cao theo Thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010 của NHNN. Theo
đó, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/20 so
với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam, NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ phần Kiên Long, NHTM cổ
phần Mê Kông được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc
thông thường. (www.sbv.gov.vn). Với quy định này NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở
mới cho việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tùy thuộc vào
đối tượng đầu tư của các NHTM.
Một số gợi ý khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc: Ngoài việc khai thác các góc độ
khác nhau của tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thiết nghĩ trong quá trình sử dụng công cụ này để
điều hành chính sách tiền tệ NHTƯ nên quan tâm đến một số vấn đề sau:
Dự trữ bắt buộc có thể duy trì dưới dạng tiền mặt tại quỹ các NHTM. Theo Điều 14
“Luật NHNN Việt Nam” ban hành năm 2010 thì “Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức
tín dụng phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”, với khái niệm này,
toàn bộ dự trữ bắt buộc buộc phải gửi tại NHNN. Trên thực tế, ngoài tiền gửi ở NHNN,
các NHTM luôn phải có dự trữ tiền dưới dạng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền
thường xuyên của khách hàng. Nhất là trong thời kỳ lạm phát cao, mặc dù dự trữ bắt
buộc theo quy định thường đã cao hơn bình thường nhưng ngoài dự trữ bắt buộc thì đế
đối phó với lạm phát, bản thân các ngân hàng còn phải đối phó với tình trạng rút tiền bất
thường của khách hàng, cho nên các ngân hàng còn phải để dự trữ tiền mặt nhiều hơn.
Thực ra tiền mặt tại các NHTM cũng là một dạng dự trữ và mức độ dự trữ tiền mặt cũng
có tác động đến hệ số nhân tiền của toàn hệ thống ngân hàng không khác gì tiền dự trữ
10
bắt buộc gửi ở NHNN. Nếu khi tính toán hệ số nhân tiền gửi để kiểm soát mức độ mở
rộng quy mô tiền gửi chỉ căn cứ vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc gửi tại NHNN sẽ không phản
ánh đúng thực tế đang diễn ra - hệ số nhân tiền thực tế sẽ luôn nhỏ hơn hệ số nhân tiền dự
báo và như vậy, khối lượng tiền cung ứng thực tế thấp hơn so với mức mong muốn.
Dự trữ bắt buộc chỉ là yếu tố quyết định hệ số nhân tiền tệ trong dự báo, dự trữ
thực của các NHTM mới thực sự quyết định hệ số nhân tiền trong thực tế.
Trong tác động của dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền cung ứng có thể dễ
dàng nhận ra rằng việc giới hạn cụ thể lượng tiền mỗi ngân hàng muốn đưa vào lưu thông
không phải là việc khó, bởi vì mỗi ngân hàng đơn lẻ chỉ có thể cho vay trong phạm vi dự
trữ của nó mà thôi. Trong khi đó, đối với cả hệ thống ngân hàng thì việc tôn trọng giới
hạn trên trở lên bấp bênh, cho dù NHTƯ có thể thực hiện tốt vai trò phát hành nhưng lại
khó có thể kiểm soát được một cách chính xác mức độ tạo tiền của toàn hệ thống, bởi lẽ,
ngoài tỷ lệ dự trữ bắt buộc ra thì khả năng tạo tiền còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác.
Mỗi ngân hàng có nhiều lý do để duy trì dự trữ của mình ở mức độ cao hay thấp, đó là:
đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng trong từng thời kỳ; lý do về sự an toàn cần phải
cân nhắc mỗi khi quyết định cho vay; lý do quản lý nợ lành mạnh... Ngoài những giới
hạn xuất phát từ chính bản thân ngân hàng thì những ràng buộc bên ngoài tác động đến
quá trình tạo tiền cũng rất đáng kể như: nhu cầu tín dụng của khách hàng có khả năng
hoàn trả; nhu cầu giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tê... Một trong những biểu hiện
của vấn đề này là sự vượt trội quá mức về dự trữ ở các ngân hàng so với dự trữ bắt buộc,
với tình trạng này sẽ gần như vô hiệu hóa khả năng chi phối quá trình cung ứng tiền của
NHTƯ. Và ngược lại, trong trường hợp nền kinh tế có xu hướng tăng trưởng, cầu về vốn
có xu hướng tăng, các ngân hàng thỏa mãn nhu cầu này bằng cách giảm mức dự trữ hiện
hữu và vì thế, khối cung tiền tệ được mở rộng nằm ngoài dự kiến của NHTƯ. Vì khả
năng gây ảnh hưởng của dự trữ bắt buộc là rất lớn cho nên, một mặt, cần quan tâm đến
những nhân tố tác động đến quá trình tạo tiền để có những ứng xử kịp thời và hiệu quả,
bên cạnh đó, cũng cần quan tâm và tìm ra phương pháp thích hợp để quản lý dự trữ nói
chung của các NHTM.
Dự trữ bắt buộc - công cụ khá hiệu nghiệm trong việc kiểm soát lạm phát
Dĩ nhiên là các công cụ dù là lãi suất, tỷ giá, thị trường mở hay tỷ lệ dự trữ bắt
buộc... thì việc sử dụng chúng đều nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ, song
mỗi công cụ có đặc điểm riêng và vì thế, nó có những mặt mạnh và mặt yếu riêng. Khác
với các công cụ khác, dự trữ bắt buộc là công cụ luôn được khuyến cáo về mức độ tác
động cực mạnh của nó - làm thay đổi “số lần” khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông
nên phải sử dụng một cách thận trọng. Thận trọng nghĩa là không thay đổi một cách đột
11
ngột với một mức độ lớn chứ không đồng nghĩa với không sử dụng, chính trong khi khai
thác nó một cách thận trọng thì đây lại là một điểm mạnh của dự trữ bắt buộc. Nếu quan
sát diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ của
Trung Quốc sẽ thấy được mức độ quan tâm của NHTƯ Trung Quốc đối với công cụ này
trong việc kiềm chế lạm phát. Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ
bắt buộc tới 6 lần, lần gần nhất trong năm này được điều chỉnh vào ngày 20/12/2010, tỷ
lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh tăng lên 0,5% đạt mức 18,5% đối với những ngân
hàng có quy mô lớn. Tháng 01/2011, lần đầu tiên trong năm tỷ lệ dự trữ bắt buộc được
nâng thêm 0,5% (vào ngày 15/01/2011); ngày 18/2/2011, tỷ lệ dự trữ bắt buộc lại một lần
nữa được nâng 0,5% để đối phó với lạm phát hiện đang là 4,9%, nâng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc lên 19,5%.
Ở nước ta, để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng nhằm kiểm soát lạm
phát, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm 2007 (từ 5% lên 10%)
và năm 2008 - khi tình hình dần bình ổn trở lại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều giảm
dần một cách linh hoạt. Tuy nhiên, gần như suốt năm 2009 và 2010, kể cả những tháng
đầu năm 2011 - lạm phát không còn là nỗi lo mà là thực tế đang phải đối mặt thì tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với VND vẫn không thay đổi (Xem bảng 01). Nên chăng khai thác công
cụ này một cách thận trọng để kiểm soát lạm phát, nâng cao hiệu quả điều hành chính
sách tiền tệ - điều chỉnh tăng từ từ, không cần tạo sự bất ngờ và nếu cần, vẫn áp dụng
việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc.
12
III. TÀI LIÊU THAM KHẢO:
- PGS.,TS.Nguyễn Thị Nhung - “Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn” (Tạp
chí Ngân hàng Số 5/2011)
- www.sbv.gov.vn
- www.federalreserve.gov
- www.thesaigontimes.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k104_k094040589_hi_8643.pdf