Qua ba tháng ngắn ngủi thực tập tại Ngân hàng, tôi luôn nhận thấy sự tất bật làm việc nhiệt tình, tận tụy trong công việc của toàn thể nhân viên trong Ngân hàng. Trong thời gian, tới hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính, là nghiệp vụ chủ yếu mang lại cho hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển-Sở Giao Dịch II nói riêng. Do đó công tác nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro càng phải được thắt chặt hơn nữa trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt.
73 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2261 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam-Sở giao dịch II, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao.
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân chia theo thời hạn như sau:
- Nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn từ 181-360 ngày có khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn trên 360 ngày trở lên : nợ khó đòi.
Do việc phân loại chất lượng tín dụng được tính theo thời gian như vậy, nên những khoản tín dụng ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì rằng những khoản nợ đã quá hạn do khách hàng không còn khả năng thanh toán, nhưng vì một lý do nào đó được Ngân hàng gia hạn nợ, thì khoản nợ trên sẽ trở thành nợ trong hạn và không được trích dự phòng, khách hàng không được xếp vào diện cần theo dõi. Hoặc như khoản nợ còn trong hạn, nhưng khách hàng kinh doanh không hiệu quả, khả năng trả nợ mong manh, nhưng vẫn chưa được xếp vào loại nợ xấu để tiến hành những biện pháp phòng ngừa. Do đó, để có được những giải pháp tốt nhất nâng cao chất lượng tín dụng nhằm phòng ngừa rủi ro, trước hết ta hãy xem xét thực trạng tình hình cho vay và các chỉ số nợ quá hạn của Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam trong giai đoạn 2002-2004.
2.4.3.1-Tình hình cho vay :
@ Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế:
Bảng 2.4.2: Bảng cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
- Tỷ trọng cho vay DNNN
90,32%
75%
65%
-Tỷ trong cho vay ngoài QD
(Nguồn: Phòng kế hoạch tín dụng)
9,68%
25%
35%
Theo bảng tổng hợp trên ta nhận thấy: cùng với sự gia tăng của tổng doanh số cho vay, doanh số cho vay theo từng thành phần kinh tế cũng tăng trưởng theo, tuy nhiên tốc độ gia tăng ở mỗi thành phần kinh tế qua các năm lại không đồng đều. Cụ thể :
+ Ở năm 2002, doanh số cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 9,68% thì sang năm 2003 tỷ lệ ấy là 25%, và đến năm 2004 đã chiếm 35% trong tổng doanh số cho vay.
+ Tuy nhiên, doanh số cho vay các DNNN cũng gia tăng qua các năm, nhưng tỷ trong của nó trong tổng doanh số cho vay lại giảm dần. Cụ thể là: tỷ trọng cho vay đối với các DNNN ở năm 2002 là 90,32% thì sang năm 2003 tỷ lệ ấy là 75% và đến năm 2004 chỉ còn 65%.
Điều này cho thấy: trong 3 năm qua, Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II đã đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Việc nay cũng phù hợp với đề án tái cơ cấu của Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II nhằm đa dạng hoá khách hàng, phân tán rủi ro.
Hiện nay, Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II đã từng bước chuyển dịch cơ cấu cho vay. Theo hướng tăng dần doanh số cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài Quốc Doanh, tập trung cho vay các DN vừa và nhỏ. Chủ động từng bước chọn lựa khách hàng, đa dạng hoá khách hàng chứ không tập trung cho vay ưu tiên đối với các DNNN như trước đây. Chủ trương tăng dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ cá thể cũng phù hợp với xu hướng phát triển chung của thời đại. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trong kinh doanh, ngân hàng nên tập trung lựa chọn khách hàng, cho vay các khách hàng có thiện chí và năng lực trả nợ khi vay tiền để giảm thiểu rủi ro một cách tốt nhất cho ngân hàng.
2.4.3.2-Tình hình về dư nợ :
@ Dư nợ phân theo thời hạn cho vay :
Bảng 2.4.3 : Bảng dư nợ cho vay theo thời hạn
Đơn vị tính : tỷ đồng
Chênh lệch 02/03
Chênh lệch 03/04
2002
2003
2004
Mức
Tỷ lệ %
Mức
Tỷ lệ %
-Ngắn hạn
1491.95
2019.54
2655
527.59
35,36
635.46
31,47
- Trung dài hạn
1158.05
1450.46
1845
292.41
25,25
394.54
27,20
Tổng
2650
3470
4500
820
30,94
1030
29,68
(Nguồn: phòng kế hoạch- tín dụng)
- Tổng dư nợ của Ngân hàng tăng đều qua các năm. Tổng dư nợ của ngân hàng năm 2002 là: 2650 tỷ đồng thì sang năm 2003 là: 3470 tỷ đồng, tăng ở mức 820 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 30,94%; đến năm 2004 tổng dư nợ cho vay là: 4500, tăng 1030 tỷ đồng so với năm 2003, tương ứng với tỷ lệ gia tăng là: 29,68%.
- Cùng với sự gia tăng của tổng dư nợ, tỷ lệ biến động về dư nợ cho vay của từng loại cho vay cũng khác nhau. Cụ thể :
+ Năm 2002, tổng dư nợ cho vay ngắn hạn là 1491,95 tỷ đồng thì sang năm 2003 là 2019,54 tỷ đồng. Tăng 527,59 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ 35,36%. Đến năm 2004, tổng dư nợ cho vay ngắn hạn là 2655 tỷ đồng, tăng 635,46 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ 31,47% so với năm 2003.
+ Tổng dư nợ trung và dài hạn năm 2002 là 1158,05 tỷ đồng, ở năm 2003 là 1450,46 tỷ đồng. Tăng 292,41 tỷ đồng,tương ứng với tỷ lệ 25,25% so với năm 2002. Sang năm 2004 tổng dư nợ trung và dài hạn là 1845 tỷ đồng, tăng 394,54 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ 27,2% so với na7m 2003.
Đơn vị tính : tỷ đồng
Bảng 2.4.4 : Bảng cơ cấu tỷ trọng dư nợ cho vay theo thời hạn
2002
2003
2004
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
-Ngắn hạn
1491,95
56,3
2019,54
58,2
2655
59
-Trung-dài hạn
1158,05
43,7
1450,46
41,8
1845
41
Tổng
2650
100,00
(Nguồn: Phòng kế hoạch-tín dụng)
3470
100,00
4500
100,00
Nhìn chung, tỷ trọng dư nợ cho vay theo thời hạn ở Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II không thay đổi nhiều qua các năm. Điều này chứng tỏ Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II đã chủ động được thành phần khách hàng vay vốn. Trong cho vay đã cân bằng được giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn. Từ đó phần nào đã đáp ứng được nhu cầu vốn vay của khách hàng phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đặc biệt, trong 3 năm 2002-2004, ngân hàng đã đáp ứng vốn kịp thời cho các khoản vay trung và dài hạn đầu tư vào các công trình trọng điểm, dự án lớn xây dựng cơ sở hạ tầng.
@ Dư nợ phân theo ngành nghề :
Bảng 2.4.5: Bảng cơ cấu dư nợ theo ngành nghề
Cơ cấu dư nợ theo ngành nghề
Đơn vị
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
- Xây lắp
%
52
58
62
- Sản Xuất
%
19
21
15
- Thương mại
%
29
16
13
- BĐS
(Nguồn: Phòng kế hoạch-tín dụng)
%
4
10
Nhìn chung tình hình dư nợ theo ngành nghề tại Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam-Sở GD II được quản lý và phân phối khá phù hợp với tình hình kinh tế chung hiện nay trên địa bàn thành phố. Điều này cho thấy, ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực trong cơ cấu khách hàng, từ việc phục vụ chủ yếu cho nhóm khách hàng xây lắp là chủ yếu đến nay Sở đã phân phối một cách cân bằng giữa các ngành nghề.
Biểu đồ: Biểu đồ cơ cấu dư nợ phân theo ngành nghề
2.4.3.3-Tình hình nợ quá hạn :
Tương ứng với sự gia tăng của doanh số cho vay và dư nợ, nợ quá hạn ở Sở Giao Dịch II trong ba năm qua 2002-2004 cũng có những biến động lớn. Tổng dư nợ quá hạn ở năm 2002 là sang năm2003 là , tăng ở mức , tương đương với tỷ lệ tăng %.
Đơn vị tính : tỷ đồng
Bảng 2.4.6: Bảng tổng hợp đánh giá về rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam-Sở GD II
2002
2003
2004
Tổng dư nợ
2650
3470
4500
Tổng nợ quá hạn
69,96
104,1
180
Tổng tài sản có
2950
4000
4600
Hệ số NQH = NQH/Tổng dư nợ x 100%
2,64%
3,00%
4,00%
Hệ số rủi ro TD = Tổng DN/Tổng TS có
(Nguồn: Phòng kế hoạch-tín dụng)
89,93%
86,75%
97,82%
Qua phân tích tình hình hoạt động tín dụng tại Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II trong ba năm qua 2002-2004 ta có thể đưa ra một số kết luận sau :
Những thành tựu đạt được:
- Cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, doanh số cho vay của Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II đã tăng đều qua các năm, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của thị trường, doanh số cho vay ở năm sau luôn tăng cao gần gấp đôi so với năm trước.
- Song hành với tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay là sự tăng trưởng của tổng dư nợ tín dụng. Tổng dư nợ tín dụng tăng trung bình hằng năm xấp xỉ 30%. Tuy nhiên e4 Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II kiểm soát chặt chẽ.
- Có chính sách cho vay hợp lý, bảo đảm tính linh hoạt trong hoạt động thực tế, tôn trọng quyền tự quyết của BGĐ, đảm bảo mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng.
- Có quy trình tín dụng khá chi tiết và rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch giữa Ngân hàng và khách hàng, giữa nhân viên tín dụng với khách hàng.
- Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II dần dần chuyển dịch cơ cấu danh mục cho vay : tăng dần tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cá thể, giảm tỷ trọng cho vay đối với các DNNN. Ngày càng gia tăng tỷ trọng cho vay Thương Mại.
Những tồn tại:
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác tín dụng nêu trên, Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-Sở GD II còn gặp một số vướng mắc sau:
- Có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay ở mức ngang và cao hơn so với quy định hiện nay của NHNN là 3% năm. Tuy nhiên ngân hàng đã luôn duy trì một khoản dự phòng để bù đắp rủi ro.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh nhưng đồng thời kèm theo đó là tốc độ gia tăng nợ quá hạn cũng nhanh, nhanh nhiều hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Điều này dễ làm tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng nếu không có giải pháp phòng ngừa hợp lý.
- Tỷ trọng cho vay đối với các DNNN còn khá cao so với các NHTM trên cùng địa bàn. Kèm theo đó là tỷ lệ nợ quá hạn đối với các khoản cho vay ngắn hạn và cho vay đối với các DNNN chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn.
- Tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng nợ quá hạn còn khá cao.
Chương 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM-SỞ GIAO DỊCH II
3.1-Phân loại đánh giá, nhận diện và xác định mức độ vấn đề :
3.1.1-Phân loại đánh giá rủi ro :
Việc xếp hạng chất lượng các khoản vay được thực hiện cho tất cả các khách hàng để ngân hàng có điều kiện theo dõi và đánh giá cấp độ rủi ro trong từng trường hợp và từ đó phân tích, có phương án xử lý kịp thời. Phân loại rủi ro theo chất lượng khoản vay có thể chia thành 7 nhóm với 2 yếu tố định tính và định lượng. Yếu tố định lượng được đánh giá dựa trên cơ sở cấu phần phân loại khách hàng. Việc phân loại khoản vay được thực hiện ngay sau khi xuất hiện khoản vay.
Bảng 3.1.1: Bảng phân loại rủi ro theo chất lượng khoản vay
Nhóm
Yếu tố
Định tính
Định lượng
Nhóm I
(Chất lượng cao)
- Khách hàng có tiềm lực mạnh, năng lực quản trị tốt, hoạt động hiệu quả, triển vọng phát triển, thiên trí trả nợ tốt. Khách hàng và ngân hàng có mối quan hệ tín dụng tốt và vững chắc.
- Luồng tiền mặt > các khoản công nợ.
- Có đầy đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Khách hàng được xếp nhóm A*, A.
Nhóm II
(Chất lượng tốt)
- Khách hàng có thể bị hạn chế về các nguồn tài trợ nhưng nhìn chung được coi là những đối tượng hấp dẫn đối với Ngân hàng.
- Thực hiện tốt các nghĩa vụ trả nợ, trả lãi đúng hạn.
- Có đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Khách hàng được xếp nhóm A*,A,B
Nhóm III
(Chất lượng đạt yêu cầu)
- Chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tài sản đảm bảo, tuy nhiên, tất cả các tài sản đảm bảo của khách hàng này có thể chuyển đổi được để thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chánh thông qua thanh lý.
- Dòng tiền thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính đủ để đáp ứng nhu cầu hoàn trả các nghĩa vụ tài chính đã xác định rõ, mặc dù có dấu hiệu cho thấy phải trông chờ vào các nguồn thu nhập khác trong trường hợp khẩn cấp.
- Dư nợ lớn hơn so với giá trị thuần của người vay vốn.
Khách hàng được xếp nhóm A,B
NhómIV (Cần theo dõi )
- Xuất hiện một số khoản mục tín dụng quá hạn trả nợ gốc hoặc lãi từ 10 đấn 30 ngày.
- Có dấu hiệu gặp khó khăn trong ngành sản xuất kinh doanh mà khách hàng đang tham gia. Có dấu hiệu tài chính không tốt như : thất thoát trong kinh doanh.
- Khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng phụ thuộc vào khả năng thanh khoản của TSCĐ.
- Thiếu các thông tin tài chính .
- Khoản vay phải gia hạn do khách hàng tạm thời chưa trả được nợ.
- Tài sản đảm bảo chưa đủ cho khoản vay.
Khách hàng được xếp nhóm C,D
Nhóm V
(Kém chất
lượng )
Nhóm khách hàng này có các khoản vay quá hạn trả gốc và lãi vay từ 1 đến 3 tháng.
- Mặc dù chưa thể dự đoán chính xác các thất thoát từ những khoản tín dụng này nhưng những yếu kém phát sinh khó có thể khắc phục như các xu hướng tài chính ngày càng có dấu hiệu xấu đi.
- Tài sản bảo đảm không đủ cho khoản vay.
Khách hàng được xếp nhóm C, D, E
NhómVI (Khó đòi )
- Khách hàng quá hạn trả nợ gốc và lãi trên 3 tháng.
- Khoản tín dụng có thể bị thất thoát lãi thậm chí có thể mất một phần nợ gốc nhưng vẫn có thể hy vọng thu hồi nợ thông qua xử lý TSĐB.
- Tài sản đảm bảo không đủ cho khoản vay.
Khách hàng được xếp nhóm D, E
NhómVII (Mất vốn )
- Khách hàng hoàn toàn không có khả năng trả được nợ.
- Việc thu hồi chỉ có thể thực hiện thông qua giải pháp duy nhất là xử lý TSĐB bằng các vụ kiện pháp lý ra tòa song khả năng thu hồi là rất ít.
Khách hàng được xếp nhóm E, F
3.1.2-Nhận diện rủi ro qua các dấu hiệu cảnh báo và xác định các vấn đề :
a-Nhận diện rủi ro qua các dấu hiệu cảnh báo :
Nhận diện rủi ro qua đó có những giải pháp tối ưu giúp ngăn ngừa và xử lý các khoản tín dụng có rủi ro là khâu quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Sau khi khoản vay phát sinh và được phân loại, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau :
► Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng :
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối liên hệ với Ngân hàng : biểu hiện cụ thể
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với Ngân hàng trong qúa trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục;
- Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gởi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục;
- Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ;
- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần mà không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ;
- Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến mà không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng;
- Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn;
- Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn;
- Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự tính;
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến;
- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất, không còn tồn tại;
- Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác không từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán;
- Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của Ngân hàng;
- Có dấu hiệu sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn;
- Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao, với mọi điều kiện.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng :
Cũng như nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối liên hệ với Ngân hàng, nhóm các dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát ra từ chính hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của cán bộ tín dụng. Nó cũng đòi hỏi các giải pháp và chiến lược xử lý có tính dài hạn hơn. Biểu hiện cụ thể :
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách hàng.
- Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền…
- Thay đổi thường xuyên của tổ chức Ban điều hành;
- Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý;
- Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng từ bỏ các hợp đồng có giá trị nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng có giá trị lớn với các bạn hàng có “tên tuổi” dù lợi nhuận thu về có khả năng đạt thấp hơn; sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt được các hợp đồng lớn, theo đuổi chiến lược “mượn thương hiệu”, “nước nổi thuyền nổi”;
- Xuất hiện dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp : mải mê theo đuổi một sản phẩm không thích hợp về mặt thời gian và năng lực hiện tại mà không chú ý đến các yếu tố khác;
- Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn đến việc đầu tư dự án không có hiệu quả;
- Do áp lực nội bộ dẫn tới tung ra thị trường những sản phẩm dịch vụ quá sớm khi chưa hội đủ các điều kiện chín muồi hoặc đặt ra các hạn mức thời gian kinh doanh, doanh số không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc;
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm, dịch vụ mới;
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước, đặc biệt là tác động của các chính sách thuế, xuất nhập khẩu; thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô: tỷ giá, lãi suất; thay đổi công nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch sản xuất, kinh doanh của khách hàng;
- Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh xảy ra;
- Đối với khách hàng là tư nhân cá thể, có dấu hiệu của người vay bị bệnh kéo dài hoặc chết.
► Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ chính chính sách tín dụng của Ngân hàng , cụ thể gồm:
- Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ: đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng chỉ thông qua thông tin “tĩnh” do khách hàng cung cấp mà thiếu đi các thông tin “động” và các thông tin nhạy cảm từ những kênh thông tin khác, bỏ qua các “nghi ngờ” được phản ánh qua cấu trúc và cơ cấu của số liệu khi phân tích các dữ liệu tài chính, có dấu hiệu che dấu việc “đảo nợ” của khách hàng thông qua việc cấp đều đặn, thường xuyên và liên tục các khoản vay mới hay che dấu “ nợ quá hạn” thông qua việc điều chỉnh kỳ hạn và gia hạn nợ tràn lan, vô lối, thiếu căn cứ xác thực…
- Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng đemlại từ khoản tín dụng được cấp;
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của Ngân hàng;
- Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ Chi nhánh lên Công ty “con” hoạch toán độc lập;
- Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng; không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cố gắng thỏa hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro;
- Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng;
- Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của Ngân hàng;
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng;
- Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các TCTD khác mặc dù biết rõ các khoản tín dụng sẽ cấp tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao.
b-Xác định các vấn đề :
Khi phát hiện thấy các dấu hiệu phát sinh rủi ro, cán bộ tín dụng phải tiến hành ngay các bước xác định mức độ nghiêm trọng của nó và nguyên nhân gây ra rủi ro, đồng thời phải phân loại ngay chất lượng khoản vay, “khoản vay bị hạ xuống nhóm mấy”?.
Xác định nguyên nhân : Ngân hàng phải nghiêm túc xác định rõ nguyên nhân gây nên sự xuống hạn của khoản vay.
* Nguyên nhân do thông tin lừa đảo:
Khi Ngân hàng phát hiện ra khách hàng có thông tin klhông rõ ràng, gian dối thì chắc chắn đang tồn tại một vấn đề nghiêm trọng. Ngân hàng phải xác minh ngay mối quan hệ giữa khách hàng và chủ nợ bao gồm số tiền, các điều kiện nợ nần, tài sản thế chấp và thoã thuận hoàn trả. Đặc biệt không được tiết lộ các thông tin về chủ nợ cho các chủ nợ khác. Nếu khách hàng khai gian hoặc dấu diếm không khai báo về chủ nợ của khách hàng thì Ngân hàng phải có các biện pháp kịp thời để thu hồi tối đa khoản vay trong thời gian sớm nhất.
* Nguyên nhân do khách hàng không chịu hợp tác:
Nếu mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng xấu đi, khách hàng không chịu hợp tác, không cung cấp các báo cáo tài chính … đây là dấu hiệu cảnh báo sự nguy hiểm. Ngân hàng cần phải làm sáng tỏ vấn đề, nếu thật sự xuống cấp về tài chính của khách hàng thì Ngân hàng phải khôn khéo tế nhị thu hồi tối đa khoản nợ.
* Nguyên nhân do suy thoái nền kinh tế hoặc rủi ro do thị trường:
Nếu khoản vay có nguy cơ rủi ro do bị mất thị trường hoặc do nền kinh tế bị suy thoái thì Ngân hàng phải kịp thời xem xét ngay tình trạng tài chính của doanh nghiệp và tài sản thế chấp là yếu tố quan trọng đến an toàn cho khoản vay.
* Nguyên nhân do bất khả kháng do hoả hoạn, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh.
Trường hợp này gây ra mất thu nhập thường xuyên của khách hàng,nhất thiết phải chi nhiều để tái sản xuất kinh doanh. Ngân hàng phải xem xét nghiên cứu kỹ và yêu cầu khách hàng hoàn trả khoản vay bằng các nguồn vốn khác.
* Nguyên nhân do trình độ, năng lực quản lý yếu kém, thiếu trách nhiệm, mất phẩm chất của một số cán bộ Ngân hàng tham gia cấp tín dụng.
* Nguyên nhân do sự thay đổi về chính sách, cơ chế của Nhà nước.
3.2-Một số biện pháp phòng ngừa, khắc phục và xử lý đối với các nhóm dấu hiệu rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng :
3.2.1-Biện pháp phòng ngừa :
Khi hoạt động kinh doanh của khách hàng xuất hiện những dấu hiệu cảnh báo có nguy cơ phát sinh rủi ro do bất cứ một nguyên nhân nào, để phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra, trước hết Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp kiểm tra giám sát bắt buộc. Về nguyên tắc, tất cả các khoản vay có dấu hiệu rủi ro sau khi rà soát bị xếp xuống hạng đều được đặt trong tình trạng theo dõi đặt biệt.
Trong tất cả các trường hợp nếu khoản vay bị xuống hạng, Ngân hàng phải xem xét và lựa chọn các biện pháp phòng ngừa.
3.2.1.1. Quản lý giám sát khoản vay:
Thực hiện ngay việc giám sát và thu thập các báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng cũng như các thông tin về tình hình tài chính và các thông tin cần thiết liên quan khác của khách hàng để có thể giám sát khoản vay một cách chặt chẽ để xem tình hình người vay có dấu hiệu tiến triển tốt hơn không.
Nếu thấy xu thế bất lợi của khách hàng, Ngân hàng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính thường kỳ hơn và phải kiểm tra chi tiết các báo cáo đó để giám sát chặt tình hình, ngay cả khi dấu hiệu bất lợi chưa rõ ràng thì vẫn phải cần nghiên cứu và phân tích.
Khi xác định rõ xu thế bất lợi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, Ngân hàng phải khẩn cấp xác định ngay tính nghiêm trọng của nó, phải xem xét đánh giá nguyên nhân của sự bất ổn này là tạm thời hay do tài chính yếu kém hay do thị trường hay do yếu kém trong quản lý…
3.2.1.2. Rà soát và xem xét lại tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng:
Trong trường hợp khoản vay bị đánh giá xuống hạn, Ngân hàng phải rà soát và đánh giá lại ngay tài sản đảm bảo của khách hàng, việc đánh giá lại tài sản đảm bảo của khách hàng phải đảm bảo thực tế và thận trọng. Ngân hàng cần phải xem xét đánh giá liệu tài sản đảm bảo này có bán được trong điều kiện kinh doanh bình thường thì như thế nào và bán trong điều kiện kinh doanh không bình thường thì như thế nào?
3.2.1.3. Hoàn thiện hồ sơ pháp lý:
Ngân hàng cần rà soát lại ngay hồ sơ pháp lý khoản vay, trong trường hợp hồ sơ pháp lý chưa chặt chẽ hoặc cần phải bổ sung, Ngân hàng cần phải bổ sung đầy đủ một cách tối đa.
3.2.2-Biện pháp khắc phục :
Khi các khoản nợ bị xuống hạng từ hạng 4 xuống hạng 5: Các biện pháp khắc phục sau có thể được áp dụng.
3.2.2.1. Yêu cầu bổ sung tài sản bảo đảm nợ vay:
Ngay khi khoản vay có nguy cơ là có vấn đề, ngân hàng phải tìm mọi cách để tăng thêm tài sản thế chấp, các báo cáo tài chính và các thông tin khác của doanh nghiệp phải được kiểm tra kỹ để xác định có thể bổ sung thêm tài sản thế chấp. Cần xác định tài sản thế chấp có thể bán được hoặc chuyển đổi ngay sang tiền mặt mà không ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của con nợ.
3.2.2.2. Xác định phương án cơ cấu nợ:
Biện pháp này được áp dụng cho các khách hàng được quyết định tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng. Khi Ngân hàng quyết định duy trì mối quan hệ tín dụng với khách hàng này bằng biện pháp cơ cấu lại nợ thì khoản nợ phải được giám sát chặt chẽ. Người vay phải chứng minh được khả năng hoàn trả lãi và gốc khi đến hạn sau khi được cơ cấu lại nợ thì Ngân hàng mới có thể cho cơ cấu lại. Ngân hàng phải phân tích và quyết định cho khách hàng cơ cấu lại nợ để đi đến quyết định theo hướng điều chỉnh nợ, giãn nợ, gia hạn nợ. Chỉ được phép cho cơ cấu lại nợ khi đã nghiên cứu dự đoán kỹ:
- Có khả năng trả nợ từ dòng tiền mặt thông thường.
- Có khả năng trả nợ từ việc bán tài sản hoặc có khả năng trả nợ từ nguồn thu trong tương lai.
Trong tất cả các trường hợp được cơ cấu lại nợ, người vay phải có hồ sơ đề nghị cơ cấu lại nợ với Ngân hàng, bao gồm:
(1). Đề nghị cơ cấu lại nợ bao gồm đề xuất thời hạn và số lượng lãi và gốc được thanh toán.
(2). Kế hoạch và biện pháp trả nợ.
(3). Dự báo thu nhập, lợi nhuận và dòng tiền mặt để thực hiện trả nợ theo lịch đã được cấu trúc lại.
(4). Báo cáo chi tiết về tài sản nợ và tài sản có của người vay, bao gồm cả giá trị thị trường của mỗi tài sản; tên và địa chỉ của các chủ nợ; số lượng mỗi khoản nợ và tài sản thế chấp tương ứng.
(5). Các tài sản thế chấp được đề nghị làm tài sản bảo đảm hoặc tài sản đảm bảo bổ sung cho việc hoàn trả nợ.
Các khoản nợ được cơ cấu lại này vẫn phải được lưu trong danh mục nợ xấu cho đến khi các khoản này được trả theo lịch định. Nếu mức thanh toán tối thiểu được thực hiện thì khoản nợ này mới được rà soát lại và được thăng hạng tương ứng.
3.2.2.3. Thu hồi nợ:
Khi đã rà soát và kết luận khoản vay không thể phục hồi được thì Ngân hàng phải quyết định chiến lược thu hồi nợ, nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- tận thu hồi vốn, nhưng giữ thời gian thu hồi vốn ở mức tối thiểu.
- giảm thiểu chi phí phát sinh trong thu hồi nợ.
- giảm thiểu sự phản ứng của khách hàng.
3.2.3-Biện pháp xử lý :
Khi khoản vay bị xếp xuống hạng 5-6-7 thì Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp xử lý sau:
3.2.3.1. Phát mại tài sản:
Ngân hàng nên cố gắng thuyết phục khách hàng tự nguyện bán tài sản của mình. Nếu khách hàng không có thiện chí thì Ngân hàng sẽ tiến hành bán tài sản cầm cố thế chấp theo sự giám sát và phán quyết của cơ quan pháp luật.
3.2.3.2. Trả nợ thay:Yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay cho khách hàng vay vốn.
3.2.3.3. Khởi kiện: Trong trường hợp cần khởi kiện, Ngân hàng phải khẩn trương hoàn thiện ngay các điều kiện pháp lý cần thiết để khởi kiện khách hàng.
3.2.3.4. Bán nợ: Bán toàn bộ doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp: một trong những quyết định quan trọng là liệu có thể có những chủ sỡ hữu mới có thể chuyển đổi doanh nghiệp để làm ăn có lãi hoặc bơm thêm vốn vào hoạt động kinh doanh để doanh nghiệp có thể tồn tại trong tương lai. Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, có thể bán toàn bộ doanh nghiệp hay một phần doanh nghiệp.
3.2.3.5. Các biện pháp khuyến khích trả nợ: Miễn giảm một phần lãi suất, tính lại lãi, không tính lãi phạt…áp dụng cho các khách hàng có thiện chí trả nợ gốc.
3.2.3.6. Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro:
- Về nguyên tắc, biện pháp này chỉ được áp dụng đối với các khoản nợ xấu: sau khi Ngân hàng đã áp dụng hết các biện pháp khắc phục và xử lý mà vẫn không thu hồi được nợ; hoặc các khoản nợ đã phát mại hết tài sản nhưng vẫn còn chênh lệch âm (-)(cả gốc và lãi); hoặc các khoản vay bị rủi ro do nguyên nhân khách quan mà không thể khắc phục được.
- Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp những khoản rủi ro tín dụng xảy ra làm lành mạnh hoá tài chính của Ngân hàng chứ không có nghĩa là xoá hoàn toàn nợ vay cho khách hàng. Đối với các khoản nợ được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro (chuyển theo dõi ngoại bảng): Những khoản vay có rủi ro sau khi được bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro sẽ được chuyển ra ngoại bảng để theo dõi tận thu, Ngân hàng vẫn phải dùng các biện pháp khắc phục và xử lý để thu hồi nợ.
- Hiện tại về cách thức xử lý rủi ro, Ngân hàng vẫn phải tuân thủ theo quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngay27/11/2000 về việc ban hành Quy định phân loại tài sản “có”, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng.
3.2.3.7. Biện pháp đối với cán bộ Ngân hàng, các bộ phận liên quan trong Ngân hàng:
Nhóm dấu hiệu này liên quan nhiều đến yếu tố chủ quan từ phía Ngân hàng. Ngoài các biện pháp khắc phục và xử lý nêu trên, dựa trên mức độ rủi ro và thiếu xót từ phía cán bộ mà Ngân hàng lựa chọn mức độ xử lý (việc này cũng cần phải dựa vào quy định về Tổ chức cán bộ của Ngân hàng).
- Truy cứu trách nhiệm.
- Bồi thường vật chất.
Sơ đồ 3.1.1: Sơ đồ quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý, giám sát khoản vay
Phân tích tình hình qua các nhóm dấu hiệu
Xếp loại khoản vay
Khoản vay bị xuống hạng
Khoản vay
giữ nguyên hạng
Biện pháp khắc phục
Biện pháp khắc phục
Nhận diện các dấu hiệu cảnh báo
Thu nhập thông tin
Phát mại TS
Trả nợ thay
Các BP khuyến kích trả nợ
Biện pháp khắc phục
Bán nợ
Khởi kiện
Rà soát TSĐB
Hoàn thiện hồ sơ pháp lý
Bổ sung TSĐB
Cơ cấu nợ
Thu hồi nợ
Phân loại khoản vay
Từ nhóm 1 đến nhóm 3
Xuống nhóm 5, 6, 7
Xuống nhóm 4, 5
Xuống nhóm 2, 3
XSRR
Sơ đồ 3.1.2: Sơ đồ xử lý nợ xấu
Khoản vay
Nhóm II
Nhóm III
Nhóm I
Kiểm tra,
phòng ngừa
Nhóm IV
Nhóm V
Biện pháp xử lý
Nhóm VI
Nhóm VII
6 tháng
Khắc phục
3 tháng
1 đến 2 tháng
Theo yêu cầu
Theo yêu cầu
Xử lý
3.3- Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam-Sở Giao Dịch II:
Qua thực tế về phân tích chất lượng tín dụng, rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam-Sở Giao Dịch II , trong ba năm qua, nợ quá hạn vẫn phát sinh và tăng qua các năm. Đây là một điều hiển nhiên vì bất cứ một khoản cho vay nào cũng có một xác suất nhất định là sẽ không thu hồi được nợ. Tuy nhiên, tại Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam-Sở Giao Dịch II, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối cao ( ở năm 2002 tỷ lệ này là 2,64%, qua năm 2003 là 3,00% và sang năm 2004 tỷ lệ này là 4% ). Do đó, làm thế nào để có thể phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro một cách thấp nhất.
Như đã trình bày ở phần một số nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng thì chúng ta đều nhận thấy rằng chất lượng của một khoản tín dụng kém là một trong những nguyên nhân chính để gây ra rủi ro tín dụng và hậu quả của nó làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động an toàn và vững mạnh của một Ngân hàng.
Trong bối cảnh nhu cầu về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội ngày càng tăng, để nâng cao được chất lượng, đạt hiệu quả trong hoạt động tín dụng thì cần phải có nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ. Sau đây, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng tín dụng, phòng ngừa rủi ro.
3.3.1-Xây dựng chính sách cho vay có hiệu quả:
Xây dựng một chính sách cho vay nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng, đồng thời hình thành cơ chế để bảo đảm nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Một chính sách cho vay cần phải có những quy định rõ ràng và phải được truyền đạt đến tất cả các bộ phận liên quan tại Ngân hàng dưới hình thức văn bản cụ thể. Chính sách cho vay có thể bao gồm các yếu tố sau:
Mục tiêu và chiến lược về hoạt động tín dụng Ngân hàng, xác định mức cho vay tối đa đối với các loại khách hàng, các ngành nghề kinh tế và có thể đưa ra xem xét những loại cho vay, những tài sản bảo đảm và loại khách hàng đi vay mà Ngân hàng không muốn thực hiện.
Hướng dẫn chính sách và thủ tục liên quan đến việc tính lãi suất, phí và thời hạn cho vay. Chính sách tín dụng phải xác định được nguyên tắc định lãi suất áp dụng đối với từng loại khách hàng, phù hợp với quy mô của món vay, khoản vay và phương pháp tính lãi tương ứng,…
Xác định rõ mức tăng của các khoản mục cho vay năm nay so với năm trước? Tỷ trọng cho vay so với tài sản có của Ngân hàng.
Nêu rõ các dấu hiệu mà một khoản vay có thể không được hoàn trả đúng hạn và các biện pháp giải quyết cụ thể.
Ngoài ra, chính sách tín dụng có thể phải phân định rõ quyền hạn cho vay đối với các nhân viên tín dụng và hội đồng tín dụng. Chính sách cho vay phải xác định trách nhiệm của nhân viên tín dụng về việc giải quyết một hồ sơ xin vay, mức phán quyết vàtrách nhiệm đối với những hồ sơ vượt quá giới hạn phán quyết của mình. Tương tự như vậy, cũng xác định trách nhiệm của hội đồng tín dụng và cách thức quyết định một hồ sơ xin vay.
Một yếu tố nữa mà chính sách tín dụng nên có là xác định khu vực kinh doanh của mình để tập trung cho vay, đầu tư có hiệu quả và an toàn.
3.3.2-Thực hiện đầy đủ quy trình tín dụng:
Thực hiện đầy đủ qui trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế sai sót, hạn chế khả năng rủi ro và nâng cao chất luợng của từng khoản vay. Tại các NHTM trong hệ thống ngân hàng việt nam, các quy trình tín dụng đã được ban hành tương đối chặt chẽ và cụ thể hoá theo từng loại tín dụng. Tuy nhiên cần phải chi tiết hơn với từng loại cho vay, từng loại khách hàng, cần có các văn bản huớng dẫn chi tiết về hướng dẫn lập tờ trình, hướng dẫn phân tích bản lưu chuyển tiền tệ,… đồng thời phải ngăn chặn việc làm sai, làm không đầy đủ,… gây hậu quả xấu. Trong quá trình thực hiện quy trình tín dụng nên chú ý các vấn đề sau:
Bám sát cơ chế về tín dụng và những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng của Nhà nuớc, nên thường xuyên có sự kiểm tra lẫn nhau trong việc thực hiện quy trình tín dụng.
Nên có những quy định rõ nội dung của từng khâu công việc, trách nhiệm cụ thể của các cán bộ liên quan trong những khâu thẩm định, kiểm soát và xét duyệt cho vay. Tùy theo tình hình, đặc điểm hoạt động của mỗi ngân hàng mà việc phân cấp này phải bảo đảm tính hợp lý, linh hoạt trên cơ sở: phù hợp với mạng lưới hoạt động, trình độ quản lý, quy mô và chất lượng tín dụng của mỗi ngân hàng; đặc điểm, tính chất phức tạp của từng loại khách hàng; đảm bảo cho vay nhanh, chính xác, phát huy tính chủ động cho mỗi cán bộ tín dụng.
Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, làm sai quy trình; nên tránh xu hướng buông lỏng các điều kiện tín dụng trong cạnh tranh để nhằm lôi kéo, thu hút khách hàng có thể dẫn tới không bảo đảm chất lượng tín dụng, tăng nguy cơ rủi ro.
3.3.3-Nâng cao chất lượng công tác thẩm định:
Nâng cao chất lượng thẩm định trên cơ sở đổi mới đồng bộ mô hình tổ chức, hoàn thiện quy chế, quy trình và cách thức tổ chức việc thẩm định.
Thẩm định là khâu quan trọng để giúp Ngân hàng đưa ra các quy định đầu tư một cách chuẩn xác, từ đó nâng cao được chất lượng của các khoản vay, hạn chế nợ quá hạn phát sinh, bảo đảm hiệu quả tín dụng vững chắc. Tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế ở địa phương, địa bàn, từng loại khách hàng và dự án, phương án mà khi thẩm định các dự án, phương án cụ thể, cán bộ tín dụng cần vận dụng, xem xét linh hoạt các quy định trong quy trình thẩm định nhưng phải tuân thủ đầy đủ và chặt chẽ các vấn đề thuộc về nguyên tắc; tránh thẩm định tuỳ tiện, sơ sài hoặc không chính xác, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thẩm định, tái thẩm định.
Thường xuyên cập nhật các thông tin về kinh tế- kỹ thuật, các thông tin dự báo phát triển của các ngành, giá cả trên thị trường, tỷ suất lợi nhuận bình quân của một ngành, của các loại sản phẩm, v.v… để phục vụ cho công tác thẩm định và ra quyết định cho vay.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thêm về nghiệp vụ và kinh nghiệm thẩm định, cho vay cho cán bộ tín dụng.
Nên có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng và hợp lý hơn: nên tách biệt bộ phận quan hệ, cho vay khách hàng với bộ phận quản lý rủi ro tín dụng để phần nào hạn chế của việc quá tải cho cán bộ tín dụng, đồng thời cũng tạo điều kiện khách quan hơn trong công tác thẩm định – quyết định cho vay – thu hồi nợ.
Quyết định cho vay theo hướng ngày càng mang tính chuyên nghiệp hoá cao. Tại Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển-Sở Giao Dịch II đã xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng để phân loại đối với khách hàng (chủ yếu là doanh nghịêp). Kết quả xếp hạng sẽ được sử dụng để quyết định giới hạn tín dụng cho khách hàng, xác định mức độ rủi ro để có mức trích lập dự phòng cho hợp lý. Ngoài ra, đối với các dự án lớn, phức tạp thì Ngân hàng đã xem xét tập trung thông qua một hội đồng thẩm định (hội đồng tín dụng) có đủ số lượng các cán bộ có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm thực tế để bảo đảm năng lực xem xét đánh giá tương đối chuẩn xác về các mặt nội dung của các dự án.
Trong công tác thẩm định, cần chú trọng hơn nữa công tác thẩm định phi tài chính.
Chúng ta nên biết rằng, ngay cả những bản nghiên cứu dự án được lập hoàn hảo nhất cũng không bảo đảm sự thành công cho dự án nếu không có được khả năng quản lý thành thạo của người chủ dự án. Sự khác biệt, một cách cơ bản, giữa thất bại và thành công của một dự án chính là kỹ năng quản lý của người chủ dự án trong việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát và theo dõi mọi mặt của dự án. Do đó, chúng ta cần phải đánh giá một cách thích đáng và đưa ra nhận xét về khả năng quản lý, uy tín, tư cách, tính trung thực và ý thức trả nợ của bên vay, của người chủ dự án.
Thực trạng hiện nay đa số nhân viên tín dụng chỉ chú trọng thực hiện đúng quy trình tín dụng, thẩm định kỹ và có những nhận xét thích đáng về các báo cáo tài chính, tài sản bảo đảm rồi quyết định cho vay hay không cho vay. Điều này là cần thiết nhưng chưa đủ vì nếu chỉ như thế thì nhân viên tín dụng chỉ mới bảo vệ được con người khi có rủi ro xảy ra chứ chưa bảo vệ được tài sản cho Ngân hàng. Do đó, thiết nghĩ vấn đề đánh giá, thẩm định về uy tín, năng lực quản lý của chủ dự án, thiện chí trả nợ của người vay là việc mà mỗi tổ chức tín dụng, mỗi Ngân hàng, mỗi nhân viên tín dụng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa.
3.3.4-Thực hiện đầy đủ các quy định về bảo đảm tiền vay:
Bảo đảm tiền vay là cần thiết trong một hợp đồng tín dụng. Bảo đảm tiền vay sẽ làm giảm bớt tổn thất cho Ngân hàng khi khách hàng vì lý do nào đó không thanh toán được nợ cho Ngân hàng, nó là động lực thúc đẩy khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên cán bộ tín dụng cần nên nhớ là bảo đảm tiền vay không thể thay thế cho khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Do đó, đừng bao giờ chấp thuận một khoản vay mà lại mong đợi nguồn trả nợ cuối cùng là việc thanh lý bắt buộc một tài sản nào đó hay là trái quyền (quyền đòi tiền) đối với một bảo lãnh mà đã chấp nhận như một việc bảo đảm cho khoản vay, món vay.
Để thực hiện tốt vấn đề bảo đảm tiền vay, Ngân hàng nên lựa chọn để áp dụng các hình thức bảo đảm thích hợp đối với từng loại cho vay, từng loại khách hàng và phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình dựa vào các văn bản pháp qui của Ngân hàng cấp trên, của NHNN qui định. Có thể chú ý một số vấn đề sau:
+ phân loại kỹ khách hàng và loại tài sản bảo đảm để quy định mức bảo đảm, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng, vừa bảo đảm an toàn. Đối với khách hàng có tín nhiệm mới có thể xem xét cho vay không có bảo đảm, hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đối với tài sản, cần xem xét khả năng phát mại, xử lý, mức độ rủi ro,… để quy định mức cho vay tối đa.
+ về thủ tục trong bảo đảm tiền vay: nên lập hợp đồng rõ ràng, đầy đủ, đồng thời phải xác định rõ về việc xử lý tài sản. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi ký kết hợp đồng bảo đảm, cần có sự tham gia đầy đủ, chính xác của các chủ sở hữu tài sản và những người thừa kế, đồng sở hữu tài sản.
3.3.5-Công tác quản lý và xử lý nợ:
Định kỳ hạn thu nợ và lãi tiền vay phù hợp: sẽ giúp khách hàng trả nợ thuận lợi hơn, hạn chế trường hợp không có đủ tiền trả nợ đến hạn hoặc có nguồn thu nhưng chưa đến hạn trả, khách hàng có thể sử dụng vào việc khác.
─ Để định kỳ hạn trả nợ phù hợp, ngân hàng dựa vào 4 căn cứ cơ bản:
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư.
Khả năng trả nợ và thu nhập của khách hàng.
Nguồn vốn cho vay của chính ngân hàng.
─ Để thực hiện tốt việc đôn đốc thu hồi nợ và lãi đến hạn, cần làm tốt công tác quản lý hồ sơ, lập sổ sách theo dõi khách hàng một cách chặc chẽ, có hệ thống. Đồng thời kết hợp với bộ phận kế toán cho vay thông qua việc cung cấp danh sách các khoản nợ đến hạn để phục vụ thu hồi hoăc xử lý tín dụng.
─ Ngân hàng thường xuyên phân loại các khoản nợ để đề ra biện pháp thu hồi, xử lý phù hợp vơi tình hình thực tế của từng khách hàng, từng khoản vay.
─ Công tác đôn đốc, thu hồi nợ gắn liền với công tác đối chiếu, kiểm tra, kiểm soát trong hoạt động tín dụng.
Thực hiện các biện pháp thu hồi nợ phù hợp với từng khoản nợ quá hạn: Đôn đốc, thu hồi nợ kết hợp với việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn, tình hình tài chính, tài sản bảo đảm,… để có biện pháp thích hợp, kịp thời giúp đỡ khách hàng giải quyết khó khăn tài chính, trả nợ cho ngân hàng.
Thực hiện các biện pháp xử lý nợ thích hợp đối với từng khoản vay: các biện pháp xử lý nợ theo quy định hiện nay có thể thực hiện bao gồm:
+ Gia hạn nợ.
+ Điều chỉnh kỳ hạn nợ.
+ Miễn giảm tiền lãi vay đối với khách hàng bị tổn thất tài sản hình thành từ vốn vay do các nguyên nhân khách quan, nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ gốc và phần lãi còn lại, có điều kiện lập lại quan hệ tín dụng bình thường.
+ Đối với khách hàng có nợ quá hạn do nguyên nhân bất khả kháng, có khả năng trả nợ và cần vốn để khôi phục sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể xem xét tạm khoanh nợ cũ, cho vay thêm để khách hàng vượt qua khó khăn, có điều kiện trả nợ ngân hàng.
+ Đối với khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng, tuỳ mức độ vi phạm, có thể xử lý tạm ngừng cho vay, chấm dứt cho vay hoặc khởi kiện trước pháp luật.
Khai thác tài sản bảo đảm nợ vay:
+ Tiến hành các bước và biện pháp xử lý tài sản phù hợp với thực trạng từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở là các quy định tại Nghị định 178 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
+ Để giảm bớt chi phí những vẫn bảo đảm hiệu quả, nên đặc biệt quan tâm xử lý tài sản đảm bảo theo các phương thức đã thoã thuận ghi trong hợp đồng bảo đảm tiền vay.
+ Việc xử lý tài sản đảm bảo cần tiến hành khẩn trương, kiên quyết nhằm nhanh chóng giải quyết vốn vay bị ứ đọng. Trong thời gian chưa xử lý được tài sản, Ngân hàng có thể có các biện pháp thích hợp để thu giữ, khai thác, sử dụng các tài sản đó nhằm tạo nguồn thu nợ.
3.3.6-Yếu tố con người trong hoạt động tín dụng:
Cần phải nhận thức rằng cho vay thương mại là một nghệ thuật hơn là một ngành khoa học và tự mình phải thu hút, thuê, giữ lại những cán bộ cho vay vừa có kỹ năng vừa có năng lực về kỹ thuật. Do đó, nên có chính sách tuyển dụng cán bộ một cách công bằng và hợp lý để có thể thu hút được những người thực sự giỏi về làm việc cho Ngân hàng. Ngoài ra cần có các chính sách về đãi ngộ hấp dẫn, thưởng phạt nghiêm minh để giữ cán bộ.
Trên đây là một số giải pháp để có thể nâng cao chất lượng tín dụng nhằm phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, để thực hiện được các giải pháp đó thì cần phải có sự hỗ trợ, thực hiện từ nhiều phía, đặc biệt là từ Nhà nước và chính bản thân mỗi Ngân hàng. Sau đây, tôi xin mạnh dạng đưa ra một vài kiến nghị.
3.4-Một số kiến nghị :
3.4.1-Với ngân hàng :
Qua ba tháng ngắn ngủi thực tập tại Ngân hàng, tôi luôn nhận thấy sự tất bật làm việc nhiệt tình, tận tụy trong công việc của toàn thể nhân viên trong Ngân hàng. Trong thời gian, tới hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính, là nghiệp vụ chủ yếu mang lại cho hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển-Sở Giao Dịch II nói riêng. Do đó công tác nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro càng phải được thắt chặt hơn nữa trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để thực hiện được điều này tôi xin đề xuất một vài kiến nghị với Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển-Sở Giao Dịch II như sau:
Thống nhất nhận thức và nhất quán trong việc thực hiện chính sách tín dụng với tầm nhìn dài hạn.
Chủ động xây dựng một hệ thống các chỉ số và giới hạn có tính cảnh báo trước về các cạm bẫy và nguy cơ rủi ro cao cần phòng tránh như những lãnh vực Ngân hàng không được cho vay thêm vì rủi ro cao hoặc đã đến ngưỡng (giới hạn cho vay đối với một ngành, một vùng cụ thể để phân tán rủi ro).
Quan tâm đúng mức đến đa dạng hoá, hiện đại hoá các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng khác; tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ phi tín dụng. Đây là điều kiện tăng thu nhập từ dịch vụ, giảm áp lực tăng trưởng tín dụng đơn thuần, phòng ngừa rủi ro.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư, đa dạng hoá khách hàng. Không tập trung cho vay một loại khách hàng, một ngành hàng mà cần mở rộng đối tượng khách hàng, mở rộng đối tượng cho vay, mở rộng cho vay tiêu dùng, đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay phát triển kinh tế tư nhân, cho vay nông nghiệp, nông thôn…
Hợp tác và cạnh tranh hợp pháp là một điều khoản quạn trọng trong luật các tổ chức tín dụng mà các NHTM phải quan tâm, phối hợp thực hiện với các hình thức đồng tài trợ nhằm tăng năng lực thẩm định, tăng khả năng cung ứng vốn, tăng khả năng giám sát vốn vay và có thể phân tán được rủi ro khi có mất mát xảy ra.
Ngân hàng nên tổ chức, củng cố lại bộ phận phòng tín dụng theo hướng dần dần chuyên môn hoá bộ phận tiếp xúc khách hàng và bộ phận quản lý khoản vay, nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín dụng trong khi phải phát triển tín dụng, thực hiện việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng.
Tổ chức xét phân loại khách hàng, xác định giới hạn tín dụng cho từng khách hàng, chọn lựa giao dịch với khách hàng có uy tín, kinh doanh hiệu quả.
Tích cực thu hồi nợ tồn đọng làm giảm bớt áp lực tăng thu, bù chi.
Tăng thu dịch vụ: nâng cao trình độ, năng lực nhận thức của cán bộ về nghiệp vụ, công nghệ và kỹ năng chăm sóc khách hàng.
3.4.2-Với nhà nước :
NHNN cần rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao.
Tiếp tục lộ trình sắp xếp, cải cách mạnh mẽ lại các DNNN để có thể phân loại, đánh giá chính xác về năng lực quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp.
Tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường bảo hiểm tín dụng để có thể giảm thiểu phòng ngừa và phân tán rủi ro tín dụng. Cần có các chính sách thích hợp để thị trường chứng khoán nước ta phát triển mạnh mẽ và sôi động hơn nữa nhằm làm giảm sức ép lên Ngân hàng trong việc cấp vốn hoạt động cho doanh nghiệp.
Cơ chế, chính sách của Nhà nước phải được đổi mới theo hướng cho phép các tổ chức tín dụng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro hiện được trích theo nợ “trong hạn” và “quá hạn” là không hợp lý mà cần phải được tính toán theo mức độ rủi ro của khoản vay.
Cần tổ chức thiết lập hệ thống các tiêu chuẩn để đánh giá về hiệu quả kinh tế của các ngành kinh tế, tạo cơ sở thuận lợi cho Ngân hàng thẩm định, đánh giá khách hàng, chu trình đầu tư,… một cách thích đáng.
Các ngành chức năng cần tạo điều kiện hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ, nếu có xảy ra tranh chấp thì sử dụng luật dân sự, không nên hình thức hoá các quan hệ tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng là hành trang pháp lý cao nhất buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng theo đúng pháp luật.
PHẦN KẾT LUẬN
Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người, nó là những tình huống bất trắc xảy ra mà người ta không lường hết được dẫn đến tổn thất. Và trong hoạt động tín dụng thì nguy cơ không thu được nợ, xác suất khách hàng không trả nợ gốc và lãi vay khi đến hạn là luôn tồn tại. Tuy nhiên, con người không thể khuất phục, nhúng nhường trước những rủi ro đó mà phải luôn đối mặt và có những giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu nguy cơ xảy ra rủi ro, nhằm giảm thiểu tổn thất.
Qua đề tài này, tôi xin được kết luận một vài vấn đề sau :
♦ Hoạt động tín dụng phải luôn bảo đảm thực hiện theo nguyên tắc thị trường, đi vay để cho vay, lãi suất cho vay bảo đảm bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi.
♦ Tín dụng thì phải luôn bảo đảm hai nguyên tắc : sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thõa thuận trong hợp đồng tín dụng.
♦ Cần phát triển thêm các sản phẩm phi tín dụng, nâng cao dần chất lượng của các sản phẩm này để có thể giảm bớt áp lực đang đè nặng lên công tác tín dụng.
♦ Để có thể phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng thì : mỗi cán bộ tín dụng cần phải quán triệt và thực hiện đúng những chủ trương, chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng;thực hiện đúng và đầy đủ quy trình nghiệp vụ tín dụng; thường xuyên nâng cao trình độ, nghiệp vụ, đạo đức; cán bộ tín dụng phải thực sự có cái tâm trong công tác phạuc vụ khách hàng.
Muốn có một khoản tín dụng tốt cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật và có trực giác nhạy bén. Bởi vì, thông qua việc lựa chọn và đào tạo có chú trọng đến nghệ thuật cho vay cho cán bộ tín dụng có năng lực, các ngân hàng có thể dần dần cải thiện danh mục các khoản đầu tư và lấy lại uy tín của mình là một người bảo vệ tiền gửi cho công chúng, vững mạnh về tài chính và an toàn trong hoạt động.
Để có thể giải thích sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội thì cần phải hiểu được nguyên nhân của nó để từ đó có những giải pháp, biện pháp giải quuyết thích hợp. Đó là mong muốn lớn nhất của con người và tôi cũng thế. Tuy nhiên, mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thành được đề tài, nhưng vì trình độ hiểu biết còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Rất mong được sự quan tâm và góp ý của quý thầy cô cùng các bạn đọc!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Tình Hình Hoạt Động Tín Dụng Và Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam-Sở Giao Dịch II.doc