Như vậy, lạm phát năm 2012 đã được kiềm chế dưới một con số và gần xấp xỉ mức lạm phát 6,52% của năm 2009 và thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và 18,13% của năm 2011
Như vậy, từ năm 2008 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn và biểu hiện tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%).
Nhìn lại năm 2011, tỷ lệ lạm phát là 18,13%. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
35 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4742 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình suy thoái kinh tế của Việt Nam hiện nay và các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẻ không ảnh hưởng nhiều nhưng nó lại chính là nguyên nhân gây ra sự gia tăng đột biến của giá nguyên liệu đầu vào.
VD: Các cuộc bạo loạn tại Trung Đông, Bắc Phi và Libya hồi đầu năm 2011 đe dọa nguồn cung dầu toàn cầu và kéo giá tăng vượt 100 USD/thùng.
Các yếu tố trung lập
Ngoài những yếu tố ngoại sinh kể trên, chúng ta cần xem xét những các yếu tố được xếp vào loại trung lập (vừa mang tính nội sinh, vừa mang tính ngoại sinh):
Sự sai lầm trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Cũng như trường phái Áo và trường phái tiền tệ, Krugman cũng chỉ trích các chính phủ. Ông cho rằng chính phủ các nước trên thế giới đã sai lầm trong các chính sách nhằm khôi phục và kích thích nền kinh tế của mình.
VD: Cuộc khủng khoảng nợ công đang diễn ra tại châu Âu.
Kỳ vọng của người dân và sự khủng hoảng niềm tin
Khi một trong các nguyên nhân trên diễn ra, kỳ vọng về thu nhập của người dân sẽ giảm, họ sẽ gia tăng tiết kiệm. Với mức độ suy giảm ngày càng nghiêm trọng của kỳ vọng sẽ dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin.
Hệ quả của suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế tạo ra những thách thức, nhưng bên cạnh đó nó cũng đem đến những cơ hội cho nền kinh tế:
Thách thức từ suy thoái kinh tế
Vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh: Việc thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng để quyết định sự thành công của nền kinh tế. Nhưng trong giai đoạn suy thoái, việc cắt giảm đầu tư do tâm lý lo sợ của các nhà đầu tư nước ngoài là không thể tránh khỏi. Mặt khác các khoản viện trợ cũng giảm do suy thoái là tình hình chung của tất cả các quốc gia.
Đầu tư và tiêu dùng trong nước giảm mạnh: Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, tiêu dùng trong nước đều bị sụt giảm do thu nhập khả dụng giảm và rủi ro đầu tư tăng cao đồng thời dòng vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế, các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về do lo ngại rủi ro đầu tư.
Bất ổn cán cân thanh toán:
Suy thoái kinh tế dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng về nhu cầu nhập khẩu trên thế giới do người tiêu dùng trên thế giới thắt chặt chi tiêu dẫn đến hoạt động xuất khẩu ra thị trường quốc tế bị suy giảm. Xét phương trình:
CA = X – M + NIA + NTR
Với: CA: cán cân tài khoản vãng lai
X: xuất khẩu
M: nhập khẩu
NIA: chuyển nhượng ròng (như viện trợ cho nước ngoài, đóng góp ngân sách cho hiệp hội kinh tế mà quốc gia đang xét là thành viên…)
NTR: thu nhập tài sản ròng (như lợi nhuận từ hoạt động đầu tư, tiền lãi cổ phiếu, tiền lãi trái phiếu… tạo ra khi công dân của một nước có những tài sản sinh lợi ở một nước khác)
Do X↓, M↓ → CA bị ảnh hưởng, mà xét phương trình
BOP = CA – KA
Với BOP: cán cân thánh toán
KA: cán cân tài khoản vốn
Do đó, BOP cũng bị ảnh hưởng.
Tốc độ tăng trưởng giảm: Khi suy thoái kinh tế xuất hiện, việc một loạt các hoạt động kinh doanh buộc phải giải thể là điều không thể tránh khỏi, đồng thời sự sụt giảm trong tiêu dùng, đầu tư, thâm hụt cán cân thương mại dẫn đến GDP của nền kinh tế sụt giảm hơn nữa, hậu quả tất yếu là tăng trưởng kinh tế chậm lại.
AD = C + I + G + X – M
C↓, I↓, (X-M)↓ → AD↓. Để thị trường cân bằng thì Yt↓. Mà Yt ↓ dẫn đến Gt↓
Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao: suy thoái kinh tế làm cho tiêu dùng giảm mạnh và hàng tồn kho của các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến, dẫn đến sự thu hẹp sản xuất của các doanh nghiệp do tổng cầu giảm, do đó cầu về lao động giảm, các doanh nghiệp thực hiện cắt giảm nhân công và làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Khi suy thoái kinh tế thường dẫn đến tình trạng thất nghiệp chu kỳ.
Giảm phát: Việc cắt giảm chi tiêu khi suy thoái kinh tế xảy ra làm cho suy thoái càng nặng nề hơn dẫn đến giảm phát. Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Nguyên nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, có thể dùng sơ đồ AD-AS để minh họa điều này. Ban đầu tổng cầu tương ứng với đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế là điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế và so với điểm cân bằng cũ E, sản lượng và mức giá chung đều giảm
Vấn đề an sinh xã hội: Suy thoái kinh tế tác động tiêu cực lên nền kinh tế dẫn đến xu hướng bất bình đẳng về thu nhập và phân hóa giàu nghèo trong xã hội có khả năng gia tăng. Đồng thời gây ra những bất ổn trong xã hội do tội phạm tăng.
Sự suy sụp của hệ thống tài chính và các thị trường bong bóng
Sự suy sụp của hệ thống tài chính: Suy thoái kinh tế xảy ra làm cho tình hình tài chính củng có nhiều bất ổn, các nhà đầu tư bắt đầu gặp khó khăn về dòng tiền do vòng xoáy nợ nần gây ra, làn song bán tháo do không có đối tác nào có thể bán tại mức giá chào bán cao được niêm yết trước đó, dẫn đến một sự suy giảm thanh khoản nặng nề và sụp đổ bất ngờ theo chiều thẳng đứng của thị trường tài chính, làm cho giá cổ phiếu giảm mạnh, nhà đầu tư hoảng sợ, thị trường chứng khoán đi xuống và chứng khoán bị bán ra ồ ạt. Bên cạnh việc có những tác động tiêu cực lên thị trường chứng khoán, suy thoái kinh tế cũng làm cho các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, một số ngân hàng mất khả năng thanh khoản, có thể gây ra sự sụp đổ của các ngân hàng do nợ xấu tăng lên, người vay vốn không còn khả năng trả nợ và người gửi tiền hoảng loạn đua nhau rút tiền gởi, làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng
Sự suy sụp của các thị trường bong bóng: Các thị trường bong bóng trước suy thoái như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản sẽ có nguy cơ tan vỡ sau một thời gian tăng trưởng quá nóng.
Các cơ hội từ suy thoái
Suy thoái là cơ hội đối với các nước đang phát triển, thời điểm này các nước đang phát triển có thể tiếp cận với những quy trình sản xuất công nghệ cao do hiện tượng giảm phát mang lại.
Bên cạnh đó đây còn là cơ hội để cải tổ lại các doanh nghiệp tổ chức làm ăn kém hiệu quả đã tồn tại lâu nay, một cơ hội để thanh lọc lại và tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế.
Sự phân chia lại ảnh hưởng quyền lực kinh tế trên thế giới: những lý do kinh tế đã từng là yếu tố quyết định cán cân quyền lực giữa các nước. Những nước phục hồi nhanh và phát triển được tiềm lực kinh tế mạnh sẽ chiếm vị trí quan trọng hơn trong trật tự quyền lực mới.
Giải pháp chung cho suy thoái kinh tế
Chính sách tài khóa
Sau những năm 1930, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá bởi cuộc đại suy thoái, trên cơ sở học thuyết kinh tế của Keynes, các nước đã áp dụng chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô với chính sách tài khóa là chủ đạo.
Đối với chính sách tài khóa, thực tiễn chống khủng hoảng ở các nước cho thấy, khi chính sách tiền tệ trở nên “hụt hơi” trong vai trò tác động vào việc mở rộng cung tiền và kích thích kinh tế thì Chính phủ nhiều nước chuyển sang sử dụng chính sách tài khóa. Đặc biệt, để đối phó với những cú sốc kinh tế thì chính sách tài khoá vẫn phát huy được vai trò sức mạnh vượt trội của nó, như trong cuộc khủng hoảng ở Nhật vào những năm 1990, gần nhất là việc đối phó của các nước với khủng hoảng tài chính thế giới 2008 - 2009.
Ở giai đoạn đầu, khi đưa ra những giải pháp về chính sách tài khóa nhằm mục tiêu khôi phục nền kinh tế suy thoái, người ta đều dự kiến rằng tình trạng suy thoái sẽ kéo dài, do đó, chính sách tài khóa sẽ có đủ thời gian phát huy tác dụng.
Chính sách tài khóa được thực hiện theo hai hướng: Thắt chặt và nới lỏng. Thắt chặt hay nới lỏng chính sách tài khóa được thực hiện qua các công cụ như: chi tiêu ngân sách, thuế.
Chính sách tiền tệ
Từ những năm 1980 trở lại đây, chính sách tiền tệ trở nên giữ vai trò rõ rệt hơn bởi vì:
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng chính sách tài khoá dựa trên cơ sở học thuyết lợi thế tương đối của D. Ricardo là không hiệu quả;
Thứ hai, chính sách tiền tệ có thể duy trì khoảng cách ổn định và nhỏ nhất giữa mức sản lượng thực tế với mức sản lượng tiềm năng;
Thứ ba, ở các nước phát triển, hình thành xu thế tiến tới ổn định và giảm dần khối lượng cho vay của chính phủ, còn ở các nước đang phát triển thì sự hạn chế các khoản vay nợ nước ngoài đã làm giảm khả năng thực thi chính sách tài khoá chống khủng hoảng;
Thứ tư, đỗ trễ thời gian trong thực tiễn xây dựng và thực thi chính sách tài khoá, và hiện nay các chu kỳ suy thoái kinh tế ngày càng trở nên ngắn hơn, đã làm cho những giải pháp của chính sách tài khoá không thể kịp thời phát huy được tác dụng;
Cuối cùng là chính sách tài khoá ngày càng bị chi phối bởi lợi ích của các thế lực chính trị nhiều hơn so với chính sách tiền tệ. Hơn nữa, trong những thời kỳ kinh tế tăng trưởng, người ta vẫn hướng tới chính sách tài khoá thận trọng, ngay cả trong trung hạn, các nền kinh tế đang phát triển vẫn ưu tiên sử dụng hệ thống các công cụ tự điều chỉnh mà không chấp nhận những giải pháp bất thường.
Không nằm ngoài xu hướng chung của thế giới, ở Việt Nam trong những năm qua, chính sách tiền tệ được sử dụng như là công cụ chủ yếu để điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Điều này có thể thấy rõ trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ của NHNNVN. Có hai hướng để điều hành chính sách tiền tệ:
Các công cụ của chính sách tiền tệ được tiến hành theo hướng thắt chặt và sử dụng trần lãi suất để kiềm chế lạm phát như tăng dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc; điều chỉnh lãi suất cơ bản; tăng lãi suất tái cấp vốn; và tăng lãi suất chiết khấu; tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Còn chính sách tiền tệ nới lỏng được sử dụng cho các thời kỳ chặn đà suy thoái kinh tế để duy trì mục tiêu tăng trưởng hỗ trợ lãi suất, giảm lãi suất như hạ lãi suất cơ bản; giảm lãi suất chiết khấu & lãi suất tái cấp vốn; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Điều tiết kinh tế vĩ mô hiệu quả - sự bảo đảm của ổn định kinh tế
Để ổn định kinh tế cần kết hợp cả hai chính sách tài khóa và tiền tệ một cách hợp lý. Việc lý giải về kết quả sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trong các cuộc khủng hoảng vừa qua còn rất nhiều điều phải bàn, nhưng có điều đã rõ là cần phải điều chỉnh chính các cơ chế thực thi chính sách kinh tế vĩ mô.
Thứ nhất, NHTW đặc biệt ở các nước đang phát triển cần thực thi chính sách tiền tệ minh bạch, ổn định giá, ổn định tỷ lệ lạm phát, góp phần khắc phục nguyên nhân cơ bản của tình trạng mất ổn định kinh tế vĩ mô là mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, từ đó làm giảm tình trạng dễ bị tổn thương trong điều kiện kinh tế thế giới có biến động.
Thứ hai, cần phối hợp sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu với các công cụ điều hành khác, bởi vì lãi suất chiết khấu không phải là công cụ có thể giải quyết vấn đề đòn bẩy quá mức và rủi ro, cũng như sự chênh lệch quá mức của giá một số tài sản so với các chỉ tiêu cơ bản. Do đó, cần tăng giá trị các hệ số bảo đảm vốn nếu đòn bẩy của các ngân hàng quá lớn, cần qui định mức thanh khoản tối thiểu nếu thanh khoản thấp, định giá thấp hơn giá trị của bất động sản khi cấp tín dụng thế chấp trong điều kiện cần giảm giá bất động sản, để hạn chế chạy đua lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất về mức hợp lý nên áp dụng mức lãi suất trần cho vay thay cho trần lãi suất huy động, nên áp dụng giới hạn tăng trưởng tín dụng nếu cung tiền tăng nóng… Các công cụ này sẽ tỏ ra hiệu quả hơn lãi suất chiết khấu để xử lý những mất cân đối nhất định trong hệ thống tài chính và ngăn cản các nhà đầu tư lao vào các dự án rủi ro không lường trước được.
Thứ ba, kết hợp giữa kiểm soát lạm phát với thực thi chính sách tỷ giá hợp lý. Các nước đang phát triển với nền kinh tế mở cửa ở mức độ thấp, cần coi trọng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái tương tự như kiểm soát lạm phát.
Thứ tư, giảm gánh nặng nợ nần của Chính phủ bằng cách thực hiện các khoản chi tiêu của Chính phủ trên cơ sở các chương trình dài hạn có tính đến tính chu kỳ của nền kinh tế, đảm bảo tất cả các khoản chi ngoài ngân sách phải được tính hết khi xây dựng dự án ngân sách.
Thứ năm, đối với vấn đề bảo đảm khả năng thanh khoản bổ sung trong khủng hoảng thông qua việc các NHTW cung cấp các khoản tín dụng, mua lại và nhận một số loại tài sản dưới dạng tài sản thế chấp cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ đưa vào bảng cân đối của mình những tài sản rủi ro cao, còn các ngân hàng sẽ biến tướng các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành các khoản cho vay dài hạn, để rồi họ lại mất khả năng thanh khoản. Vì vậy, cần sử dụng cơ chế bảo hiểm và cấp các khoản tín dụng với số tiền nhỏ hơn so với giá trị bảo đảm. Ở thời kỳ hậu khủng hoảng, cần hạn chế các khoản mua lại trực tiếp của Chính phủ để không làm tăng tỷ trọng sở hữu của Chính phủ trong nền kinh tế, trên cơ sở hoàn thiện hệ thống điều tiết, xây dựng danh mục những tài sản được sử dụng làm tài sản thế chấp, cấp thanh khoản bổ sung cho các tổ chức tài chính với những qui định nghiêm ngặt hơn.
Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống điều tiết tự động theo hướng xây dựng thang đánh thuế lũy tiến chặt chẽ hơn và thang trợ cấp xã hội rộng rãi hơn, trên cơ sở hài hòa phát triển xã hội và đưa ra các qui tắc cho phép thay đổi mức thuế và trợ cấp khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn mới của chu kỳ kinh tế. Nghĩa là các khoản thuế và trợ cấp sẽ được tăng lên khi một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nào đó giảm xuống dưới mức qui định.
Thứ bảy, trong điều kiện kinh tế vĩ mô biến động, cần sử dụng chính sách tài khóa ở mức độ cao hơn, và bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, tăng cường trao đổi thông tin giữa các cơ quan chủ trì thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát cung tiền, bảo đảm mục tiêu về lạm phát, thực hiện dự toán ngân sách nhà nước, xác định qui mô thâm hụt dự kiến, hỗ trợ tài chính, nhu cầu vay nước ngoài, phát hành trái phiếu Chính phủ.
II. THỰC TRẠNG DUY THOÁI KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyên nhân
Có hai nguyên nhân chính gây ra căn bệnh cho nền kinh tế nước ta đó là: nguyên nhân bên ngoài và nguyên nhân bên trong.
Nguyên nhân bên ngoài
Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu: các nền kinh tế lớn nhất thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu bị khủng hoảng nặng nề chưa từng có sau đại chiến thế giới lần thứ 2.
Sản xuất đình đốn, hàng loạt doanh nghiệp phá sản, thất nghiệp tăng, thu nhập giảm, sức mua trên thị trường thế giới bị thu hẹp nghiêm trọng trong đó có các thị trường xuất khẩu chủ yếu và truyền thống của Việt Nam.
Các nước phải điều chỉnh lại chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá để bảo hộ hàng trong nước nên gặp nhiều rào cản cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị giảm mạnh. Nhiều dự án đầu tư FDI đã đăng ký và được chính phủ nước ta duyệt xong, nhưng bắt buộc phải đình hoặc hoãn lại hoặc chậm trễ khi thực hiện. Một ví dụ điển hình như năm 2008: FDI đăng ký 60 tỷ USD nhưng đến tháng 1/2009 mới chỉ thực hiện được 200 triệu USD, chỉ đạt 0.33% so với kế hoạch.
Nguyên nhân bên trong
Cơ cấu nội tại nền kinh tế nước ta có nhiều bất cập
Ta sẽ bắt đầu từ công thức Tổng cầu của Keynes tính theo phương pháp chi tiêu để có được cái nhìn khái quát và rõ ràng hơn:
GDP = C+G+I+X-M (NX = X-M )
Theo số liệu năm thu thập được khi nền kinh tế bắt đầu Suy thoái tức là cuối năm 2007, đầu 2008 thì ta có:
C: là chi tiêu tiêu dùng thực tế của hộ gia đình chiếm 69,4% GDP là cao so với mặt bằng chung của Châu Á ( Trung Quốc: 37,1% ; còn Thái Lan: 53,5%). Điều này chứng tỏ năng suất lao động chúng ta thấy, trong khi dân số lại khá cao h ơn 86 triệu người và nông dân chiếm hơn 70% dân số.
G: chi tiêu thực tế của chính phủ, chiếm 6,1% GDP quá thấp ( TQ: 14,4% ; Thái Lan: 12,6% ). Chính phủ chưa có những chính sách đầu tư hợp lý và lâu dài cho những lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế nhằm phát triển con người, để cải thiện nền kinh tế.
I: Chi tiêu đầu tư tư nhân chiếm 44,7% GDP là cao, nhưng trong đó các DNNN đầu tư là chủ yếu chiếm 22%, còn DNTN chiếm khoảng 10,4% GDP ( TQ: 35% ; Thái Lan: 17% ), dẫn đến ICOR của Việt Nam rất cao ( chỉ số sử dụng vốn hiệu quả). Điều này chứng tỏ nền kinh tế nước ta vẫn chịu quá nhiều ảnh hưởng của DNNN, vốn cũng chủ yếu được rót vào các DNNN mà các doanh nghiệp này lại hoạt động kém hiệu quả (ICOR DNNN 8-10 quá cao so với DNTN 3-4). ICOR = (Kt-Kt-1)/ (Yt-Yt-1) trong đó K là vốn còn Y là sản lượng.
NX = X-M = S-I mà S là khoảng 28%, I: 44, 1% như vậy chứng tỏ nền kinh tế nước ta phải nhập khẩu vốn từ nước ngoài rất nhiều ( thông qua thu hút vốn FDI), nên khi nguồn cung vốn từ nước ngoài ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế thế giới, ngay lập tức ảnh hưởng đến nước ta khá nhiều.
Bên cạnh đó tổng kim ngạch XNK = 167% GDP ( TQ: 72% ; Thái Lan: 139% ) điều này chứng tỏ nền kinh tế nước ta có độ mở và phụ thuộc thế giới khá cao, do đó chịu nhiều ảnh hưởng từ kinh tế thế giới.
Tóm lại, cả ba trụ cột của nền kinh tế nước ta là: DNNN, nguồn vốn FDI và Xuất nhập khẩu đều có vấn đề và đặc biệt nghiệm khi chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới nên đã tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế nước ta. Đây có thể nói là nguyên nhân chính gây là trình trạng Suy thoái kinh tế nước ta giai đoạn sau 2007 tức 2008 đến nay.
Tình trạng lạm phát và những chính sách thiếu hợp lí của Chính phủ nước ta
Khủng hoảng kinh tế thế giới tác động đến nước ta vào đúng thời điểm mà tình trạng lạm phát nước ta thuộc dạng cao nhất trong khu vực, do đó Chính phủ phải ưu tiên kiềm chế lạm phát trước bằng các chính sách thắc lưng buộc bụng, giảm chi tiêu và đầu tư. Chính những nước đi này làm cho tình trạng nền kinh tế càng bi đát, đang chịu ảnh hưởng khủng hoảng, cộng với chính sách của chính phủ đã làm nền kinh tế đình trệ, sản xuất không phát triển,
Tuy sau này, khi lạm phát đã được khống chế, nhưng vì các Doanh nghiệp đã nằm trong tình trạng khó khăn quá lâu, dẫn đến nhiều doanh nghiệp phá sản, những doanh nghiệp còn lại thì không đủ sức đẩy mạnh sản xuất vì thiếu vốn. Trong khi đó vốn được cấp chủ yếu từ Ngân hàng thương mại. Nhưng chính các Ngân hàng thương mại cũng gặp vô vàn khó khăn trong giai đoạn này đặc biệt là nợ xấu và đang trong giai đoạn tái cấu trúc cả hệ thống. Do đó, các doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng. Dù cả khi đã được hạ lãi suất, các Doanh nghiệp cũng không mạnh dạn vay để mở rộng sản xuất, vì các thị trường truyền thống nói riêng hay cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nói chung vẫn để lại hậu quả lớn, thế giới phục hồi chậm. Vì vậy, họ thà cầm chừng còn hơn mạo hiểm đi vay mượn mà mang nợ vào người.
Tóm lại, do cả cơ cấu nền kinh tế, khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát ở nước ta, chính sách kinh tế của chính phủ đã khiến cả hệ thống nền kinh tế nước ta lâm vào khó khăn, đình trệ và suy thoái. Trong đó đặc biệt là do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thực trạng suy thoái kinh tế tại Việt Nam hiện nay
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Bảng Thống Kê Tổng Sản phẩm quốc nội và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam từ 2007-2012 ( năm gốc 1994)
Theo số liệu trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy được:
Năm 2007 là năm Việt Nam có tốc độc tăng trưởng kinh tế cao nhất.
Từ năm 2008-2013 tốc độ tăng trưởng có chiều hướng giảm xuống. Điều này chính là tác động của cuộc Suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2018 ảnh hưởng đến nền kinh ta nước ta:
Giai đoạn từ năm 2008-2009 mà đặc biệt là 2009, tốc độ tăng trưởng nước ta thấp, chỉ đạt 5,32%, điều này được lí giải đó là do 2 năm này là giai đoạn đầu của cuộc Suy thoái kinh tế thế giới và lúc đó nước ta đang lạm phát cao, chính phủ ra chính sách thắt lưng buộc bụng nền sản xuất không phát triển, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng đình trệ.
Năm 2010 lại là năm tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên từ 5,32%-6,78% đây là kết quả nhờ vào hai gói kích cầu 9 tỷ USD của Chính phủ vào cuối năm 2009.
Năm 2011 sức ảnh hưởng của gói kích cầu không còn, hệ thống ngân hàng khó khăn ( tái cấu trúc), khủng hoảng thế giới cũng chưa qua, nên các DN vừa thiếu vốn vừa không giải quyết được đầu ra, dẫn đến phá sản hoặc tiếp tục cầm chừng không đẩy mạnh sản xuất. Tóm lại, rõ ràng cuộc Suy thoái kinh tế đã tác động sâu rộng vào nền kinh tế nước ta, một nền kinh tế mở và hội nhập khá sâu rộng với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO (2007) của nước ta. Ảnh hưởng cuộc Suy thoái được thể hiện rất rõ trên tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta.
Năm 2012 tổng sản phẩm trong nước tăng 5,03% so với năm 2011. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, mức tăng trưởng năm 2012 thấp hơn mức tăng 5,89% của 2011 nhưng hợp lý. Trong bối cảnh kinh tế gặp khó khăn, cả nước thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng này là hợp lý
2.2. Lạm phát
Như vậy, lạm phát năm 2012 đã được kiềm chế dưới một con số và gần xấp xỉ mức lạm phát 6,52% của năm 2009 và thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và 18,13% của năm 2011
Như vậy, từ năm 2008 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn và biểu hiện tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%).
Nhìn lại năm 2011, tỷ lệ lạm phát là 18,13%. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Tình trạng thất nghiệp
Dưới đây là bảng thống kê từ năm 2008 đến 6.2013 (Đơn vị: %):
Năm
Tỉ lệ thất nghiệp
Tỉ lệ thiếu việc làm
2008
2.38
5.1
2009
2.9
5.61
2010
2.88
3.57
2011
2.22
2.96
2012
1.99
2.8
6T/2013
2.28
2.95
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giảm sút; tiêu thụ sản phẩm chậm, hàng hóa ứ đọng, kể cả các vật tư quan trọng, lương thực và nhiều nông sản xuất khẩu có khối lượng lớn; số người mất việc làm năm 2008 khoảng 667.000 người, 3.000 lao động từ nước ngoài phải về nước trước thời hạn.
Xuất khẩu lao động gặp khó khăn: Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 2008, cả nước giải quyết việc làm cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã hội là 1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. 4 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia (7.800) và Nhật Bản (5.800).Malaysia là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam nhất. Trong các năm 2005-2007, mỗi năm quốc gia này tiếp nhận khoảng 30.000 lao động Việt Nam. Năm 2008, do lo ngại nhiều rủi ro cũng như khan hiếm nguồn lao động, số người Việt sang Malaysia giảm hẳn, chưa tới 10.000.
Đến năm 2012, theo báo cáo Tổng cục Thống kê công bố tại Hà Nội ngày 18/12 với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), số người có việc làm tăng thêm 1,1 triệu trong vòng 3 quý vừa qua nhưng đồng thời, lực lượng lao động Việt Nam cũng tăng với con số tương tự. Như vậy, có gần 1 triệu người thất nghiệp bởi nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường và bộ phận lao động thất nghiệp cũ. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm 2013 là 2,28%, trong đó khu vực thành thị là 3,85%, khu vực nông thôn là 1,57%. Tỷ lệ thiếu việc làm của người lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm 2013 là 2,95%, trong đó khu vực thành thị là 1,76%, khu vực nông thôn là 3,47%.
Hoạt động xuất nhập khẩu
Xuất khẩu
Thời kỳ 2006 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những bước tiến mạnh,một phần nhờ vào việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế. Trong giai đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trung bình đạt 56 tỷ USD/năm, bằng 2,5 lần con số của thời kỳ 2001-2005; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 17,2%/năm. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu tăng 33,3%, lên mức 96,26 tỷ USD. Năm 2012 đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011. Trong năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012.
2.3.2. Nhập khẩu
Thời kỳ 2006 đến nay, kim ngạch nhập khẩu có tốc độ tăng cao, đặc biệt trong hai năm đầu sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO: bình quân đạt 68,5 tỷ USD/năm, bằng 2,6 lần con số của thời kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Năm 2011, kim ngạch nhập khẩu đạt 105,77 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2010. Năm 2012 đạt 114,3 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước và đạt thấp nhất kể từ năm 2002 trở lại đây. Năm 2013 đạt 131,3 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012.
Nhập siêu giai đoạn 2006-2010 tăng mạnh, bình quân đạt 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3 lần con số 3,8 tỷ USD của thời kỳ 5 năm trước. Tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu tăng nhanh, từ mức 17,3% của thời kỳ 2001-2005 lên mức 22,3% giai đoạn 2006-2010; tuy nhiên, tỷ lệ này giảm mạnh trong năm 2011, đạt 9,9%.
Hình: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK.
Năm 2012 xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu hàng hóa kể từ năm 1993, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp. Ngược lại, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỷ USD.
Hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng do 2 tác động sau:
Tác động trực tiếp
Mặc dù nước ta đang bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng xuất khẩu vẫn đạt được những tình hình khả quan đặc biệt là các mặt hang thế mạnh về như nông sản, hải sản, gạo và café, may mặc. Việt Nam đã trở thành nước đứng hạng thứ nhất về xuất khẩu gạo và café, mặt hàng may mặc tuy bị cạnh tranh và ảnh hưởng bởi suy thoái nhưng vẫn tăng nhẹ về số lượng xuất khẩu. Tuy nhiên, căn bệnh trầm kha của xuất khẩu nước ta là mặc dù xuất khẩu với số lượng nhiều nhưng hầu hết là xuất khẩu dưới dạng thô, nguyên vật liệu nên giá trị lợi nhuận đạt được chưa thật sự cao. Bên cạnh đó thì suy thoái cũng ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu của nước ta như việc các thị trường nhập khẩu các mặt hàng nông thủy sản của nước ta áp dụng các chính sách bảo vệ hàng sản xuất trong nước, các luật về chống bán phá giá... Nhiều DN dệt may lớn thừa nhận, doanh thu trong năm nay có tăng nhưng lợi nhuận có thể giảm đến 50%. Ngoài ra theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế thì các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta đang mất dần lợi thế cạnh tranh và điều này có thể gây những hậu quả về sau với ngành xuất khẩu của nước ta.
Dù đang trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế nhưng nước ta vẫn là một trong những nước nhập siêu. Với sự can thiệp của chính phủ với các chính sách của mình đã giảm phần nào tình trạng nhập siêu này nhưng vẫn còn khá cao. Mặc dù nhập siêu ở mức khá cao nhưng do cuộc suy thoái kinh tế đã làm nhiều doanh nghiệp không đủ vốn sản xuất nên tỷ lệ nhập nguyên vật liệu, máy móc sản xuất giảm điều này gây trầm trọng thêm tình hình suy thoái.
Tác động gián tiếp
Ngoài tác động trực tiếp nêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu còn bị tác động một cách gián tiếp bởi suy thoái kinh tế.
Suy thoái kinh tế dẫn đến hoạt động sản xuất khó khăn, sản lượng hàng hóa trên thế giới sụt giảm. Các doanh nghiệp lâm vào tình trạng cắt giảm sản xuất, lượng hàng hóa tiêu thụ trên thị trường giảm, hoạt động thương mại quốc tế theo đó cũng gặp nhiều trở ngại.
Suy thoái cũng làm giảm đầu tư. Có ba loại vốn đầu tư chính: đó là đầu tư nước ngoài, kiều hối, và xuất khẩu. Hiện nay, tất cả các nguồn vốn đó đều trong tình trạng thu hẹp do tác động của suy thoái kinh tế. Đầu tư vào xây dựng, công trình, sản xuất hạn chế dẫn đến kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng đầu tư xây dựng cơ bản, máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất đều giảm mạnh.
Thông thường, suy thoái kinh tế dẫn đến lạm phát sẽ làm cho đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Giá cả hàng hóa tăng cao làm cho tiêu dùng hạn chế, người dân sẽ có xu hướng tiết kiệm và thắt chặt chi tiêu. Nhu cầu về hàng hóa theo đó cũng giảm, hoạt động thương mại sẽ giảm hơn so với những năm trước.
Nhu cầu của thị trường, trong bối cảnh suy thoái kinh tế, sản xuất gặp khó khăn, nhiều nhà máy, công xưởng phải đóng cửa khiến tình trạng thất nghiệp gia tăng, thu nhập của người dân thấp dẫn đến việc họ cắt giảm chi tiêu của mình, ưu tiên hơn đối với những mặt hàng thiết yếu. Điều này đã dẫn đến nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ bị sụt giảm, cùng với đó, nhu cầu nhập khẩu ở các quốc gia cũng giảm.
Xuất nhập khẩu luôn đi kèm với tình hình biến động thị trường của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn suy thoái hiện nay, khi mà hoạt động của mỗi công ty, tập đoàn không giới hạn biên giới nữa thì ảnh hưởng dây chuyền đó lại nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Thị trường xuất khẩu suy thoái, thị trường nhập khẩu suy thoái, hàng hóa ít, nhu cầu giảm, dẫn đến hoạt động thương mại quốc tế suy tụt.
Bên cạnh những tác động đó, suy thoái kinh tế 2008 bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính và cũng ảnh hưởng tiêu cực nhất ở lĩnh vực đó xét trên bình diện toàn thế giới. Hàng loạt ngân hàng và tổ chức tài chính sụp đổ, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn thách thức. Nguồn vốn của cả hệ thống kinh tế bị đe dọa dẫn đến sản lượng hàng hóa tụt giảm, sản xuất và tiêu dùng đều khó khăn. Do đó, thương mại quốc tế biến động theo chiều hướng đi xuống là điều không thể tránh khỏi.
Suy thoái kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp nhập khẩu, hàng loạt các tổ chức tín dụng, ngân hàng lớn trên thế giới tuyên bố phá sản, khiến cho thị trường tài chính lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, việc huy động vốn của các doanh nghiệp khó khăn hơn bao giờ hết, dẫn đến nguồn vốn để hỗ trợ cho hoạt động nhập khẩu cũng như khả năng thanh toán bị hạn chế.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước, do tác động của suy thoái kinh tế, nhu cầu tiêu dùng giảm xuống làm cho hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ chậm, hoạt động sản xuất bị ngưng trệ, các doanh nghiệp sẽ cắt giảm đầu tư, giảm nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ (những yếu tố quan trọng phục vụ cho hoạt động sản xuất). Điều này cũng dẫn đến làm giảm lượng hàng hoá nhập khẩu.
Chính sách kinh tế của một quốc gia cũng tác động đến hoạt động nhập khẩu, suy thoái kinh tế làm cho xuất khẩu giảm sút, khi đó tình trạng nhập siêu có thể gia tăng. Để tránh tình trạng đó và cân bằng cán cân thương mại, chính phủ các quốc gia có thể sẽ sử dụng một số các công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như: thuế nhập khẩu, hạn ngạch, các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật…nhằm giảm lượng hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu.
Tình hình đầu tư
Tình hình huy động nguồn vốn trong nước:
Tốc độ tăng trưởng huy động 8 tháng đầu năm 2012 gấp 10 lần cho vay, nhiều nhà băng vẫn đua nhau huy động lãi suất cao khiến nhiều chuyên gia băn khoăn về hướng đi của nguồn vốn này.
Số liệu Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố tại cuộc họp báo đầu tháng 9 tiếp tục cho thấy tốc độ giải ngân vốn của các nhà băng vẫn ì ạch trong hai phần ba tài khóa 2012. Tính đến ngày 20/8, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 10,3% so với ngày 31/12/2011. Trong khi tăng trưởng tín dụng đạt 1,4% thì tổng số dư tiền gửi tại các nhà băng đã tăng 11,23%.
Chúng ta có thể giải thích rằng sở dĩ các doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn trong nước, ở đây chúng ta sẽ bàn về kênh huy động vốn chủ yếu là ngân hang bời vì: chính phủ Việt Nam đang đưa ra nhiều chính sách vi mô và vĩ mô để kiểm soát tiền tệ sau một thời gian cho phép vay vốn và đầu tư thoải mái vào các lĩnh vực phi sản xuất mà ở đây đình đám nhất là các bất động sản dẫn đến tình trạng dư thừa nguồn cung bất động sản làm tình tăng tình trạng nợ xấu của các ngân hang.
Tình hình ngân hang huy động ồ ạt như hiện nay nhưng đồng thời lại hạn chế giải ngân cung cấp nguồn vốn cho ngành kinh tế sẽ dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về sau như lợi nhuận của ngân hang sụt giảm, các doanh nghiệp phải tiếp cận các nguồn vốn “chợ đen” với lãi suất không tốt.
Vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp và những dòng vốn tư nhân khác có thể sụt giảm nghiêm trọng nếu cuộc khủng hoảng ở châu Âu dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong năm tới, dường như các ngân hàng ở châu Âu và các ngân hàng có giao dịch đáng kể với châu Âu sẽ cắt giảm cho vay để huy động vốn chuẩn bị chống đỡ với các thiệt hại có thể. Trong khi các ngân hàng ở Châu Âu đã hạn chế liên kết với Việt Nam, việc thắt chặt thị trường tín dụng toàn cầu nói chung có thể dẫn đến một sự giảm sút vốn cho vay đối với Việt Nam.
Diễn biến xấu ở các nền kinh tế tiên tiến, đặc biệt là Mỹ, sẽ ảnh hưởng đến dòng kiều hối chảy vào Việt Nam. Trong cuộc suy thoái toàn cầu, kiều hối về Việt Nam đã giảm 9% từ năm 2008 tới 2009, phản ánh điều kiện việc làm yếu kém ở Mỹ và châu Âu. Suy thoái ở Mỹ hoặc châu Âu có thể gây tụt giảm kiều hối, giảm một nguồn trao đổi ngoại tệ và thu nhập quan trọng.
Với tình hình khủng hoảng như hiện nay chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam bị giảm sút là không tránh khỏi. Thêm vào đó, với hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn, nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Riêng về thị trường vốn FDI, Nhật Bản vẫn giữ vai trò là một nhà đầu tư lớn với Việt Nam. Theo số liệu của Cơ quan Xúc tiến ngoại thương Nhật (Jetro), kể từ sau cú đột phá năm 2008, lượng dự án của doanh nghiệp nước này được cấp phép tại Việt Nam tăng liên tục từ 77 (2009) lên 208 (2011). Kể từ 2010, giá trị FDI hằng năm được đưa từ Nhật vào Việt Nam hầu như đều đạt trên 1,85 tỷ USD, trong khi suốt giai đoạn 1992 - 2009 (ngoại trừ 2008), con số này thường xuyên ở dưới mốc 500 triệu USD.
Năm 2012, tổng vốn đăng ký của doanh nghiệp Nhật Bản đạt 4,68 tỷ USD, tương đương hơn 49% tổng FDI của cả nước. Kết quả này đã đưa Nhật trở thành nhà đầu tư trực tiếp lớn nhất vào Việt Nam hiện nay.
FDI của từ Nhật vào Việt Nam giai đoạn 1993 - 2012. Đơn vị: triệu USD. Nguồn: Jetro
Thị trường bất động sản
Đợt sốt giá gần đây nhất là năm 2007 và đầu 2008. Giá nhà đất tăng mạnh bởi tâm lý kỳ vọng sự bùng nổ của nền kinh tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Ngoài ra, đợt sốt này còn do dòng vốn nước ngoài đổ vào nhiều và chính sách tiền tệ trong giai đoạn này quá dễ dãi. Tín dụng trong giai đoạn này cũng tăng trưởng rất mạnh khiến cho dòng tiền đổ mạnh vào bất động sản.
Cơn sốt này đã kéo theo một loạt doanh nghiệp ở tất cả các lĩnh vực khác nhau lao vào kinh doanh bất động sản, còn các nhà đầu cơ thì tìm mọi cách để mua nhà đất vì siêu lợi nhuận. Tuy nhiên, ngay sau đó nền kinh tế và đặc biệt là thị trường bất động sản đã phải trả giá:
Thừa hàng chục nghìn căn nhà
Nợ xấu tại các tổ chức tín dụng hiện nay có tài sản đảm bảo là bất động sản và tài sản là bất động sản hình thành trong tương lai chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Ước tính con số này chiếm khoảng gần 60%, tương đương khoảng trên 132.000 ngàn tỷ đồng.
Số lượng tồn kho ngày càng leo thang sau mỗi năm. Theo số liệu mà CBRE mới đây vừa đưa ra trong báo cáo nghiên cứu thị trường năm 2012, năm 2009 con số căn hộ chưa bán được ở mức khoảng 15.000 căn thì đến nay đã tăng lên gần gấp đôi xấp xỉ 28.000 căn.
Số lượng căn hộ bán được thấp hơn nhiều so với nguồn cung trên thị trường
Như vậy, nếu tính trung bình giá trị trung bình của mỗi căn hộ khoảng 2 tỷ đồng/căn thì hiện ước tính có khoảng 100.000 tỷ đồng đang “nằm chết” ở bất động sản.
Con số này còn chưa tính đến lượng biệt thự, liền kề, sàn văn phòng, thương mại cũng đang còn dư thừa trên thị trường. Mới đây, Bộ Xây dựng cũng đã đưa ra con số về dư thừa nhà thấp tầng là 5.176 căn, 1.890.667m2 đất nền, 64.847m2 sàn văn phòng cho thuê…có lẽ giá trị cũng phải vài chục ngàn tỷ.
Theo CBRE, năm 2012 lượng chào bán mới căn hộ giảm gần 73%, tại HN con số này cũng giảm khoảng 68%. Doanh số bán căn hộ giảm hơn một nửa so với 2011 và 2010 đạt khoảng 5000 căn. Nếu thị trường không có biến động lớn ở những năm tới, thì cần khoảng 4-5 năm thị trường mới có thể hấp thụ hết số lượng chưa bán được hiện nay.
Thị trường chứng khoán
Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam còn mang nhiều đặc thù và chưa liên kết mạnh với thị trường chứng khoán thế giới nhưng trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay, thị trường Việt Nam cũng có xu hướng biến động khá tương đồng với thị trường chứng khoán lớn trên thế giới: suy giảm sâu vào giai đoạn đầu năm 2009 và bắt đầu phục hồi sau đó
Tác động qua chỉ số giá:
Hình: Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam qua chỉ số VN-Index từ năm 2008 đến năm 2013
Đầu năm 2009, VN-Index giảm điểm mạnh và đạt mức đáy 235,5 điểm vào cuối tháng 2/2009 – mức điểm sâu nhất trong 4 năm do những tác động của suy thoái kinh tế từ cuối năm 2008.
Giai đoạn 24/02/2009 đến 09/06/2009: Chỉ số chứng khoán tăng trưởng mạnh với VN-Index tăng 117,6% , do những nỗ lực phục hồi kinh tế của Việt Nam như gói kích cầu trị giá 8 tỉ USD, nới lỏng chính sách tiền tệ…
Giai đoạn 09/06/2009 đến 20/07/2009: Thị trường chứng khoán được điều chỉnh về giá trị thực và xác lập xu thế mới, VN-Index giảm gần 100 điểm trong một tháng.
Giai đoạn 20/07/2009 đến 22/10/2009: Thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh tập trung vào nhóm cổ phiếu xây dựng và bất động sản.
Giai đoạn 22/10/2009 đến 17/12/2009: Thị trường chứng khoán sụt giảm do áp lực từ giải chấp và khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu của nhiều doanh nghiệp.
Giai đoạn cuối năm 2009 đến tháng 05/2010: Chỉ số chứng khoán biến động nhẹ.
Giai đoạn đầu tháng 5/2010 đến 25/08/2010: Thị trường chứng khoán sụt giảm do tác động của kinh tế thế giới. Đạt đỉnh 550 điểm vào đầu tháng 5/2010, VN-Index đột ngột quay đầu do ảnh hưởng tử khủng hoảng nợ Châu Âu lan rộng bắt đầu từ Hy Lạp. Việt Nam chịu tác động lớn do phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu với khoảng 60% lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản. Tiếp đó tin đồn về thông tư 13 ra đời khiến VN- Index tiếp tục giảm. Vào cuối tháng 7, thông tin Chính phủ quyết định tái cơ cấu tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Vinashin với khoản nợ là 4,5 tỷ USD đẩy VN-Index giảm mạnh vào đầu tháng 8.
Giai đoạn cuối tháng 8 đến giữa tháng 11/2010: Thị trưởng chứng khoán tăng nhẹ do thông tư 13 sẽ được điều chỉnh, lãi suất cơ bản được giữ nguyên. Sau đó thị trưởng đi ngang do không có thông tin vĩ mô lạc quan nào hỗ trợ. Đến giữa tháng 11, VN-Index giảm nhẹ do các nhà đầu tư đưa dòng tiền ra khỏi thị trường chứng khoán, tìm kiếm lợi nhuận ở những kênh đầu tư khác như vàng, USD.
Giai đoạn cuối tháng 11/2010 đến cuối tháng 01/2011: Thị trưởng chứng khoán tăng trưởng trở lại khi mà tất cả các tin tức vĩ mô ảnh hưởng xấu đến thị trường đạt đến đỉnh điểm, như lãi suất cơ bản tăng từ 8-9%, vàng và USD đều có gia đoạn tăng nóng. Dòng tiền bắt đầu chảy vào thị trưởng chứng khoán
Giai đoạn cuối tháng 2/2011, thị trường chứng khoán giảm do tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm khi chính phủ hướng đến mục tiêu vào kiểm soát lạm phát và ổn định kinh vĩ mô.
Giai đoạn giữa tháng 8 đến giữa tháng 9/2011, thị trường chứng khoán tăng trưởng lại do việc lạm phát được kiềm chế và ổn định hơn, thị trường được hỗ trợ mạnh từ việc quyết tâm hạ mặt bằng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước .
Giữa tháng 9/2011 đến tháng 12/2011, thị trưởng chứng khoán ảm đảm trở lại do vấn đề nảy sinh sau khi hạ lãi suất đặc biệt là tỷ giá, kèm theo đó là ảnh hưởng từ diễn biến xấu trong việc giải quyến vấn đề nợ công ở Châu Âu, cùng với triển vọng yếu kém của nền kinh tế toàn cầu.
Năm tháng đầu năm 2012: thị trường chứng khoán bứt phá, chỉ số VN-Index đã tăng gần 40% so với cuối năm 2011 do những thông tin : chính phủ ký ban hành 3 văn bản thúc đẩy hoạt động và tăng cường quản lý thị trường chứng khoán Việt Nam, sự ra đời của chỉ số VN30-Index, động thái cắt giảm lãi suất nhanh và mạnh từ 14%/ năm xuống 9%/năm, kéo dài thời gian giao dịch buổi chiều.
Nữa cuối năm 2012: thị trường sụt giảm nghiêm trọng sau thông báo chính thức của Ngân hàng nhà nước về tỷ lệ nợ xấu của toàn bộ hệ thống lên tới 10%. Thị trường trở nên thiếu tiền trầm trọng, mặc dù lãi suất giảm mạnh song các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay do các ngân hàng phải xử lý nợ xấu. Ngày 21/8, ông Nguyễn Đức Kiên – Phó chủ tịch Hồi đồng sáng lập của ngân hàng ACB bị bắt, tiếp đó là lãnh đạo ngân hàng ACB …bị khởi tố đã làm lòng tin vào thị trường ngày càng lung lay. Tính đến thời điểm 14/12, VN-Index tăng 11,6% so với cuối năm 2011 trong khi HNX-Index giảm 7,6%. HNX-Index đã liên tục phá đáy lịch sử trong những ngày giao dịch của tháng 11/2012, với mức đáy kỷ lục thiết lập ngày 6/11 là 50,33 điểm
Tác động qua tâm lý nhà đầu tư
Tâm lý nhà đầu tư là một trong những kênh tác động mạnh nhất của suy thoái kinh tế tới thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn khủng hoảng và thời điểm kinh tế thế giới suy thoái. Đối với nhà đầu tư trong nước, khủng hoảng tài chính Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu khiến họ có tâm lý thận trong, chuyển sang các kênh đầu tư an toàn như ngoại tệ, vàng… xây dựng danh mục đầu tư ít mạo hiểm. Đối với khối nhà đầu tư ngoại, khác với xu hướng cuối năm 2008 các nhà đầu tư nước ngoài có hiện tượng bán ròng khá lớn, đặc biệt là trái phiếu, từ năm 2009 đến nay, khối ngoại có xu hướng mua ròng. Tổng giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2010 đạt mức kỷ lục 16074 tỷ , tăng 3,5 lần so với 2009.
Hệ thống ngân hàng
Chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng ngày một xấu hơn do hệ quả tăng trưởng tín dụng quá cao trong những năm qua trong khi năng lực quản lý rủi ro thấp và những bất cập trong điều hành CSTT, lãi suất của cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ cụ thể là nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng tính đến hết quý II/2011 tăng nhanh lên mức 71,6 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 20 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2010 và tăng 45,1% so với cùng kỳ năm trước) và cuối năm 2011 đã tăng lên mức 85 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng trung bình của nợ xấu trong 6 tháng đầu năm 2011 là 7,3%/tháng, cao gấp đôi mức bình quân tháng của năm 2010. Nợ xấu tăng nhanh trong khi tín dụng tăng thấp cho thấy chất lượng tín dụng đang suy giảm và phản ánh những khó khăn của doanh nghiệp trong năm 2011, làm tăng rủi ro tín dụng cho hệ thống ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cũng tăng mạnh. Ví dụ, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ lên mức 2,88% vào tháng 6/2011 và cuối năm 2011 tăng mạnh lên mức 3,39% (cao hơn 1,2 điểm% so với cuối năm 2010). Các nhóm nợ xấu đều có xu hướng tăng mạnh, đặc biệt tỷ trọng của nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) trong tổng nợ xấu đã tăng lên trên 50%, cho thấy nợ xấu có xu hướng ngày càng xấu hơn. Nợ xấu tăng lên trong khi số dư dự phòng rủi ro tín dụng không tăng tương xứng đang tiềm ẩn nhiều rủi ro: tỷ lệ số dư dự phòng rủi ro tín dụng/nợ xấu có xu hướng giảm, từ mức 81,1% cuối năm 2010 xuống chỉ còn 67,1% tính đến hết tháng 6/2011.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu có xu hướng giảm mạnh. Ví dụ, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) toàn hệ thống đạt 11,97% trong tháng 6/2011 (thấp hơn 0,16 điểm% so với tháng 12/2010) do chất lượng tài sản có suy giảm. Số lượng các ngân hàng không đáp ứng được CAR theo quy định đã tăng đáng kể. Theo số liệu tính toán của UBGSTCQG, tính đến ngày 31/6/2011 chỉ có 2/47 ngân hàng không đạt tỷ lệ này nhưng đến hết quý III/2011, con số này đã là 17/42 ngân hàng
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ngày càng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn, biểu hiện qua việc thị trường liên ngân hàng thời gian qua có những biến động lớn. Thị trường liên ngân hàng chứng kiến sự rối loạn chưa từng có khi niềm tin sụt giảm nghiêm trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử hệ thống ngân hàng Việt Nam, vay trên thị trường II phải có thế chấp và điều đáng quan ngại là tỷ lệ nợ xấu trên thị trường này vẫn tiếp tục tăng nhanh. Hệ quả là hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng diễn ra khá phổ biến, kéo theo hiện tượng căng thẳng thanh khoản (ban đầu chỉ diễn ra ở một số ngân hảng nhỏ nay đã lan ra toàn hệ thống ngân hàng); đồng thời căng thẳng thanh khoản từ chỗ chỉ diễn ra với kỳ hạn dài nay đã diễn ra đối với tất cả các kỳ hạn, kể cả kỳ hạn ngắn. Thanh khoản căng thẳng, nợ xấu (cả thị trường 1 và thị trường 2) tăng cao làm lãi suất huy động và cho vay không thể hạ được mặc dù lạm phát đang có xu hướng giảm khá nhanh.
Áp lực thanh khoản cũng có thể được nhìn nhận dựa vào việc chỉ tiêu cho vay/huy động (LDR) đang có xu hướng tăng cao. Áp lực thanh khoản một mặt đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao do các ngân hàng thương mại cạnh tranh huy động tiền gửi, mặt khác gây nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi chính sách tiền tệ được thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Về nguyên nhân, có thể thấy, việc tín dụng luôn tăng nhanh hơn M2 cũng góp phần làm tăng áp lực lên thanh khoản của hệ thống.
Bảng: Tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) giai đoạn 2008-2011
Đơn vị: %
Năm
2008
2009
2010
Ước2011
LDR
0,95
1,01
1,01
1,02-1,03
Nguồn: UBGSTCQG.
Những giải pháp Nhà nước và Chính phủ đã thực hiện để chống suy thoái kinh tế 2008-2012
Tổng quan giải pháp
Giai đoạn lạm phát bùng nổ vào năm 2008 như là kết quả tất yếu của chính sách nới rộng tổng cầu trước đó đòi hỏi các chính sách kiềm chế tổng cầu quyết liệt và nhất quán song song với cải thiện các khía cạnh của cấu trúc kinh tế và hiệu quả đầu tư. Song trong thực tế, Chính phủ đã 4 lần thay đổi mục tiêu ưu tiên và bằng cách đó, các điều chỉnh chính sách luôn có thiên hướng duy trì tốc độ tăng trưởng (đặc biệt là chính sách tài khóa).
Từ thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát (năm 2008) sang kích cầu đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng (năm 2009) (Công văn số 75/TTg-KTTH ngày 15/01/2008 về biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008; Công văn số 319/TTg-KTTH ngày 03/3/2008 về tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008; Nghị quyết 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về 8 giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát; Nghị quyết 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội).
Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng (năm 2010) (Nghị quyết số 18/ NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010).
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát (2011) (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về các giải pháp chủ yếu nhằm tập trung kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2011)
Năm 2012 tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô (Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012).
Giải pháp đề xuất
Cân đối ngân sách phù hợp, đảm bảo tính bền vững của ngân sách:
Cơ cấu nguồn thu hợp lý, minh bạch trong chính sách thuế. Những gói cứu trợ của Bộ Tài chính đối với Doanh nghiệp trước đây và mới ban hành đều là giãn thuế tính vào thuế GTGT và Thu nhập Doanh nghiệp đều ít hiệu quả và không hướng đến đông đảo các Doanh nghiệp khó khăn. Do đó, hướng đề xuất chính là Bộ Tài chính nên trực tiếp giảm thuế thay vì giãn thuế, và giảm thuế vào các loại thuế và phí như: thuế đất, phí cầu đường…
Quy mô, cơ cấu chi tiêu ngân sách, phân bổ vốn ngân sách hợp lý.
Chính sách kích cầu:
Thay đổi đầu tư công: hướng trọng tâm vào các dự án quan trọng có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là người lao động phổ thông (chính họ là nguồn tiêu dùng chính thúc đẩy tổng cầu).
Phải thực hiện nhất quá trong các chính sách kích cầu của Chính phủ. Chẳng hạn như Chính phủ khuyến khích cho DN vay với lãi suất thấp để hạ bớt chi phí sản xuất, nhưng đồng thời lại cho tăng giá điện, giá thuê đất và các phí cầu đường, chính những điều này triệt tiêu đi tác dụng của các chính sách, DN không cảm nhận được sự hỗ trợ của nhà nước lúc họ khó khăn.
Chính phủ phải tuyên truyền sâu rộng đến quần chúng nhân dân hiểu được nguyên nhân của cuộc suy thoái là gì, phát huy vai trò tham gia thực hiện và kiểm tra các chính sách của Chính phủ, tuyên truyền Người Việt dùng hàng Việt, để tăng kích cầu.
Ra soát lại nguồn vốn và cách thức hoạt động của các DNNN, đảm bảo vốn được sử dụng hợp lí và hiệu quả, không tham nhũng, lãng phí. Nếu xét cần những DNNN nào hoạt động quá kém hiệu quả, nên thu hồi vốn, giải tán công ty, tránh những trường hợp như Vinasin, khiến Chính phủ và nền kinh tế điều đứng. Từ đó, hạn chế nợ công, đang phình khá to và nhanh ( tính đến 24/01/2013 là gần đạt 1,5 triệu tỷ đồng chiếm 49,5% GDP).
Khuyến khích nông nghiệp và nông thôn phát triển, để định hướng và thu hút lực lượng lao động thất nghiệp hiện tại quay về với nông nghiệp (đa phần lao động nước ta đều xuất phát từ nông nghiệp), nhằm giảm bớt thất nghiệp, tạo thu nhập cho họ và cơ cấu lại lao động cho hợp lý.
Chú trọng tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới bên cạnh giữ vừng các thị trường truyền thống. Ngoài ra, phải hướng vào thị trường nội địa, làm chủ nó, thị trường nội địa với 86 triệu người là đầu ra không thể tốt hơn để vực dậy các Doanh nghiệp sản xuất.
Cần thực hiện từng bước chính sách phá giá đồng nội tệ để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu ( và phải chịu tỷ lệ lạm phát ở một mức nhất định)
Chính phủ cần quyết liệt hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa và kịp thời hơn nữa cũng như minh bạch và công khai các thông tin về các gói cứu trợ để DN hiểu và hưởng được nó.
Nên khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ để đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Để làm điều này, Ngân hàng nhà nước nên khuyến khích các Ngân hàng thương mại cho các DN đổi mới này vay vốn với lãi suất ưu đãi.
Xây dựng một trung tâm dự báo kinh tế quốc gia chính thức gồm các chuyên gia đầu ngành về dự báo (có thể nằm ở Tổng cục Thống kê, Ủy ban Giám sát hoặc Viện Quản lý kinh tế Trung ương...) có đủ năng lực và nguồn lực thực hiện dự báo cho nền kinh tế trong trung hạn. Các kết quả dự báo này là nguồn thông tin chính thức và tin cậy nhất, làm căn cứ cho việc xây dựng mục tiêu chính sách
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia_dong_676.doc