Đề tài Tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á

Ngày nay với nền kinh tế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, việc người lao động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân tự tìm kiếm việc làm là hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem lại lợi ích kinh tế - xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là một bài toán hóc búa đối với các nền kinh tế. Vì vậy tìm kiếm mọi biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng đều đang được Chính phủ các nước đang phát triển chú trọng. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện ở thị trường trong nước mà phải chú trọng đến thị trường ngoài biên giới. Chính vì thế, Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác xuất khẩu lao động trong vấn đề giải quyết việc làm, từ đó đã có những định hướng đúng đắn:"Đẩy mạnh dịch vụ xuất khẩu lao độngvà các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành phần kinh tế". Trong thực tế những năm gần đây, xuất khẩu lao độngđem lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn, tuy nhiên cũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết.

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3584 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN GIỚI THIỆU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Ngày nay với nền kinh tế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, việc người lao động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân tự tìm kiếm việc làm là hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem lại lợi ích kinh tế - xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là một bài toán hóc búa đối với các nền kinh tế. Vì vậy tìm kiếm mọi biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng đều đang được Chính phủ các nước đang phát triển chú trọng. Ở Việt Namvới số dân gần 86 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 4.66% (2009) lực lượng lao động nên sức ép của tình trạng thiếu việc làm là rất lớn. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện ở thị trường trong nước mà phải chú trọng đến thị trường ngoài biên giới. Chính vì thế, Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác xuất khẩu lao động trong vấn đề giải quyết việc làm, từ đó đã có những định hướng đúng đắn: "Đẩy mạnh dịch vụ xuất khẩu lao độngvà các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành phần kinh tế". Trong thực tế những năm gần đây, xuất khẩu lao độngđem lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn, tuy nhiên cũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Để nâng cao hiệu quả cũng như hạn chế những khó khăn về hoạt động xuất khẩu lao động, em chọn đề tài Phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước Châu Á cụ thể là Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản giai đoạn 2007 – 2009. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Mục tiêu chung: Phân tích thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Đồng thời, đề ra những biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm thông qua xuất khẩu lao động. Mục tiêu cụ thể: - Phân tích thực trạng của việc xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước Châu Á cụ thể là Đài Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản - Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, đe dọa trong hoạt động xuất khẩu - Đề ra một số biện pháp tăng cường xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á nhằm giải quyết vấn đề việc làm. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Giới hạn không gian: Việc nghiên cứu chỉ phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản. Giới hạn thời gian: Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á giai đoạn 2007 – 2009. Giới hạn nội dung: Vấn đề quan tâm là phân tích thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á (Đài Loan, Maylasia, Nhật Bản, Hàn Quốc) giai đoạn 2007 – 2009 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp được lấy từ các nguồn: các đề án, báo cáo, các trang web trên internet Phương pháp phân tích: Mục tiêu 1: sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á Mục tiêu 2: phương pháp phân tích so sánh Mục tiêu 3: tổng hợp các đánh giá làm nền tảng đề ra một số biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm thông qua xuất khẩu lao động PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Một số khái niệm về hoạt động xuất khẩu lao động: Nguồn lao động: Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. Nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là từ 15 tuổi trở lên). Lao động: Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận dụng sức lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động: (Export of Labour) là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động. Lao động xuất khẩu: (Labour Export), là bản thân người lao động, có những độ tuổi khác nhau, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau, đáp ứng được những yêu cầu của nước nhập khẩu lao động. Trong nền kinh tế thị trường, xuất khẩu lao độnglà một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất xuất khẩu lao độnglà một hình thức di cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp. Thị trường lao động quốc tế: Thị trường lao động: một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường phát triển. Ở đó diễn ra quá trình thoả thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên cho thuê lao động. Thị trường lao động trong nước: một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia. Thị trường lao động quốc tế: một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác thông qua Hiệp định, các Thoả thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc điểm của xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt động mang tính xã hội cao. Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh. Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua - bán một loại hàng hoá đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia. Các hình thức xuất khẩu lao động: Có 2 hình thức xuất khẩu lao động Thứ nhất là hình thức đưa lao động ra nước ngoài làm việc nhằm thu hút ngoại tệ về nước Thứ hai là hình thức lao động sống ngay tại nước sở tại, nhưng cung cấp sức lao động tạo ra giá trị cho nước ngoài, còn gọi là xuất khẩu lao động tại chỗ. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin đề cập đến loại hình xuất khẩu lao động thứ nhất. Cung ứng lao động theo các hợp đồng cung ứng lao động đã ký kết với bên nước ngoài Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài. Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động nước ngoài. Vai trò của xuất khẩu lao độngvới sự phát triển KT - XH của Việt Nam: Lợi ích về mặt kinh tế: Xuất khẩu lao động đã được các Nghị định của Đảng và Chính phủ nhiều lần đề cập. Nhiều nước trên thế giới coi trọng xuất khẩu lao động, xuất khẩu lao động vừa ích nước vừa lợi nhà, vì nó là mong muốn không chỉ của Chính phủ mà là của mọi người lao động. Trên góc độ lợi ích kinh tế, hoạt động xuất khẩu lao động được xem xét theo 3 chủ thể tham gia đó là Người lao động, Doanh nghiệp xuất khẩu lao động và Nhà nước. - Lợi ích của người lao động: Người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 - 15 lần so với thu nhập trong nước. Với số tiền tích luỹ được, nhiều người lao động không chỉ xóa được nghèo mà còn có khả năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất, ổn định kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm mới góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động khác khi tái hòa nhập cộng đồng. - Lợi nhuận của Doanh nghiệp xuất khẩu lao động: Doanh nghiệp xuất khẩu lao độnglà nơi tạo ra lợi ích cho người lao động và hiệu quả kinh tế quốc dân cho Nhà nước. Thông thường, khi hoàn thành tổ chức xuất khẩu lao động nhận được một khoản chi phí dịch vụ từ tiền lương cơ bản của người lao động khoản từ 10 - 18% tuỳ theo ngành nghề. - Lợi ích của Nhà nước: xuất khẩu lao động được coi là một hướng giải quyết việc làm cho người lao động và thu ngoại tệ về cho đất nước. Doanh thu từ xuất khẩu lao động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của những đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số doanh nghiệp tỷ suất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động xuất khẩu lao động đạt khoảng 15 - 20%. Lợi ích về mặt xã hội: Xuất khẩu lao động đã tạo việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần giải quyết việc làm cho toàn xã hội đặc biệt là lực lượng thanh niên, giải quyết tình trạng ứ đọng lao động, giải quyết về sức ép việc làm cho đất nước, giảm được các tệ nạn xã hội do người lao động không có việc làm gây nên " nhàn cư vi bất thiện". Người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình thành nên đội ngũ lao động có trình độ tay nghề chuyên môn cao, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước khi họ trở về. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM SANG MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á GIAI ĐOẠN 2007 – 2009 Tình hình lao động và việc làm Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009: 1.1 Đặc điểm cơ bản của lao động Việt Nam: Với tỷ lệ tăng dân số bình quân/năm giữa 2 cuộc Tổng điều tra năm 1999 và 2009 là 1,2%/năm, so với thời kỳ 10 năm trước (1989-1999), mỗi năm tăng gần 1,2 triệu người (với tỷ lệ tăng hàng năm là 1,7%/năm), Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, đứng thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 2 trong khối ASEAN. Theo dự báo dân số nước ta sẽ còn tăng tới 100 triệu người vào năm 2020 với tốc độ tăng dân số hầu như không đổi. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu thị trường lao động, Đại học Leicester (CLMS), kết hợp với VCCI và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thì 3,5% lực lượng lao động nằm trong độ tuổi 16 - 18 và 39% trong độ tuổi 19 - 25. Điều này có nghĩa là một bộ phận lớn lực lượng lao động Việt Nam là lao động trẻ. Nhưng theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố ngày 30/6/2009 chỉ có gần 15% lao động trẻ Việt Namđược đào tạo và hầu như rất ít lao động có tay nghề cao. Vì vậy, để có thể sử dụng triệt để ưu thế về lao động, Việt Nam cần phải xem xét và thực hiện công tác đào tạo cho người lao động càng sớm càng tốt. 1.2 Lợi thế so sánh về quy mô và chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực cao, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm 93%. Riêng lực lượng lao động biết chữ chiếm khoảng 97% tổng lực lượng lao động. Theo Báo cáo phát triển con người tháng 10/2009 của Liên Hợp quốc chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam vào loại trung bình với chỉ số là 0,733 và xếp thứ 116/182. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên. Trong 3 năm (1996-1998) bình quân hàng năm lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật tăng 6,18%. Đến năm 2009 số lao động đã qua đào tạo là 20%, tỷ lệ này càng tăng lên trong những năm tới. 1.3 Hạn chế về khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam ở nước ngoài và sức ép về việc làm trong nước: a) Sức cạnh tranh của hàng hóa sức lao động Việt Nam còn kém hơn các nước khác. Sức khỏe của lao động Việt Nam chưa đủ đáp ứng yêu cầu của một số ngành nghề như đi biển, công nghiệp xây dựng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp, trong số 21,2 triệu lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động trên cả nước, có 20,7 triệu người (chiếm 97,65%) chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn; người có bằng sơ cấp, công nhân kỹ thuật chiếm 1,26%; bằng trung cấp chiếm 0,87%; tỷ lệ lao động có bằng CĐ, ĐH chỉ chiếm 0,22% (trong khi tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Hàn Quốc là 48%; Nhật Bản: 64,4%; Thái Lan: 58,2%). Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật rất bất hợp lý. Hiện là 1 -1,6 - 3,6; (các nước khác là 1-4-10). Còn theo đánh giá của Tổ chức BERI về sức cạnh tranh của lao động theo thang điểm 100, thì Việt Nam mới đạt 45 điểm về khung pháp lý, 20 điểm về năng suất lao động, 40 điểm về thái độ lao động, 16 điểm về kỹ năng lao động và 32 điểm về chất lượng lao động. So với 59 nước, Việt Nam đứng thứ 48 Tổng hợp . Lao động tuy cần cù, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật và công nghệ, có khả năng sáng tạo, song tính kỷ luật còn yếu, tác phong và văn hoá công nghiệp còn thấp (40 điểm/100 như đã nói ở trên). b) Sức ép về việc làm trong nước: Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt sẽ bất lợi về kinh tế, do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em) trên một lao động cao hơn các nước khác, gây trở ngại trong việc giải quyết việc làm và làm quá tải hệ thống giáo dục, y tế, cũng như các dịch vụ xã hội khác. Số dân trong độ tuổi lao động ở Việt Nam vẫn đang có xu hướng tăng. Theo dự báo, năm 2000 chiếm khoảng 55%, đến năm 2005 chiếm khoảng 59,1% và năm 2010 chiếm khoảng 60,7% dân số, làm cho sức ép về việc làm càng trở nên gay gắt. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009: Nếu trong giai đoạn 1980-1990 nước ta chủ yếu có quan hệ hợp tác lao động với các nước XHCN, lao động xuất khẩu chủ yếu tới các quốc gia thuộc khu vực Đông Âu cũ, Irac và một vài nước Châu Phi. Giai đoạn 1991 đến nay hoạt động xuất khẩu của ta đã mở rộng ra nhiều quốc gia tại nhiều châu lục khác nhau. Tuy rằng, thị trường lao động nước ngoài đang có những biến động bất lợi, nhưng không có nghĩa là đóng cửa đối với lao động Việt Nam. Một số thị trường trọng điểm như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Bắc Phi, Trung Đông và đặc biệt là thị trường lao động trên biển đang rất tiềm tàng, hàng năm thu hút hàng triệu lao động nước ngoài vào các nhóm ngành nghề: xây dựng, công nghiệp, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt và chế biến hải sản mà chúng ta có khả năng đáp ứng. Hiện tại Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu lao động sang tổng số là gần 40 quốc gia/vùng lãnh thổ tương đương với 21% thị phần của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu lao động. Như vậy, ta có thể thấy lợi thế một nước đông dân chưa được khai thác triệt để. Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới Biểu đồ 1 Nguồn: Dữ kiện thế giới CIA Nếu ta hình dung 193 quốc gia và vùng lãnh thổ là một thị phần lớn tương đương với 100% thì thị phần của Việt Nam chiếm lĩnh trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là 40 quốc gia/vùng lãnh thổ, tương đương với 21%. Nhìn trên biểu đồ hình tròn có thể thấy thị phần của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Điều này đồng nghĩa với việc 79% thị phần còn lại hoặc là đã thuộc về quốc gia khác hoặc là còn để trống. Như vậy cơ hội cho chúng ta còn rất nhiều. Vấn đề là làm thế nào chúng ta giành lại hoặc chiếm lĩnh được 79% thị phần còn lại. Đây thực sự là một câu hỏi khó bởi vấn đề chính để giải quyết cho câu hỏi này lại nằm ở nguồn nhân lực của chúng ta. Từ năm 2006 đến nay, ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam đã có những tín hiệu đáng mừng. Tính đến cuối năm 2009, theo số liệu tổng hợp của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tổng số lao động xuất khẩu của Việt Nam tại tất cả các thị trường là 73.028 người. Lượng xuất khẩu lao động tại các thị trường Đơn vị: người 2007 2008 2009 Chênh lệch 2008/2007 2009/2008 Nhật Bản 5.517 6.142 5.456 625 -686 Hàn Quốc 12.187 18.141 7.578 5.954 -10.563 Đài Loan 23.640 31.631 21.667 7.991 -9.964 Malaysia 26.704 7.810 2.792 -18.894 -5.018 Khác 5.982 11.355 35.525 5.373 24.170 Tổng 84.625 94.988 73.028 10.363 -21.960 Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước Năm 2008 tăng so với năm 2007 là 10.363 người (khoảng 10,9%) và so với 2009 giảm 21.960 người (khoảng 30,07%). Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ, lượng lao động xuất khẩu năm 2009 đã giảm so với những năm trước. Đặc biệt ở những thị trường xuất khẩu lao động lớn nhất của Việt Nam như Đài Loan tuyên bố giảm 24.000 công nhân và người giúp việc nước ngoài, Hàn Quốc giảm ¾ hạn ngạch lao động nước ngoài, đầu năm 2009 Malaysia cũng tuyên bố cấm nhập khẩu lao động nước ngoài do quá phụ thuộc vào lao động nhập cư Tổng hợp . Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều công ty phá sản, nền kinh tế đình trệ thì con số trên đã thể hiện những nỗ lực hết mình của chính phủ và các ban ngành đối với sự phát triển ngành xuất khẩu lao động. Cho đến nay, khủng hoảng kinh tế vẫn còn đang là một rào cản đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì ngành xuất khẩu lao động vẫn vươn lên để hoàn thành chỉ tiêu năm 2010 xuất khẩu 85.000 người lao động. Con số này cũng đánh dấu những bước tiến của ngành xuất khẩu lao động trong quá trình nền kinh tế suy thoái. Đó là thành quả của quá trình nỗ lực không ngừng tìm đầu ra cho thị trường lao động nước nhà. Nhưng trong cái được của ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam, ta cũng thấy nhiều nhược điểm. Thứ nhất, thị trường lao động của chúng ta chủ yếu tập trung vào một số thị trường cũ như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc…; trong đó một loạt các thị trường tiềm năng có thu nhập cao khác như Mỹ, Anh, Pháp thì chúng ta vẫn chưa chạm tới được. Nếu có thì cũng chỉ là một vài doanh nghiệp ký kết hợp đồng trực tiếp, còn thực tế thì Việt Nam chưa có một cung chính thức nào. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mới chỉ đang tìm hiểu các thị trường đó một cách dè dặt, chưa có những chính sách mang tính chiến lược, bứt phá… Thứ hai, lao động của chúng ta xuất khẩu chủ yếu là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo xuất khẩu đi các nước của nước ta chỉ đạt 20%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động, nguồn thu cho ngân sách và cho chính bản thân người lao động. Yêu cầu lao động của một số thị trường xuất khẩu và khả năng đáp ứng yêu cầu của lao động Việt Nam: 3.1 Đài Loan: Sau 5 năm mở thị trường, Đài Loan đã tiếp nhận trên 80 ngàn lao động Việt Nam, trong đó có gần 16 ngàn người làm việc trong lĩnh vực công xưởng, 2.000 người làm thuyền viên và trên 60 ngàn người làm công việc khán hộ công, giúp việc gia đình. Phần đông lao động Việt Nam được tuyển sang Đài Loan đều làm việc trong những nhà máy vừa và nhỏ. Do đảm trách ở những khâu giản đơn, không đòi hỏi kỹ năng và trình độ tay nghề cao nên thu nhập của họ cũng không cao. Tương tự, lao động giúp việc nhà, khán hộ công của Việt Nam tuy đưa sang với số lượng lớn nhưng tính chuyên nghiệp và kỹ năng nghề nghiệp chưa cao, thị trường Đài Loan đang được người lao động lựa chọn nhiều bởi thị trường này không quá kén chọn lao động, không cần tay nghề cao, chi phí thấp, mức thu nhập khá phù hợp cho lao động nông thôn, với mức lương cơ bản 17.280 Đài tệ - khoảng 10 triệu đồng/tháng. Đài Loan có số lượng hồ sơ xin thẩm định tiếp nhận lao động Việt Nam lớn nhất. Chỉ tính riêng trong tháng 7/2010 đã có 1.426 bộ hồ sơ với số lượng 3.489 lao động, tăng 119 bộ so với tháng 6/2010. Trong đó có 826 bộ hồ sơ (với 2.889 lao động) được các công ty Đài Loan đăng ký tiếp nhận lao động Việt Nam thông qua 47 công ty Việt Nam và 600 hồ sơ theo hình thức tuyển dụng trực tiếp. Đánh giá về lao động Việt Nam, nhiều chủ sử dụng đều có nhận xét tốt về lao động Việt Nam: cần cù, chịu khó, nắm bắt công việc nhanh. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của lao động nước ngoài đang làm việc tại đây có tính chuyên nghiệp, có kinh nghiệm cao như Philippines và Thái Lan thì chất lượng lao động của Việt Nam chưa đạt yêu cầu. Do chạy theo hợp đồng, không chuẩn bị nguồn kỹ nên nhiều công ty xuất khẩu lao động của Việt Nam đưa sang đây những lao động không đạt yêu cầu của đối tác. Chẳng những không biết tiếng Hoa, họ còn không biết làm việc, thể lực yếu, tư tưởng dao động. công tác tuyển chọn lao động và giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu cũng chưa tốt, chi phí cho chuyến đi quá lớn, trong đó phí môi giới do phía Đài Loan thu quá cao. Vì muốn kiếm tiền nhanh, trả nợ những khoản vay cho chuyến đi lên đến 4-5 ngàn USD đối với làm việc công xưởng và trên dưới 10 triệu đồng làm khán hộ công, giúp việc nhà, nhiều lao động đã chọn phương án bỏ trốn, bất chấp rủi ro, nguy hiểm. Chính vì lẽ đó các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam phải tìm giải pháp giảm chi phí đi nước ngoài làm việc cho lao động. Vì lợi ích nhỏ của cá nhân, họ đã và đang phá vỡ lợi ích lớn của cả một quốc gia... Chính vì thế, cần có chế tài mạnh hơn nữa đối với lao động trốn, thậm chí bỏ tù, như một số nước đã làm với lao động của mình. Số lượng lao động xuất khẩu giảm, một số thị trường gần như bão hòa hoặc bị lao động từ chối vì lương thấp, thị trường mới khai thác nhỏ giọt, thị trường tiềm năng thu nhập cao thì vừa mở đã đóng. Trong tình trạng trên, các doanh nghiệp vật vã với chỉ tiêu đưa 85.000 lao động đi các nước trong năm 2010. Malaysia: Malaysia là nước hồi giáo, dân số ít, thiếu hụt lao động trầm trọng, nhiều ngành công nghiệp phát triển với nhu cầu nhân công cao, vì vậy nhu cầu nhập khẩu lao động khá lớn, lực lượng này chiếm hơn 1/5 nhân lực tại Malaysia, là thị trường tương đối dễ tính, không đòi hỏi cao về trình độ lao động của nhân công, tuy nhiên do đặc tính về xã hội và văn hóa – là quốc gia hồi giáo nên nó đòi hỏi khá nhiều về trình độ ngôn ngữ giao tiếp, hay tập quán của người công nhân. Bên cạnh đó, nó đòi hỏi tính kỷ luật cao và tính hợp pháp của người lao động. Với thị trường Malaysia lao động xuất khẩu thường làm việc ở nhiều nhà máy sản xuất linh kiện điện, điện tử, gỗ nội thất, in ấn, các công trình xây dựng, nông trại dầu cọ… Thực tế từ trước đến nay, đây là thị trường mà các doanh nghiệp đưa đi được nhiều lao động nhất, cũng là thị trường có số lượng doanh nghiệp khai thác rất lớn (trên 100 doanh nghiệp). Tuy nhiên, trong năm 2009, phần lớn số doanh nghiệp này đều “đứng yên”, số doanh nghiệp đưa lao động đi “nhỏ giọt” cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nếu như năm 2007, cả nước đưa được gần 3 vạn lao động sang Malaysia, thì năm 2009, chúng ta gần như thất bại ở thị trường này khi chỉ dừng lại ở con số 3.000 lao động Số liệu thống kê từ Cục quản lý lao động ngoài nước . Ngoài nguyên nhân khủng hoảng tài chính khiến các thị trường thu hẹp nhu cầu tiếp nhận lao động nhập cư thì nguyên nhân chính khiến số lao động đưa đi Malaysia sụt giảm nghiêm trọng vẫn là do mức thu nhập khá thấp so với mặt bằng chung, cùng với nhiều thông tin tiêu cực về cách quản lý lao động ở Malaysia đã khiến lao động chần chừ. Với những thị trường được coi là thu nhập cao thì lao động Việt Nam gần như không đủ điều kiện. Các thị trường “bình dân” (gồm Trung Đông, Đài Loan, Malaysia, Lybia) thì không có thị trường nào mà điều kiện tiếp nhận lao động dễ dàng, chi phí lao động phải bỏ ra ban đầu thấp, doanh nghiệp không mất nhiều thời gian tìm kiếm hợp đồng như Malaysia. Các doanh nghiệp khi xuất khẩu lao độngsang Malaysia thì phải chọn hợp đồng tốt, lương cao (trên 4 triệu đồng), có tính ổn định cao, ít rủi ro cho người lao động. Đồng thời cơ quan này cũng sẽ theo dõi, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh, bảo đảm quyền lợi của người lao động, không để các vụ việc kéo dài, gây ảnh hưởng xấu tới người lao động và dư luận. Hàn Quốc: Tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc ở Hàn Quốc là có sức khoẻ tốt và chăm chỉ làm việc. Họ chỉ yêu cầu tuyển lao động phổ thông, không cần có nghề và cũng không cần sang Việt Nam để tuyển chọn hoặc phỏng vấn. Tại Hàn Quốc, số lượng lao động Việt Nam được ký hợp đồng và làm việc luôn cao nhất trong số các nước đưa lao động sang Hàn Quốc, như năm 2009 là gần 5.000 lao động, bằng 34% chỉ tiêu tuyển dụng của nước này. Trong năm 2010, dự báo của các doanh nghiệp trong ngành thì đây tiếp tục là thị trường quan trọng khi mức lương cao, công việc ổn định. Việt Nam là nước tổ chức tốt nhất cuộc thi năng lực tiếng Hàn và là nước dẫn đầu trong số 15 nước về số lượng lao động sang làm việc tại Hàn Quốc. Lao động Việt Nam được chủ sử dụng lao động Hàn Quốc đánh giá cao về sự chăm chỉ, thông minh và khéo léo. Nhật Bản: Thị trường Nhật bản là một thị trường tương đối khó tính, họ chỉ nhận lao động đã có nghề (nhiều chủ lao động trực tiếp sang Việt Nam phỏng vấn và tham gia kiểm tra tay nghề). Lao động sang Nhật Bản phải được học tiếng Nhật trước khi đi từ 3 - 6 tháng và thủ tục xin visa nhập cảnh rất phức tạp, tốn thời gian. Song bù lại, lao động Việt Nam tại Nhật thường được hưởng điều kiện tương đối tốt so với làm việc tại nhiều nước khác. Mức thu nhập tiết kiệm từ sinh hoạt phí của lao động Việt Nam khoảng 400 – 600 USD/ tháng theo công việc, trung bình từ 700 - 1000 USD/ tháng do làm thêm giờ. Thu nhập của lao động Việt Nam tại Nhật bản thường cao và ổn định hơn so với các thị trường khác. Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu lao động của Việt Nam: 4.1 Nhân tố tích cực: a) Việt Nam có nhiều cơ hội có thể nắm bắt để phát triển xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, Nhà nước và doanh nghiệp đưa ra nhiều chính sách ưu đãi dành cho lao động nghèo đi làm việc ở nước ngoài. Nguồn lao động nước ta dồi dào, mỗi năm bình quân có thêm hơn 1,5 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động. Những người chủ đánh giá cao lao động Việt Nam. b) Lao động Việt Nam cũng có những khả năng nhất định: Lao động giá rẻ Cần cù chịu khó, ham học hỏi. Năng lực tiếp thu công nghệ mới rất tốt Có thể khai thác những thị trường mới: Không chỉ dừng lại ở các thị trường đã và đang khai thác, xuất khẩu lao động Việt Nam cần có những bước tiến xa hơn để xâm nhập vào các thị trường tiềm năng: Khu vực Trung Đông: Israel: Mặc dù khí hậu ở Israel đất đai khô cằn, lượng mưa ít, nhưng đây lại là nước có nền nông nghiệp phát triển bậc nhất thế giới. Hiện Israel có nhu cầu rất lớn về tiếp nhận tu nghiệp sinh và lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, thị trường lao động Israel có nhiều thuận lợi cho lao động Việt Nam. Đây là thị trường không yêu cầu quá khắt khe về lao động như các thị trường thu nhập cao khác. Điều kiện tiếp nhận của đối tác là lao động nam, có kinh nghiệm 4 năm làm nông nghiệp. Nếu lao động biết sử dụng các loại máy móc nông nghiệp như máy cắt cỏ, phun thuốc...là một lợi thế. Tuy nhiên, vì là một nước giao tiếp bằng tiếng Anh nên các doanh nghiệp Israel có yêu cầu là cứ 10 lao động thì có một người biết tiếng Anh để quản lý nhóm. Điều kiện tuyển dụng rất phù hợp với lao động Việt Nam, mức lương cơ bản của người lao động là 1.036 USD/tháng, nếu làm thêm, người lao động có thể thu nhập từ 1.300- 1.500 USD/tháng, Israel đang được xem là thị trường hấp dẫn ở thời điểm này. Thị trường lao động Israel không quá lớn, vì thế sẽ không để quá nhiều doanh nghiệp khai thác, tránh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trong tìm kiếm đơn hàng cũng như tạo nguồn. Khó khăn lớn nhất tại thị trường lao động Israel bây giờ chính là việc hai nhà nước chưa ký hiệp định hợp tác về lao động, doanh nghiệp hoàn toàn đang tự thân vận động. Khu vực Bắc Âu: Phần Lan: Phần Lan chỉ có 5,3 triệu dân với diện tích bằng 2/3 diện tích Việt Nam, là thị trường lao động mang tính đặc thù cao vì dân số đang “già hóa” nhanh, người dân bản địa trong độ tuổi lao động ngày một khan hiếm nên Phần Lan đang có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực từ trung cấp đến cao cấp, chính vì vậy chúng ta cần phải đảm bảo chất lượng nhân lực theo yêu cầu của họ. Phần Lan có chính sách ưu tiên người lao động có quốc tịch EU, Nga, châu Phi và châu Á (đặc biệt phía bạn có cảm tình rất tốt với Việt Nam). Đây là một trong những quốc gia không phân biệt quyền lợi và thu nhập giữa người dân Phần Lan với lao động đến từ các nước khác (một người lao động phổ thông nếu chịu khó làm việc có thể để giành khoảng 2000 euro/tháng). Sau 6 tháng, nếu làm việc tốt, chấp hành kỷ luật của công ty và pháp luật nước sở tại thì sẽ có cơ hội được đưa vợ, con sang sinh sống để có thể định cư tại Phần Lan.  Nhân tố tiêu cực: Lao động Việt Nam đang mất dần lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu lao động: Cạnh tranh về chất lượng lao động, đòi hỏi cao về kĩ năng nghề và trình độ ngoại ngữ mà ở đó lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu. Người lao động chưa có nhiều thông tin, khó khăn khi làm hồ sơ xuất khẩu lao động, thủ tục, giấy phép đưa lao động ra nước ngoài làm việc còn quá rườm rà, tốn nhiều thời gian, công sức. Cơ hội tìm việc làm trong nước tăng lên nên xuất hiện tâm lý kén chọn thị trường, chọn nghề có thu nhập cao. Trình độ thấp cộng với sự thiếu hiểu biết, một số công ty đã lừa người đi lao động một số tiền lớn. Tình trạng lao động chui hay bỏ trốn ngày càng nhiều Lợi thế giá rẻ đang mất dần, phí xuất khẩu lao động quá cao. Kỹ năng nghề nghiệp của người lao động còn thấp, mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ và kỹ năng. Hơn nữa, lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng Tác phong công nghiệp và kỉ luật lao động thấp Khả năng tiếp cận thị trường mới của lao động Việt Nam: Khả năng tiếp cận các thị trường Bắc Âu, Trung Đông…của lao động Việt Nam không phải là không có, nhưng không phải là trong ngày một ngày hai. Chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được mọi yêu cầu cũng như những tiêu chuẩn khắt khe của họ đặt ra, song để làm được điều này vẫn còn phải phụ thuộc vào chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho các thị trường trên như thế nào mà thôi. Tuy nhiên, trước mắt và trong một vài năm tới, lao động của ta sẽ vẫn tiếp tục tập trung duy trì và mở rộng chủ yếu ở thị trường Đông Bắc và Đông Nam Á. Trong đó thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia vẫn được coi là những thị trường chính đối với lao động Việt Nam, ít nhất là trong thời gian hiện tại. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI Làm thay đổi nhận thức về xuất khẩu lao động và thực hiện xã hội hoá về xuất khẩu lao động. Nhà nước và nhân dân cần hiểu đúng về xuất khẩu lao động, những lợi ích cũng như thiệt hại xuất khẩu lao động đem lại. Cần thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ cấp trung ương đến cấp địa phương đặc biệt là các cán bộ quản lý chuyên trách về lĩnh vực xuất khẩu lao động hoặc cán bộ làm công tác quản lý lao động. Muốn vậy, cơ quan quản lý cấp nhà nước về xuất khẩu lao động (cục hợp tác với nước ngoài thuộc bộ lao động – thương binh và xã hội ) cần tổ chức thường xuyên, liên tục các khoá học bồi dưỡng, bổ sung kiến thức về xuất khẩu lao động. Thiết lập một kênh thông tin hai chiều giữa cục hợp tác lao động với nước ngoài và các địa phương. Mục đích của kênh thông tin này là nhằm thông báo chính xác tình hình xuất khẩu lao động và một số vấn đề khác có liên quan của địa phương cho cục biết đồng thời thông qua đó các địa phương có thể có được những thông tin cập nhật nhất về xuất khẩu lao động. Xã hội hoá về xuất khẩu lao động: nghĩa là làm cho mọi người dân đều có những hiểu biết cơ bản về xuất khẩu lao động. Muốn vậy, nhà nước cần tuyên truyền, quảng bá công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về xuất khẩu lao động. Để dân chúng có thể tiếp thu một cách dễ dàng nhất thì nhà nước nên xây dựng các chương trình tuyên truyền thật sinh động và gắn với cuộc sống thường ngày của người dân. Ví dụ, làm những thước phim tư liệu ngắn về đời sống, công việc của những người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài, xây dựng những bộ phim hài mang tính giáo dục về xuất khẩu lao động và cho phát trên các chương trình giải trí của truyền hình, cung cấp những thông tin về tình hình thực hiện xuất khẩu lao động của cả nước, từng vùng trong một khoảng thời gian nhất định trên các bản tin thời sự…. Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài và cung cấp miễn phí, công khai. Đại diện cho nhà nước trong lĩnh vực này là bộ Lao động- Thương binh và xã hội cần phỗi hợp chặt chẽ với bộ ngoại giao, đại sứ quán nước ngoài ở Việt Nam và đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài để luôn có những tin tức cập nhật về thị trường lao động nước ngoài. Thông tin thị trường lao động nước ngoài bao gồm các thông tin về: cung, cầu lao động chung ở trên thị trường và với riêng từng khu vực, ngành nghề; giá cả sức lao động với nhân công nước ngoài; các chế độ ưu đãi, quyền lợi của người lao động, điều kiện làm việc; loại công việc và yêu cầu của công việc với người lao động; số lượng lao động của các nước khác trên quốc gia đó; quan điểm và luật pháp của quốc gia tiếp nhận về nhập khẩu lao động nước ngoài. Ngoài ra, còn một số thông tin về kinh tế, chính trị, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động. Yêu cầu đối với thông tin: thông tin phải tương đối chính xác, kịp thời, khá đầy đủ, phải được thực hiện xây dựng một cách nghiêm túc vì đây là nền tảng quyết định sự thành công của nhiều khâu tiếp sau. Công tác cung cấp thông tin thị trường lao động nước ngoài rất quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, liên tục của nhiều cơ quan chức năng. Công tác này cần được thực hiện ngay và phải được tiến hành thường xuyên. Làm tốt công tác Marketting trong xuất khẩu lao động. Vấn đề này chủ yếu được thực hiện bởi các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và có thể có sự trợ giúp của nhà nước. Bao gồm hai nội dung chủ yếu là: nghiên cứu thị trường xuất khẩu lao động và quảng bá hàng hoá sức lao động Việt Nam ra thị trường lao động quốc tế. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu lao động: Là khâu trọng yếu của hoạt động Marketting nhằm mục đích tìm hiểu rõ các cơ hội và thách thức đang chờ đón ở thị trường đang nghiên cứu. Qua đó cho biết nên tiến vào thị trường nào là có lợi nhất và cách tiếp cận sao cho thành công nhất. Phân tích các thông tin có được bằng các phương pháp tin cậy và đánh giá các kết quả rồi cho kết luận. Sau đó, xây dựng các chiến lược, sách lược cho hoạt động xuất khẩu lao động và các biện pháp tiến hành cho phù hợp với điều kiện cụ thể, dựa trên cơ sở các kết quả đã phân tích. Đây là một bước rất quan trọng quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Quảng bá hàng hoá sức lao động Việt Nam ra thị trường lao động quốc tế: Đây chính là việc xây dựng thương hiệu cho hàng hoá sức lao động Việt Nam. Các biện pháp cụ thể như sau: + Tuyển chọn thật kỹ, đào tạo kỹ trước khi đưa lao động đi: Muốn vậy, bản thân doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải chủ động trong việc cung cấp nguồn lao động nghĩa là luôn có sẵn trong tay lực lượng lao động có trình độ sẵn sàng đi xuất khẩu lao động bất cứ lúc nào. + Có biện pháp quản lý chặt chẽ người lao động đi làm việc ở nước ngoài: Để thực hiện được điều này cần có sự phối chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động, đại sứ quán của Việt Nam tại quốc gia đó, cục hợp tác với nước ngoài và gia đình người lao động đi xuất khẩu lao động. Cần có những biện pháp xử phạt hành chính và tài chính thật nghiêm để phạt những người lao động đi xuất khẩu vô kỷ luật, vi phạm luật pháp nước ngoài. + Có các biện pháp để người sử dụng nước ngoài tin và quen dùng lao động Việt Nam. + Có các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho lao động Việt Nam tránh xảy ra tranh chấp gây thiệt hại cho các bên. Để doanh nghiệp bảo vệ lợi ích cho người lao động tránh vì lợi nhuận mà bán rẻ lao động trong nước thì nhà nước cần có những quy định luật pháp rõ ràng về vấn đề này. Phối hợp chặt chẽ bộ, ngành có liên quan với các địa phương và với doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Cần có sự cải cách thủ tục hành chính ở các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này để tăng cường sự hợp tác giữa các thành phần trên. Mục tiêu của biện pháp trên là để tránh các vụ lừa đảo đồng thời tăng quản lý nhà nước trong xuất khẩu lao động. Các rủi ro trong xuất khẩu lao động sẽ giảm xuống do có sự ràng buộc giữa các bên. Sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động xuất khẩu lao động cũng là điều kiện tiền đề để hoạt động này đạt kết quả tốt hơn. Bộ lao động – thương binh và xã hội cần tổ chức theo định kỳ các buổi báo cáo về tình hình xuất khẩu lao động của các địa phương trong cả nước, các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, các hội nghị tổng kết đánh giá tình hình xuất khẩu lao động chung, đánh giá vai trò cũng như điểm mạnh, điểm yếu của các địa phương, các doanh nghiệp trong xuất khẩu lao động chung của cả nước. Bên cạnh đó bộ cần thường xuyên hướng dẫn chỉ đạo thực hiện xuất khẩu lao động tăng cường công tác kiểm tra trong lĩnh vực này cũng như lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía các doanh nghiệp, các địa phương để có những biện pháp điều chỉnh cho hợp lý hay có các văn bản giải thích thắc mắc kịp thời. Về cơ chế tài chính. Nhà nước cần có các biện pháp để giảm chi phí đi xuất khẩu cho người lao động, khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu lao động như: Cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, có chính sách ưu đãi về thuế, nghiên cứu khả năng miễn thuế thu nhập cá nhân cho người lao động ít nhất là trong giai đoạn đầu. Có chính sách cho người lao động xuất khẩu vay vốn với lãi suất thấp mà không phải thế chấp hoặc thế chấp ít, thủ tục gọn nhẹ, dễ thực hiện. Để làm được việc này bộ lao động – thương binh và xã hội cần có sự phối hợp với bộ tài chính nghiên cứu khả năng tài chính cho các phương án trên. Nếu thấy khả thi thì lập ngay báo cáo đề nghị chính phủ phê duyệt. Bộ cũng nên xây dựng các phương án kêu gọi sự đầu tư, kinh doanh của các ngân hàng trong lĩnh vực này. Về luật pháp. Hiện nay chưa có bộ luật nào về xuất khẩu lao động. Vì thế, nhà nước cần xây dựng và ban hành ngay luật về xuất khẩu lao động trong đó quy định rõ các chế tài khen thưởng, xử phạt với các bên vi phạm, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia xuất khẩu lao động, cơ chế tài chính…. Sau khi xây dựng luật xong, công tác ban hành luật cũng cần được coi trọng vì nếu thực hiện không đúng có thể đánh mất hết ý nghĩa của việc xây dựng luật. Nhà nước có thể thành lập một tổ điều tra viên thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động có tuân thủ theo đúng luật pháp hay không để có chế tài điều chỉnh cho phù hợp. Tổ điều tra viên này nên chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ bộ tư pháp và có sự phối hợp nhịp nhàng với bộ lao động – thương binh và xã hội. Về công tác giáo dục người lao động đi xuất khẩu lao động. Trước mắt, công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động cần được chú trọng đảm bảo cho người lao động có khả năng giao tiếp, hiểu mệnh lệnh của người sử dụng lao động. Một số biện pháp có thể thực hiện như sau: Bộ lao động – thương binh và xã hội cần chỉ đạo việc ban hành giáo trình giảng dạy từng ngoại ngữ thống nhất. Nội dung của chương trình giảng dạy sẽ xoay quanh các chủ đề về đàm thoại trong cuộc sống sinh hoạt, trong sản xuất tại nước ngoài, đặc biệt chú ý đến một số thuật ngữ chuyên dùng trong một số ngành, nghề. Chương trình nên chú trọng về giao tiếp chứ không phải ngữ pháp hay kỹ năng viết. Tuyển chọn giáo viên có trình độ ngoại ngữ tốt, kỹ năng sư phạm giỏi, có thể sử dụng những người lao động đã đi xuất khẩu lao động về có trình độ ngoại ngữ tốt (đã qua sát hạch và đạt tiêu chuẩn) và bồi dưỡng thêm cho họ kỹ năng sư phạm. Thi sát hạch ngoại ngữ trước khi đưa lao động đi. Vì thế, cần xây dựng tiêu chuẩn sát hạch. Để đạt được ý nghĩa của công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động thì việc sát hạch ngoại ngữ trước khi đưa lao động đi là điều thiết yếu và cần thực hiện nghiêm túc. Việc xây dựng tiêu chuẩn sát hạch cũng nên tham khảo ý kiến của đại sứ quán Việt Nam tại các quốc gia nước ngoài. Về giáo dục nghề nên tuyển chọn từ các trường dạy nghề, trung cấp đến đại học để tiết kiệm chi phí đào tạo cho doanh nghiệp cũng như người lao động. Dù là người lao động đã được đào tạo nhưng để họ không khỏi ngỡ ngàng khi đi làm việc nước ngoài các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên tổ chức các khoá học ngắn hạn bồi dưỡng cho người lao động những kỹ năng cần thiết, cho người lao động biết môi trường làm việc của mình cũng như những phẩm chất cần thiết của người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại. Về công tác giáo dục ý thức kỷ luật của người lao động, chỉ thực sự phát huy được hiệu quả nếu nó được tiến hành trong một thời gian nhất định song song với quá trình đào tạo nghề cho người lao động do doanh nghiệp tiến hành. Trong quá trình học tập người lao động sẽ dần dần làm quen với các tác phong công nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần biến lớp học của mình thành mô hình thu nhỏ của nơi làm việc mà người lao động sẽ làm việc khi đi xuất khẩu. Tóm lại, trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao động. Trong quá trình thực hiện cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. PHẦN KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ I/ KẾT LUẬN: Số lượng lao động đi xuất khẩu lao động còn ít, chất lượng lao động thấp, cơ chế quản lý và cách làm xuất khẩu lao độngchưa chuyên nghiệp... Để đưa hoạt động này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đã đến lúc phải vẽ lại bản đồ xuất khẩu lao động của Việt Nam. Cần phải vẽ lại bản đồ xuất khẩu lao động của Việt Nam bằng một chiến lược đầu tư dài hơi, xây dựng cho được cơ chế xuất khẩu lao động chuyên nghiệp, đó là nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Bộ LĐTB-XH đặt ra mục tiêu đến năm 2010, nâng tỉ lệ lao động xuất khẩu có nghề lên mức tối thiểu 75% trong tổng số lao động đưa đi hằng năm, trong đó lao động có trình độ từ trung cấp nghề trở lên chiếm 40%; đến năm 2015, chủ yếu Xuất khẩu lao độngcó nghề, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. Bộ LĐTB-XH đã xây dựng xong đề án nói trên và đang tiến hành các bước triển khai. Tuy nhiên, theo các chuyên gia xuất khẩu lao động, các mục tiêu trên rất khó hoàn thành. Xuất khẩu lao động chỉ mới tập trung giải quyết việc làm trước mắt cho lao động nghèo, trình độ thấp, còn việc liên kết đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực nghề cho xuất khẩu lao động thì chưa được chú trọng. Trong 5 năm trở lại đây, bình quân mỗi năm cả nước có trên 50.000 lao động đi xuất khẩu lao động, nguồn thu ngoại tệ tính theo thu nhập thực tế do người lao động chuyển về nước đạt khoảng 1,5 tỉ USD/năm. Mặc dù đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm xã hội, nhưng xuất khẩu lao động vẫn chưa được xem là ngành kinh tế mũi nhọn. Nếu so với tiềm năng lao động dồi dào với khoảng 25 triệu người ở độ tuổi từ 18 đến 35 thì xuất khẩu lao động của Việt Nam vẫn chưa khai thác hết. Còn nếu nhìn sang các nước, Việt Nam vẫn còn thua xa về năng lực xuất khẩu lao động. Có thể rút ra bài học từ những số liệu sau: Philippines hiện có hơn 700 doanh nghiệp xuất khẩu lao động, trong khi Việt Nam chỉ có 160 doanh nghiệp. Mỗi năm Philippines đưa được khoảng 800.000 người ra nước ngoài, dòng kiều hối do người lao động gửi về đạt trên 10 tỉ USD/năm. Nguồn thu từ xuất khẩu lao động Philippines đóng góp 8% vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Một số liệu rất đáng lưu ý trái ngược với nỗ lực chung của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động về khai thác thị trường mới, bản đồ xuất khẩu lao động của Việt Nam đang dần bị thu hẹp. Từ năm 2000 trở về trước, lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở 38 quốc gia và vùng lãnh thổ, hiện chỉ còn 18. Trong nhiều năm liền, xuất khẩu lao động của Việt Nam chỉ quanh quẩn với 4 thị trường Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản, trong khi tỉ lệ lao động sang các thị trường mới chiếm chưa tới 5%. Đó thực sự là những con số biết nói, nếu những ai quan tâm đến thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam. II/ KIẾN NGHỊ: Kiến nghị đối với nhà nước: Thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài. Phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong xuất khẩu lao động. Hoàn thiện chính sách về tài chính làm đòn bẩy thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động. Hiện nay chưa có bộ luật nào về xuất khẩu lao động, vì thế, nhà nước cần xây dựng và ban hành ngay luật về xuất khẩu lao động trong đó quy định rõ các chế tài khen thưởng, xử phạt với các bên vi phạm, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia xuất khẩu lao động, cơ chế tài chính…. Kiến nghị đối với doanh nghiệp: Tổ chức tuyển chọn trực tiếp đúng người, đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn… Cương quyết không tuyển lao động qua các trung gian, cò mồi lao động. Công khai các điều kiện về tuyển chọn, chi phí, đồng thời doanh nghiệp cần phải tuyển chọn những lao động có phẩm chất đạo đức tốt. Tổ chức chặt chẽ lực lượng lao động trước khi đưa đi, đồng thời phải tăng cường quản lý và xử lý kịp thời các vướng mắc, chanh chấp lao động trong quá trình người lao động làm việc ở nước ngoài, đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia xuất khẩu lao động. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tài chính, chế độ đăng ký thực hiện hợp đồng và chế độ thông tin báo cáo… Kiến nghị đối với người lao động: Tự chủ động tìm kiếm, liên hệ với cơ sở xuất khẩu lao động tin cậy, chủ động đầu tư, nâng cao nhận thức và ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm để có trình độ tay nghề, ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu, tìm hiểu pháp luật, chuẩn bị các điều kiện cần và đủ cho mình để tham gia xuất khẩu lao động một cách có hiệu quả. Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, các quy định của Việt Nam và của các nước đến làm việc. Chấp hành tốt kỷ luật lao động và thực hiện tốt hợp đồng lao động đối với doanh nghiệp. Không bỏ trốn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ, góp phần nâng cao uy tín giữa lao động Việt Nam với thị trường quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Văn Tùng (2003). Xuất khẩu lao động Việt Nam- Thực trạng và triển vọng đến 2010. Nguyễn Lương Đoàn (2003). Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới. Lâm Hà, Cung ứng lao động sang làm việc tại Malaysia trong những tháng đầu thực hiện, Tạp chí việc làm ngoài nước, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2002. Lê Thị Thu Hương (2010). Phân tích lợi thế cạnh tranh của loại hình xuất khẩu lao độngViệt Namsang Malaysia. TS. Nguyễn Thị Hồng Bích (2007). Xuất khẩu lao độngcủa một số nước Đông Nam Á kinh nghiệm và bài học. Nameconomy.Việt Nam/20100119123834655P0C9920/ty-le-that-nghiep-nam-2009-la-466.htm Nam/c133/s133-404901/xuat-khau-lao-dong-sang-nhat-canh-cua-them-rong.htm Hiệp hội xuất khẩu lao độngViệt Nam Nam/home/index.php Thanh Thương, 29/3/2010 Nam/Home/thoisu/doisong/31878/ Nguyễn Thiêm Nam/vi-Việt Nam/ktvhkh/2010/3/71738.cand Nam/Home/Viet-Nam-dan-dau-xuat-khau-lao-dong-sang-Han/20103/36021.Việt Namplus Nam/Pages/ArticleDetail.aspx?siteid=1&sitepageid=57&articleid=91 Nam/default.aspx?tabid=427&idmid=3 Nam/Pages/ArticleDetail.aspx?siteid=1&sitepageid=57&articleid=92

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á.doc
Luận văn liên quan