Đề tài Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế IMF

Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế: Tiếng Anh: International Monetary Fund. Viết tắt: IMF * Đây là một tổ chức quốc tế phi chính phủ có uy tín lớn trên thế giới, hoạt động công khai, minh bạch, có hiệu quả, tạo điều kiện tối đa cho các nước nghèo, các nước chưa phát triển về mặt tài chính để các quốc gia xây dựng và phát triển đất nước. Tổ chức này giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. * Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ II. Bối cảnh lịch sử và mục đích của quỹ tiền tệ quốc tế: 1. Bối cảnh lịch sử: Những mậu dịch thương mại và tài chánh thế giới phát triển mạnh mẽ là nhờ có một hệ thống tiền tệ quốc tế bảo đảm sự cân đối giữa giá trị của các đồng tiền quốc gia. Tính cách có thể trao đổi (convertibility - convertibilité) của mỗi đồng tiền so với các đồng tiền khác là yếu tố nền tảng của hệ thống tiền tệ quốc tế. Một đồng tiền quốc gia mà không có yếu tố này sẽ chỉ có giá trị nội địa. Nhưng nếu muốn tham gia vào những trao đổi kinh tế thế giới và để cho người dân có quyền tự do di chuyển ra nước ngoài với một đồng tiền không có giá trị ngoại địa là đường lối chỉ đưa đến những bế tắc kinh tế và là nguồn gốc gây ra những thị trường chợ đen, đắt đỏ và phức tạp cho những doanh nghiệp hoặc người dân cần ngoại tệ trong tương quan với các nước khác.

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5369 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế IMF, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG QUAN VỀ QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ IMF Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế: Tiếng Anh: International Monetary Fund. Viết tắt: IMF Biểu tượng của IMF * Đây là một tổ chức quốc tế phi chính phủ có uy tín lớn trên thế giới, hoạt động công khai, minh bạch, có hiệu quả, tạo điều kiện tối đa cho các nước nghèo, các nước chưa phát triển về mặt tài chính để các quốc gia xây dựng và phát triển đất nước. Tổ chức này giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. * Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ Bối cảnh lịch sử và mục đích của quỹ tiền tệ quốc tế: Tòa nhà trụ sở chính của Quỹ tiền tệ quốc tế tại Washington, D.C. Bối cảnh lịch sử: Những mậu dịch thương mại và tài chánh thế giới phát triển mạnh mẽ là nhờ có một hệ thống tiền tệ quốc tế bảo đảm sự cân đối giữa giá trị của các đồng tiền quốc gia. Tính cách có thể trao đổi (convertibility - convertibilité) của mỗi đồng tiền so với các đồng tiền khác là yếu tố nền tảng của hệ thống tiền tệ quốc tế. Một đồng tiền quốc gia mà không có yếu tố này sẽ chỉ có giá trị nội địa. Nhưng nếu muốn tham gia vào những trao đổi kinh tế thế giới và để cho người dân có quyền tự do di chuyển ra nước ngoài với một đồng tiền không có giá trị ngoại địa là đường lối chỉ đưa đến những bế tắc kinh tế và là nguồn gốc gây ra những thị trường chợ đen, đắt đỏ và phức tạp cho những doanh nghiệp hoặc người dân cần ngoại tệ trong tương quan với các nước khác. Cho tới năm 1914, những thanh toán trong trao đổi thương mại và tài chánh giữa các cường quốc kinh tế dựa trên Hệ Thống Tiền Tệ Vàng mà tiêu biểu nhất là hệ thống tiền tệ của Anh quốc. Ngân Hàng Quốc Gia Anh là ngân hàng trung ương đầu tiên được thành lập vào cuối thế kỷ 17 với mục đích nhằm trao đổi những kim khí quí như vàng hay bạc của dân lấy tiền đúc kim khí và tiền giấy. Nhờ tính tiên lợi làm tiền giấy có giá trị và được dân Anh xử dụng trong những trao đổi thương mại Sau Thế Chiến Thứ Nhất (1918), cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm lung chuyển Hệ Thống Tiền Tệ Vàng. Nhiều ngân hàng bị phá sản làm những người gửi tiền tiết kiệm cũng mất hết. Tiền giấy không còn được tin tưởng thúc đẩy người dân đổi tiền giấy ra vàng bạc. Từ đó mỗi nước tự quyết định giá trị tiền nước mình theo chiều hướng mất giá để có thể cạnh tranh với các nước khác trên thị trường quốc tế. Sự khủng hoảng tiền tệ càng làm khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng. Các nước kỹ nghệ mạnh như Mỹ, Anh, Pháp. đã tìm nhiều cách lập ra một hệ thống tiền tệ mới ít nhiều dựa trên yếu tố chính là vàng. Cuối cùng vào tháng bẩy năm 1944, sau nhiều thương lượng giữa các nước đồng minh, 29 nước họp tại Bretton Wood, tiểu bang New Hampshire bên Mỹ, đã đồng ý thiết lập một hệ thống tiền tệ mới và thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nhằm mục đích kiểm soát và tạo điều kiện để hệ thống tiền tệ này có thể hoạt động. 2.Mục đích: - Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế. - Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế. - Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh. - Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế. - Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế. - Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành viên. - Trong hơn 50 năm qua IF đã khẳng định được vai trò cũng như thực hiện mục tiêu của mình trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với tốc độ ngày càng nhanh. Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc Điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ. - Hội đồng Thống đốc: Bộ phận ra quyết định cao nhất tại IMF. Hội đồng Thống đốc bao gồm các Thống đốc (thường là Thống đốc Ngân hàng Trung ương hoặc Bộ trưởng Tài chính) và một Thống đốc phụ khuyết do từng nước hội viên IMF bổ nhiệm. Hội đồng thống đốc có một số các quyền hạn cụ thể, chẳng hạn như kết nạp hội viên mới, quyết định cổ phần, và phân bổ đồng SDR cũng như các quyền hạn khác không phân cấp cho Ban Giám đốc Điều hành hoặc Tổng Giám đốc. Hội đồng Thống đốc IMF họp Hội nghị thường niên kết hợp với Hội nghị thường niên của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Thế giới. - Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế: Trước đây gọi là Ủy ban Lâm thời, do Hội đồng Thống đốc IMF thành lập vào tháng 10/1974 với chức năng là để tư vấn cho các Thống đốc về các vấn đề tiền tệ quốc tế. Mỗi thành viên trong số 24 thành viên của Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế cũng là Thống đốc tại IMF, một Bộ trưởng hay một quan chức có chức vụ tương đương. - Ban Giám đốc Điều hành: gồm 1 Tổng Giám đốc điều hành và 24 Giám đốc điều hành, trong đó 5 Giám đốc điều hành đại diện cho 5 nước có cổ phần lớn nhất tại Quỹ (Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp) và 19 Giám đốc điều hành đại diện cho các nhóm nước có đặc điểm giống nhau về kinh tế địa lý, văn hóa, trừ Nga và Trung quốc có Giám đốc điều hành riêng. - Tổng Giám đốc: do Ban Giám đốc Điều hành lựa chọn, với nhiệm kỳ đầu tiên là 5 năm. Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế và Ủy ban Phát triển. Ngoài ra, Tổng Giám đốc còn phụ trách các cán bộ IMF. Mỗi Phó Tổng Giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc, có nhiệm vụ chủ trì các buổi họp của Ban Giám đốc Điều hành và duy trì các mối liên hệ với các quan chức chính phủ của nước hội viên, với các Giám đốc Điều hành, với các cơ quan thông tin và các tổ chức khác. Cán bộ Quỹ: có khoảng 2700 cán bộ từ hơn 191 nước, được tổ chức thành 5 Vụ khu vực (Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á, Vụ Châu Á Thái Bình Dương và Vụ Tây Bán cầu); 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt (Vụ Tài chính, Vụ Các vấn đề ngân sách, Học viện IMF (bao gồm các học viện tại Washington D.C, học viện Viên, học viện Châu Phi và học viện Singapore), Vụ Các Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các Hệ thống Tài chính Tiền tệ, Vụ Xây dựng và Kiểm điểm Chính sách, Vụ Nghiên cứu, Vụ Thống kê); 3 Vụ về thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn phòng thông tin liên lạc khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Văn phòng Quỹ tại Liên Hợp Quốc); 3 Bộ phận giúp việc (Vụ thư ký, Vụ Nguồn nhân lực, và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ). Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại nhiều nước thế giới có trách nhiệm báo cáo cho các Vụ khu vực tương ứng. Các nước thành viên IMF Ngày 27 tháng 12 năm 1945,điều lệ thành lập IMF đã được 29 nước ký kết(trong đó có Mỹ và Liên Xô cũ)ngày 1 tháng 3 năm 1947,IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng 5 năm 1947. Hiện nay,IMF có 184 thành viên,nhiều hơn 4 lần so với số thành viên khi nó vừa thành lập,Cộng Hòa Đong Timor là nước mới được chấp nhận là thành viên của IMF,điển hình là một số nước như: -Mỹ : cổ phần lớn nhất 17,46 % - Đức :cổ phần 6,11 % -Nhật : hội viên từ năm 1952 phần đóng góp SDR : 13312 triệu SDR SDR : 891 triệu Cổ phần : 6,26% -Anh : cổ phần 5,05% -Pháp : cổ phần 5,05% -Trung Quốc : hội viên từ năm 1945 phần đóng góp SDR : 4687 triệu SDR SDR : 237 triệu -Hàn Quốc : hội viên từ năm 1955 phần đóng góp : 1633 triệu SDR SDR : 73 triệu Và nhiều quốc gia khác Đây là những dữ liệu có được vào tháng 8 năm 2000 Chức năng cơ bản của IMF: 1.Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên - Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong hiệp định có ghi : ''Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá''. 2.Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán - Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng cho các nước có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán 3.Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước thành viên Ta sẽ đi vào tìm hiểu rõ hơn chức năng của IMF trong phần hoạt động Hoạt động: Tương trợ tài chánh khi các nước hội viên cần được giúp đỡ vẫn là hoạt động chính của Quỹ. Nhưng cách thức kiểm soát, đề phòng và nhìn trước những khó khăn của các nước hội viên là yếu tố quan trọng trong bối cảnh một nền kinh tế thế giới ngày càng liên quan mật thiết với nhau 1. Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên : - Hiện nay Quỹ có một hoạt động nghiên cứu quan trọng về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể nhìn trước những khó khăn một nước để có thể phải đối đầu và do đó cần sự giúp đỡ của Quỹ - Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình trạng khó khăn kinh tế. Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi nước quãng hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền như những thống kê về xuất nhập khẩu, lương bổng, giá cả, việc làm, chỉ số phân lãi, số lượng tiền quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân sách quốc gia. và đối thoại với những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của những chính sách kinh tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có một chính sách trao đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm chuyên viên trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để ban điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân trong những lãnh vực có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu tố cơ bản để IMF quyết định giúp đỡ hay không khi cần thiết. 2. Giúp đỡ tài chánh : - IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán trong cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu không đủ để thanh toán những hàng hoá nhập khẩu. Một nước có thể tiêu xài nhiều hơn là điều mình có. Không ai, không nước nào cho vay mượn thường xuyên một nước thích ăn tiêu hơn những gì mình có. Do đó chỉ còn cách thắt lưng buộc bụng, giảm tiêu xài trong nước : bớt nhập khẩu, giảm chi tiêu quốc gia. để tìm lại được mức thăng bằng của giá trị đồng tiền và cán cân chi tiêu ngoại địa. IMF cho mượn tiền trong mục đích này. - Những nước gặp khó khăn như trên có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng góp trả bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm ba lần, mỗi năm có thể rút một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp thì 75% sau là tiền Quỹ cho mượn. Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay nhiều nước hội viên khác có nền kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần trợ giúp. Nước mượn tiền sẽ phải trả lại tiền đã đổi để các nước khác mà tiền đã bị đổi có thể xử dụng để vay Quỹ trong trường hợp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền tảng Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ được chia làm hai loại : + Giúp đỡ ngắn hạn (Stand-by Arrangements - Accords de Confirmation) nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu tạm thời. Thời gian mượn kéo dài từ 12 tháng đến 18 tháng. Mỗi năm các nước mượn có thể rút một phần. Hạn trả kéo dài từ 3 đến 5 năm. + Giúp đỡ dài hạn (Extended Fund Facility - Mécanisme Élargi de Crédit) nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu mà nguồn gốc xuất phát từ những vấn đề liên quan tới hạ tầng cơ sở kinh tế của nước. Hạn trả kéo dài từ 4 đến 10 năm. - Nếu lần rút đầu tiên 25% được Quỹ chấp thuận dễ dàng thì những lần rút sau Quỹ đòi hỏi nhiều điều kiện khắt khe như: nước hội viên phải có một chương trình chi tiết về tài chánh và kinh tế để giải quyết những khó khăn về cán cân chi tiêu ngoại địa và Quỹ chia tiền cho mượn ra làm nhiều phần. Đó là nguyên tắc thận trọng để tránh việc một nước mượn được tiền và xử dụng một cách hoang phí hay ít hữu hiệu. - IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những chính sách của ngân hàng trung ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân hàng trong nước. Số lượng cho vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia tăng. Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt nước cần mượn phải thực hiện. IMF thường đòi nước phải hạ tỷ giá hối đoái để giới hạn phần nhập khẩu và để phần xuất khẩu gia tăng, vì sự cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn do giá rẻ hơn. - Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách quốc gia : ít công chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các doanh nghiệp quốc doanh nếu không muốn nói là phải tư hữu hoá, xoá bỏ những hạn chế về giá cả. và ngay cả đường lối cứng rắn chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ, nguồn gốc của nhiều cản trở và hoang phí cho sự phát triển kinh tế. - Mặt khác, các nước hội viên có thể dùng quyền SDR của mình nếu cần thiết. Quỹ không đòi hỏi điều kiện để một nước có thể dùng quyền này. Nếu một nước hội viên cần ngoại tệ, Quỹ sẽ chỉ định một nước có sức mạnh kinh tế và tài chánh đổi những phần SDR lấy ngoại tệ. Khi nước gặp khó khăn tìm lại được tình trạng thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã mượn sẽ được trả lại cho nước đã cho mượn. SDR cũng có thể được thanh toán trực tiếp giữa các ngân hàng trung ương của một số nước hội viên mà không cần sự can thiệp của Quỹ. - Ngoài những cách thức cho vay mượn trên, IMF cũng đặt ra một số phương thức cho vay tuỳ theo tình trạng khẩn cấp của những khó khăn tài chánh mà các nước hội viên có thể phải đối đầu. - Những cách thức cho vay của Quỹ đều kèm theo một phân lời (từ ngữ được Quỹ dùng gọi là commission) cần thiết để trả tiền lời cho những nước hội viên mà Quỹ đã chỉ định đóng góp tiền cho vay và để cho cơ quan hành chánh của Quỹ có thể hoạt động. - Điểm cuối cùng cần đề cập là hoạt động của IMF để giúp đỡ các nước hội viên nghèo. 3. Giúp đỡ về mặt kỹ thuật: - Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã nhờ IMF giúp đỡ để thiết lập hạ tầng tài chánh quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ kinh tế tài chánh. Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không những về số nước được giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc gia, thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ trong lãnh vực này. Kinh nghiệm của Quỹ trong lãnh vực tài chánh từ hơn 50 năm nay, với những chuyên viên kinh tế, tài chánh, luật pháp, thống kê. gây nhiều tin tưởng quốc tế. Những nước giầu muốn giúp đỡ những nước đang phát triển trong lãnh vực này có thể đóng góp tài chánh và để Quỹ tổ chức cách giúp đỡ. NHỮNG NGUỒN TÀI CHÁNH CỦA IMF: Tổ chức IMF có tính chất tổ hợp tương trợ tài chính,mỗi hội viên đóng góp một số tiền được hội quy định.Nguồn tài chính này được dùng để giúp các nước hội viên trong trường hợp cần thiết.Nhưng Quỹ cũng có những phương cách phụ thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu cầu của các nước hội viên. 1. Phần đóng góp ( Quotas-quotes-parts P) : - Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chính của Quỹ ngay từ khi được thành lập.IMF không vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế.Phần đóng góp không những đóng vai trò của nguồn tài chính,nó còn là tiêu chuẩn để xác định số tiền mà nước hội viên có thể vay mượn,để phân chia SDR và số phiếu bầu của mỗi nước. - Phần đóng góp được xác định theo tiêu chuẩn : tổng sản lượng quốc gia,dự trữ vàng va dollar Mỹ,số lượng xuất khẩu,nhập khẩu.Nước càng giàu đóng góp càng cao.Số đóng góp lúc đầu là 7,6 triệu USD Mỹ.Số đóng góp tính từ năm 1998 là 193 tỷ USD Mỹ.Năm 1999,đề nghị của IMF tăng 45% nhưng phần đóng góp đã được các nước hội viên phê chuẩn ,nguồn tài chính của cơ quan do đó trị giá khoảng 300 tỷ USD Mỹ. - Nguồn tài chính Quỹ tăng nhiều vì 2 lý do : thứ nhất,thành viên gia nhập ngày càng nhiều,từ 35 nước lúc đầu giờ là 184 nước thành viên,Việt Nam là hội viên từ năm 1956.Thứ hai,phần đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống mỗi thời gian 5 năm theo quyêt định của những Thống đốc với ít nhất 85% phiếu thuận.Những phần đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ(),Anh(),Pháp(),Đức(),Nhật().Phần đóng góp càng nhiều thì ảnh hưởng trong IMF càng mạnh về những đường hướng và quyết định quan trọng.Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít,khoảng 50 nước có phần đóng góp dưới 65 triệu USD Mỹ,phần đóng góp của Mỹ cao hơn 2 lần so với những phần đóng góp của các nước Châu Mỹ La Tinh,. - Cách thức xác định tiền của mỗi hội viên rất đặc biệt.Theo quy chế Quỹ,mỗi nước thanh toán 25% phần đóng góp bằng vàng và 75% bằng tiền nước mình.Số vàng được dự trữ trong 4 ngân hàng trung ương lớn nhất,75% tiền mỗi nước được giữ dưới hình thức một trương mục của Quỹ tại ngân hàng trung ương mỗi nước.Trong thực tế các nước thanh toán bằng vàng ít hơn là 25 % như quy định.Từ năm 1971,khi Hệ Thống Tiền tệ vàng Dollar hết hoạt động,25% được thanh toán bằng SDR hay những đồng tiên lớn thường được sử dụng trên thị trường quốc tế. 2. Quyền SDR(special drawing right) - Nguồn dự trữ trong các ngân hàng trung ương để bảo đảm cho ngoại thương là vàng và các tiền lớn như Dollar Mỹ,Yên Nhật,pound Anh và mới đây là tiền EURO thay thế cho những tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ Châu Âu như Mark Đức,franc Pháp.Từ năm 1969,IMF quyết định phân chia cho các nước hội viên một loại quyền lợi đặc biệt gọi là SDR,viết tắt theo Anh ngữ hoặc DTS,viết tắt theo Pháp ngữ.Quyền này được coi như một loại tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân hàng trung ương mỗi nước.Lúc đầu,ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào SDR và dự trù nó sẽ trở thanh đồng tiền quốc tế thay tiền Dollar Mỹ.Nhưng không được,bởi vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện trong thực tế.Lúc ban đầu,SDR được phân chia cho các nước hội viên theo phần đóng góp đã trình bày ở trên,do đó các nước nhỏ ít đóng góp không được nhiều SDR.Trong những lần phân chia sau này,Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho những nước này. - Giá trị của SDR ban đầu được định giá tương đương 1/35 oune vàng,do đó 1 SDR=1 USD.Sau năm 1971,USD không còn được đổi ra vàng,giá trị của SDR được xác định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16 nước có hoạt động hoạt động xuất khẩu cao nhất và thay đổi theo giá thị trường của những đồng tiền này.Từ năm 1980,để đơn giản hóa cách tính,gía trị dựa trên 5 đồng tiền lớn và mức quan trọng của mỗi đồng tiền:USD(39%),mark(21%),yên Nhật(18%),pound Anh(11%),Franc Pháp(11%),Từ khi đồng Euro ra đời,mức quan trọng được xác định như sau : USD(45%),EURo(29%),yên Nhật(15%),pound Anh(11%) và Franc Pháp(11%). **Sứ mệnh: SDR ra đời là sự kiện đánh dấu sự thay đổi của hệ thống tỷ giá hối đoái(TGHĐ)cố định sang TGHĐ linh hoạt hơn. Giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng USD và vàng.SDR ra đời đã bổ sung vào IMF,làm hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt hơn,thị trường hối đoái ổn định hơn. Sau CTTG thứ II,Anh,Mỹ và các nước đồng minh đã cùng nhau xây dựng nên hệ thống TGHĐ cố định:Hệ thống Bretton Woods(1944-1973).Trong đó,các quốc gia thành viên phải cố định tiền tệ của họ với đồng USD theo TGHĐ chính thức,NHTW Mỹ phải đảm bảo có thể chuyển đổi USD thành vàng với giá 35 USD/1 ounce vàng. Năm 1969,SDR được IMF đề ra theo đề nghị của 10 nước trong CLB Paris gồm : Bỉ,Canada,Pháp,Ý,Nhật,Hà Lan,Thụy Điển,Anh,Mỹ,Đức.Khi được khai sinh,SDR là tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của các quốc gia thành viên,góp phần giúp duy trì TGHĐ của đồng nội tệ. Ban đầu,SDR được tính theo vàng : 1 SDR = 0,888671g vàng = 1 USD.Năm 1974,SDR không được xác định bằng vàng nữa,mà căn cứ vào giá trị đồng tiền của một số nước chủ yếu,gồm 16 nước ma mỗi loại chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế : Hoa Kỳ,Anh,Pháp,CHLB Đức,Italia,Tây Ban Nha,Nhật,Canada,Hà Lan,Bỉ,thụy Điển,Đan Mạch,Na Uy,Ôxtraylia,Áo,Nam Phi. Đến 1980,giảm xuống còn 5 nước : Mỹ(USD),Anh(bảng Anh),Nhât(yên),Pháp(Prăng),Đức(Mac). Từ năm 1999 đến nay,khi đồng tiền chung châu Âu(EURO)ra đời và có sự thay đổi về tiềm lực tài chính của các nước phát triển,IMF đã đưa EUR vào rổ tiền tệ và bỏ Franc va Mac ra khỏi rổ tiền tệ. Sau khi hệ thống TGHĐ cố định bị sụp đổ và áp dụng tỷ giá thả nổi,tỷ giá của các đồng tiền thường xuyên biến động.Vì vậy,IMF công bố hàng ngày TGHĐ của từng đồng tiền quốc gia với SDR. Ngày nay,SDR ít được sử dụng như tài sản dự trữ,mà chức năng chính của nó là sử dụng như một tài khoản tại IMF của các nước thành viên và một số tổ chức quốc tế khác,sử dụng như một đơn vị tính toán,Quốc gia nắm giữ SDR có thể đổi ra các đồng tiền khác theo 2 cách : # Thông qua thỏa thuận trao đổi tiền với các nước thành viên khác. # Thông qua một thành viên được chỉ định,có địa vị đối ngoại cao để để trao đổi với một thành viên khác có vị thế yếu hơn. Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của IMF liên quan đến quyền bỏ phiếu của từng thành viên đối với các quyết định tài trợ,cho vay…của IMF. Ngày nay,giá trị của SDR được xác định dựa trên một nhóm các đồng tiền mạnh theo tỷ lệ bình quân gia quyền theo USD. **Xác định giá trị SDR: Từ năm 1969 đến tháng 6/1974,SDR được định nghĩa bằng giá trị của USD và USD xác định theo giá trị với vàng : Từ 1969 đến ngày 17/12/1971 : 35 USD = 1 oz vàng Từ ngày 18/12/1971 đến 11/2/1973 : 38 USD = 1 oz vàng Từ ngày 12/2/1973 đến 30/6/1974 : 42,22 USD = 1 oz vàng Năm 1973,TGHĐ cố định sụp đổ nên từ tháng 7/1974 đến nay,SDR được định nghĩa theo các điều kiện của 1 rổ tiền tệ,bao gôm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và thanh toán quốc tế: Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDR được chọn theo tầm quan trọng của nó trong thương mại và thanh toán quốc tế.Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo IMF thực hiện sau mỗi 5 năm.Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2010 là : + 1981-1985 : USD 42% ,DEM 19%, JPY 13% ,GBP 13%,FRF 13% + 1986 -1990: USD 42% ,DEM 19%, JPY 15%,GBP 12%,FRF 12% + 1991-1995: USD 40%,DEM 21%, JPY 17%,GBP 11%,FRF 11% + 1996-2000: USD 39% ,DEM 21%, JPY 18%,GBP 11%,FRF 11% + 2001-2005: USD 45% ,EUR 29%, JPY 15%,GBP 11%, + 2006-2010: USD 44%,EUR 34%, JPY 11%,GBP 11%, SDR được định giá bằng số bình quân gia quyền của các đồng tiền mạnh.IMF tiến hành tiến hành phân bổ đồng SDR cho các nước thành viên đồng thời cũng được chính phủ của các nước thành viên hỗ trợ. Giá quy đổi USD theo SDR được niêm yết hàng ngày trên wedsite của IMF. Giá này được xác định dựa vào số lượng giao dịch của 4 đồng tiền trên quy đổi ra USD dựa theo TGHĐ niêm yết vào buổi trưa mỗi ngày trên thị trường tiền tệ London.Nếu thị trường London đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường New York,cuối cùng là thị trường Frankfurt. ** Quyền rút vốn đặt biệt (SDR): Đó là loại tiền đặt biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu hết các nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch với nước ngoài.Việc này để giải quyết nguy cơ khan hiếm những công cụ thanh toán quốc tế. Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án cấu tạo 9,5 tỷ SDR,lần phân phối SDR đầu tiên là 3,5 tỷ SDR thi hành ngày 1/1/1970,hai lần phân phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và năm 1972.Đến năm 1979 thêm 3 đợt phân phối nữa vào đầu 1979,1980,1981.Tính chung,từ 1970 đến 1986,Quỹ đã tạo ra và phân phối tổng cộng 21,4 tỷ SDR,trị giá gần 29 tỷ USD,chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới. 3.Bán vàng: Báo cáo của IMF dự kiến thúc đẩy nhu cầu vàng. Một báo cáo của IMF cho rằng các nền kinh tế mới nổi Châu Á như Ân Độ,Trung Quốc và Indonesia vẫn đang dẫn đầu phục hồi kinh tế toàn cầu,điều này sẽ hỗ trợ thị trường vàng trong những tuần tới. Báo cáo IMF sẽ thúc đẩy nhu cầu vàng ở Trung Quốc và Ân Độ -những thị trường có nhu cầu mua vàng mạnh trong thời gian gần đây.Mùa lễ hội ở Ân Độ cũng sẽ cung cấp hỗ trợ cho vàng.Theo IMF,các hoạt động của các nền kinh tế mới nổi rất sôi nổi nhờ nhu cầu trong nước khá mạnh của sự phục hồi của thương mại toàn cầu.Các nền kinh tế lớn ở Châu Á như Trung Quốc,Ân Độ và Indonesia vẫn đang dẫn đầu sau đó là Brazil ở Châu Mĩ La Tinh. Nói về vấn đề lạm phát,báo cáo của IMF cho rằng lạm phát vẫn đang chịu nguy co nền kinh tế phát triển,tỷ lệ thất nghiệp cao khiến áp lực lạm phát chưa đáng lo ngại lắm.Với mức lạm phát cơ bản chỉ duới 1%,giảm phát sẽ là vấn đề được chú y nhiều hơn. Tuy nhiênIMF cũng cảnh báo về nguy cơ nợ quốc gia và sự yếu kém trên thị trường tài chính có thể làm chẹch hướng phục hồi kinh tế toàn cầu. Trước nỗi lo về sức khỏe của các ngân hàng Châu Âu và tài chính công ở Châu Âu,Nhật và Mỹ,sự hồi phục kinh tế sẽ bắt đầu chậm lại. Điều này có thể tăng áp lực mua trú ẩn lên vàng.Trong khi Ân Độ và Trung Quốc mua vàng vì kinh tế phát triển thì Mỹ,Châu Âu và Nhật có thể mua vàng vì lựa chọn nơi trú ẩn.Cả hai tình huống này đều tốt cho vàng. Tính tới ngày 30/4/2000,số lượng vàng dự trữ của IMF có vào khoảng 103 triệu ounces(3.217 tấn)và được định theo giá thị trường vào khoảng 30 tỷ USD Mỹ. Tuy nhiên trong thời gian 1976 đến 1980,Quỹ đã thỏa thuận với các nước hội viên để giảm bớt số vàng dự trữ.Quỹ đã bán khoảng 50 triệu ounces vàng.Một nửa trả lại cho các nước hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR,nửa còn lại để bán theo giá thị trường và là nguồn tài chính giúp đỡ các nước hội viên nghèo. Hội đồng điều hành IMF đã phê chuẩn việc bán ra 403 tấn vàng,trị giá khoảng 13 tỷ USD Mỹ,để tăng năng lực cho vay tới các nước nghèo. Bán vàng một cách có trách nhiệm và minh bạch. IMF cho rằng quyết định bán vàng là một yếu tố then chốt trong mô hình thu nhập mới giúp IMF bớt lệ thuộc vào lợi tức từ cho vay để trang trải các chi phí giám sát chính sách kinh tế và tài chính của các quốc gia thành viên. Số vàng được bán ra lần này chiếm 1/8 kho vàng 3.217 tấn mà IMF đang cất giữ tại thủ đô Washington.IMF là cơ quan có nhiều vàng đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ,Đức. Là cổ đông lớn nhất IMF,Mỹ đã bật đèn xanh cho việc bán vàng này của IMF.Quyết định quan trọng này được thông qua với hơn 85% số phiếu thuận. Theo kế hoạch,IMF sẽ chào bán vàng trực tiếp cho các ngân hàng trung ương.Một khách hàng tiềm năng nổi bật là ngân hàng trung ương Trung Quốc,hiện nắm giữ khoảng 2000 tỷ USD Mỹ dự trữ ngoại tệ và có nhu cầu đa dạng hóa nguồn dự trữ này.Trung quốc cũng đang thường xuyên tìm mua vàng và dự trữ của nước này đã tăng 75% trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2008. Trường hợp nhu cầu mua vàng của ngân hàng trung ương không đủ 403 tấn,IMF sẽ xem xét việc bán vàng ra thị trường,theo cách mà các ngân hàng trung ương vẫn đang làm, “sẽ thông tin trên thị trường trước khi bắt đầu cuộc bán vàng và báo cáo thường xuyên cho công chúng về tiến độ việc bán vàng”,IMF cho biết. Nước nghèo được vay dễ hơn,nhiều hơn. Khoản tiền thu được từ bán vàng lần này dự kiến sẽ tăng năng lực cho vay tới các nước nghèo nhất thế giới như châu Phi. IMF cũng đã quyết định xóa các khoản tiền lãi vay mà các nước nghèo đang nợ từ nay đến cuối năm 2011 và tiến hảnh cải tổ thủ tục để việc cho vay diến ra nhanh và dễ dàng hơn. Vốn hoạt động: Khi gia nhập IMF,mỗi thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là một khoản lệ phí hội viên. Khoản này chỉ thực hiện khi Quỹ có nhu cầu : khi ai cần vay tiến của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng.Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: + Tạo thanh khoản vốn IMF có thể cho các thành viên vay khi gặp khó khăn về tài chính. + Căn cứ để quyết định số lượng tiền mà các nước thành viên được vay. + Số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyêt định quyền bỏ phiếu của các nước thành viên. Bản thân IMF là người quyết định số tiền mà mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức đọ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó.Nước càng giàu,lệ phí càng cao. Biểu đồ : Những thành tựu lớn nhất của IMF tính theo cổ phần 1977 (tính theo triệu SDR và tổng số cổ phần) Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng.Tổng số tiền đóng góp các nước thành viên cho đến nay khoản 210 tỷ USD,mặc dù trên thực tế số tiền dử dụng được không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ bằng tiền nội địa và hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến trong thanh toán quốc tế. Sau đây là 10 nước góp vốn nhiều nhất từ năm 1991 đến cuối năm 1992: Bảng 1: Tên nước SDR (tỷ) Tỉ lệ vốn (%) Tỉ lệ quyền bỏ phiếu (%) Mỹ 7,918 19,66 18,88 Anh 6,194 6,80 6,54 Đức 5,404 5,93 5,71 Pháp 4,483 4,92 4,74 Nhật 4,223 4,63 4,47 Arập Xêút 3,202 3,51 3,40 Canađa 2,941 3,23 3,12 Ý 2,909 3,19 3,09 Trung Quốc 2,314 2,62 2,54 Hà Lan 2,265 2,48 2,41 Các nước thành lập IMF hồi năm 1944 lập luận rằng Quỹ sẽ hoạt động hiệu quả nhất và các quyết định sẽ được đưa ra một cách trách nhiệm nhất nếu gắn liền quyền bỏ phiếu của các nước thành viên với số lượng tiền đóng vào quỹ của họ(xem bảng 1).Nước nào đóng góp nhiều nhất đương nhiên tiếng nói sẽ có trọng lượng nhất khi quyết định chính sách của Quỹ.Mỹ,Anh,Pháp là những nước khi thành lập đã đóng góp nhiều nhất và cũng là những nước có ảnh hưởng nhiều hơn hết đối với các quyết định của IMF.Mỗi nước có 250 phiếu và cộng thêm phiếu cho mỗi 100.000 SDR của phần đóng góp.Bởi vậy,Mỹ hiện nay có 265.000 phiếu,hay 18% tổng số phiếu. Mượn tiền : IMF có thể mượn tiền của những nước hội viên giàu như các nước có kỹ nghệ lớn hay có nhiều dầu hỏa trong trường hợp cần thiết.Năm 1962,11 nước kỹ nghệ hội viên ký giao kèo GAB (General arrangements to borrow) cho Quỹ vay 23 tỷ USD.Năm 1997,25 nước kỹ nghệ hội viên thỏa thuận qua giao kèo NAB (New arrangements to borrow) cho quỹ mượn 47 tỷ USD.Saudi Arabia là nước dầu hỏa cho Quỹ mượn nhiều nhất.Từ năm 1981,nước này đã cho mược 1o tỷ USD.Điều này giải thích tại sao Saudi Arabia có 1 giám đốc trong ban điều hành IMF. Trung Quốc cho biết các nước này sẵn sàng mua lại khoảng 50 tỷ USD trái phiếu do IMF phát hành.Đây là một phần tong cam kết hỗ trợ IMF của Trung Quốc. Lần đầu tiên,đại diện nhà nước Trung Quốc đưa ra số tiền cụ thể về việc sẽ rót vào IMF bao nhiêu tiền. Trong hội đỉnh thượng đỉnh G20 tháng 4/2009,thủ tướng Trung Quốc có thể mua 40 tỷ USD trái phiếu như một phần trong kế hoạch bơm thêm 500 tỷ USD vào quỹ tiền tệ của các nước . Nhật đã cam kết thực hiện cho IMF vay tiền,Mỹ và Châu Âu cũng đã thực thi quyết định của mình.Trung Quốc(TQ) và 3 nền kinh tế mơi nổi có quy mô lớn là Brazil,Nga và Ân Độ đã thông báo họ muốn đóng góp cho IMF thông qua trái phiếu thay cho việc bơm tiền theo hình thức khác. Bơm tiền theo hình thức này giúp họ có thể đóng góp tạm thời cho quỹ,không phải thực hiện cam kết dài hạn trong khi họ đang muốn thương lượng để có tiến nói lớn trong tổ chức. Bộ trưởng tài chính Nga cũng cho biết,nước ông đang cân nhắc kế hoạch mua khoảng 10 tỷ USD trái phiếu IMF,phía Ấn Độ cũng đưa ra thông báo tương tự. Mỹ cho đến nay vẫn ủng hộ TQ có vai trò lớn hơn trong IMF bởi điều này phản ánh đúng đóng góp toàn cầu của kinh tế TQ. Việt Nam và IMF: Việt nam là nền kinh tế đứng thứ 60 trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ tiền tệ IMF,xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009 và đứng thứ 133 xét theo theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người.Việt Nam là một trong những quốc gia đã nhận được nguồn tài trợ rất lớn từ tổ chức quốc tế này,và hiện nay Việt nam đã là thành viên của IMF, Việt Nam gia nhập IMF vào ngày 21/9/1956. Hạn mức đóng góp cổ phần của Việt Nam là 329.1 triệu SDR (loại tiền tượng trưng của IMF được quy đổi từ đóng góp bằng bản tệ và các ngoại tệ mạnh), trị giá khoảng 475.3 triệu USD. Nghĩa vụ nợ tài chính của Việt Nam đối với IMF tính đến ngày 30/11/2005 khoảng 148,36 triệu SDR. Sau đây là những đánh giá chung về tình hình kinh tế Việt Nam của IMF cho đến năm 2000: -Sức phát triển kinh tế của Việt Nam bị giảm sút rất nhiều từ cuối năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á châu và những yếu điểm của nền kinh tế nội bộ. Tổng sản lượng quốc gia tăng trên 10% từ những năm đầu thập niên 1990 xuống tới 3.5% năm 1998. Nhiều lý do giải thích sự giảm sút này : đầu tư ngoại quốc (foreign direct investment) giảm sút, những khó khăn của các doanh nghiệp quốc doanh và hệ thống ngân hàng. -Yếu điểm chính của nền kinh tế Việt Nam là vấn đề không hữu hiệu kinh tế của hệ thống doanh nghiệp quốc doanh và hệ thống ngân hàng quốc doanh. Các doanh nghiệp quốc doanh không có năng suất cao hoặc thua lỗ nhiều. Hệ thống ngân hàng quốc doanh do đó gặp khó khăn vì số tiền cho các doanh nghiệp này vay không được trả lại hết. Các doanh nghiệp tư doanh còn quá ít và còn quá nhiều luật lệ kiểm soát và do đó giới hạn sự phát triển trong lãnh vực này. Mặt khác, kinh tế Việt Nam dựa trên hàng nhập khẩu rất nhiều. Kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng lên lại từ giữa năm 1999. Tổng sản lượng quốc gia tăng 4.25% trong năm 1999 nhờ xuất khẩu dầu và gạo, nhưng đầu tư ngoại quốc và tiêu thụ nội địa vẫn không gia tăng. Lạm phát ở mức thấp quãng 2.5%. Dự trữ ngoại tệ lên tới 2.7 tỷ dollar Mỹ. Tỷ lệ phân lãi giảm xuống tới 12%, nhưng vì tỷ lệ phân lãi dollar Mỹ cao nên có nhiều chuyển động tiền tệ qua những trương mục ngoại tệ. -Những tiến bộ về cải cách hạ tầng (structural reforms - réformes structurelles) trong năm 1999 và đầu năm 2000 đã được thực hiện mặc dù khoảng cách giữa dự định và thực hiện vẫn còn lớn. Bộ luật thương mại mới nhằm tạo nên một môi trường thích hợp hơn cho sự phát triển của các tư doanh nội địa. Một số sửa đổi của luật đầu tư quốc tế đã được thực hiện để khuyến khích đầu tư ngoại quốc, nhất là giảm nhẹ điều kiện bắt các doanh nghiệp ngoại quốc phải dùng ngoại tệ trực tiếp trong những chi tiêu. Về tình trạng các doanh nghiệp quốc doanh, một dự định cải cách mới đã được công bố trong tháng 5 năm 2000. Trái lại, nghành ngân hàng quốc doanh còn rất ít cải cách. Tính đến nay Việt Nam đã nhận được nhiều trợ giúp của quỹ này, ta có thể tham khảo số liệu sau: Việt Nam : hội viên từ năm 1956 phần đóng góp : 329 triệu SDR SDR : 48 triệu những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :  Loại mượn Ngày chấp nhận Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự ESAF 11/11/1994 10/11/1997 362 242 Stand-by 06/10/1993 11/11/1994 145 109 Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004 Tiền mượn 8 34 52 52 49 Tiền lời 1.4 4 3.6 3 3 Năm 2001-2003, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng quốc tế (WB) cho Việt Nam vay 800USD để Việt Nam thực hiện chương trình cải cách nằm trong chiến lượt 10 năm phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 của Việt Nam. Các khoản vay bao gồm 375 triệu USD của IMF chủ yếu nhằm giúp Việt Nam cải thiện cán cân thanh toán trong việc hỗ trợ các chương trình phát triển và giảm nghèo, và khoảng 400 triệu USD từ WB để hỗ trợ Việt Nam cải cách cơ cấu, nhất là trong việc cải tổ các xí nghiệp quốc doanh và giải quyết các món nợ khó đòi và tái cấp vốn cho các ngân hàng. Đây sẽ là lần đầu tiên kể từ bẩy năm nay Việt Nam được vay tiền trở lại từ IMF. - Cải cách ngân hàng nhằm nâng cao tính minh bạch, lành mạnh, và hiệu quả của hệ thống ngân hàng. - Cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm hỗ trợ cho cải cách ngân hàng. Cải cách DNNN và thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân là điều căn bản để hỗ trợ được việc cải cách hệ thống ngân hàng nói trên vì các ngân hàng không thể lành mạnh nếu các khách hàng hoặc người vay ngân hàng chính không lành mạnh. Phát triển khu vực tư nhân, đặc biệt là khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Cải cách thương mại bằng cách tiếp tục mở cửa thị trường theo hiệp định thương mại khu vực (AFTA) và hiệp định thương mại song phương với Mỹ. - Cải cách chi tiêu của chính phủ thông qua việc tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong chi tiêu của chính phủ. Chương trình này nằm trong khuôn khổ lớn hơn của việc cải thiện điều hành đất nước (governance) đang được IMF và WB nhấn mạnh chung cho các nước nhận tài trợ phát triển, không riêng gì cho Việt Nam, nhắm vào tăng cường hiệu quả đầu tư kinh tế và nhất là giảm bớt nạn tham nhũng trong các nước này. - Đẩy mạnh chương trình an sinh xã hội, nhằm giảm nghèo đói, qua các chính sách phát triển kinh tế nông thôn, đền bù cấp vốn cho các người bị thất nghiệp do việc cải cách cơ cấu như đóng cửa các DNNN thua lỗ. ĐÁNH GIÁ CHUNG IMF ra đời là một tất yếu khách quan của quá trình vận động các nền kinh tế trên thế giới theo xu hướng hội nhập toàn cầu.Sự liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau của các nền kinh tế ngày càng lớn.Để duy trì sự ổn định và phát triển,trước hết là ổn định về các quan hệ tài chính tiền tệ trên phạm vi thế giới,cần một định chế tài chính chung có khả năng điều tiết và phối hợp hành động của các quốc gia.Trong hơn 50 năm qua,IMF đã khẳng định vai trò của mình trong việ duy trì ổng định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới. Với tư cách là tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế có các thành viên là Chính phủ các nước,tự điều này,đã tạo cho IMF uy tín và tính độc lập cao đối với cộng đồng tài chính quốc tế.Đối với các nước gặp khó khăn về tài chính để xử lý các món nợ Chính phủ hay nợ thương mại nếu không có sự ủng hộ của IMF thì khó mà đạt được các thỏa ước giải quyết nợ qua Câu lạc bộ Paris hay CLB London(mà chương trinh ESAF là một điều kiện để xử lý nợ).Bên cạnh đó,các nước đang phát triển thiếu vốn vẫn là căn bệnh kinh niên với cuộc khủng hoảng nợ tại các nước Châu Mỹ Latinh cuối thế kỷ 70 đầu 80 thì vai trò của IMF đối với các nước này quan trọng hơn bao giờ hết.Thực tế cho thấy dự trữ của IMF hầu như dồn hết toàn bộ vào các nhu cầu cần thiết của các nước đang phát triển:năm 1980 là 90,2 % và 1984 là 87,6% các loại tín dụng.IMF trở thành người trong cuộc có ảnh hưởng lớn đến chính sách kinh tế vĩ mô của nhiều nước này với 3 vai trò cơ bản : điều chỉnh thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ; cải cách thanh toán quốc tế trong giai đoạn chuyển đổi và thanh toán nợ quá hạn. Về mặt tổ chức,có thể nói IMF có một cơ cấu tổ chức khá hoàn hảo với đội ngũ nhân viên là các chuyên gia giỏi thuộc nhiều lĩnh vực được tập từ nhiều quốc gia có quan điểm chính trị độc lập.Trong hoạt động của IMF vừa có các nhân tố là công cụ để các nước hợp tác với nhau nhằm duy tân sự ổn đinh nền tài chính toàn cầu,đồng thời thúc đẩy kinh tế của từng nước.Như vậy,điều này nói lên tính chất phức tạp của tổ chức này.Khi thành lập IMF,cộng đồng thế giới muốn phản ứng lại với nhiều vấn đề tài chính không thể giải quyết đã tạo ra cuộc đại khủng hoảng trong thập niên 1930.Đó là sự biến động đột ngột,không tiên liệu nổi về giá trị hoán đổi tiền tệ giữa các quốc gia : như thế,IMF trở thành bác sĩ của nền kinh tế toàn cầu,chuyên chữa trị những ung nhọt nhức nhối trong hệ thống kinh tế.Một trong những điều luật quan trọng nhất của IMF là buộc các nước thành viên phải để đồng tiền của minh được trao đổi tự do với các đơn vị tiền tệ nước ngoài và trong mọi trường hợp,và phải báo cáo với IMF mọi sự thay đổi trong chính sách tài chính,kinh tế nước mình nhằm tránh gây ảnh hưởng cho nền kinh tế các nước thành viên.Hơn nữa,thành viên phải thực hiện các chính sách liên quan đến tài chính,kinh tế theo lời khuyên của IMF để phù hợp với nhu cầu của toàn bộ khối nằm trong tổ chức.Để hỗ trợ các nước thanh viên tuân theo nguyên tắc này,IMF cho vay tiền khi thành viên gặp rắc rối về tài chính.Bởi vậy,không có gì ngạc nhiên khi IMF luôn can thiệp đôi khi khá thô bạo vào nền kinh tế của một nước đang cầu viện đồng tiền hỗ trợ của họ.Nói tóm lại mục tiêu của IMF là duy trì ổn định mà theo họ,muốn ổn đinh thì phải có trật tự,trong khi đó muốn tái lập trật tự từ mớ hỗn độn thì buộc phải cắn răng chịu đánh đổi một số mất mát.Trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á,IMF có vai trò như là nhân tố “cứu cánh” cho các nước Đông Á đang lâm vào tình trạng khủng hoảng.Và để nhận được sự hỗ trợ từ IMF,những nước này buộc phải chấp nhận những chương trình cải tổ kinh tế “khổ hạnh” mà IMF đưa ra. MỤC LỤC Lời nói đầu………………………………………………Trang 2 I/Tổng quan về Quỹ tiền tệ………………………………Trang 3 II/Bối cảnh lịch sử và mục dích của Quỹ tiền tệ…………Trang 3 III/Cơ cấu tổ chức………………………………………...Trang 5 IV/Chức năng cơ bản của IMF…………………………...Trang 6 V/Hoạt động……………………………………………....Trang 7 VI/Những nguồn tài chánh IMF…………………………..Trang 9 VII/Việt Nam và IMF……………………………………..Trang 15 Đáng giá chung………………………………………….....Trang 17

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế IMF.doc
Luận văn liên quan