Đề tài Tổng quan về thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của biến động giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2004 -2008

Đối với toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, nh ững quan ngại v ề an ninh năng lượng trong những năm g ần đây không ngừng gia tăng. Những căng th ẳng về nguồn cung, nhu cầu cũng như biến động v ề giá cả dầu m ỏ luôn là ch ủ đề nóng bỏng trong những năm gần đây. Với đ ặc đi ểm nổi bật là th ị trường nhập khẩu xăng dầu, sự biến động giá xăng dầu nư ớc ta trong th ời gian qua h ầu như cùng chi ều với giá d ầu thô thế giới song m ức độ không giống nhau. Khóa luận đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản như sau: Thứ nhất, xăng dầu là nguồn năng lượng có vị trí chiến lược trong các ngành sản xuất vật chất, dịch vụ như giao thông vận tải, sản xuất than, điện, thép an ninh quốc phòng và tiêu dùng. Đối với tất cả các quốc gia, xăng dầu là động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, là nhu cầu không thể thi ếu của m ột xã h ội hi ện đại. Bên cạnh đó khoá luận còn trình bày những điểm khái quát chung về thị trường dầu mỏ th ế giới và vai trò quan trọng của tổ chức các nước xuất kh ẩu dầu m ỏ OPEC trong thị trường này.

pdf98 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3674 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của biến động giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2004 -2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
OPEC trong 5 năm tới sẽ bù đắp sự thiếu hụt từ hoạt động khai thác ngày càng kém ở các mỏ dầu cũ. Trong khi đó, OPEC cũng đang cố trì hoãn các dự án ảnh hưởng tới khả năng tăng thêm công suất của tổ chức này. IEA đã giảm mạnh dự đoán về khả năng cung ứng dầu thô của OPEC trong giai đoạn năm 2008-2013 thấp hơn 1,2 triệu thùng/ngày so với dự kiến trước đó. 65 2. Nhu cầu Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu nhu cầu dầu mỏ thế giới có xu hướng giảm mạnh trong những tháng gần đây. Theo Viện Dầu mỏ Mỹ (API), trong cả năm 2008, lượng dầu được phân phối mỗi ngày đã giảm 6% xuống còn 19,4 triệu thùng/ngày, mức thấp nhất trong vòng 5 năm gần đây. Nhu cầu của tất cả các loại sản phẩm từ dầu thô đều giảm. Tổ chức OPEC dự đoán, năm 2009, nhu cầu về dầu mỏ của Thế giới có thể là 85,13 triệu thùng/ngày, thấp hơn so với con số 85,66 triệu thùng/ngày của dự đoán trước đây, và cũng thấp hơn nhu cầu của thế giới năm2008 là 85,70 triệu thùng/ngày. Mặc dù hiện tại, nhu cầu về dầu mỏ của Trung Quốc đang giảm nhưng OPEC vẫn dự đoán về nhu cầu của đất nước này, năm 2009 sẽ tăng thêm 8,16 triệu thùng/ngày, tăng so với năm 2008 là 2,25% (180.000thùng). Trung Quốc hiện là nước tiêu thụ dầu mỏ đứng thứ hai sau Mỹ. Trong báo cáo hàng tháng về dầu mỏ công bố tại Pari (Pháp) ngày 10/04/2009, Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEA một lần nữa hạ mức dự báo về nhu cầu dầu mỏ thế giới trong năm 2009 xuống còn 83,4 triệu thùng/ngày, giảm 2,4 triệu thùng so với năm 2008 và là mức thấp nhất kể từ năm 2004. Đây là lần thứ tư kể từ tháng 10/2008, IEA hạ mức dự báo về nhu cầu dầu mỏ thế giới, theo đó mức giảm tổng cộng qua các lần điều chỉnh dự báo từ đầu năm đến nay là 3 triệu thùng/ngày. Cơ quan Năng lượng Quốc tế cũng dự đoán kinh tế thế giới sẽ suy giảm 1,4% thay vì phục hồi như dự báo trước đó, trong đó kinh tế của 30 nước thành viên Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC cũng không tránh khỏi tác động. Các số liệu thống kê trong quý I/2009 cho thấy nhu cầu dầu mỏ thế giới thấp hơn rất nhiều so với dự đoán trước đó, giảm tới 700.000 thùng/ngày. Kể từ tháng 09 năm 2008, OPEC đã cắt giảm tổng sản lượng tới 3,36 triệu thùng/ngày xuống dưới mức 28 triệu thùng/ngày. Đây là con số thấp nhất kể từ khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tại Iraq năm 2003. Sản lượng dầu của 66 OPEC trong tháng 3 vừa qua chỉ đạt 27,84 triệu thùng, giảm 235.000 thùng so với tháng 2 và cũng là mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Trong khi đó, thông báo của Bộ Năng lượng Mỹ cũng cho thấy nhu cầu về nhiên liệu tại thị trường tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới này đang giảm mạnh. Dự trữ dầu thô của Mỹ chỉ tăng 1,6 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 03/04, giảm so với mức dự báo 1,9 triệu thùng trước đó của các chuyên gia kinh tế. Trong một dấu hiệu rõ hơn về tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với các thị trường hàng hoá, tháng 03/2009 Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEA đã hạ dự báo về mức tăng cầu đối với các sản phẩm dầu mỏ của toàn thế giới trong vòng 5 năm tới, từ 1,6% xuống 1,2%, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trên đà tụt dốc. Theo Báo cáo Thị trường Dầu mỏ Trung hạn mới nhất của IEA, nhu cầu thế giới về các sản phẩm dầu mỏ trong thời gian từ 2008-2013 chỉ tăng 1,2%/năm, tương đương khoảng 1 triệu thùng/ngày, từ 86,2 triệu thùng/ngày năm 2008 lên 91,3 triệu thùng/ngày vào năm 2013, thấp hơn so với dự báo đưa ra hồi tháng 07/2008 cho rằng con số này sẽ tăng 1,6%/năm, hoặc 1,5 triệu thùng/ngày, từ mức tương ứng 86,9 triệu thùng/ngày lên 94,1 triệu thùng. Trong đó, IEA cho rằng nhu cầu dầu mỏ năm 2009 và 2013 cũng được lần lượt điều chỉnh giảm bớt 1,4 triệu thùng và 2,9 triệu thùng.65 IEA cũng cho rằng suy thoái kinh tế và việc giá dầu giảm mạnh đã kéo theo nhu cầu sụt giảm. Lần đầu tiên kể từ năm 1945, phần lớn các nước thuộc OECD sẽ phải đối mặt với sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng vào năm 2009, và mức tiêu thụ dầu mỏ của nhóm các nước công nghiệp hoá thuộc tổ chức này trong vòng 5 năm tới có thể sẽ giảm 0,4%/năm, tức 200.000 thùng/ngày, từ 47,8 triệu thùng/ngày năm 2008 xuống 46,8 triệu thùng vào năm 2013. Trái 65 Tổng hợp từ website của Tổ chức Năng lượng thế giới IEA: www.iea.org, tra cứu ngày 02/04/2009 67 lại, mức tiêu thụ dầu ở các nước không thuộc OECD lại dự kiến tăng 0,4/năm, tương đương 200.000 thùng/ngày. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐIỀU TIẾT GIÁ XĂNG DẦU TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Sự cần thiết và định hƣớng của việc bình ổn giá xăng dầu trong nƣớc Giá cả xăng dầu biến động trong thời gian qua là một trong nhưng yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới sự ổn định của nền kinh tế và đời sống xã hội. Việc giá cả lên xuống thường xuyên gây khó khăn cho việc dự báo xu hướng phát triển của nền kinh tế nói chung. Đối với Nhà nước, áp lực từ nguy cơ lạm phát gia tăng, ngân sách phải chịu gánh nặng quá lớn, khó khăn trong kiểm soát và phát triển kinh tế… Những bất ổn về giá cả đồng thời trở thành cơ hội tốt cho những kẻ đầu cơ và buôn lậu mặt hàng này. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, biến động giá cả làm cản trở hoạt động kinh doanh. Thông thường là do ảnh hưởng từ giá xăng dầu khiến chi phí đầu vào tăng giảm thất thường khiến doanh nghiệp lúng túng trong việc điều chỉnh giá sản phẩm, làm cho lợi nhuận giảm sút. Người tiêu dùng cũng chịu áp lực từ việc giá cả các mặt hàng khác tăng theo, trong khi thu nhập thường cố định hoặc tăng chậm, do đó tiêu dùng phải co hẹp lại, đời sống khó khăn hơn. Do đó, một vấn đề cấp bách được đặt ra đó là cần thiết phải ổn định giá cả xăng dầu và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực do nó gây ra. Như vậy mới giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước, giảm thiểu tâm lý bất an của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và người tiêu dùng trong xã hội. Bình ổn giá cả nói chung và giá cả xăng dầu nói riêng nhằm mục tiêu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Có rất nhiều các giải pháp lớn đã và đang được áp dụng như xây dựng mới các nhà máy lọc dầu, chủ trương tiết kiệm xăng dầu hiện có và đưa ra các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước… Ngoài ra, còn một số biện pháp có tính khả thi mà nhiều nước trên thế giới 68 từng áp dụng như: tích cực tìm nguồn năng lượng thay thế, quản lý thị trường xăng dầu theo cơ chế thị trường tự do cạnh tranh… Như vậy, để ổn định giá cả trên thị trường xăng dầu nội địa hiện nay, chúng ta cần áp dụng linh hoạt nhiều biện pháp mới đạt được hiệu quả cao nhất. 2. Một số giải pháp nhằm bình ổn giá xăng dầu trong nƣớc 2.1. Xây dựng các nhà máy lọc hóa dầu, giảm bớt nhập khẩu xăng dầu Trước khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động vào tháng 02/2009 cung ứng xăng dầu trên thị trường nước ta đều là nguồn nhập khẩu nên giá xăng dầu nội địa bị phụ thuộc vào giá xăng dầu thế giới và của nước xuất khẩu xăng dầu. Thêm vào đó, mức tiêu thụ xăng dầu trong nước ngày càng cao, trong khi các nước lại tăng cường dự trữ, nguồn cung thế giới có xu hướng giảm dần. Hơn nữa Việt Nam có ưu thế về nguồn dầu thô, nếu chỉ dành cho xuất khẩu sẽ là một thiệt thòi cho nền kinh tế trong nước. Vì vậy, để đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho thị trường nội địa, đồng thời giảm bớt ảnh hưởng từ biến động giá xăng dầu thế giới, việc xây dựng các nhà máy lọc, hóa dầu là thực sự cần thiết và cần được chú trọng. Theo tính toán, với tốc độ tăng cầu xăng dầu hiện nay, thì tới năm 2010 nhu cầu sử dụng các sản phẩm xăng dầu của nước ta được dự báo sẽ vào khoảng 18-19 triệu tấn. Nếu như vậy, nước ta phải cần ít nhất 3 NMLD, công suất mỗi nhà máy 6 triệu tấn/năm. Năm 2001, nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam đã được khởi công xây dựng tại Dung Quất - Quảng Ngãi với tổng đầu tư 2,5 tỷ USD. Dự án này được coi là công trình trọng điểm quốc gia, có quy mô lớn và vốn đầu tư cao, công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Vào ngày 22/02/2009 dòng sản phẩm thương mại đầu tiên của Nhà máy lọc dầu Dung Quất ra đời ngay tại Trạm xuất sản phẩm bằng xe bồn, trong mặt bằng khu Bể chứa sản phẩm của NMLD Dung 69 Quất 66. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng đánh dấu bước khởi đầu của ngành công nghiệp lọc dầu Việt Nam. Với công suất chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm, nhà máy lọc dầu sẽ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong cả nước. Theo kế hoạch trong năm 2009, nhà máy sẽ được vận hành nâng dần công suất để đến tháng 08/2009 đạt 100% công suất thiết kế và sẽ được bàn giao trong tháng 10/2009. Với 100% công suất thiết kế, trong một tháng, Nhà máy sẽ sản xuất gần 150.000 tấn xăng, 240.000 tấn dầu Diesel, khoảng 23.000 tấn LPG và các sản phẩm khác như Propylene (trên 8.000 tấn), xăng máy bay Jet-A1(khoảng 30.000 tấn) và dầu F.O. (khoảng 25.000 tấn). Dự kiến, trong năm 2009, Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ sản xuất khoảng 2,6 triệu tấn sản phẩm các loại. Nhà máy lọc dầu Dung Quất có công suất 6,5 triệu tấn/năm, thế nhưng theo Ban Quản lý dự án NMLD thì việc nâng công suất nhà máy lên 10 triệu tấn vẫn có thể được. Để nâng cao công suất có hai phương án: Phương án thứ nhất là nâng cao công suất hoạt động lên 120 - 130%. Để được như vậy thì phải cải tạo nâng cấp, nhưng cao nhất cũng chỉ được 8,5 triệu tấn/năm. Phương án 2, xây dựng thêm cụm công trình mới (dây chuyền thứ 2). Kế hoạch xây dựng dây chuyền thứ 2 đã được xây dựng từ chủ trương của Chính phủ nhưng đến tháng 11/2009 mới báo cáo xin phê duyệt. Theo kế hoạch dây chuyền 2 Ban dự án sẽ đề nghị cho các nhà đầu tư đầu tư một phần vốn xây dựng, kể cả nhà đầu tư nước ngoài, và năm 2015 bắt đầu sản xuất và công suất đạt 10 triệu tấn/năm sẽ rất khả quan.67 Năm 2006, chính phủ duyệt dự án đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu tại Long Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo đó, công suất thiết kế tối thiểu 7 triệu tấn/năm, chủ yếu sử dụng nguyên liệu dầu thô nhập khẩu, kết hợp sử dụng 66 Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: dau-dung-quat-cong-trinh-the-ky 67 Website : tra cứu ngày 03/04/2009 70 một phần nguyên liệu trong nước. Dự kiến nhà máy sẽ hoàn thành và đưa vào vận hành trước năm 2015 với tiêu chuẩn tương đương tiêu chuẩn Euro 4. Năm 2007, dự án nhà máy lọc dầu ở Nghi Sơn - Thanh Hóa đã được phê duyệt, ước tính công suất 7 triệu tấn dầu thô/năm. Sản phẩm chính là nhiên liệu (LPG, xăng 90, 92, 95), dầu hỏa, nhiên liệu phản lực, diesel, FO và hóa dầu). Theo tin của BBC, tập đoàn China National Oveseas Engineering Corporation của Trung Quốc đã lên kế hoạch với công ty Việt Nam để xây một nhà máy lọc dầu có quy mô vừa ở Cần Thơ. Nhà máy này sẽ đi vào hoạt động vào năm 2013, với công suất 2 triệu tấn/năm và 40.000 thùng dầu mỗi ngày. 68 Ngoài ra còn có dự án nhỏ như của công ty Hapaco, đang xúc tiến xây dựng dự án khả thi và thiết kế nhà máy lọc dầu với công suất ban đầu 1 triệu tấn/năm ở khu công nghiệp Đình Vũ - Hải Phòng. Như vậy, nếu không có thay đổi gì từ phía Nhà nước và doanh nghiệp đầu tư, thì từ nay tới năm 2015, Việt Nam sẽ có từ 3-5 nhà máy lọc dầu. Với tổng công suất 20-22 triệu tấn dầu thô được đưa vào hoạt động sản xuất cung cấp 15-16 triệu tấn xăng, diesel trong tổng nhu cầu khoảng 27-28 triệu tấn (đáp ứng khoảng 56% nhu cầu). Tuy nhiên, các nhà máy mới xây dựng cũng phải phù hợp với tiêu chuẩn chung của thế giới, cụ thể là: - Sản phẩm nhẹ ngày càng tăng cao (xăng cao cấp, nhiên liệu máy bay, diesel, naptha, LPG) do đây là nhiên liệu cần thiết và khó thay thế. - Nhiên liệu FO, dầu hỏa giảm mạnh vì khí đốt và các nhiên liệu thay thế khác sẽ đáp ứng nhu cầu. - Nguyên liệu cho hóa dầu tăng cả về số lượng và chất lượng. 68 Báo Tuổi trẻ: www.tuoitre.com.vn , tra cứu ngày 05/04/2009 71 - Đảm bảo yêu cầu về môi trường: Các tiêu chuẩn về hàm lượng lưu huỳnh (S), các chất thải độc hại của Việt Nam hiện nay không còn phù hợp nữa mà phải dựa vào các tiêu chuẩn của Mỹ, EU trong thiết kế sản phẩm. - Phải biết kết hợp chế biến sâu với hóa dầu, tức là phải biết xây dựng các đề án liên hợp lọc hóa dầu chứ không chỉ có lọc dầu hóa dầu riêng lẻ. Như vậy vừa tiết kiệm chi phí khai thác vừa mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sau khi gia nhập WTO và mở cửa thị trường xăng dầu, cạnh tranh quốc tế về phân phối sản phẩm ngay trong thị trường nội địa sẽ trở nên gay gắt. Đặc biệt, khi đó các nhà máy lọc dầu của các nước phần lớn đã gần hết thời kỳ khấu hao cơ bản nên giá thành rẻ, trong khi đó các nhà máy xăng dầu nước ta hoàn toàn mới, lợi nhuận cận biên sẽ giảm đáng kể. Vì vậy, không nên xây dựng các nhà máy có công suất quá nhỏ (dưới 3 triệu tấn/năm) do dễ bị thua lỗ lãng phí. Thêm vào đó, nguồn dầu thô cung cấp cũng không nên quá dựa vào sản phẩm trong nước vì sau vài chục năm nữa, sản lượng dầu thô nước ta chưa có gì đảm bảo sẽ duy trì ở mức cao như kế hoạch. Đồng thời, cần tích cực huy động vốn đầu tư ở nước ngoài, trong đó cần đảm bảo mức lợi nhuận hợp lý cho người đầu tư như tạo môi trường pháp lý thuận lợi, cho phép họ cùng tham gia phân phối sản phẩm, áp dụng biện pháp miễn giảm thuế… Sau khi các nhà máy lọc hóa dầu đi vào hoạt động, cần cổ phần hóa ngay từ đầu để có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Nhà nước chỉ cần giữ cổ phần tới mức cần thiết để chi phối quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp với loại hàng hóa chiến lược này. 2.2. Mở rộng và phát triển thị trường kinh doanh xăng dầu trong nước 2.2.1. Phòng ngừa rủi ro trong họat động kinh doanh xăng dầu Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cần tìm ra giải pháp nhằm kiểm soát giá xăng dầu nội địa bất kể các diễn biến 72 phức tạp trên thị trường thế giới. Một trong những công cụ có thể tính đến là xây dựng thị trường giao sau xăng dầu ở Việt Nam. Khi đã có thị trường giao sau xăng dầu thì doanh nghiệp có thể chủ động mua các hợp đồng kỳ hạn hoặc giao sau xăng dầu với thời hạn vài tháng hoặc cả năm ở một mức giá cố định sẵn, tùy theo tính toán của doanh nghiệp, giả sử mức giá ký hợp đồng là 65 USD/thùng thì doanh nghiệp vẫn mua được ở mức giá đã được ký hợp đồng trước là 65 USD/thùng. Tuy vậy, khi thực hiện các giao dịch trên thị trường kỳ hạn, các doanh nghiệp kinh doanh phải chịu rủi ro do giá xăng dầu giảm thấp hơn mức ký hợp đồng ban đầu. Giả sử, giá giảm còn 60 USD/thùng thì doanh nghiệp phải chịu lỗ là 5 USD/thùng. Tuy nhiên, khi đã tham gia thị trường kỳ hạn này thì doanh nghiệp thường chủ động được mức giá kỳ vọng (65 USD/thùng), bất kể giá lên hay xuống. Hơn nữa, doanh nghiệp không cần phải có kho bãi để tích trữ số xăng dầu giao sau đã mua mà chính thị trường giao sau sẽ làm nhiệm vụ tích trữ này. Khi đến thời hạn, doanh nghiệp cần xăng dầu sẽ được nhận từ thị trường với mức giá thỏa thuận. Điều này vừa giúp doanh nghiệp bớt nỗi lo về giá xăng dầu tăng, vừa chủ động kiểm soát được chi phí đầu vào của mình. Đồng thời, đây cũng là giải pháp có lợi đối với cả người tiêu dùng, vì mức giá cả sẽ được bảo đảm ổn định trong một thời gian dài. Việc xây dựng thị trường giao sau có nhiều quốc gia đã thực hiện, trong đó có Trung Quốc, là quốc gia nhập khẩu xăng dầu lớn thứ 2 trên thế giới trong những năm trở lại đây. Thị trường giao sau xăng dầu của Trung Quốc đã ra đời từ khá sớm (1994) nhưng sau đó ngừng hoạt động rồi bắt đầu trở lại hoạt động và phát triển mạnh từ cuối năm 2004 69 . Việc Trung Quốc phát triển thị trường này cũng là vì nhu cầu phòng ngừa rủi ro giá xăng dầu của doanh nghiệp và người tiêu dùng. 69 Theo Tuổi trẻ và báo điện tử Vietnamnet: , tra cứu 05/04/2009 73 Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần tăng cường tìm kiếm và hợp tác với những bạn hàng kinh doanh lớn. Trong môi trường kinh tế đang mở cửa và hội nhập như hiện nay, việc tìm hiểu và lựa chọn đúng những bạn hàng lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là vô cùng quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận lâu dài của doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. 2.2.2. Xây dựng môi trường tự do cạnh tranh cho thị trường xăng dầu trong nước Hiện nay trên thị trường xăng dầu có 11 doanh nghiệp được quyền nhập khẩu với mạng lưới bán lẻ rộng khắp. Trong khi đó, Petrolimex chiếm gần 60% thị phần, đứng thứ 2 là Petro Việt Nam với 2 công ty thành viên là PDC và Petechim, kế tiếp là Petec và Sài Gòn Petro, 4 công ty này đang chiếm khoảng 90% thị phần cả nước. Vì vậy, nếu các doanh nghiệp này hợp tác với nhau để lôi kéo khách hàng thì có lợi hơn là việc cạnh tranh, gây căng thẳng với nhau. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp liên minh với nhau tăng giá sẽ làm ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng. Do đó, điều cần thiết là phải mở rộng thị trường kinh doanh xăng dầu, tạo môi trường cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tự do kinh doanh với nhau. Một trong những giải pháp được thực hiện là xóa bỏ trợ cấp mặt hàng xăng dầu. Do từ trước tới nay, các doanh nghiệp nhập khẩu luôn được Nhà nước bảo trợ sinh ra tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào nguồn Ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp thường lợi dụng nguồn Ngân sách của Nhà nước, thu lợi cho mình, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Hơn nữa, năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng trở nên kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu kém. Việc xóa bỏ trợ cấp xăng dầu giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh. Thứ hai, để kích thích môi trường kinh doanh trong nước, Nhà nước nên có chính sách khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước. Mặc dù khi tham gia Tổ chức 74 thương mại thế giới WTO ta không cam kết mở cửa thị trường xăng dầu, tuy vậy, theo xu thế chung của thị trường, trong tương lai thị trường xăng dầu trong nước cần hội nhập với thị trường xăng dầu thế giới. Khi đó các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội gia nhập thị trường trong nước để cùng tham gia kinh doanh xăng dầu. Để có thể tồn tại trong môi truờng tự do cạnh tranh thì các doanh nghiệp kinh doanh trong nước sẽ phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua chính sách giá cả hợp lý, dịch vụ chu đáo. Chắc chắn khi đó, người tiêu dùng sẽ được hưởng mức giá cạnh tranh hơn, chất lượng mặt hàng tốt hơn. Khi càng có nhiều doanh nghiệp tham gia thị truờng, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau, muốn lôi kéo khách hàng thì phải hạ giá sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Như thị trường xăng dầu Nhật Bản và Trung Quốc, do cung cấp xăng dầu với giá rẻ theo thị trường quyết định và cung cấp với lượng ổn định nên kinh doanh xăng dầu ở 2 thị trường này diễn ra rất quyết liệt. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, để có thể chủ động hội nhập với môi trường quốc tế thì cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý, đổi mới mô hình tổ chức theo hướng tinh gọn, hiện đại. Bên cạnh đó phải xác lập các phương án huy động vốn cho nhu cầu đầu tư dài hạn để tạo thế mạnh về hạ tầng kinh doanh khi nước ta thực sự mở cửa hội nhập. Trước mắt, các doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống phân phối lâu dài và ổn định. Hệ thống phân phối mạnh cùng với chất lượng giá cả, dịch vụ tốt sẽ là yếu tố đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh của mình ở thị trường trong nước và thị trường thế giới trước thềm hội nhập. Theo Bộ Công thương, việc thực hiện Nghị định 55/2007/NÐ-CP về kinh doanh xăng, dầu gần hai năm qua đã góp phần chuyển KD mặt hàng đặc biệt này sang cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, bảo đảm nguồn cung xăng, dầu cho thị trường trong nước trong mọi tình huống, từng bước tổ chức 75 và phát triển hệ thống phân phối xăng, dầu theo quy hoạch, gắn trách nhiệm từ doanh nghiệp KD xuất nhập khẩu xăng, dầu đến đại lý và trạm bán lẻ. Tuy nhiên, sự biến động bất thường của thị trường thế giới vừa qua và sau khi chuyển KD toàn bộ mặt hàng xăng, dầu theo cơ chế thị trường thì một số nội dung của Nghị định 55 không còn phù hợp. Ngoài ra, từ quý I năm 2009, ngoài nguồn cung từ nhập khẩu, sẽ có thêm nguồn cung từ lọc dầu trong nước, nên cần có thêm quy định để quá trình KD từ các nguồn khác nhau có điều kiện cạnh tranh bình đẳng. Thời gian qua, nhất là trong năm 2008, một số DN trong thời điểm khó khăn đã giãn tiến độ nhập khẩu, không tham gia tích cực vào bình ổn thị trường; ngược lại khi điều kiện KD thuận lợi lại tăng tiến độ nhập khẩu, gây khó khăn cho các DN thực hiện nghiêm túc công tác bảo đảm nguồn cung. NÐ 55 chỉ quy định DN nhập khẩu xăng, dầu phải nhập khẩu theo hạn mức tối thiểu được giao hằng năm và DN sản xuất phải đăng ký kế hoạch sản xuất hằng năm. Do vậy, cần bổ sung quy định về đăng ký và thực hiện nhập khẩu, sản xuất theo thời gian ngắn hơn là hằng quý. Về quy định giá bán xăng, dầu, NÐ 55 giao liên Bộ Tài chính - Công thương thiết lập cơ chế để DN tự điều chỉnh giá bán khi giá thế giới bình quân trong khoảng thời gian nhất định trước đó (từ 15 đến 20 ngày) biến động trong biên độ nhất định (từ 15% đến 20%)70. Thực tế, giá thế giới biến động rất phức tạp cả về thời gian và biên độ (Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập Quỹ bình ổn giá xăng, dầu), cho nên cần sửa đổi NÐ 55 theo hướng giao liên Bộ Tài chính - Công thương hướng dẫn cơ chế tự điều chỉnh giá bán của DN phù hợp sự biến động thị trường thế giới từng thời kỳ, trong khoảng thời gian tương ứng quy định về dự trữ lưu thông bắt buộc. 70 Tổng hợp từ website Báo Nhân dân: 76 Về thuế nhập khẩu xăng, dầu, để tình hình KD của DN; giá bán trong nước và nguồn thu ngân sách được ổn định, đề nghị ổn định thuế suất thuế nhập khẩu xăng, dầu trong một thời gian nhất định (có thể ít nhất là trong một quý) và tiến tới áp dụng mức thuế nhập khẩu tuyệt đối (trên lít, kg xăng, dầu). Như vậy, để đưa kinh doanh, sản xuất xăng, dầu trong nước vận hành theo cơ chế thị trường đầy đủ, có sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng, giữ ổn định tương đối, tăng chất lượng dự báo và lập kế hoạch..., cần bổ sung, điều chỉnh cơ chế quản lý sản xuất, kinh doanh xăng, dầu theo sát thực tế. 2.3. Sử dụng tiết kiệm lượng xăng dầu hiện có Với điều kiện giá cả xăng dầu tăng nhanh như hiện nay, nước ta cần tổ chức thực hiện ngay chiến lược được sử dụng nhiên liệu tiết kiệm hợp lý trong cả sản xuất và tiêu dùng như nhiều nước đang áp dụng, như: Thứ nhất, điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây dựng những ngành sản xuất có hàm lượng các bon thấp (tức là ngành kinh tế sử dụng ít nhiên liệu). Thứ hai, cần thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu tiêu dùng nhiên liệu thông qua việc đa dạng hóa cung ứng và sử dụng các nguồn năng lượng khác không để nền kinh tế quá phụ thuộc vào dầu mỏ như: khí đốt, sức gió, điện mặt trời, thủy điện nguyên tử, nhiên liệu sinh học…. Tiết kiệm nguồn năng lượng không chỉ là yêu cầu cấp thiết đặt ra với nước ta mà còn là vấn đề được toàn cầu quan tâm. Trong hoàn cảnh hiện nay bên cạnh việc tích cực tìm ra nguồn năng lượng thay thế, chúng ta vẫn cần tiết kiệm tối đa lượng xăng dầu hiện có. Việc tiết kiệm này cần xuất phát từ ý thức của mỗi cá nhân, tập thể, các hộ gia đình cũng như ở các cơ quan xí nghiệp… 2.3.1. Tiết kiệm xăng dầu trong sản xuất kinh doanh Đối với doanh nghiệp sản xuất nói chung: Một trong những điều cần thiết là phải cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của máy móc. Bên cạnh 77 đó, phải biết tiết kiệm chi phi đầu vào, sử dụng hợp lý nguồn nhiên liệu nhằm tiết kiệm một cách hiệu quả nhất. Cụ thể với từng ngành như sau: Đối với ngành vận tải: Cần giảm định mức tiêu hao nhiên liệu, chi phí quản lý, kéo dài thời gian khấu hao cho phương tiện, hợp lý hóa quy trình vận tải, tăng khả năng vận chuyển 2 chiều để giảm tỷ lệ xe chạy rỗng… Nghiên cứu hoàn thiện quy định về quản lý, tổ chức các loại hình vận tải nhằm phát huy tính ưu việt của từng loại phương tiện, phát triển hài hòa các loại hình vận tải… tránh tình trạng có nhiều doanh nghiệp vận tải nhưng manh mún, quy mô nhỏ lẻ lại hoạt động chồng chéo… dẫn đến tỷ lệ phương tiện chạy rỗng khá cao, gây lãng phí và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của xã hội71. Đối với sản xuất kinh doanh xi măng: Nâng cao chất lượng clinker72, triệt để tiết kiệm các định mức tiêu hao vật tư chủ yếu như than, điện, xăng dầu, gạch chịu lửa… cải tiến công nghệ sử dụng than thay cho dầu. Nâng cao công suất máy móc thiết bị, kéo dài thời gian chạy máy: hợp lý hóa quá trình mua bán vật tư, lưu thông xi măng nhằm giảm các khoản chi phí trung chuyển, bốc xếp qua kho. Đối với sản xuất kinh doanh thép: Cũng giống như xi măng, cần quản lý chặt chẽ chất lượng của nguyên liệu đầu vào nhằm giảm tiêu hao vật tư, xây dựng định mức nguyên vật liệu, hàng tồn kho hợp lý. Ngành than: Sản xuất theo hướng tập trung nâng cao công suất các mỏ, giảm đầu mối quản lý. Tăng thời gian hữu ích, giảm giờ máy ngừng, hợp lý hóa khâu cung ứng vật tư đồng thời sử dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí thông qua đầu tư đối với từng loại hình khai thác than. Ngành điện: Vận hành tối ưu các nguồn điện có giá thành thấp (thủy điện, nhiệt điện than, tuabin khí, đuôi hơi), đồng thời hạn chế tối đa việc huy động các nguồn điện chạy dầu để nâng cao hiệu quả kinh tế. Tiếp tục phấn đấu 71 Báo thị trường giá cả, số tháng 09/2006. 72 Clinker: sản phẩm nung thiêu kết ở 1450 độ C của đá vôi, đất sét và 1 số phụ gia điều chỉnh hệ số như bô xít, quặng sắt, cát… Chất lượng clinker sẽ quyết định tính chất của xi măng. 78 giảm suất tiêu hao nhiên liệu và điện tiêu dùng trong sản xuất so với kế hoạch được giao; hạn chế vật tư tồn kho, nhất là các loại xăng, dầu, mỡ máy, các loại dây cáp điện, sắt thép và một số loại vật liệu xây dựng. Xu hướng mới hiện nay vẫn đang tiến hành nghiên cứu và áp dụng là sử dụng nguồn năng lượng mặt trời thay thế cho điện thông thường. Như vậy sẽ giảm bớt vai trò của xăng dầu đối với ngành này so với hiện nay. Lĩnh vực đánh bắt xa bờ: Nhà nước đã đưa ra các giải pháp về tín dụng như xử lý nợ vay tín dụng đóng tàu khai thác xa bờ, giao cho ngân hàng thực hiện, giãn nợ cho ngư dân khai thác hải sản. Bộ tài chính đang hướng dẫn giảm nợ cho ngư dân. Về lâu dài, cần hướng dẫn lại tổ chức sản xuất theo hướng phối hợp giữa khai thác hải sản với dịch vụ hậu cần nghề cá nhằm tiết kiệm nhiên liệu và bảo quản sau khai thác. Tăng cường công tác điều tra nguồn lợi hải sản, nâng cao năng lực dự báo ngư trường khai thác để giúp ngư dân giảm chi phí nhiên liệu cho việc tìm kiếm ngư trường. Đẩy mạnh công tác khuyến ngư, hỗ trợ, đào tạo cho nghề cá nhằm nâng cao trình độ kĩ thuật, nghề nghiệp và quản lý của cán bộ, thuyền viên và chủ tàu. Ngoài các giải pháp từ Nhà nước, bản thân ngư dân cũng cần nỗ lực hơn nữa trong nhận thức để chuyển đổi nghề nghiệp, tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết sản xuất và dịch vụ nhằm nâng cao giá trị hải sản khai thác, hiệu quả đánh bắt và tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để tăng thu nhập, lợi nhuận.73 2.3.2. Tiết kiệm xăng dầu trong tiêu dùng Trong tiêu dùng, việc tiết kiệm xăng dầu là ý thức chung của mỗi cá nhân, mỗi tập thể nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực của đất nước. Đối với các cơ quan, cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ số lượng ô tô, xe máy được Nhà nước trang bị đảm bảo đủ nhu cầu sử dụng của đơn vị. Ngoài ra kiên quyết không để xảy ra tình trạng sử dụng xe công cho việc riêng. Bên cạnh đó, quản lý chặt chẽ nguồn ngân sách của Nhà nước chi cho việc sử dụng xe công thông 73 Tổng hợp từ Tạp chí Thương mại và Thị trường giá cả từ năm 2004 – 2007. 79 qua mức giới hạn sử dụng Ngân sách hàng năm cho mỗi đơn vị. Đối với cá nhân và hộ gia đình, cần tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm xăng dầu, vì lợi ích của cá nhân và toàn xã hội. Mặc dù phương tiện giao thông là không thể thiếu đối với nhu cầu đi lại của mỗi người song người tiêu dùng vẫn có thể tiết kiệm xăng dầu bằng cách lựa chọn loại phương tiện tiêu hao ít nhiên liệu, kiểm tra và bảo dưỡng xe định kì, sử dụng phương tiện hợp lý… Ngoài ra, có thể lựa chọn một loại phương tiện giao thông phù hợp thay thế như: sử dụng xe buýt thay thế cho xe máy (đặc biệt phù hợp với công nhân viên chức, sinh viên…), hoặc xe đưa đón nhân viên (với những công ty, nhà máy ở xa đô thị)… cũng là một trong những giải pháp tiết kiệm xăng dầu có tính khả thi. 2.4. Bảo đảm nguồn dự trữ xăng dầu trong nước Cần thiết phải có dự trữ của Nhà nước và của doanh nghiệp để bảo đảm an ninh năng lượng, tham gia điều hòa cung cầu khi thị trường có những biến động bất thường. Các nước trên thế giới hiện nay tích cực tăng cường dự trữ xăng dầu. Ở Mỹ, dự trữ khối lượng xăng dầu bằng 100 ngày tiêu thụ bình quân. Nhật coi trọng việc dự trữ dầu để ổn định nguồn cung cấp năng lượng và để bình ổn thị trường khi thị trường thế giới có những đột biến giá hoặc giá trong nước tăng cao bất hợp lý. Hiện dự trữ của Nhật tương đương 173 ngày tiêu dùng. Ở Việt Nam dự trữ xăng dầu mới có 35 ngày.74 Theo thông tin từ Bộ Công nghiệp, Việt Nam mới có kho dầu dự trữ thương mại của các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu với tổng dung tích trên 1 triệu m3 tập trung ở Quảng Ninh, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Đà Nẵng. Về dự trữ lưu thông, NÐ 55 quy định DN phải bảo đảm mức dự trữ lưu thông bằng 20 ngày, cung ứng theo kế hoạch cả về số lượng và chủng loại và tăng dần lên ít nhất 30 ngày vào năm 2010. Ðể bảo đảm an toàn, an ninh năng lượng trong tình hình mới và phù hợp nhịp độ tăng trưởng kinh tế, nhiều chuyên 74 Website Bộ Tài chính: tra cứu 09/04/2009 80 gia đề nghị tăng mức dự trữ hiện nay lên 30 ngày và ít nhất là 35 ngày vào năm 2015 75. Sau năm 2015, mỗi năm phải tăng mức dự trữ thêm hai ngày. Ngoài kho dự trữ thương mại của doanh nghiệp, các kho dự trữ chiến lược được hình thành theo Quyết định 93/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển hệ thống kho tiếp nhận đầu mối, kho trung chuyển, kho phân phối xăng, dầu trên phạm vi cả nước đến năm 2010”. Tuy nhiên, kho dự trữ quốc gia nêu trên chỉ sử dụng trong các trường hợp bão lụt, thiên tai, những trường hợp bất khả kháng và chưa đáp ứng được mục tiêu bình ổn thị trường giá xăng dầu trong nước trong thời gian dài. Vì vậy, về lâu dài theo các chuyên gia, Việt Nam phải tính đến việc lập kế hoạch, quy hoạch, xác định mục tiêu, qui mô dự trữ xăng dầu quốc gia theo các giai đoạn khác nhau (cân đối với dự trữ trong lưu thông); xác định khu vực dự trữ; tổng vốn và nguồn vốn; phân công công việc giữa các bộ ngành… Tiếp theo là hoàn thiện Quy chế quản lý xăng dầu dự trữ quốc gia76 cho mục tiêu bình ổn giá xăng dầu trong nước, theo đó, cần chú ý đến kế hoạch tăng, giảm dự trữ, luân phiên đổi xăng dầu trong kho; kế hoạch phát triển và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng… Bộ Công nghiệp cho biết trong khuôn khổ hợp tác giữa các nước ASEAN+3 (gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), các nước công nghiệp phát triển đều cho rằng cần xây dựng hệ thống dự trữ xăng dầu để đảm bảo an ninh năng lượng của các quốc gia, đối phó với những biến động xấu bởi khủng hoảng xăng dầu trên thế giới. Nhật Bản và Hàn Quốc đã lên 1 chương trình trợ giúp các nước khác (trong đó có Việt Nam) về xây dựng kho dự trữ xăng dầu chiến lược77. Việt Nam cũng đang xem xét chủ trương kêu gọi đầu tư nước ngoài để đầu tư vốn và công nghệ xây dựng kho dự trữ xăng dầu, bởi đến nay lĩnh vực này vẫn còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. 75 Website báo Nhân dân: 76 Quy chế quản lý xăng dầu dự trữ quốc gia, ban hành kèm theo NĐ 10/CP-TTg. 77 Thời báo Kinh tế Việt Nam, tháng 02/2008. 81 Công tác điều hành xăng dầu ở Việt Nam còn gặp khó khăn do chúng ta không có đầy đủ những công cụ. Mà cụ thể ở đây là dự trữ phục vụ lưu thông và bình ổn giá. Điều này, phụ thuộc vào tiềm lực của quốc gia, không thể trông chờ vào các DN. Các quốc gia, bên cạnh dự trữ chiến lược, đều có kho dự trữ xăng dầu nhằm đối phó với những tình huống biến động giá cả. Trong trường hợp giá tăng cao, kho dự trữ sẽ xuất ra nhằm đạt được giá cả ổn định trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, dự trữ để điều hành giá cả của Việt Nam gần như không có. Hiện nay, dự trữ lưu thông chủ yếu trông chờ vào các kho dự trữ của DN. Theo quy định DN phải dự trữ khoảng 10%, con số này tương đương khoảng 3 ngày lưu thông bán hàng của DN, một con số khá mỏng manh trước nhu cầu toàn thị trường và rất ít có khả năng tham gia bình ổn giá. Trên thế giới có rất nhiều nước phải nhập khẩu xăng dầu nhưng nhờ tiềm lực mạnh nên họ có dự trữ và dự trữ trở thành một công cụ hữu hiệu để tham gia bình ổn giá. Còn ở Việt Nam điều này gần như không có do tiềm lực chúng ta hạn chế. Dự trữ trong nước đang đặt hy vọng rất lớn vào việc xây dựng các nhà máy lọc dầu. Rõ ràng, khi thị trường hóa xăng dầu, với hoàn cảnh các yếu tố thị trường cạnh tranh chưa hoàn hảo, còn nhiều bất cập cả về năng lực và tiềm lực hẳn sẽ có nhiều khó khăn nảy sinh. Trong những lúc như thế, một biện pháp hành chính là điều có thể được chấp nhận. Tuy nhiên, về dài hạn, điều này không thể lặp đi lặp lại mãi nếu chúng ta muốn có một nền kinh tế thị trường thực sự và đang kêu gọi các nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. 2.5. Tìm kiếm những nguồn năng lượng thay thế Theo dự đoán của EIA, từ nay đến 2030 tỷ trọng tiêu thụ dầu lửa trong tổng tiêu thụ năng lượng của thế giới sẽ giảm xuống còn 33% (so với mức 38% hiện nay), trong cùng thời gian trên, tiêu thụ than đá sẽ tăng từ 24% hiện nay lên tới 27%, các dạng nhiên liệu tái tạo có thể lên tới 8-9%. Mặt khác, 82 cũng theo đánh giá của EIA trong trường hợp không có sự thay đổi lớn nào về chính sách năng lượng hiện nay thì nhu cầu dầu của thế giới sẽ tăng từ mức 85 triệu thùng/ngày hiện nay lên 118 triệu thùng/ngày vào năm 2030, trong đó riêng Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ chiếm hơn 50% toàn bộ tiêu thụ thế giới. Do đó, đứng trước nguy cơ cạn kiệt nguồn dầu thô, các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, đang tích cực đầu tư nghiên cứu tìm ra những nguồn năng lượng mới thay thế. Trong đó các loại nhiên liệu như nhiên liệu sinh học, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, tế bào nhiên liệu… đang là những nguồn năng lượng tiềm tàng nhất. 2.5.1. Nhiên liệu sinh học Hiện nay có khoảng 50 nước trên thế giới khai thác và sử dụng nhiên liệu sinh học ở các mức độ khác nhau. Đó là những nhiên liệu được sản xuất từ dầu thực vật sạch, ethanol (chiết mía đường, sắn), diesel sinh học… Ethanol là loại nhiên liệu được chiết xuất từ nguồn gốc thực vật, đã được sử dụng cho ô tô vào đầu thế kỷ XX. Cũng vào thời điểm đó, ngành công nghiệp lọc dầu phát triển nhanh chóng, đưa xăng dầu lên vị trí hàng đầu. Nhờ giá rẻ, khối kượng cung cấp lớn và nhiều tiện lợi khác của xăng dầu đã đẩy cồn ra khỏi thị trường nhiên liệu ô tô. Giờ đây do giá nhiên liệu cao nên ở nhiều nước vị trí của cồn đang được phục hồi và dạng nhiên liệu này đang được xem là một hướng ưu tiên trong chính sách phát triển nhiên liệu tái tạo. Việc sản xuất và đưa nhiên liệu sinh học vào sử dụng giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiên liệu xăng dầu, hơn nữa, chất thải từ nhiên liệu sinh học sạch hơn nhiều so với chất thải từ các loại nhiên liệu truyền thống như xăng dầu, than.78 Xu hướng sử dụng nhiên liệu sinh học của thế giới ngày càng tăng. Năm 2006 toàn thế giới đã sản xuất khoảng 50 tỷ lít ethanol (75% dùng làm nhiên liệu) so với năm 2003 là 38 tỷ lít. Năm 2005 sản xuất 4 triệu tấn diesel sinh học và năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 20 triệu tấn. Brazil là nước đầu tiên 78 Phát triển nhiên liệu sinh học, Tạp chí Thương mại, số 14/2007. 83 sử dụng ethanol làm nhiên liệu ở qui mô công nghiệp từ năm 1970. Tất cả các loại xăng của nước này đều pha khoảng 25% ethanol (E25), mỗi năm tiết kiệm được trên 2 tỷ USD do không phải nhập dầu mỏ. Hiện tại, nước này có khoảng 3 triệu ô tô sử dụng hoàn toàn ethanol và trên 17 triệu ô tô sử dụng E25. Nhiên liệu sinh học là một trong những giải pháp ưu tiên trong chính sách năng lượng của nhiều nước trên thế giới. Giải pháp này không những giúpgiảm sự phụ thuộc vào xăng dầu mà còn thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, giúp xóa đói giảm nghèo, tăng việc làm, tăng thêm sản phẩm hàng hóa cho xã hội. Nhận thấy tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhiên liệu sinh học, Bộ Công nghiệp đã triển khai xây dựng “Đề án phát triển nhiên liệu sinh học” đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020, với mục tiêu sản xuất xăng E10 (xăng pha cồn với hàm lượng cồn tối đa 10%) và dầu sinh học nhằm thay thế 1 phần nhiên liệu truyền thống hiện nay.79 Mặc dù hiện nước ta có khá nhiều công trình nghiên cứu về sản xuất nhiên liệu sinh học thành công như sản xuất biodiesel từ đậu nành, mè, dầu phế thải; sản xuất cồn 96% ethanol từ mía, bắp, sắn… thậm chí chất lượng gasohol sản xuất từ cồn công nghiệp của trường ĐH Bách Khoa - TP Hồ Chí Minh đã thử nghiệm thành công trên ô tô, xe máy, đạt tiêu chuẩn của Mỹ. Bên cạnh đó, hiện đã xó nhiều nhà máy ở miền Tây Nam Bộ tự xây dựng hoặc liên kết để chế biến mỡ cá basa thành biodiesel. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có tiêu chuẩn nhiên liệu sinh học, còn chờ chính sách, cơ chế của Nhà nước tạo được động lực cho lĩnh vực này phát triển. Như vậy, tiềm năng phát triển nguồn sinh học ở nước ta là khá lớn, song điều quan trọng là cần có chính sách khuyến khích của Nhà nước nhằm phát triển trình độ công nghệ, thiết bị sản xuất, hệ thống phân phối. Có như vậy chúng ta sẽ giải quyết được 3 vấn đề 79 Nguyễn Mạnh, Phát triển nhiên liệu sinh học, Thời báo Kinh tế Việt Nam, (31/07/2007). 84 đang tồn tại: giảm sự phụ thuộc vào xăng dầu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và hơn nữa là phát triển kinh tế nông thôn. 2.5.2. Năng lượng mặt trời Năng lượng mặt trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ mặt trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt nguyên tử khác phóng ra từ ngôi sao này. Theo ước tính, dòng năng lượng này sẽ còn duy trì trong khoảng 5 tỷ năm nữa. Đây là một nguồn năng lượng tái tạo quí báu của loài người.80 Trong khi các dạng năng lượng truyền thống đặc biệt là dầu thô đang ngày một cạn kiệt, thì ánh sang mặt trời được coi là một trong những kho năng lượng quí giá có thể thay thế được. So với các dạng năng lượng khác, năng lượng mặt trời có ưu thế hơn là vừa sạch, vừa rẻ, lại gần như vô tận. Bởi thế, nó đã sớm được con người nghĩ đến và tìm cách khai thác. Ngành công nghiệp năng lượng mặt trời đang ngày càng bùng nổ và có thể cung cấp 2,5% nhu cầu điện của thế giới vào năm 2025 thay cho nguồn nhiên liệu hóa thạch - theo báo cáo của tổ chức Hòa Bình Xanh và hiệp hội công nghiệp sản xuất điện từ ánh sáng mặt trời châu Âu (EPIA). Theo 2 tổ chức này, vào năm 2025, nguồn năng lượng mặt trời sẽ thay cho sản lượng điện hàng năm của khoảng 150 nhà máy điện chạy bằng than đá. Báo cáo cho biết các hệ thống sản xuất điện từ ánh sáng mặt trời hiện đang cung cấp 0,5% nhu cầu điện của thế giới và có thể tăng lên 2,5% vào năm 2025, sau đó tăng vọt lên 16% vào năm 2040. Trên thế giới, khi giá dầu ngày càng có xu hướng tăng cao thì một số quốc gia đã đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu năng lượng mặt trời như là một giải pháp khả quan và hữu hiệu. Thưc tế đã chứng minh các doanh nghiệp điện tử lớn ở Nhật đã vô cùng thành công trong lĩnh vực sản xuất pin năng lượng mặt trời. Đồng thời Chính phủ nước này cũng trợ cấp khuyến khích 80 Bách khoa toàn thư Việt Nam: www.vi.wikipedia.org. , tra cứu 10/04/2009 85 việc áp dụng các công cụ năng lượng mặt trời. Mô hình này còn được áp dụng thành công ở Hàn Quốc và các nước châu Âu khác. Ở nước ta, từ hơn hai mươi năm trở lại đây đã sử dụng nhiều loại thiết bị thu hứng ánh sáng mặt trời để phục vụ cho quá trình sản xuất như: thiết bị sấy, thiết bị đun nước nóng, thiết bị chưng cất nước và dàn pin mặt trời. Các thiết bị này nhìn chung phù hợp với điều kiện khí hậu và đặc điểm địa lý nước ta. Cụ thể, Việt Nam nằm ở khu vực xích đạo nên rất có tiềm năng về năng lượng mặt trời, cường độ bức xạ trung bình từ 1.600 - 2.720h/năm, rất thuận lợi cho việc phát triển và sử dụng năng lượng mặt trời. Tiềm năng năng lượng mặt trời nước ta rất lớn, đặc biệt là khu vực phía Nam. Bức xạ mặt trời thay đổi từ 3-4,5 kwh/m2/ngày vào mùa hè. Cả nước có khoảng hơn 100 trạm quan trắc để theo dõi dữ liệu về năng lượng mặt trời. Tính trung bình trên toàn quốc thì năng lượng bức xạ mặt trời là 4-5 kWh/m2 mỗi ngày81. Việt Nam đã phát triển nguồn điện mặt trời từ những năm 1960 song tới nay vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi. Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam công bố chọn địa điểm đặt các nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở Ninh Thuận, Phú Yên. Theo kế hoạch, các nhà máy trên sẽ hoạt động từ năm 2015 đến 2020 với công suất tổng cộng là 2000 MW82. Nhìn chung, nguồn năng lượng mặt trời ở nước ta hiện nay chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có. Trong điều kiện giá xăng dầu ngày càng tăng và các nguồn khai thác có xu hướng cạn kiệt, ngay từ bây giờ, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích đầu tư nghiên cứu khai thác nguồn năng lượng này vừa để giảm bớt và thay thế xăng dầu, vừa tiết kiệm chi phí sản xuất và đặc biệt là không ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường. 81 Báo công nghiệp tiếp thị, số 5-2005 và Trung tâm nghiên cứu năng lượng và môi trường Việt Nam. 82 Website Bộ ngoại giao: tra cứu ngày 06/04/2009 86 2.5.3. Năng lượng gió Một trong những loại năng lượng có thể tái tạo là gió. Theo thống kê của ngành điện, sản lượng điện năng sản xuất từ sức gió hiện nay trên thế giới tăng liên tục, năm 1994 là 3.527,5 MW, năm 1997 là 7.500MW và hiện nay là trên 10.000 MW… Sử dụng nguồn điện bằng sức gió không lo hết nhiên liệu hay cạn kiệt nguồn nước như thủy điện hay nhiệt điện, đặc biệt không gây những tác động đáng kể tới môi trường. Mặc dù Việt Nam không có nhiều tiềm năng gió như các nước châu Âu song so với Đông Nam Á thì lại có tiềm năng tốt nhất. Tuy nhiên năng lượng gió ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có. Theo ước tính, tiềm năng xây dựng năng lượng gió ở nước ta từ nay tới năm 2030 là 400 MW. Cho tới nay, Việt Nam đã xây dựng xong và đang vận hành cột gió phát điện công suất 850kW ở Bạch Long Vỹ. Ngoài ra, trung tâm năng lượng tái tạo và thiết bị nhiệt (RECTARE), ĐH Bách Khoa - TP Hồ Chí Minh đã lắp đặt trên 800 cột gió ở 40 tỉnh thành. Hiện còn có dự án xây dựng 20 cột gió với tổng công suất 15MW tại tỉnh Bình Định. Viện năng lượng đang nghiên cứu xây dựng các trang trại gió qui mô lớn, một trong số đó là trang trại 20MW ở Khánh Hòa83. Tổng công ty điện lực Việt Nam dự định tài trợ xây dựng một trang trại gió với công suất 20 MW. Như vậy, năng lượng gió cùng với năng lượng mặt trời là những nguồn năng lượng thiên nhiên hữu ích và ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế và xã hội. 2.5.4. Tế bào nhiên liệu Đây là loại biến đổi năng lượng hóa học của nhiên liệu (ví dụ như hydro) trực tiếp thành năng lượng điện. Khác với pin và ắc quy, tế bào nhiên liệu không bị mất điện và cũng không có khả năng tích điện. Tế bào nhiên liệu hoạt động liên tục khi nhiên liệu (hydro) và oxy được đưa từ ngoài vào. 83 Công nghiệp tiếp thị: tra cứu ngày 11/04/2009 87 Hiện nay, trên thị trường ô tô, hãng Toyota đã cho ra đời loại xe Toyota Fine N sử dụng pin nhiên liệu. Cũng trong thời gian này, hãng Ford Motor cũng giới thiệu loạt xe buýt chạy bằng nhiên liệu hydro vừa thay thế nhiên liệu xăng vừa làm giảm khí thải. Công nghệ này đang được thúc đẩy để tiến gần tới sản xuất đại trà trong vòng 5 năm tới. Trên thế giới, từ 20 năm nay, nhiều hãng sản xuất xe đã nghiên cứu về xe có nhiên liệu hydro, sử dụng tế bào nhiên liệu để chuyển hóa năng lượng và dùng động cơ điện để vận hành. Kỹ thuật này đã được phát triển cho xe buýt, xe du lịch, xe tải nhẹ. Ở Đức đã có 2 hãng đóng tàu cung cấp loại tàu ngầm vận hành bằng điện được cung cấp từ máy phát điện diesel hoặc từ một hệ thống tế bào nhiên liệu hydro. Ngoài ra, người ta cũng tiến hành thử nghiệm chạy xe buýt sử dụng nhiên liệu hydro trên cùng tuyến đường xe buýt bình thường84. Loại tế bào nhiên liệu này khi được đưa vào ứng dụng sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ, giảm lượng dioxit cacbon, một trong các khí gây ra hiệu ứng nhà kính, các oxit của lưu huỳnh và nitơ là các khí gây ô nhiễm môi trường. Theo ý kiến từ Bộ năng lượng Mỹ, nhiên liệu hydro cũng có thể sử dụng một cách an toàn như các loại nhiên liệu phổ biến khác nếu như nó được bảo quản một cách thích hợp.85 84 Bách khoa toàn thư mở: 85 Tổng hợp từ Hội Khoa học công nghệ tự động Việt Nam và www.vietbao.vn , tra cứu 12/04/2009 88 KẾT LUẬN Đối với toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, những quan ngại về an ninh năng lượng trong những năm gần đây không ngừng gia tăng. Những căng thẳng về nguồn cung, nhu cầu cũng như biến động về giá cả dầu mỏ luôn là chủ đề nóng bỏng trong những năm gần đây. Với đặc điểm nổi bật là thị trường nhập khẩu xăng dầu, sự biến động giá xăng dầu nước ta trong thời gian qua hầu như cùng chiều với giá dầu thô thế giới song mức độ không giống nhau. Khóa luận đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản như sau: Thứ nhất, xăng dầu là nguồn năng lượng có vị trí chiến lược trong các ngành sản xuất vật chất, dịch vụ như giao thông vận tải, sản xuất than, điện, thép… an ninh quốc phòng và tiêu dùng. Đối với tất cả các quốc gia, xăng dầu là động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, là nhu cầu không thể thiếu của một xã hội hiện đại. Bên cạnh đó khoá luận còn trình bày những điểm khái quát chung về thị trường dầu mỏ thế giới và vai trò quan trọng của tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC trong thị trường này. Thứ hai, thị trường xăng dầu nước ta hình thành khoảng hơn một thế kỷ song đã có nhiều thay đổi về quy mô, tính chất và cả về số lượng, chất lượng của chủ thể tham gia. Cho đến trước khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động nguồn xăng dầu nước ta hoàn toàn phải nhập từ nước ngoài. Chính yếu tố này khiến thị trường xăng dầu Việt Nam luôn phải chịu ảnh huởng từ thị trường thế giới và giá xăng dầu liên tục biến động trong những năm gần đây đặc biệt là giai đoạn 2004-2008. Những bất ổn về giá của thị trường xăng dầu trong giai đoạn này tác động rất lớn tới hoạt động sản xuất, tiêu dùng, kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thị trường xăng dầu nước ta có khuynh hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào vào nguồn xăng dầu nhập khẩu, thay đổi về hình thức tổ chức quản lý, rời bỏ sự 89 quản lý về giá của Nhà nước để tiến tới xây dựng một thị trường tự do cạnh tranh, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Thứ ba, trước tình hình bất ổn giá xăng dầu trong nước trong thời gian qua, các giải pháp cần thiết đã và đang được áp dụng nhằm hạn chế những tác động tiêu cực tới đời sống - xã hội. Trong điều kiện hiện tại của nước ta, việc cần thiết nhất là phải có các nhà máy lọc hóa dầu nhằm đảm bảo một nguồn cung trong nước. Tiếp đó chúng ta cần tích cực nghiên cứu tìm ra nguồn năng lượng mới thay thế. Nhà nước cần tăng cường mức dự trữ xăng dầu quốc gia để đảm bảo nguồn cung xăng dầu, hạn chế những bất lợi từ biến động giá xăng dầu trên thị trường thế giới tới nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước cần phát huy hiệu quả tốt nhất trong việc quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu và điều hành giá cả mặt hàng này, mở rộng và khuyến khích cho thị trường xăng dầu cạnh tranh và phát triển. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt. 1. Báo cáo kết quả thanh tra về NSNN cấp bù lỗ hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp (2007), Phòng thanh tra 5- Thanh tra Bộ Tài chính. 2. Bảng tổng hợp gía bán lẻ xăng dầu và thuế nhập khẩu xăng dầu 2004- 2008, Cục quản lý giá, Bộ Tài chính. 3. Đỗ Quang Hưng, Trần Kim Đỉnh, Ngô Vĩnh Bình (2006), 50 năm tổng công ty xăng dầu Việt Nam 1956-2006, NXB Chính trị QG. 4. Luật cạnh tranh 2005 có hiệu lực từ 01/07/2005. 5. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP về việc quy định chi tiết một số điều của Luật cạnh tranh 2005. 6. Nguyễn Đình Cát, báo Nhân dân (06/2006), Bí mật thế giới dầu mỏ 7. Nghị định 55/2007/CP-TTg, ngày 31/05/2007 về quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu. 8. Nghị định 116/2005/NĐ-CP của chính phủ ngày 15/09/2005 về thi hành một số điều của Luật cạnh tranh. 9. Quyết định 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/09/2003 về quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu. 10. Quyết định 06/2005/QĐ-BTC ngày 18/01/2005 về ban hàng quy chế tính giá hàng hóa, tài sản dịch vụ. 11. Pháp lệnh giá 2002 có hiệu lực từ 01/07/2002. 12. Tạp chí thương mại: từ năm 2005-2007, Nxb.Bộ Thương mại. 13. Tạp chí Thị trường giá cả: từ năm 2004-2008.Nxb. Ban vật giá Chính phủ. 14. Thời báo kinh tế Việt Nam: từ năm 2004-2008 91 Tài liệu website: Website tiếng việt: 1. Bách khoa toàn thư mở Việt Nam: 2. Báo điện tử Việt Nam: 3. Báo công nghiệp tiếp thị: 4. Báo Tiền phong: www.tienphongonline.com.vn 5. Báo Tuổi trẻ: www.tuoitre.com.vn 6. Báo Nhân dân: www.nhandan.org.vn 7. Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.com.vn 8. Website Bộ Công thương: 9. Website Bộ Tài chính: www.mof.gov.vn 10. Website Bộ Ngoại giao: 11. Website Diễn đàn doanh nghiệp: www.dddn.com.vn 12. Website Tổng công ty xăng dầu Việt Nam: www.petrolimex.com.vn 13. Website Tổng cục thống kê: 14. Website Tổng cục Hải Quan: www.customs.gov.vn 15. Việt báo: Website tiếng Anh: 1. Bách khoa toàn thư thế giới: 2. Trang Thông tin năng lượng thế giới: 3. Website của OPEC: www.opec.org 4. Website của Cơ quan năng lượng thế giới: www.iea.org 5. Website của Tập đoàn dầu khí Anh: www.bp.com 6. Website của Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org 7. Website của Tổ chức nghiên cứu năng lượng Cambridge: www.cera.com 8. Website của Viện dầu mỏ Mỹ: www.api.org

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4515_3602.pdf
Luận văn liên quan