Nhằm khắc phục những bất cập nói trên, tạo thuận lợi hơn nữa cho việc phát triển và mở rộng thị trường ngoại tệ hoán đổi, kỳ hạn, ngày 28/5/2004 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 679/2002/QĐ-NHNN liên quan đến việc giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng phép kinh doanh ngoại tệ. Từ đây, giới hạn về thời hạn giao dịch ngoại tệ hoán đổi, kỳ hạn đã được dỡ bỏ, cho phép thực hiện thông lệ quốc tế, và mở rộng từ mức 7-180 ngày như trước đây lên mức 3-365 ngày nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và ngân hàng, khuyến khích thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển. Nhưng điểm đổi mới đáng chú ý nhất của quyết định trên là thay đổi cơ bản về cách thức quản lý mức tỷ giá trong các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi giữa USD và VND, nên tỷ giá kỳ hạn giữa VND và USD không còn bị khống chế bằng việc quy định mức trần cứng áp dụng cho từng kỳ hạn trên cơ sở tỷ lệ gia tăng so với trần tỷ giá giao ngay theo tính toán chủ quan của NHNN trong từng thời kỳ mà cho phép TCTD và doanh nghiệp tự do xác định và thoả thuận trong pham vi mức tỷ giá kỳ hạn được tính theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành của hai đồng tiền giao dịch là VND và USD.
50 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3089 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về tỷ giá hối đoái, và kinh nghiệm của trung quốc trong việc điều hành tỷ giá hối đoái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng đến 80% nguyên vật liệu đầu vào từ nhập khẩu, đặc biệt trong lĩnh vực gia công hàng dệt may và một số mặt hàng khác. Với xu hướng tỷ giá tăng làm cho giá nguyên liệu nhập tính theo đồng nội tệ tăng làm cho chi phí sản xuất tăng lên đáng kể. Điều này làm cho hiệu quả của các doanh ngiệp xuất khẩu có hàm lượng nguyên liệu nhập khẩu cao bị giảm sút đáng kể, các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn hơn trong sản xuất hàng xuất khẩu.
III. BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
Việt Nam đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 7.11.2006, gia nhập WTO mở ra cho Việt Nam những vận hội mới nhưng cũng đầy thách thức.
Ngày 02/01/2007 NHNN đã ban hành Quyết định số 2554/QĐ-NHNN thay thế Quyết định số 679/2003/QĐ-NHNN ngày 01/07/2003 về việc nới lỏng biên độ tỷ giá ngoại tệ. Đây là lần đầu tiên NHNN thực hiện nới lỏng biên độ gia dịch tỷ giá sau ba năm áp dụng mức ±0,25% lên thành 0,5%. Tuy nhiên, 1 tuần sau quyết định nới lỏng biên độ tỷ giá ngoại tệ theo quyết định theo quyết định này thỉ tỷ giá ngoại tệ giảm, tỷ giá ngoại tệ của NHTM không tăng mà luôn luôn rớt xuống mức sàn, VND lên giá so với USD. Nguyên nhân của diễn biến đó có thể lý giải như sau: Cuối năm 2006, lượng USD trên thị trường nhiều, giá USD trên thị trường ngoại hối giảm liên tục, giảm do 1 lượng ngoại tế lớn từ các quỹ đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam. Như vậy nguồn cung ngoại tệ trong nước dồi dào.
Khi Việt Nam gia nhập WTO và tổ chức thành công APEC, đã khiến lượng kiều hối đem về Việt Nam khoảng 4 tỷ USD. Trong khi đó NHNN lại không dám mua lại ngoại tệ của các NHTM vì lo sợ đưa tiền ra lưu thông nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến giá cả và gây ra lạm phát. Như vậy quyết định tăng biên độ tỷ giá ±0,5% tại thời điểm này là không phù hợp. Vào những tháng đầu năm 2007, với nguồn ngoại tệ tiếp tục ồ ạt đầu tư vào Việt Nam thông qua các hình thức FDI, FII, kiều hối..(theo báo cáo đầu tư Thế giới WIR 2007công bố, có 11 tập đoàn xuyên quốc gia khẳng định Việt Nam sẽ là điểm đầu tư hấp dẫn nhất về đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia trong giai đoạn 2007-2009.Theo báo cáo, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 6 trong tổng số 141 nền kinh tế được khảo sát về triển vọng thu hút đầu tư sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nga, Brazil), buộc NHNN phải bơm 7 tỷ USD nhằm ổn định tỷ giá trong thời gian qua. Hành động này đã đẩy chính sách tỷ giá tiền tệ của NHNN vào vòng luẩn quẩn.
Về mặt lý thuyết, với biên độ này, tỷ giá được điều chỉnh theo hướng giảm nhẹ VND so với USD sẽ khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh trên thị trường ngoại hối…Nhưng quyết định này làm VND đổi chiều và tăng giá, khiến tỷ giá giảm 0,3%. Trong điều kiện bình thường, việc điều chỉnh biên độ tỷ giá theo hướng tăng thường được hiểu là sẽ dẫn đến mở rộng biên độ giảm giá VND so với USD. Đây là lần đầu tiên diễn biến tỷ giá đã không tăng lên, thậm chí còn tiếp tục giảm sâu sau khi NHNN công bố tăng biện độ tỷ giá.
Tuy nhiên, xu hướng tăng giá nội tệ đã được chặn lại vào những tháng tiếp đó, và bắt đầu từ tháng 5/2007, đồng VN đã giảm giá trở lại, khoảng 0,6% so với USD. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày VND/USD là 16.213 còn trên thị trường tự do VND/USD là 16.290. So với thời điểm đầu năm, tỷ giá của NHTM vào thời điểm tháng 8/2007 đã tăng khoảng 0,98% sát với mức 1% mà NHNN dự kiến cho cả năm. Sự đảo chiều của tỷ giá được lý giải: trước hết là từ tác động mua vào mạnh mẽ của NHNN, kế đến là nhu cầu của các doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, các Ngân hàng đều có nhận định nhu cầu vay ngoại tệ của doanh nghiệp tăng mạnh. Tuy nhiên, do chính sách tỷ giá của NHNN được trung hòa với các ngoại tệ khác trong thanh toán xuất nhập khẩu, do chính đồng USD đã bị mất giá mạnh trên thị trường thế giới nên tỷ giá VND/USD được giữ ở mức hiện tại.
Nhưng tỷ giá VND/USD đã giảm giá trở lại do tình hình thừa USD của NHTM cũng như không thể đáp ứng hết nhu cầu chuyển đổi USD sang VND cho khách hàng làm cho tình hình trở nên gay gắt hơn. Bên cạnh đó, do từ đầu năm 2007, NHNN đã mua dự trữ khoảng hơn 9 tỉ USD,càng làm lạm phát trạng tăng cao. Tình trạng USD mất giá đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp XNK. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp sau khi thu được USD muốn chuyển sang VND để tiếp tục sản xuất kinh doanh cũng gặp khó khăn.
Điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới. Có doanh nghiệp đã chấp nhận bán USD thấp hơn giá công bố của Ngân hàng, cũng có nghĩa là thấp hơn biên độ cho phép của NHNN. Về phần các NHTM, việc mua thấp hơn giá công bố không phải nhằm mục đích kiếm lợi mà chỉ phòng ngừa thua lỗ. Tình trạng thừa USD cũng tác động đến thị trường chứng khoán. Theo thông tin từ các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển đổi vốn từ USD sang VND để mua chứng khoán nhưng các ngân hàng không có khả năng đáp ứng.
Đến hết quý I năm 2008 tỷ giá VND/USD tiếp tục có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, mức giảm hay lên giá của tiền VND vẫn chưa đủ lớn để giúp nền kinh tế kiềm chế lạm phát. Trong thời gian này, thị trường ngoại hối đã chứng kiến sự trượt dài của đồng USD trong một giai đọan khá lâu, điều mà hiếm ai nghĩ đến, bởi vì trong suy nghĩ mọi người NHNN sẽ điều hành tỷ giá theo lộ trình tăng dần để hổ trợ hoạt động xuất khẩu góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, và hơn nữa một nền kinh tế nhập siêu như Việt Nam thì lấy đâu ra thừa USD quá nhiều để USD rớt giá. Do biết chắc rằng nắm giữ USD sẽ cầm chắc lỗ nên các NHTM cũng không mặn mà với việc mua vào USD, vậy thì khi ai có nhu cầu chuyển USD sang VND NHTM sẽ tính phí và như vậy giá USD tại các NHTM bằng với giá giao dịch trên thị trường tự do, thế thì thị trường ngoại hối chính thức chẳng khác gì thị trường ngoại hối chợ đen.
Tỷ giá lại có dấu hiệu đảo chiều kể từ đầu quý 2 năm 2008. Cho đến đầu tháng 4 những người nắm giữ USD và nhà xuất khẩu đã vui mừng trở lại vì USD đã tăng giá lại như trước việc USD tăng giá trở lại là do nhu cầu USD tăng cao còn vai trò của NHNN còn tỏ ra hết sức mờ nhạt trong việc điều hành tỷ giá trong giai đoạn này, sau khi Ngân hàng Nhà nước phát ra những tín hiệu bình ổn tỷ giá trong ngày 27/05/2008, tỷ giá đã giảm khoảng 800 điểm trong ngày 28/5 so với mức đỉnh ngày 27/05/2008. Nhưng ngay sau đó, tỷ giá lại diễn biến rất phức tạp theo chiều hướng tăng với tốc độ rất nhanh, có những ngày tỷ giá tăng từ 500-700 đồng. Ngày 05/06/2008, tỷ giá công bố của NHNN là 16.117 VND/USD nhưng trên thị trường tự do đã bị đẩy lên tới 18.400 VND/USD, cao hơn 14% so với tỷ giá công bố. Và lên mức lỷ lục vào ngày 08/07/2008 VND/USD là 16.852 và tỷ giá trên thị trường tự do VND/USD là 19.500.
Như vậy, việc USD thừa hay khan hiếm chỉ là hiện tượng cục bộ diễn ra trong giai đoạn ngắn. NHNN đã không vận dụng linh hoạt các công cụ điều tiết tranh thủ mua USD khi USD giá thấp đẩ tăng nguồn dự trữ ngoại hối hổ trợ cho lộ trình tự do hóa tỷ giá. Hiện nay, VND theo đuổi chính sách tỷ giá linh hoạt với biên độ giao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng cho môi trường bên ngoài.
Mặc dù tỷ giá VND/USD biến động mạnh trên thị trường tự do song do quy mô của thị trường này so với thị trường chính thức là “rất nhỏ” không thể gây ra những xáo trộn trong hoạt động tài chính, tiền tệ và sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian qua:
Năm
Mở rộng biên độ
Biên độ mới
31/12/2006
0.25%
±0.50%
24/12/2007
0.25%
±0.75%
07/03/2008
0.25%
±1.00%
27/06/2008
1.00%
±2.00%
Tóm lại, tỷ giá VND và các ngoại tệ ở VN đã có tính thị trường, nhưng còn hạn chế. Từ năm 1996 đến năm 2006, VND đã được điều chỉnh hạ gía VND liên tục. Tuy nhiên VND vẫn có biểu hiện đánh giá cao hơn thực tế. Đầu năm 2007 cho đến nay, VND có xu hướng lên giá liên tục do 2 nguyên nhân chính: nguồn cung ngoại tệ từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh và ứ động tại các NHTM, trên thế giới, USD liên tục giảm giá. Đến hết quý I năm 2008, tỷ giá VND/USD tiếp tục có chiều hướng giảm, hay sự lên giá của VND vẫn chưa đủ lớn để kiềm chế lạm phát.
Sáu tháng đầu năm 2008, tỷ giá VND/USD có sự biến động khác với các năm trước. Sự khác nhau thể hiện ở một số điểm sau đây:
Một là,tỷ giá biến động nhiều hơn: giảm liên tục trong 3 tháng đầu, tăng liên tục trong 3 tháng sau. Nếu trong 3 tháng đầu, người có USD muốn bán cũng rất khó bán, thì trong 3 tháng sau, đặc biệt là tháng 6 người muốn mua USD cũng rất khó mua vì giá cao.
Hai là, chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do và ở các ngân hàng thương mại lúc mang dấu âm, lúc mang dấu dương và chênh lệch khá lớn.
Ba là, tỷ giá VND/USD tính theo năm thì từ tháng 1 đến tháng 4 bị giảm, tháng 5, tháng sáu tăng cao đặc biệt là tháng 6.
Điều đáng lo ngại là ở chỗ, nguy cơ rủi ro thua thiệt của nhiều người dân là rất cao. Lúc tỷ giá thấp thì đổ xô đi bán USD, lúc tỷ giá cao thì đổ xô đi mua, tạo nên nhu cầu không thực trên thị trường. Bên cạnh đó là những rủi ro mua phải ngoại tệ giả trên thị trương tự do không được Nhà nước kiểm soát.
Thực tế, USD tăng đột biến trong thời gian này là do trên thị trường tự do là do các yếu tố tâm lý và đầu cơ. Thêm nữa tỷ giá trên thị trường này không bị ràng buộc bởi các rào cản pháp lý như biên độ tăng giảm theo các kế hoạch thời gian. Do vậy, việc tăng giảm giá đồng USD trong thời gian này là không bền vững. Hơn nữa, nhu cầu ngoại tệ từ các doanh nghiệp nhập khẩu đặc biệt là nhóm các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu, thép, thuốc chữa bệnh. Ngoài ra, một số doanh nghiệp nhập khẩu những mặt hàng thuộc diện hạn chế không khuyến khích như hàng tiêu dùng xa xỉ, ôtô,… không được các Ngân hàng ưu tiên đáp ứng về ngoại tệ đã tiến hành mua gom trên thị trường tự do.
Bên cạnh đó, những báo cáo gần đây của các tổ chức quốc tế hoặc những tin đồn về triển vọng kinh tế của Việt Nam cùng với khả năng mất giá của VND trong thời gian tới đã tạo ra tâm lý đầu cơ tích trữ trong cả người dân lẫn doanh nghiệp. Thực tế, tại thị trường tự do những ngày này cho thấy nhu cầu mua ngoại tệ tích trữ của người dân tăng đột biến. Mặc dù, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những tín hiệu sẽ bình ổn tỷ giá trên thị trường nhưng do người dân chưa nắm rõ được những thông tin này khiến tâm lý lo ngại vẫn gia tăng.
Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thanh toán
Thời gian qua, nền kinh tế nổi lên là một nền kinh tế tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 7%/năm. Bước đầu hội nhập vào sân chơi của nền kinh tế toàn cầu khi trở thành thành viên chính thức của WTO vào cuối năm 2006. Năm 2007 trở thành năm thành công của Việt Nam khi tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,5%, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) đã đạt mức kỷ lục 20,3 tỷ USD trong đó vốn đăng ký mới là 17,86 tỷ USD và giải ngân hơn 8 tỷ USD. Thêm vào đó lượng vốn ODA cũng đạt kỷ lục mức cam kết 4,46 tỷ USD (đã giải ngân khoảng 2 tỷ USD) lượng vốn đầu tư gián tiếp FII khoảng 6 tỷ USD. Lượng kiều hối đạt khoảng 7,5 tỷ USD, nguồn vốn đầu tư gián tiếp qua kênh thị trường chứng khoán đạt 4,5-5 tỷ USD. Chưa bao giờ nền kinh tế Việt Nam dồi dào đến bội thực ngoại tệ đến như vậy. Có thể nói một phần hiện tượng bội thực này là do lãi suất huy động của các ngân hàng trong nước khá cao so với ở nước ngoài đặt biệt là ở Mỹ (18% so với 4% - 5%) càng khiến cho nhà đầu tư vay nước ngoài vay tiền ở nước họ sang gửi tiền hoặc đầu tư ở Việt Nam để hưởng tỷ suất sinh lợi cao hơn.
Những tháng đầu năm 2008, mặc dù nền kinh tế Việt Nam rơi vào lạm phát phi mã song với lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn tiếp tục tăng cao, trung bình mổi tháng tăng 1,2 tỷ USD. Sự gia tăng của vốn FDI là một điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam.
Chỉ tiêu
2006
2007
6T đầu năm 2008
Xuất khẩu (triệu USD)
39,6
48,8
29,7
Nhập khẩu (triệu USD)
44,4
60,8
44,5
Nhập siêu (triệu USD)
-4,8
-12,4
-14,7
Cán cân thương mại (%/xk)
12,12
25,41
49,8
Theo số liệu của tổng cục thống kê
Tuy nhiên, trong năm 2008 với những khó khăn nội tại của nền kinh tế từ việc phát triển nóng trong thời gian qua cộng với sự những diến biến bất lợi của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn trước mắt.
Tỷ lệ lạm phát trong sáu tháng đầu năm 2008 tăng cao so với năm 2007, đạt 18,44%, thâm hụt cán cân thương mại vượt mức thâm hụt cả năm 2007, bằng 49,8 kim ngạch xuất khẩu. Có thể lý giải điều này là do trong thời gian gần đây, dòng vốn đầu tư đổ vào Việt Nam tăng mạnh và đã có những tác động rõ rệt đối với nền kinh tế. Đặt biệt là khi đồng USD mất giá so với VND và lãi suất tăng cao đã gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Trong khi đó, một điều đang lo ngại là tốc độ nhập khẩu có xu hướng tăng cao nhất là nhập từ Trung Quốc và các nước lân cận.
Thị trường chứng khoán sụt giảm gần 60% so với năm 2007 và tốc độ tăng trưởng GDP chỉ khoảng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bong bóng chứng khoán và bất động sản trong năm 2006, 2007 cộng hưởng với chính sách tăng trưởng tín dụng quá nóng ở mức 37,8% năm 2007 đã khiến một bộ phận dân cư trở nên giàu có quá mức. Mức nhập siêu kỷ lục 14,7 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy rằng tỷ giá USD và VND có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu. Đồng USD mất giá so với VND là một bất lợi đối với xuất khẩu. Một thời gian dài chúng ta đã giữ giá đồng USD song thời gian gần đây lại để mất giá liên tục khiến cho doanh nghiệp không kịp xoay xở. Hơn nữ thói quen dùng USD trong thanh toán, khiến bị phụ thộc vào đồng USD vẫn phổ biến trong các doanh nghiệp.Trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa quan tâm đến nhiều công cụ đảm bảo quyền lợi, tránh thiệt hại khi tỷ giá tiền VND so với các ngoại tệ khác biến động. Hầu như các doanh nghiệp không quen với việc sử dụng EUR, làm giảm hiệu quả giao dịch trong xuất khẩu.
Bên cạnh đó yếu tố đầu cơ đã dẫn đến lượng nhập khẩu vượt quá mức nhu cầu thực tế và giá cả hàng hóa tăng cao, thể hiện ở các mặt hàng như gạo, phân bón, thép và xi măng.
Để đối phó với tình hình lạm phát tăng đột biến và thâm hụt cán cân thương mại, Chính phủ đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng cung tiền trong lưu thông, đồng thời thực hiện cắt giảm chi tiêu công nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực công. Các biện pháp này đang có những tác động tích cực trong việc kiềm chế lạm phát và hạn chế nhập siêu.
Tuy nhiên Việt Nam hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu nhập khẩu trong khi vẫn xuất khẩu dầu thô do các nhà máy lọc dầu chưa đi vào hoạt động. Giá dầu thế giới gia tăng gây áp lục đè nặng cho ngân sách Chính phủ vì bù lỗ để kiềm chế việc tăng giá.
III. NHẬN XÉT VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
1. Những mặt hạn chế
Có thể nói những mặt hạn chế của chính sách tỷ giá ở Việt Nam thời gian qua tập trung vào các nhược điểm của một chế độ tỷ giá cố định đã được duy trì trong nhiều năm qua, ít nhât cũng vào những năm 80 và nhược điểm của một chế độ tỷ giá gắn với USD.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã duy trì một chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên, ở chế quản lý tỷ giá đã bộc lộ sự thụ động, chậm đổi mới cơ chế để phù hợp với phát triển kinh tế từng thời kỳ. Chính sách tỷ giá giúp duy trì tỷ giá trong ngắn hạn và trung hạn có nhựơc điểm cổ hữu của nó là đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, VND bị định giá cao khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khấu và làm xấu đi cán cân thương mại và cán cân thanh tóan quốc tế.
Quá trình thực thi chính sách tỷ giá duy trì sự ổn định đã buộc chính phú Việt Nam phải hy sinh một trong hai mục tiêu vốn đươc di chuyển tự do hoặc độc lập sử dụng chính sách tiền tệ .Việc kiểm soát ngoại hối thông qua biện pháp hành chính, đặc biệt là trong giai đạon khủng hoảng tài chính Châu Á đã làm xấu đi môi trường kinh doanh ở Việt Nam, gây tác động không nhỏ đến hình ảnh của Việt Nam đối với các nhà đầu tư.
Chính sách tỷ giá cố định luôn là một chính sách tốn kém cho các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong trường hợp cán cân thương mại thâm hụt dẫn tới thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể, để duy trì tỷ giá cố định NHNN phải bán ra lượng ngoại tệ làm giảm lượng dự trữ ngoại hối của quốc gia. Nếu việc thâm hụt cán cân thanh toán kéo dài, nguồn dự trữ ngoại hối sẽ bị cạn kiệt dẫn tới khả năng khủng hoảng thâm hụt cán cân thanh toán. Trong trường hợp ngược lại, nếu cán cân vốn thặng dư mạnh do tác động của đầu tư nước ngoài dẫn đến việc thặng dư cán cân thanh toán. NHNN phải chịu sức ép phải mua vào lượng ngoại tệ dư thừa trên thị trường để duy trì tỷ giá hiện tại. Trong trường hợp đó một lượng nội tệ sẽ đưa vào thị trường gây áp lực lạm phát, NHNN phải ứng phó bằng cách bán trái phiếu Chính phủ trên thị trường mở để hấp thụ lượng tiền thừa trong lưu thông, đầu này gây sức ép tăng lãi suất, làm tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu.
Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng NN Việt Nam trước diễn biến dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy ồ ạt vào Việt Nam trong thời qua và áp lực tốc độ lạm phát tăng cao là một minh chúng cho nhận định trên.
Ngoài ra chính sách tỷ giá cố định cũng hạn chế khả năng chính phủ thực thi các chính sách tiền tệ để theo đuổi các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong đó có khuyến khích xuât khẩu. Thay vì thực hiện chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ tăng trưởng chậm do khủng hoảng tài chính Châu Á, Chính phủ đã thực thi chính sách tài khóa tốn kém hơn cho ngân sách thông qua chi tiêu chính phủ để kích cầu. Việc sử dụng chi tiêu của chính phủ để kích cầu bao giờ cũng đem lại những sức ép lớn đối với thâm hụt ngân sách quốc gia.
Việc thực hiện chính sách tỷ giá của NHNN trong thời gian qua thường không theo kịp biến động của thị trường và có độ trễ nhất định, tỷ giá chưa thực sự được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường, VND thường xuyên bị đánh giá cao so với USD và các đồng tiền khác nên ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu VIệt Nam và vì VND gắn với USD và USD lên giá so với các đồng tiền khác.
Vấn đề xác định tỷ giá hợp lý để thực hiện các giao dịch chuyển đổi tiền tệ, làm sao để đạt được cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài, duy trì một cán cân thanh toán vững mạnh đang là vấn đề hết sức khó khăn đối với nước ta. Những diễn biến gần đây về sự biến động lên giá thất thường của USD so với các đồng tiền khác, dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam trong thời gian qua đã chứng tỏ chúng ta còn nhiều lung túng, thụ động và yếu kém trong điều hành chính sách tỷ giá.
Việc công bố tỷ giá VND/USD của NHNN trên thị trường ngoại hối là độc lập với USD so với đồng tiền khác.Vì vậy, khi USD lên giá hay giảm giá so với các đồng tiền thì hầu như không ảnh hưởng đến tỷ giá VND/USD điều này khiến cho thị trường thiên về sử dụng nhiều USD mà bỏ qua sự quan tâm về về yếu tố rủi ro hối đoái.
Trong thời gian quan NHNN đã áp dụng chính sách tỷ giá gắn với duy nhất đồng USD mang lại sự ổn định giá trị danh nghĩa trong ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên sự thay đồi giá trị thực của đồng tiền cuối cùng cũng phải được điều chỉnh đặc biệt trong dài hạn.
2. Nguyên nhân của những hạn chế
Cho đến nay, chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá vẫn chưa thống nhất được mục tiêu điều hành tỷ giá trong dài hạn cũng như trong từng thời kỳ cụ thể do vẫn có sự mâu thuẩn giữa các yếu tố vĩ mô đối với nền kinh tế: giữa khuyến khích xuất khẩu và ổn định tỷ giá, giữa nhập khẩu hàng hóa và nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa xuât khẩu.
Sự phối hợp giữa các chính sách tỷ giá, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách tiền tệ chưa tạo được sự tác động tương hổ thuận chiều nên tác động của chính sách này đến nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng còn hạn chế. Nhiều khi mục tiêu cả chính sách này còn cách xa nhau, có khi trái với nội dung cụ thể trong liên quan điều hành tỷ giá. Điển hình trong thời gian qua việc ổn định tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu trước sức ép đầu tư vốn nước ngoài và kiềm chế lạm phát.
Nhưng thực tế này chứng tỏ hoạt động của NHNN trong thời gian qua nhằm ổn định tỷ giá có điều chỉnh ở biên độ không đáng kể là không hợp lý. Nó bóp méo thế cân bằng tương đối trên thị trường ngọai hối, gây ra những chênh lệch lớn giữa cung và cầu ngoại tệ, gia tăng thâm hụt cán cân thương mại. Dùng tỷ giá để kiềm chế lạm phát, che giấu sự mất giá của VND sẽ đem lại giảm sút trong cạnh tranh thương mại quốc tế Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hội nhập quốc tế, tiến hành tự do hóa các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, xóa bỏ chế độ kết hối, nới lỏng các quy định đối với giao dịch phái sinh. Cơ chế mới này phần nào gây sức ép đối với cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó, việc sử dụng các công cụ hành chính là những tồn tại và nguyên nhân gây ra những yếu kém trong công tác quản lý, điều hành chính sách tỷ giá.
Thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển còn chậm ở mức thấp, doanh số quá nhỏ, hầu hết các thời kỳ trước đây cung ngoại tệ không đủ cầu ngoại tệ, tỷ giá chưa xác định theo quan hệ cung cầu .Với tình trạng đô la hóa, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có thời kỳ tỷ giá trên thị trường tự do dẫn dắt tỷ giá trên thị trường chính thức được niêm yết trên cán ngân hàng thương mại.
CHƯƠNG III:
CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
óóó & óóó
Bước sang thế kỷ 21, xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hóa thương mại, đầu tư tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Sự hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường là nhu cầu khách quan có tính tất yếu. Với vai trò là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa và thế giới bên ngoài thì việc phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại phù hợp với chuẩn mực quốc tế là cần thiết.
1 Lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái
Việc lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá thích hợp của một quốc gia là rất khó khăn. Về cơ bản thì cơ chế tỷ giá chỉ tồn tại dưới ba dạng: cố định, thả nổi hoàn toàn và thả nổi có điều tiết hay còn gọi là cơ chế tỷ giá linh hoạt. Nhiệm vụ của người hoạch định chính sách tỷ giá là lựa chọn cơ chế nào sao cho nó phát huy vai trò điều tiết tốt nhất cho nền kinh tế.
Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với những thử thách lớn trong việc lựa chọn những giải pháp chiến lược cho vấn đề tỷ giá hối đoái. Việc duy trì tỷ giá hối đoái với mức tỷ giá thấp sẽ làm Việt Nam gặp khó khăn nhiều hơn trong vấn đề xuất khẩu. Hơn nữa, việc tiếp tục duy trì tỷ giá hối đoái ở mức ổn định thấp vẫn chưa giải quyết được vấn đề cơ bản về tỷ giá đòi hỏi lâu nay. Chính sách nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái hiện nay là đúng hướng, tuy nhiên mức độ nới lỏng quá thấp không phù hợp. Nếu biên độ rộng sẽ làm giảm sức ép lạm phát, vừa giảm sự can thiệp của NHNN và thị trường sẽ dễ dàng điều chỉnh tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ. Hơn nữa, khi VND được điều chỉnh giảm giá không chỉ có tác động khuyến khích xuất khẩu mà còn có tác động tích cực đến thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy mức nới rộng biên độ dao động đối với USD từ ±0,5% lên ±1% (tháng 3/2008) và ±2,00% (6/2008) vẫn còn quá cứng nhắc. Nếu giữ mãi việc bảo đảm tỷ giá sẽ ổn định trong khung 1-2% trong một năm thì sẽ làm cho thị trường chủ quan và dựa dẫm vào Nhà nước, các doanh nghiệp không quan tâm đến việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, đến lúc tỷ giá biến động mạnh thì sẽ phản ứng thái quá. Vì vậy, tỷ giá phải được dao động với biên độ rộng hơn nữa với sức ép của thị trường trong quá trình hội nhập.
Việt Nam cần tách rời ảnh hưởng của đồng USD, sử dụng chế độ tỷ giá gắn với rổ tiền tệ, bao gồm các ngoại tệ mạnh khác sẽ có lợi cho xuất khẩu. Theo đó, tỷ giá hối đoái được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ chốt có tỷ trọng thương mại lớn. Lựa chọn này sẽ phù hợp trong mục tiêu dài hạn của Việt Nam và linh hoạt trong cơ chế tỷ giá và liên kết chặt chẽ hơn với các đối tác thương mại chính, các nước trong khu vực, nhằm phát triển bền vững tránh các đổ vỡ tài chính dây chyền khi hệ thống tỷ giá neo với một ngoại tệ mạnh không đứng vững. Theo cách lựa chọn này, NHNN cần phải xác định tỷ giá thực đa phương thực tế theo các bước sau:
- Bước 1: Chọn thời điểm gốc. Vì tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước thay đổi rất nhiều trong những năm trước đây, hơn nữa cán cân thương mại lại thâm hụt thường xuyên. Do đó, ta chọn năm 1999 là năm cơ sở, bởi vì trong năm này cán cân thương mại của Việt Nam gần như cân bằng, do đó tỷ giá phản ánh ngang giá sức mua giữa VND với các đồng tiền còn lại, tức tỷ giá thực đa biên rất gần 1. Đồng thời năm 1999 cũng là năm đồng tiền chung châu Âu ra đời và được chọn đưa vào rổ.
- Bước 2: Căn cứ vào tỷ trọng ngoại tệ đựơc sử dụng trong thanh toán ngoại thương của nước ta với các nước để chọn các đồng tiền đưa vào rổ. Theo số liệu sưu tầm, hiện nay có 3 ngoại tệ mạnh đó là : USD, EUR, JPY được sử dụng trong thanh toán ngoại thương ở Việt Nam với tỷ trọng lần lượt là 88%, 10% và 2%. Chính vì vậy ta chọn các đồng tiền này để đưa vào trong rổ.
- Bước 3 : Căn cứ vào tỷ giá danh nghĩa song phương của các loại ngoại tệ trên với VND ta tính các chỉ số tỷ giá danh nghĩa.
- Bước 4: Lập bảng tính tỷ giá danh nghĩa đa biên (NNER).
- Bước 5: Lập bảng tính chỉ số giá tiêu dùng của từng nước theo tỷ trọng GDP của mỗi nước.
- Bước 6: Lập bảng tính chỉ số giá tiêu dùng trung bình của tất cả các nước.
- Bước 7 : Lập bảng tính tỷ giá thực đa biên .
2. Sử dụng hiệu quả các công cụ điều chỉnh tỷ giá
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
NHNN có thể tác động vào tỷ giá hối đoái thông qua việc mua bán ngoại tệ trên thị rường ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá hối đoái phù hợp với mục tiêu kinh tế trong từng giai đọan cụ thể. Khi tỷ giá tăng, NHNN thực hiện việc bán ngoại tệ để làm giảm sức ép lên cầu ngoại tệ. Ngược lại khi tỷ giá giảm xuống, NHNN có thể mua lại ngoại tệ nhằm giảm cung ngoại tệ trên hị trường ngoại hối, kích thích tăng giá ngoại tệ hay tăng tỷ giá trở lại. Để thực hiện được can thiệp này, NHNN phải có một lượng dữ trữ ngoại hối đủ lớn. Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu rộng vào các quan hệ kinh tế cả về thương mại và tài chính nên yêu cầu dự trữ ngoại hối lớn là cần thiết.
Tối đa khả năng tích lũy ngoại tệ tương xứng với nhịp độ kim ngạch xuất khẩu.
NHNN phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngoại tệ dự trữ đảm bảo sử dụng đúng cho hoạt động ngoại thương.
Lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ khả thi. Trong số các đồng tiền mạnh hiện nay, đáng quan tâm chỉ có ba loại : USD, EUR, và JPY, đồng thời xem xét kiểm nghiệm thêm tính ổn định của các đồng tiền qua các thời kỳ để điều chỉnh linh hoạt trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ.
Bên cạnh đó, NHNN nên tổ chức đi khảo sát kinh nghiệm của những nước thành công trong việc vận hành thị trường mở với sư tham gia của các ngân hàng thương mại cổ phần, tạo điều kiện cho họ tiếp thu thực tế trong việc linh hoạt vốn khả dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Công cụ lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu được xem là công cụ thứ hai mang tính kinh tế trong can thiệp điều chỉnh tỷ giá. Từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ lãi suất tái chiết khấu trong hoạt động can thiệp, điều chỉnh tỷ giá cũng sẽ là con đường tự do hoá tài khoản vốn mà trước hết là các giao dịch vốn ngắn hạn, đầu tư gián tiếp và cũng chính là con đường từng bước đưa đồng Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi.
NHNN có thể sử dụng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường. Khi tỷ giá tăng lên ở mức cao, NHNN có thể tăng lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ có tác động đến lãi suất thị trường làm cho lãi suất cho vay trên thị trường tăng lên, kích thích nguồn vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào để hưởng lãi suất cao, do đó làm tăng cung ngoại tệ và giá ngoại tệ có xu hướng giảm xuống. Ngược lại, khi NHNN áp dụng lãi suất tái chiết khấu thấp, tỷ giá ngoại tệ sẽ có xu hướng tăng lên. Tác động của nó chỉ giới hạn ở chỗ làm thay đổi những dòng tiền tệ lưu thông trong thị trường nội địa, từ nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại.
Bản thân lãi suất tái chiết khẩu chỉ có tác động gián tiếp đến tỷ giá hối đoái, tuy nhiên nó lại tác động trực tiếp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh vì gắn liền với chi phí sử dụng vốn. Vì vậy, việc sử dụng công cụ này còn nhiều sự cân nhắc.
Tóm lại, để sử dụng công cụ lãi suất mà cụ thể là lãi suất tái chiết khấu tác động vào tỷ giá, thì Chính phủ phải từng bước tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của đồng tiền đó trên thị trường chứ không phải bởi những can thiệp hành chính của Chính phủ. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, công cụ lãi suất chỉ có thể sử dụng thận trọng, cân nhắc và nên phối hợp với nhiều công cụ khác.
Công cụ hành chính
Tăng cường giám sát các giao dịch ngoại hối thông qua việc kiểm soát chặt hợp đồng thanh toán ngoại tệ, đề ra mức phạt nặng đối với trường hợp kê khống giá của hợp đồng xuất nhập khẩu và đối với các hành vi gian lận khác.
Duy trì công tác thanh tra, kiểm tra việc thanh tra quy định về chế độ quản lý ngoại hối hiện hành.
Rà soát thường xuyên các văn bản pháp quy để cải tiến kịp thời
3. Chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành thị trường tiền tệ
Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ cới các chính sách và giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ.
Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào thực tiễn. Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
Phối hợp hiệu quả các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động.
4. Phá giá đồng tiền Việt Nam - một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại:
Thực tế cho thấy, thâm hụt thương mại lớn xuất phát từ nguyên nhân đồng nội tệ lên giá dẫn đến khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
Nếu lấy năm 2000 làm gốc thì tỷ giá hối đoái VND/USD danh nghĩa tăng 13,7%( tức là VND giảm giá 13,7 % so với USD) trong khi tỷ giá hối đoái thực giảm còn 93,9 % (nghĩa là trên thực tế VND đang tăng giá khoảng 6,1% so với USD.
Lý do này là :
Mặc dù tỷ giá danh nghĩa tăng nhưng lạm phát của Việt Nam năm 2004 đến nay cao hơn nhiều so với lạm phát ở Mỹ. Điều này cho thất xuât khẩu Việt Nam vào Mỹ đang ở thế bất lợi, mặc dù tăng về kim ngạch nhưng lợi nhuận lại giảm dần.
Mặt khác do xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thanh toán bằng USD, trong đó rủi ro hối đoái hoàn toàn thuộc về doanh nghiệp Việt Nam gánh chịu, vì vậy độ co giãn của nhập khẩu với tỷ giá hối đoái rất thấp, nhất là nguyên liệu thô và khoáng sản.
Luồng vốn nước ngoài đổ vảo nhiều, cung tiền tăng nhanh kéo theo cầu hàng hóa tăng trong khi cung hàng hóa trong nước không đáp ứng được dẫn đến áp lực buộc phải nhập khẩu nên nhu cầu đồng USD cho doanh nhiệp nhập khẩu lớn dẫn đến USD tăng giá so với VND.
Tác động của phá giá đến nền kinh tế Việt Nam:
- Phá giá không gây lạm phát cao như nhiều người lo ngại. Tại các nước đang phát triển, lạm phát là một hiện tượng thuộc về cơ cấu kinh tế do độ co giãn cung thấp, khan hiếm ngoại tệ và thâm hụt ngân sách Chính phủ. Phá giá nhỏ chỉ có tác động trực tiếp làm giá hàng nhập khẩu tăng đợt đầu, kéo theo tăng tỷ lệ lạm phát, chứ không phát sinh các tác động gián tiếp về tâm lý đẩy tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn dự kiến. Hơn nữa, biến động của tỷ giá VND là hệ quả chứ không phải nguyên nhân của lạm phát.
- Phá giá là nhân tố thúc đẩy xuất khẩu và kìm hãm nhập khẩu. Song song với việc phá giá thì cũng phải tiếp tục hoàn thiện các chính sách của Nhà nước và phải lựa chọn thời điểm phá giá phù hợp
- Nông nghiêp- một trong những lĩnh vực quan trọng của cơ cấu nền kinh tế nước ta, sẽ được được mở ra nhiều cơ hội mới khi tiến hành phá giá. Nông sản là hàng hoá thương mại quốc tế và giá cả của chúng do thị trường quốc tế xác định, chính vì vậy cần có một tỷ giá hợp lý để thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển. Đồng thời, phá giá cũng góp phần làm tăng sức cạnh của nền kinh tế.
- Phá giá còn thúc đẩy cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, cải thiện tình hình tài chính của các ngân hàng. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đạt hiệu quả cao, phá giá sẽ thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có lãi và triệt tiêu các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, mắc nợ được bao cấp. Bên cạnh đó, các ngân hàng sẽ có cơ hội thu được nhiều khoản nợ hơn.
- Ngân hàng Trung ương sẽ không bị mất đi các khoản dự trữ ngoại tệ, bởi:
+So với các nước trong khu vực, độ mở cửa của thị trường tiền tệ Việt Nam rất thấp; nợ nước ngoài không cao, phần lớn là nợ Chính phủ, có tính ưu đãi và dài hạn; vốn vay nước ngoài chủ yếu để đầu tư, phát triển; và cân đối kinh tế về cơ bản vẫn được duy trì.
+Phá giá hiện nay là phá giá chủ động với những chính sách điều tiết của Chính phủ luôn được đi kèm, các cân bằng kinh tế đều ổn định, dự trữ ngoại tệ ở mức cao, …nên khó phát sinh khủng hoảng, mà trái lại còn có tác dụng lên nhập khẩu.
Tuy xu hướng phá giá đồng nội tệ là một định hướng đúng nhưng cần tiến hành thận trọng nhằm tránh những cú sốc cho nền kinh tế năm ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ.
5. Hoàn thiện chính sách thương mại
Hiệu quả tác động của tỷ giá hối đoái đến xuất nhập khẩu phụ thuộc vào tác động của tỷ giá đến giá cả hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu và tiếp đó là hệ số co giãn theo giá của hàng xuất khẩu và nhập khẩu.
Hiện nay, mức độ nhạy cảm của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam còn thấp. Bởi vì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lục là hàng lâm thủy sản,dầu thô dưới dạng sản phẩm thô và nguyên liệu mới qua sơ với chất lượng và năng suất thấp. Những mặt hàng này có độ co giãn theo giá thấp, do vậy ít có nhạy cảm với sự thay đổi tỷ giá. Đối với hàng nhập khẩu Việt Nam chủ yếu nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất, hàng bán thành phẩm phục vụ tái chế và gia công hàng xuất khẩu. Do đó, những thay đổi của tỷ giá còm làm tăng chi phí xuất khẩu ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và và xuất khẩu.
Để tỷ giá có tác động tích cực đến xuất khẩu, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, hính sách thương mại của Việt Nam cần hướng tới cải thiện cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng sử dụng yếu tố đầu vào trong nước và tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Cụ thể: giảm dần các hạn chế thương mại theo các cam kết với các tổ chức quốc tế; mặt khác, cần xây dựng một chính sách khuyến khích xuất khẩu trên cơ sở xây dựng được một cơ sở công nghiệp xuất khẩu tương xứng với tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam.
Những biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trong thời kỳ hội nhập là:
- Tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ để điều chỉnh hợp lý cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trong hàng xuất khẩu qua chế biến có giá trị gia tăng cao trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu là các sản phẩm khoáng sản và nông sản phẩm thô ở dạng sơ chế, tạo cơ sở vững chắc cho việc gia tăng hàng xuất khẩu.
- Nới lỏng dần các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước buộc các doanh nghiệp trong nước phải vươn lên trong cạnh tranh hàng xuất khẩu với hàng hóa nước ngoài.
- Đa dạng hóa thị trường để vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa có thể tránh được các cú sốc mang tính chất khu vực.
- Nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm đi đôi với việc giảm chi phí đầu vào và hạ giá thành sản phẩm.
- Quan tâm tới việc đăng ký và bảo vệ thương hiệu hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới nhằm tạo uy tín cho hàng hóa Việt Nam ,qua đó đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa.
- Đẩy mạnh hợp tác liên doanh với nước ngoài trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.
6. Theo dõi xu hướng vận động của tỷ giá trên thị trường chợ đen
Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ chợ đen là một tất yếu xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam .Nắm bắt những tín hiệu trên thị trường này, nơi mà các lực thị trường cơ bản là không điều phối bởi các quy định hành chính, có thể giúp ích công tác điều hành tỷ giá
Các chi nhánh NHNN ở các tỉnh thành phố nên nắm bắt kịp thời các xu hướng vận động của thị trường này.
Độ chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen được xem như để đánh giá mức độ hợp lý trong điều hành tỷ giá. Tính hợp lý bộc lộ khi hai tỷ giá này xích lại nhau. Không nhất thiết chúng trùng nhau vì thị trường chợ đen cũng chỉ là một mảng nhỏ trong tổng thể thị trường, và tính bất hợp pháp của nó cũng chứa đựng khoản rủi ro nhất định. Tốt hơn là chấp nhận sự chênh lệch này sao cho ngoại tệ từ thị trường chính thức chảy ra thị trường chợ đen.
7. Tăng cường các biện pháp kiểm soát nhập khẩu qua biên giới
Khối lượng hàng tiêu dùng nhập khẩu qua biên giới đã tăng lên nhanh chóng trong những năm qua. Mặc dù chưa có số liệu chính thức về kim ngạch xuất khẩu bằng đường này, nhưng trên thực tế chúng ta có thể thấy thị trường Việt Nam đang tràn ngập hàng nhập khẩu phi chính thức từ Trung Quốc và các nước trong khu vực. Tình trạng này có nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Đây là một vấn đề phức tạp nhưng nếu kiên quyết thì có thể kiểm soát được vấn đề này. Có thể áp dụng mức thuế vừa phải để tránh trốn thuế, đồng thời đánh thuế kinh doanh nội địa đối với loại hàng hóa này nhằm tăng thu ngân sách hổ trợ sản xuất trong nước.
8. Hoàn thiện, mở trộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
Các nghiệp vụ trên thị trương ngoại hối bao gồm: giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam hoạt động ngoại hối chỉ tập trung vào loại nghiệp vụ giao ngay, còn các nghiệp khác phát sinh ít.
Nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi:
Tổng quan tình hình thị trường ngoại hối kỳ hạn Việt Nam:
Ngày nay ở các nước phát triển, giao dịch ngoại hối kỳ hạn và hoán đổi đã phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trên thị trường ngoại hối, bởi nó rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các khoản thu chi xuất nhập khẩu bằng ngoại tệ, đồng thời đây là công cụ để các nhà đầu cơ kiếm lời.
Ở Việt Nam, thị trường kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi đã chính thức đi vào từ đầu năm 1999 trên cơ sở pháp lý là Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN về ban hành “Quy chế giao dịch hối đoái. Nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý, đồng thời đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và sự an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại, NHNN Việt Nam trong những năm qua đã tích cực nghiên cứu, ban hành các quy định hợp lý trong từng thời kỳ về giới hạn, phạm vi, tỷ giá đối với các giao dịch này.
Văn bản gần đây nhất là Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN ngày 1/7/2002 của thống đốc NHNN về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ. Theo đó, các TCTD chỉ được phép thực hiện giao dịch kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swap) theo kỳ hạn tối thiểu là 7 ngày, tối đa là 180 ngày kể từ ngày ký hợp đồng giao dịch cho tất cả các loại giao dịch ngoại tệ. Riêng đối với giao dịch giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ, mức tỷ giá áp dụng cho từng kỳ hạn tối đa không vượt quá mức trần của tỷ giá giao ngay tại thời điểm ký hợp đồng giao dịch cộng với tỷ lệ % gia tăng cho phép quy định cho bốn kỳ hạn cụ thể là: 7-30 ngày (0,5%), 31-60 ngày (1,2%), 61-90 ngày (1,5%), 91-180 ngày (2,5%). Đối với giao dịch liên quan đến các loại ngoại tệ khác, tỷ giá kỳ hạn, hoán đổi do Tổng giám đốc các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.
Từ cơ sở các quy định trên, thị trường ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi ở Việt Nam trong những năm qua đã từng bước phát triển và hoạt động có hiệu quả, góp phần giảm tình trạng căng thẳng ngoại tệ trên thị trường giao ngay, tạo thêm công cụ để các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, mặt khác giúp thị trường ngoại hối Việt Nam làm quen với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên thị trường hoán đổi, kỳ hạn Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế nhất định như doanh số giao dịch còn nhỏ, thường chỉ chiếm khoảng 4-6% doanh số mua bán ngoại tệ giao ngay; các giao dịch tập trung chủ yếu và các kỳ hạn ngắn (7-60 ngày); cơ cấu giao dịch bất hợp lý với việc bán ngoại tệ là chủ yếu, doanh số bán thường gấp 3-6 lần doanh số mua; đối tượng giao dịch tập trung chủ yếu vào các ngân hàng nước ngoài.
Nhằm khắc phục những bất cập nói trên, tạo thuận lợi hơn nữa cho việc phát triển và mở rộng thị trường ngoại tệ hoán đổi, kỳ hạn, ngày 28/5/2004 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 679/2002/QĐ-NHNN liên quan đến việc giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng phép kinh doanh ngoại tệ. Từ đây, giới hạn về thời hạn giao dịch ngoại tệ hoán đổi, kỳ hạn đã được dỡ bỏ, cho phép thực hiện thông lệ quốc tế, và mở rộng từ mức 7-180 ngày như trước đây lên mức 3-365 ngày nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và ngân hàng, khuyến khích thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển. Nhưng điểm đổi mới đáng chú ý nhất của quyết định trên là thay đổi cơ bản về cách thức quản lý mức tỷ giá trong các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi giữa USD và VND, nên tỷ giá kỳ hạn giữa VND và USD không còn bị khống chế bằng việc quy định mức trần cứng áp dụng cho từng kỳ hạn trên cơ sở tỷ lệ gia tăng so với trần tỷ giá giao ngay theo tính toán chủ quan của NHNN trong từng thời kỳ mà cho phép TCTD và doanh nghiệp tự do xác định và thoả thuận trong pham vi mức tỷ giá kỳ hạn được tính theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành của hai đồng tiền giao dịch là VND và USD.
Giải pháp cho nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi:
Muốn cho thị trường ngoại hối nói chung, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi nói riêng có thể phát triển xa hơn thì cơ chế xác định tỷ giá, lãi suất đóng vai trò quyết định. Có thể thấy, mục đích chính của hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá, vì trong cơ chế thị trường tỷ giá là đại lượng nhạy cảm với nhiều biến số nên biến động khôn lường. Nói cách khác, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Khi chính sách cung cầu cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo ra môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đối.
Do đó, để nâng cao hơn nữa chức năng của nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi thì cần tạo thêm bước chuyển mới trong giao dịch hoán đổi, kỳ hạn ngoại tệ qua việc tạo nhiều cơ chế thông thoáng hơn cho hoạt động của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Điều này chắc chắn sẽ có tác dụng tích cực cho các TCTD và các doanh nghiệp trên thị trường ngoại hối kỳ hạn, hoán đổi để họ có thể nâng cao lợi ích và tăng tính linh hoạt chủ động trước những rủi ro của thị trường khi có sự thay đổi đột ngột về tỷ giá, lãi suất, đồng thời hạn chế mức lỗ của các TCTD và khách hàng để từ đây tạo thói quen sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối. Hơn nữa, nó còn thể hiện một bước tiến mới trong công tác quản lý ngoại hối của Nhà nước theo hướng tăng cường sự thông thoáng, tự do hoá trên cơ sở phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm đa dạng hoá và thúc đẩy thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển, đưa thị trường trong nước tiếp cận và hội nhập với ngân hàng quốc tế, nâng cao tính cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Cụ thê:
- Tăng cường thông tin thị trường về lưu chuyển ngoại hối và cán cân thanh toán làm cơ sở cho các đối tượng tham gia trên thị trường thực hiện đánh giá để có được quan điểm vững chắc về tỷ giá
- Xoá bỏ (hoặc tiến dần đến xoá bỏ) các quy chế ngăn cản hoạt động của thị trường, trong đó có các quy chế liên quan đến yêu cầu kết hối với NHTW, đánh thuế và phí đối với các giao dịch ngoại hối và các hạn chế đối với giao dịch liên ngân hàng
- Thống nhất và đơn giản hoá các văn bản quy phạm về ngoại hối và xoá bỏ sự kiểm soát đối với các hoạt động thị trường kỳ hạn khi mà các định chế tài chính đã đạt được một trình độ tinh vi nhất định trong việc quản lý rủi ro. Tránh các hiện tượng sửa đổi bất thường và thường xuyên của luật pháp để nâng cao tính minh bạch của thị trường và cắt giảm chi phí giao dịch.
Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ:
Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ và sự vận hành của nó trên thị trường hối đoái Việt Nam:
Trên thị trường hối đoái quốc tế, quyền chọn tiền tệ đã được sử dụng phổ biến từ thế kỷ XIX. Ở Việt Nam, ngày 12/2/2003 Thống đốc NHNN đã chấp nhận đề nghị của ngân hàng thương mại xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIMBANK), cho phép ngân hàng này thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Đối tượng tham gia giao dịch là mọi doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, còn đồng tiền giao dịch gồm tất cả các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, như: EUR, USD, GBP, AUD, CHF,… Ngày 23/3/2003, ngay sau khi chính thức khai trương nghiệp vụ này, EXIMBANK đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều doanh nghiệp lớn, 11 hợp đồng quyền chọn được ký kết. Và trong số đó, tính đến ngày 3/3/2003 đã có 5 quyền bán với tổng trị giá 150.000 EUR cùng 6 quyền mua với tổng trị giá 558.000 EUR và 5.000.00 JPI. Trong số đó có một hợp đồng quyền chọn mua với giá 200.000 EUR, đã được khách hàng thực hiện và thu lời 700 USD, số tiền tuy không lớn song đây là một minh chứng thực tế khá rõ về lợi ích của việc sử dụng công cụ bảo hiểm tỷ giá Option. Sự hưởng ứng nhệt tình của các doanh nghiệp cũng phần nào phản ánh nhu cầu bức xúc đối với việc mở rộng quy mô của các giao dịch quyền chọn.
Giải pháp cho nghiệp vụ quyền chọn ở Việt Nam:
Để nghiệp vụ quyền chọn có tác dụng lớn, tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ và thu hút được nhiều đối tác tham gia hơn, thiết nghĩ:
NHNN cần nghiên cứu để sớm quyết định cho phép tất cả các ngân hàng thương mại có hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện giao dịch quyền chọn tiền tệ. Một khi có nhiều ngân hàng thương mại cùng thực hiện nghiệp vụ này, sẽ tạo điều kiện thực hiện hoạt động tái bảo hiểm giữa những ngân hàng thương mại trong nước, cũng như trên thị trường quốc tế, hơn nữa tạo thêm sự cạnh tranh về phí mua quyền giữa nhiều ngân hàng sẽ khiến nghiệp vụ này hấp dẫn hơn.
Bên cạnh việc cho phép mở rộng phạm vi đồng tiền giao dịch cho VND, NHNN cũng nên xen xét để nâng giới hạn đồng tiền giao dịch sang các loại ngoại tệ chưa có khả năng tự do chuyển đổi khác ngoài VND, nhằm làm tăng tính linh hoạt của các giao dịch quyền chọn.
Đây mới chỉ là giai đoạn đầu áp dụng, nên vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thực sự xem quyền chọn là một công cụ hiệu quả khi muốn phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Bởi thế, các ngân hàng nên đưa ra những điều kiện ưu đãi nhằm kích thích lợi ích vật chất, đồng thời cần có biện pháp thích hợp tuyên truyền, phổ biến hay những chương trình giới thiệu giúp doanh nghiệp biết được lợi ích có thể mang lại cho họ từ nghiệp vụ quyền chọn. Chẳng hạn, từ sự suy đoán tỷ giá, doanh nghiệp không bị động về ngoại tệ trong thanh toán cho các hợp đồng mua bán ngoại thương cũng như xác định được giá thành các lô hàng nhập khẩu dù trong điều kiện tỷ giá biến động thế nào. Có như vậy, mới tạo cơ hội đưa doanh nghiệp tiếp cận và quen dần với việc sử dụng nghiệp vụ này.
NHNN cũng cần hỗ trợ để các ngân hàng thực hiện nghiệp vu quyền chọn một cách tốt hơn, bằng cách:
Mở chương trình đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ ngân hàng để họ nắm vững và vận dụng hiệu quả Option trong thực tiễn.
Hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi.
Cùng với các nghiệp vụ giao ngay (Spot), kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swap) đã được giao dịch trên thị trường hối đoái Việt Nam, thì việc đưa vào áp dụng quyền chọn tiền tệ (Currency Option) là một biểu hiện của quá trình đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường hối đoái. Với một vài giải pháp vừa nêu, hi vọng sẽ góp phần hoàn thiện một bước việc vận dụng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, trên cơ sở đó, góp phần phát triển thị trường hối đoái Việt Nam , từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
9. Một số chính sách hổ trợ khác
- Hình thành các công ty môi giới ngoại hối.Cũng như các thị trường khác, các công ty môi giới ngoại hối đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường nhoại hối. Do thị trường ngoại hối của Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển, các phương tiện giao dịch chưa hiện đại, thì vai trò chắp nối cung cầu ngoại tệ của các công ty môi giới ngoại hối càng trở nên quan trọng và thiết thực hơn. Trong thời gian qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hoạt động đôi khi bị gián đoạn, tỷ giá trên thị trường chính thức và không chính thức quá chênh lệch, ngoài các nguyên nhân thuộc về tỷ giá, vai trò can thiệp của NHNN, tình trạng găm giữ ngoại tệ và phương tiện liên lạc còn lạc hậu vì có thể thiếu các công ty môi giới. Công ty môi giới sẽ là trung gian cho các NHTM có nhu cầu bán gặp gỡ với các ngân hàng có nhu cầu mua và ngược lại.
- Giám sát và có biện pháp quản lý hữu hiệu đối với các khoản vay ngắn hạn từ nước ngoài của các ngân hàng hoặc vay ngắn hạn của ngân hàng có bảo lãnh từ ngân hàng, các khoản trái phiếu bằng ngoại tệ kể cả trái phiếu chính phủ. Các khoản vay ngắn hạn thườg tăng lên rất nhanh gắn với tài trợ L/C nhập khẩu. Đây là yếu tố làm cho cung cầu ngoại tệ biến động mạnh và bất thường, gây khó khăn lớn cho việc điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất nội tệ cũng như ngoại tệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BAI LAM.doc
- de tai final.doc