A. Đặt vấn đề
a.Lí do chọn đề tài
Khi bắt đầu làm quen với môn Triết học các bạn sinh viên năm thứ nhất thường rất lúng túng và cảm thấy môn Triết học thực sự rất khó hiểu . Với 1 số lựơng kiến thức lớn với hơn 500 trang của giáo trình thì đó là 1 thử thách nếu chúng ta không hiểu ngay từ đầu ý nghĩa của việc học môn Triết học nói chung và Triết hoc Mác nói riêng
Đề tài này có nội dung tương đối tổng quát về cả 1 hệ thống Triết hoc Mác, bắt đầu từ sự ra đời của triết học và quá trình xuất hiện những tư tưởng thời đại làm sản sinh ra triết học chủ nghĩa Mac Le Nin. Sau đó tư duy biện chứng cộng với thế giới quan duy vật làm cho triết học Mac trở thành một khoa học giải thích về thế giới đặc biệt là trong xã hội và tư duy logic. Điều đó giúp cho chúng ta có thể nắm bắt được hình thức nội dung muốn trình bày của giáo trình ngay từ những bước đầu tiên .
b.Mục đích và yêu cầu của đề tài
Vì đề tài mang tính chất dẫn phương hướng học môn Triết học tôi nghĩ cần nêu rõ ràng các khái niệm tiêu biểu và tác dụng của từng phần được nói đến trong đề tài.
Đề tài gồm 3 phần
- Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
- Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
- Thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
B. Nội dung
I.Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
Triết học là gì ? Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất mà cả tồn tai (giới tự nhiên và xã hội)lẫn tư duy của con người, quá trình nhận thức đều phải phục tùng. Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng bị quy định bởi các quan hệ kinh tế của xã hội. Thuật ngữ “triết học“ bắt gặp làn dầu tiên ở Pi-Ta-Go và Platon là người đầu tiên đã tách nó ra thành một khoa học riêng. Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hưu nô lệ với tính cách 1 khoa học hợp nhất toàn thể tri thức của con người về thế giới khách quan và về bản thân mình. Trong tiến trình phát triển của thực tiễn sản xuất xã hội và của sự tích luỹ các tri thức khoa học, đã diễn ra quá trình tách ra của các khoa học riêng biệt khỏi triết học và đồng thời quá trình tách triết học thành 1 khoa học độc lập. Triết học với tính cách khoa học nảy sinh do sự cần thiết phải xây dựng 1 quan điểm chung về thế giới, phải nghiên cứu các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới, do nhu cầu phải có phương pháp tư duy hợp lý và có căn cứ đối với hiện thực, do nhu cầu phải có lozic và lí luận nhận thức.
Vấn đề cơ bản của triết học với tính cách một khoa học đặc biệt – đó là vấn đề quan hệ của tư duy đối với tồn tại, của ý thức đối với vật chất. Mọi hệ thống triết học đều là giải quyết 1 cách cặn kẽ, cụ thể vấn đề này ngay dù cho “vấn đề cơ bản“ ở đây không được nêu lên trực tiếp. Cả sự phân cực của triết thành hai khuynh hướng đối lập nhau, thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,cũng gắn liền với điều đó ; nhị nguyên luận giữ vị trí trung gian giữa 2 khuynh hướng nói trên. Cuộc đấu tranh giữa chủ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên qua toàn bộ lịch sử triết học như là sợi chỉ chủ yếu, nó làm thành trong những động lực chính của triết học. Cuộc đấu tranh này gắn chặt với sự phát triển của xã hội, với các quyền lợi kinh tế, chính trị và tư tưởng của các giai cấp.Việc giải thích rõ thêm các vấn đề riêng biệt của khoa học triết học, sự tách ra trong bản thân nó những mặt khác nhau với tính cách những bộ phận tương đối độc lập và đôi khi rất khác nhau. Các bộ phận đó là : bản thể luận, nhận thức luận, logic học, đạo đức học, mỹ học, tâm lý học, xã hội học và lịch sử triết học. Đồng thời do còn nhiều những tri thức cụ thể nên triết học tìm cách thay thế các mối liên hệ và các tính quy luật còn chưa biết hết của thế giới bằng những điều tưởng tượng ; do đó nó biến thành một khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các ngành khoa học khác, trở thành “ khoa học của các khoa học”. Đối với giới tự nhiên, triết học này đóng vai triết học tự nhiên ; đối với lịch sử nó đóng vai trò triết học của lịch sử. Triết học của HêGhen là một hệ thống cuối cùng thuộc loại này. Song, cùng với sự phát triển và sự phân hoá của các tri thức, mọi cơ sở của sự tồn tại của triết học với tư cách khoa học của các khoa học đã biến mất. Sự hiểu biết sáng rõ về cái nhu cầu khoa học đã làm nảy sinh triết học với tư cách là một tư cách đặc biệt, sự hiểu biết về địa vị và vai trò của triết học trong thành phần của nền văn hoá tinh thần, và do đó, cả phạm vi các vấn đề của triết học (đối tượng của triết học) đã đạt được lần đầu tiên trong chủ nghĩa Mác Lê nin. Không thể có nhận thức lý luận về các hiện tượng của thế giới chung quanh nếu không có 1 tư duy phát triển về mặt logic. Nhưng các phạm trù và quy luật logic, do kết quả của sự phân công lao động đã hình thành trong lịch sử giữa các khoa học, lại được chính triết học nghiên cứu. Triết học mác xít lê nin nít đã phát triển và đã thực hiện triệt để nguyên lý duy vật trong việc quan niệm thế giới khách quan và tư duy, đã làm cho nó phong phú thêm bằng quan niệm biện chứng,đã xây dựng logic biện chứng. Khi xem xét các hình thức và các tính quy luật logic với tính cách là những hình thức và tính quy luật phát triển của các quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội đã được toàn bộ thực tiễn của loài người nhận thức và khảo nghiệm, triết học mác xít đã thủ tiêu sự phân biệt giữa bản thể luận, logic học và lý luận nhận thức. Sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Do đó lý luận triết học của chủ nghĩa Mác là cách giải quyết duy vật biên chứng cặn kẽ cụ thể của vấn đề cơ bản của triết học. Ở đây, các hình thức và các quy luật logic là những hình thức và các quy luật phổ biến được phản ánh trong ý thức con người, của sự diễn biến bất kì quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội nào, là những trình độ tái hiện về mặt lý luận các đối tượng phù hợp với sự phát triển hiện thực của chúng. Phát triển trên cơ sở một quan niệm như vậy về vai trò đối tượng và những nhiệm vụ hiện thực trong sự phát triển của văn hoá loài người, triết học đóng vai 1 công cụ hùng mạnh của nhận thức và hoạt động của con người, đóng vai 1 nhân tố tích cực của của sự phát triển hơn nữa của nhận thức. Với quan niệm như vậy về triết học, các bộ phận của nó – tâm lý học, luân lý học, mỹ học- ngày càng biến thành các khoa học độc lập, chỉ được coi là triết học chẳng qua vì truyền thống. Thực ra cái truyền thống này cũng có căn cứ, bởi vì các khoa học vừa được nói đến đếu gắn liền nhiều nhất với các vấn đề triết học đặc thù, cụ thể là với vấn đề quan hệ qua lại chủ thể và khách thể. Triết học góp phần vào sự phát triển tự ý thức của con người, vào việc hiểu địa vị và vai trò của các phát minh khoa học trong hệ thống phát triển chung của văn hoá nhân loại, do đó cung cấp 1 thước tỷ lệ để đánh giá chúng và cho mối liên hệ giữa các khâu riêng lẻ của tri thức trong tính thống nhất của thế giới quan. Những xu hướng phản triết học là cái vốn có trong các lý luận tư sản hiện đại. Nó tuyên bố các vấn đề triết học là các vấn đề giả hiệu, tìm cách thay thế sự phân tích triết học đối với sự phát triển của tri thức hiện đại và của thực tiễn bằng sự phân tích ngôn ngữ của khoa học, tức là bằng sự phân tích ngôn ngữ học - ngữ nghĩa học các hình thức bên ngoài của tư duy – ngôn ngữ các hệ thống kí hiệu để biểu diễn tư tưởng v v Do đó về thực chất triết học với tư cách là 1 khoa học đã bị thủ tiêu. Vì vậy cho nên con đường duy nhất để phát triển triết học với tính cách 1 khoa học riêng bệt vẫn là con đường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, con đường tiếp tục những truyền thống ưu tú của triết học thế giới.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10323 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triết học Mác - Lênin, thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : Triết học Mác Lê Nin , thế giới quan , phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn .
Đặt vấn đề
a.Lí do chọn đề tài
Khi bắt đầu làm quen với môn Triết học các bạn sinh viên năm thứ nhất thường rất lúng túng và cảm thấy môn Triết học thực sự rất khó hiểu . Với 1 số lựơng kiến thức lớn với hơn 500 trang của giáo trình thì đó là 1 thử thách nếu chúng ta không hiểu ngay từ đầu ý nghĩa của việc học môn Triết học nói chung và Triết hoc Mác nói riêng
Đề tài này có nội dung tương đối tổng quát về cả 1 hệ thống Triết hoc Mác, bắt đầu từ sự ra đời của triết học và quá trình xuất hiện những tư tưởng thời đại làm sản sinh ra triết học chủ nghĩa Mac Le Nin . Sau đó tư duy biện chứng cộng với thế giới quan duy vật làm cho triết học Mac trở thành một khoa học giải thích về thế giới đặc biệt là trong xã hội và tư duy logic . Điều đó giúp cho chúng ta có thể nắm bắt được hình thức nội dung muốn trình bày của giáo trình ngay từ những bước đầu tiên .
b.Mục đích và yêu cầu của đề tài
Vì đề tài mang tính chất dẫn phương hướng học môn Triết học tôi nghĩ cần nêu rõ ràng các khái niệm tiêu biểu và tác dụng của từng phần được nói đến trong đề tài .
Đề tài gồm 3 phần
Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
Thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn .
Nội dung
I.Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
Triết học là gì ? Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất mà cả tồn tai (giới tự nhiên và xã hội)lẫn tư duy của con người , quá trình nhận thức đều phải phục tùng . Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội , xét cho cùng bị quy định bởi các quan hệ kinh tế của xã hội . Thuật ngữ “triết học“ bắt gặp làn dầu tiên ở Pi-Ta-Go và Platon là người đầu tiên đã tách nó ra thành một khoa học riêng . Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hưu nô lệ với tính cách 1 khoa học hợp nhất toàn thể tri thức của con người về thế giới khách quan và về bản thân mình. Trong tiến trình phát triển của thực tiễn sản xuất xã hội và của sự tích luỹ các tri thức khoa học , đã diễn ra quá trình tách ra của các khoa học riêng biệt khỏi triết học và đồng thời quá trình tách triết học thành 1 khoa học độc lập . Triết học với tính cách khoa học nảy sinh do sự cần thiết phải xây dựng 1 quan điểm chung về thế giới , phải nghiên cứu các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới , do nhu cầu phải có phương pháp tư duy hợp lý và có căn cứ đối với hiện thực , do nhu cầu phải có lozic và lí luận nhận thức .
Vấn đề cơ bản của triết học với tính cách một khoa học đặc biệt – đó là vấn đề quan hệ của tư duy đối với tồn tại , của ý thức đối với vật chất . Mọi hệ thống triết học đều là giải quyết 1 cách cặn kẽ , cụ thể vấn đề này ngay dù cho “vấn đề cơ bản“ ở đây không được nêu lên trực tiếp . Cả sự phân cực của triết thành hai khuynh hướng đối lập nhau , thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,cũng gắn liền với điều đó ; nhị nguyên luận giữ vị trí trung gian giữa 2 khuynh hướng nói trên . Cuộc đấu tranh giữa chủ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên qua toàn bộ lịch sử triết học như là sợi chỉ chủ yếu , nó làm thành trong những động lực chính của triết học . Cuộc đấu tranh này gắn chặt với sự phát triển của xã hội , với các quyền lợi kinh tế , chính trị và tư tưởng của các giai cấp .Việc giải thích rõ thêm các vấn đề riêng biệt của khoa học triết học , sự tách ra trong bản thân nó những mặt khác nhau với tính cách những bộ phận tương đối độc lập và đôi khi rất khác nhau . Các bộ phận đó là : bản thể luận , nhận thức luận , logic học , đạo đức học , mỹ học , tâm lý học , xã hội học và lịch sử triết học. Đồng thời do còn nhiều những tri thức cụ thể nên triết học tìm cách thay thế các mối liên hệ và các tính quy luật còn chưa biết hết của thế giới bằng những điều tưởng tượng ; do đó nó biến thành một khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các ngành khoa học khác , trở thành “ khoa học của các khoa học” . Đối với giới tự nhiên , triết học này đóng vai triết học tự nhiên ; đối với lịch sử nó đóng vai trò triết học của lịch sử . Triết học của HêGhen là một hệ thống cuối cùng thuộc loại này . Song , cùng với sự phát triển và sự phân hoá của các tri thức , mọi cơ sở của sự tồn tại của triết học với tư cách khoa học của các khoa học đã biến mất . Sự hiểu biết sáng rõ về cái nhu cầu khoa học đã làm nảy sinh triết học với tư cách là một tư cách đặc biệt , sự hiểu biết về địa vị và vai trò của triết học trong thành phần của nền văn hoá tinh thần , và do đó , cả phạm vi các vấn đề của triết học (đối tượng của triết học) đã đạt được lần đầu tiên trong chủ nghĩa Mác Lê nin . Không thể có nhận thức lý luận về các hiện tượng của thế giới chung quanh nếu không có 1 tư duy phát triển về mặt logic . Nhưng các phạm trù và quy luật logic , do kết quả của sự phân công lao động đã hình thành trong lịch sử giữa các khoa học , lại được chính triết học nghiên cứu . Triết học mác xít lê nin nít đã phát triển và đã thực hiện triệt để nguyên lý duy vật trong việc quan niệm thế giới khách quan và tư duy , đã làm cho nó phong phú thêm bằng quan niệm biện chứng ,đã xây dựng logic biện chứng. Khi xem xét các hình thức và các tính quy luật logic với tính cách là những hình thức và tính quy luật phát triển của các quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội đã được toàn bộ thực tiễn của loài người nhận thức và khảo nghiệm , triết học mác xít đã thủ tiêu sự phân biệt giữa bản thể luận , logic học và lý luận nhận thức . Sự thống nhất giữa phép biện chứng , logic học và lý luận nhận thức là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Do đó lý luận triết học của chủ nghĩa Mác là cách giải quyết duy vật biên chứng cặn kẽ cụ thể của vấn đề cơ bản của triết học . Ở đây , các hình thức và các quy luật logic là những hình thức và các quy luật phổ biến được phản ánh trong ý thức con người , của sự diễn biến bất kì quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội nào , là những trình độ tái hiện về mặt lý luận các đối tượng phù hợp với sự phát triển hiện thực của chúng . Phát triển trên cơ sở một quan niệm như vậy về vai trò đối tượng và những nhiệm vụ hiện thực trong sự phát triển của văn hoá loài người , triết học đóng vai 1 công cụ hùng mạnh của nhận thức và hoạt động của con người , đóng vai 1 nhân tố tích cực của của sự phát triển hơn nữa của nhận thức . Với quan niệm như vậy về triết học , các bộ phận của nó – tâm lý học , luân lý học , mỹ học- ngày càng biến thành các khoa học độc lập , chỉ được coi là triết học chẳng qua vì truyền thống . Thực ra cái truyền thống này cũng có căn cứ , bởi vì các khoa học vừa được nói đến đếu gắn liền nhiều nhất với các vấn đề triết học đặc thù , cụ thể là với vấn đề quan hệ qua lại chủ thể và khách thể . Triết học góp phần vào sự phát triển tự ý thức của con người , vào việc hiểu địa vị và vai trò của các phát minh khoa học trong hệ thống phát triển chung của văn hoá nhân loại , do đó cung cấp 1 thước tỷ lệ để đánh giá chúng và cho mối liên hệ giữa các khâu riêng lẻ của tri thức trong tính thống nhất của thế giới quan . Những xu hướng phản triết học là cái vốn có trong các lý luận tư sản hiện đại. Nó tuyên bố các vấn đề triết học là các vấn đề giả hiệu , tìm cách thay thế sự phân tích triết học đối với sự phát triển của tri thức hiện đại và của thực tiễn bằng sự phân tích ngôn ngữ của khoa học , tức là bằng sự phân tích ngôn ngữ học - ngữ nghĩa học các hình thức bên ngoài của tư duy – ngôn ngữ các hệ thống kí hiệu để biểu diễn tư tưởng v..v Do đó về thực chất triết học với tư cách là 1 khoa học đã bị thủ tiêu . Vì vậy cho nên con đường duy nhất để phát triển triết học với tính cách 1 khoa học riêng bệt vẫn là con đường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, con đường tiếp tục những truyền thống ưu tú của triết học thế giới .
II.Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
Ở trên chúng ta cũng đã hiểu triết học là gì và trong lịch sử triết học , ở mỗi giai đoạn lịch sử lại xuất hiện 1 dòng triết học mang tư tưởng của thời đại đó . Triết học với khái niệm là 1 hình thái ý thức xã hội là môn khoa học nghiên cứu về các nguyên lý chung nhất của sự vận động trong tư duy , xã hội và tự nhiên , như vậy thì ở mỗi 1 giai đoạn , những phát hiện của con người cùng với nó là phê phán cái cũ những cái ko phù hợp với trình độ nhận thức của con người đồng thời phát triển cái mới đã dẫn đến sự thay thế những quan niệm trong thế giới quan của các trường phái triết học trong lịch sử .
Sở dĩ chúng ta ca ngợi và đề cập nhiều đến triết học Mác vì sự hoàn bị của nó đem lại cho chúng ta 1 công cụ để giải thích thế giới , 1 phương pháp luận khoa học . Còn với chúng ta , sinh viên của 1 trường đại học thuộc 1 quốc gia xa hội chủ nghĩa vận dụng triết học Mác để vạch ra đường lối và phát triển đất nước lên CNXH , việc học tập nghiên cứu Triết học là điều bắt buộc hiển nhiên
Có lẽ khi bắt đầu nghiên cứu 1 vấn đề nào đó ta luôn đặt câu hỏi vậy bản chất của vấn đề đó là gì , bản chất của 1 vấn đề nằm ở nguồn gốc của nó và sự tồn tại của nó trong thực tiễn .
1.Những tiền đề ra đời của triết học Mác Lê Nin
a) Tiền đề kinh tế và xã hội
Xã hội tư sản hiện đại, với những QHSX và trao đổi tư sản của nó , với chế độ sở hưu tư sản đã từng tạo ra những TLSX hết sức mạnh mẽ như thế ,giờ đây giống như 1 tay phù thuỷ đã không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên … LLSX , mà xã hội sẵn có không giúp cho QHSX tư bản phát triển nữa ; trái lại nó đã thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy , quan hệ sở hữu ấy lúc đó trở ngại cho sự phát triển của LLSX ấy ; và mỗi khi LLSX xã hội bắt đầu khắc phục những trở lực ấy thì nó lại đẩy toàn thể xã hội tư sản rơi vào tình trạng rối loạn và đe doạ sự tồn tại của sở hưu tư sản . Những quan hệ tư sản đã trở thành quá chật hẹp , không đủ để chứa những của cải được tạo ra trong lòng nó nữa. Giai cấp tư sản khắc phục nhưng cuộc khủng hoảng ấy như thế nào? Một mặt bằng việc huỷ diệt 1 cách bắt buộc một số lớn LLSX ; mặt khác , bằng việc chiếm những thị trường mới và bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ . Như thế thì đi dến đâu ? Đi đến chỗ sửa soạn cho những cuộc khủng hoảng phổ biến hơn và ghê gớm hơn và giả bớt những thủ đoạn ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng ấy .
Những vú khí mà giai cấp tư sản đã dung để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào ngay giai cấp tư sản . Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí sẽ giết mình ; nó còn sinh ra những người sử dụng vũ khí ấy , những công nhân hiện đại , những người vô sản .
Cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản , thì giai cấp vô sản , giai cấp công nhân hiện đại cũng phát triển , học chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm , và chỉ kiếm được việc làm nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản. Những công nhân ấy buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một , họ là 1 món hàng hoá , tứ là 1 món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác ; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh , mọi sự lên xuống của thị trường ……
Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau . Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.
Nhưng sự phát triển của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản , mà còn tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản tăng thêm và họ giác ngộ về lực lượng của mình hơn . Máy móc càng xoá bỏ mọi sự khác nhau trong lao động và càng rút tiền công hầu khắp mọi nơi xuống một mức thấp ngang nhau , thì lợ ích , điều kiện sinh hoạt của những người vô sản càng dần dần bằng nhau . Vì bọn tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn , và vì khủng hoảng thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra , cho nên tiền công ngày càng trở nên bấp bênh: việc cải tiến máy móc không ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn làm cho tình cảnh của người công nhân ngày càng bấp bênh , những xung đột cá nhân giữa công nhân và tư sản ngày càng có thêm tính chất xung đột giữa hai giai cấp . Công nhân bắt đầu liên hợp lại chống bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình . Thậm chí họ đi tới chỗ lập thành những đoàn thể thường xuyên để chuẩn bị trước cho những cuộc xung đột bất thần xảy ra. Đây đó , đấu tranh nổ thành bạo động . ………………
Khi người ta nói đến những tư tưởng đang cách mạng hoá cả 1 xã hội , tức là người ta chỉ nêu ra sự thật sau đây : trong lòng xã hội cũ , đã hình thành những yếu tố của 1 xã hội mới và sự tan rã của những tư tưởng cũ đi đôi với sự tan rã của những điều kiện sinh hoạt cũ
b)Tiền đề khoa học tự nhiên
Trong suốt thời kì lâu dài từ ĐêCactơ đến HêGhen và từ Hỗ Xơ đén PhơBach cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên, hoàn toàn không phải chỉ riêng sức mạnh của tư duy thuần tuý , như họ tưởng tượng . Trái lại , cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ , ngày càng nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của công nghiệp . Ở những người duy vật chủ nghĩa , thì điều đó hiện ra rõ ràng ngay từ đầu.
Siêu hình học cũ cho rằng các sự vật được cấu tạo một lần là song , siêu hình học đó là sản phẩm của một thứ khoa học tự nhiên nghiên cứu những vật vô sinh và những vật hữu sinh của tự nhiên như là những vật cấu tạo một lần là xong .Nhưng khi chuyển sang nghien cứu có hệ thống những biến đổi của những sự vật đó ở ngay trong tự nhiên , thì lúc đó ở ngay trong lãnh vực triết học giờ cáo chung của siêu hình học cũ cũng đã điểm . Và thực vậy nếu như , đến cuối thế kỉ trước khoa học tự nhiên chủ yếu là một môn khoa học sưu tạp tài liệu , một môn khoa học các sự vật nhất thành bất biến thì ở trong thế kỉ của chúng ta , khoa học tự nhiên thực chất đã trở thành 1 khoa học chỉnh lý tài liệu , khoa học về các quá trình , về sự phát sinh và sự phát triển của các sự vật đó và về mối liên hệ kết hợp quá trình đó của tự nhiên thành một chỉnh thể lớn . Sinh lý học nghiên cứu các quá trình trong cơ thể thực vật và động vật ; bào thai học nghiên cứu sự phát triển của từng cơ thể một , từ trạng thái mầm mống đến khi trưởng thành , và địa chất học nghiên cứu sự hình thành dần dần của mặt đất , tất cả các khoa học đó là con đẻ của thế kỷ chúng ta .
Sự nhận thức về mối liên hệ lẫn nhau của các quá trình diễn ra trong tự nhiên đã tiến lên 1 cách rất nhanh chóng , đặc biệt là nhờ vào 3 phát hiện vĩ đại sau đây :
-Thứ nhất là nhờ phát hiện ra tế bào coi như là một đơn vị mà từ đó toàn bộ cơ thể của thực vật và động vật phát triển lên bằng cách tăng bội thêm và phân hoá . Sự phát hiện đó không chỉ làm cho chúng ta tin chắc rằng sự phát triển và trưởng thành của tất cả các cơ thể đều tiến hành theo 1 quy luật phổ biến duy nhất , mà nó còn chỉ rõ năng lực biến hoá của tế bào, do đó cũng chỉ ra con đường dẫn tới những biến hoá về chủng của các cơ thể .
- Thứ hai là nhờ phát hiện ra sự chuyển hoá của năng lượng , nó chỉ cho chúng ta thấy rằng tất cả những cái gọi là lực hoạt động trước hết có trong tự nhiên vô cơ, lực cơ giới, thế năng , nhiệt phóng xạ(ánh sáng và xạ nhiệt), điện từ , năng lượng hoá học; là những hình thức biểu hiện khác nhau của 1 sự vận động phổ biến chuyển từ cái nọ sang cái kia theo những quan hệ nhất định về số lượng , thành ra khi một số lượng nào đó của 1 hình thức khác xuất hiện và như vậy toàn bộ sự vận động ở trong tự nhiên quay lại thành 1 quá trình chuyển hoá không ngừng từ một hình thức này sang 1 hình thức khác.
- Cuối cùng , thứ ba là nhờ sự chứng minh có mạch lạc do Đác-uyn là người đầu tiên đề ra,.Theo sự chứng minh đó thì tất cả những cơ thể hiện nay đang bao quanh ta , kể cả con người , đều sinh ra do kết quả của một quá trình phát triển lâu dài từ một số nhỏ mầm mống đơn bào lúc đầu mà những mầm mống này thì lại hình thành từ một chất nguyên sinh .
Nhờ 3 phát hiện vĩ đại đó và nhờ những thành tựu lớna lao khác của khoa học tự nhiên, mà ngày nay chúng ta có thể vạch ra trong những nét chung và toàn bộ, không những mối liên hệ giữa các quá trình của tự nhiên trong các lĩnh vực riêng biệt , mà cả mối liên hệ giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy. Do đó , có thể trình bày một bức tranh tổng quát về toàn bộ tự nhiên coi như 1 chỉnh thể cố kết , dưới một hình thức khá có hệ thống, bằng cá tài liệu do chính các khoa học tự nhiên thực nghiệm đã cung cấp cho.
c) Tiền đề lý luận xã hội
Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chứng tỏ rất rõ rệt rằngchủ nghĩa Mác không có gì là giống “ chủ nghĩa bè phái” , hiểu theo nghĩa 1 học thuyết bo bo chỉ biết có mình và cứng nhắc, nảy sinh , ở ngoài con đường phát triển của văn minh thế giới . Trái lại thiên tài của Mấc ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà nhân loại tiên tiến đã nêu ra. Học thuết của ông ra đời là thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong khoa kinh tế chính trị và trong chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác . Nó là một học thuyết cân đối và hoàn bị: nó cho mọi người một thế giới quan có mạch lạc chặt chẽ , không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào , một hành vi phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản . Nó là thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ 19: triết học Đức , chính trị kinh tế học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp.
III. Thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn
Chủ nghĩa duy nhật biện chứng là thế giới quan của Đảng Mác- LêNin. Gọi là duy vật biện chứng vì cách nó nhìn nhận những hiện tượng tự nhiên , phương pháp nó nghiên cứu cứu những hiện tượng tự nhiên và phương pháp nó nhận thức những hiện tượng đó là biện chứng còn cách nó giải thích những hiện tượng tự nhiên , quan niệm của nó về những hiện tượng tự nhiên , lý luận của nó là duy vật…
Vậy thì biện chứng là gì và TGQ duy vật là gì ?
Phép biện chứng duy vật không hề hư cấu hay huyền bí, trái lại đó là khoa học về nhận thức của chúng ta nhằm không chỉ đề cập tới những vấn đề thường ngày trong cuộc sống mà còn cố gắng đạt tới những hiểu biết về cả những quá trình phức tạp. Quan hệ giữa phép biện chứng và logíc hình thức giống như quan hệ giữa toán học cao cấp và toán học sơ cấp.
Tôi sẽ cố gắng phác hoạ nội dung của vấn đề một cách ngắn gọn và súc tích. Logíc của Aristot về phép tam đoạn luận đơn giản bắt nguồn từ định đề cho rằng 'A' bằng 'A'. Định đề này đã được chấp nhận như một tiền đề cho vô số hoạt động thực tiễn của con người và cho những khái quát hoá cơ bản. Thế nhưng trong thực tế 'A' không bằng 'A'. Điều này có thể dễ dàng được chứng minh nếu chúng ta quan sát hai chữ cái này dưới kính hiển vi - chúng hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, có người sẽ phản đối, vấn đề không phải là kích thước hay hình dạng của các chữ cái, bởi vì chúng chỉ là những ký hiệu cho những lượng bằng nhau, chẳng hạn, một cân đường. Thực chất một cân đường không bao giờ bằng một cân đường – một chiếc cân chính xác hơn sẽ luôn chỉ ra sự khác biệt giữa chúng. Có người sẽ lại phản đối: nhưng một cân đường phải bằng chính nó. Điều này cũng lại không đúng – Tất cả sự vật đều không ngừng biến đổi về kích thước, trọng lượng, màu sắc v.v. Chúng không bao giờ bằng chính bản thân nó. Người nguỵ biện sẽ đáp lại rằng một cân đường phải bằng chính bản thân nó tại một 'thời điểm' nhất định.
Ngoài những giá trị thực tiễn cực kỳ mơ hồ của 'tiền đề' này, nó cũng không chịu đựng nổi những phê phán về mặt lý thuyết. Chúng ta thực sự hiểu từ 'thời điểm' như thế nào? Nếu đó là một khoảng thời gian vô cùng nhỏ, vậy thì một cân đường thuộc về quá trình của 'thời điểm đó' tất yếu phải biến đổi. Hay có phải 'thời điểm' chỉ là một sự trừu tượng thuần tuý toán học, nghĩa là, một điểm không thời gian? Thế nhưng tất cả đều tồn tại trong thời gian; và tồn tại tự nó đã là một quá trình không ngừng biến đổi; thời gian là một nguyên lý cơ bản của tồn tại. Do vậy tiền đề 'A' bằng 'A' nghĩa là một thứ bằng chính bản thân nó nếu nh nó không biến đổi, tức là, nó không tồn tại.
Thoạt nhìn dường như sự 'tỉ mỉ' nêu trên là vô ích. Thực tế chúng lại có ý nghĩa cực kỳ quyết định. Một mặt tiền đề 'A' bằng 'A' là nguồn gốc cho mọi hiểu biết của chúng ta, mặt khác nó cũng là nguồn gốc của tất cả những sai lầm trong kiến thức của chúng ta. Chỉ trong những giới hạn nhất định mới có thể sử dụng tiền đề 'A' bằng 'A' mà không gây ra hậu quả gì. Khi sự biến đổi về lượng là không đáng kể thì chúng ta có thể coi 'A' bằng 'A'. Đây chính là trường hợp khi người bán và người mua cân nhắc về một cân đường. Hoặc khi chúng ta quan tâm đến nhiệt độ của mặt trời. Chúng ta coi khả năng thanh toán của một đồng dollar cũng theo cách này. Nhưng khi sự biến đổi về lượng vợt quá giới hạn nhất định nó sẽ chuyển thành những biến đổi về chất. Một cân đường khi đem so với nước hay dầu về mặt tác dụng thì nó không còn là một cân đường nữa. Một đồng dollar trong tay một vị tổng thống cũng không còn là một đồng dollar nữa. Để xác định được chính xác khoảng khắc tại điểm tới hạn mà chất biến đổi thành lượng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất trong mọi lĩnh vực tri thức trong đó bao gồm cả xã hội học.
Mọi công nhân đều hiểu rằng không thể có hai sản phẩm giống hệt nhau. Trong khi chế tạo trụ lót và đệm hình côn, đệm hình côn này chỉ đợc phép có một sai lệch nhất định không vợt quá giới hạn cho trước (gọi là dung sai). Và bằng cách đối chiếu với chỉ tiêu về dung sai, các lõi sẽ được coi như bằng nhau. ('A' bằng 'A'). Khi dung sai vượt quá lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, nói cách khác, đệm hình côn trở thành loại sản phẩm kém phẩm chất hay hoàn toàn vô giá trị. Những tư tưởng khoa học chỉ là một phần thực tiễn tổng quát của chúng ta, trong đó bao gồm cả kỹ thuật. Đối với những quan niệm cũng tồn tại 'dung sai' được thiết lập không phải bởi logic hình thức bắt nguồn từ tiền đề 'A' bằng 'A', mà bởi logic biện chứng bắt nguồn từ tiền đề tất cả đều không ngừng vận động biến đổi. 'Lý trí thông thường' đợc đặc trưng bởi một thực tế là nó thường vượt quá 'dung sai' biện chứng một cách có hệ thống.
Những ý nghĩ thông tục cho rằng những quan niệm như chủ nghĩa tư bản, đạo đức, tự do, nhà nước của công nhân, v.v là cố định, trừu tượng; cho rằng chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa tư bản, đạo đức bằng đạo đức v.v. Tư duy biện chứng phân tích tất cả mọi vật và hiện tượng trong sự biến đổi không ngừng của chúng, trong đó quyết định bởi những điều kiện vật chất của sự biến đổi trên tới mức vợt quá giới hạn nhất định thì 'A' không còn là 'A', nhà nước của công nhân không còn là nhà nước của công nhân.
Sai lầm cơ bản của suy nghĩ thông thường nằm trong thực tế là nó mong muốn tự bằng lòng với những dấu ấn bất động của thực tại, cái luôn bao gồm cả sự vận động bên ngoài. Suy nghĩ một cách biện chứng, bằng những xấp xỉ kỹ lưỡng, sẽ đem lại cho các khái niệm sự đúng đắn, sự cụ thể hoá, sự phong phú về nội dung và sự linh hoạt; tôi có thể nói rằng thậm chí một độ chín muồi về nội dung mà trong chừng mực nhất định làm cho các khái niệm tiến gần sát hơn với những hiện tượng sống động. Không phải chủ nghĩ tư bản nói chung mà là chủ nghĩ tư bản trong một giai đoạn phát triển nhất định. Không phải nhà nước của giai cấp công nhân nói chung mà là một nhà nước của giai cấp công nhân ở một đất nước lạc hậu đang bị đế quốc bao vây.
Tư duy biện chứng quan hệ với tư duy thông thường cũng giống như quan hệ giữa một hình ảnh động và một bức ảnh tĩnh. Hình ảnh động không hề loại bỏ sự tồn tại của bức ảnh tĩnh mà trái lại nó bao gồm một chuỗi các ảnh tĩnh tuân theo những định luật chuyển động nhất định. Phép biện chứng không phủ nhận tam đoạn luận, mà dạy cho chúng ta phải biết kết hợp với tam đoạn luận theo cách nào đó để đem lại cho chúng ta sự hiểu biết sát hơn với thực tại bên ngoài luôn biến đổi. Trong cuốn Logic của Hêgen, ông đã đưa ra một loạt các quy luật: sự biến đổi về lượng dẫn tới sự biến đổi về chất, sự phát triển thông qua mâu thuẫn, sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự gián đoạn trong liên tục, sự biến đổi từ khả năng đến tất yếu, v.v., đây là những quy luật thực sự quan trọng đối với quá trình tư duy cũng như đối với các nhiệm vụ đơn giản hơn trong phơng pháp tam đoạn luận đơn giản.
Hêgen đã viết ra trước cả Đác-uyn và trước cả Mác. Nhờ có sự thúc đẩy mạnh mẽ đến tư tưởng từ cuộc Cách Mạng Pháp, Hêgen đã báo trước sự chuyển biến sâu sắc trong khoa học. Nhưng bởi nó chỉ là một sự dự đoán, dù là của một thiên tài, nó đã tiếp nhận từ Hêgen bản chất duy tâm. Hêgen coi rằng ý thức hệ vô hình là thực tại cuối cùng. Mác đã chứng minh sự vận động của ý thức hệ vô hình này không phải cái gì khác mà trái lại chính là sự vận động của vật chất.
Chúng tôi gọi phép biện chứng của mình là duy vật bởi gốc rễ của nó chẳng phải ở trên thiên đàng hay ở sâu thẳm trong 'ý chí tự do' của chúng ta mà là ở trong thực tại khách quan, trong tự nhiên. ý thức nảy sinh từ vô thức, tâm lý nảy sinh từ sinh lý, hữu cơ nảy sinh từ vô cơ, thái dương hệ được hình thành từ các tinh vân. Trên mọi nấc thang của quá trình phát triển này, những biến đổi về lượng sẽ chuyển thành biến đổi về chất. Tư duy của chúng ta, bao gồm cả tư duy biện chứng, chỉ là một trong những hình thức biểu hiện rằng vật chất đang biến đổi. Trong hệ thống này không hề có chỗ cho thượng đế, hay quỷ xứ, hay linh hồn bất diệt, hay quy tắc vĩnh viễn cho những quy luật và luân lý. Phép biện chứng trong tư duy, nảy sinh từ phép biện chứng của tự nhiên, do vậy nó luôn có bản chất duy vật xuyên suốt.
Học thuyết Đác-uyn, giải thích sự tiến hoá của các loài thông qua sự biến đối về lượng dẫn tới sự biến đổi về chất, đã là một thắng lợi cao nhất của phép biện chứng trong toàn bộ lĩnh vực vật chất hữu cơ. Một chiến thắng vĩ đại khác là sự khám phá ra bảng khối lượng nguyên tử của các yếu tố hoá học cơ bản và hơn thế nữa là sự biến đổi từ yếu tố này sang yếu tố khác.
Với những sự biến đổi này (biến đổi của loài, các yếu tố hoá học, v.v) rất gần với một vấn đề rất quan trọng trong tự nhiên cũng như trong khoa học xã hội, đó là vấn đề phân loại. Hệ thống phân loại của Linnaeus (thế kỷ 18), sử dụng điểm xuất phát là tính bất biến của các loài, đã bị hạn chế trong sự mô tả và phân loại thực vật theo những đặc tính bề ngoài của chúng. Thời kỳ trứng nước của thực vật học cũng tương tự như thời kỳ trứng nước của logic vậy, bởi vì ý thức của chúng ta phát triển cũng giống như mọi vật có sự sống khác. Chỉ có sự bác bỏ một cách kiên quyết ý tưởng cho rằng loài là cố định, chỉ có sự nghiên cứu lịch sử tiến hoá của thực vật và những giải phẫu về chúng, mới đặt đợc cơ sở cho sự phân loại thực sự khoa học.
Mác, khác biệt với Đác-uyn, là một nhà biện chứng ý thức, đã đặt nền tảng cho sự phân loại xã hội loài người trong sự phát triển của lực lợng sản xuất và trong cấu trúc của mối quan hệ sở hữu cấu thành nên cấu trúc xã hội. Học thuyết Mác đã thay thế cho sự phân loại có tính chất mô tả thô thiển về xã hội và nhà nước, cái mà thậm chí cho đến nay vấn còn hưng thịnh trong các trường đại học, bằng một sự phân loại biện chứng duy vật. Chỉ thông qua việc sử dụng phương pháp của Mác mới có thể xác định đúng đắn khái niệm về nhà nước và thời điểm suy sụp của nó.
Tất cả, như chúng ta thấy, không hề chứa đựng điều gì 'siêu hình' hay 'giáo điều', như những khẳng định ngu dốt kiêu ngạo. Logic biện chứng biểu hiện ở những quy luật về vận động trong tư tởng khoa học đương thời. Trái lại cuộc đấu tranh chống lại phép biện chứng duy vật lại biểu hiện ở quá khứ xa xôi, ở sự bảo thủ của giai cấp tiểu tư sản, ở sự tự phụ của những kẻ thủ cựu trong các trường đại học và...ở một tia hy vọng vào kiếp sau.
ABC về phép biện chứng duy vật (Leon Trotsky)
a) Triết học Mác Lê Nin là thể thống nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử , CNDV LS trong thực tiễn
Việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử, hay nói đúng hơn , sự áp dụng triệt để của chủ nghĩa duy vật vào lãnh vực những hiện tượng xã hội , đã loại bỏ được 2 khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia. Một là , những lý luận này cùng lắm thì cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng của hoạt động lich sử của con người , chứ không tìm nguồn gốc của những động cơ đó , không phát hiện ra những quy luật khách quan chi phối sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không nhận thấy rằng trình độ phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của những quan hệ ấy . Hai là , những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân , còn chủ nghía duy vật lịch sử thì lần đầu tiên đã giúp ta nghiên cứu , một cách chính xác như khoa học tự nhiên , những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy . Khoa xã hội học và kịch sử học trước Mác thì nhiều lắm cũng chỉ tích luỹ được những sự kiện nguyên xi , góp nhặt 1cách tình cờ , và chỉ trình bày 1 số mặt nào đó của quá trình lịch sử. Chủ nghĩa Mác mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi và toàn diện quá trình phát sinh , phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế và xã hội , bằng cách xem xét toàn bộ những xu hướng mâu thuẫn nhau , bằng cách quy những xu hướng ấy vào điều kiện sinh hoạt và sản xuất dã được xác định rõ ràng của các giai cấp trong xã hội , bằng cách gạt bỏ chủ nghĩa chủ quan và thái độ tuỳ tiện khi lựa chọn những tư tưởng chủ đạo hay khi giải thích những tư tưởng ấy , bằng cách vạch ra nguồn gốc của mọi tư tưởng và mọi xu hướng khác nhau trong trạng thái của lực lượng sản xuất vật chất , không trừ một tư tưởng , 1 xu hướng nào cả Người ta làm ra lịch sử của chính mình , nhưng cái gì quyết định những động cơ của người ta và nói đúng hơn của quần chúng nhân dân ? Nguyên nhân những xung đột giữa những tư tưởng mâu thuẫn và giữa những nguyện vọng mâu thuẫn là gì ? Tổng hoà tất cả những xung đột ấy trong toàn thể xã hội loài người là như thế nào ? Những điều kiện khách quan của sự sản xuất ra đời sống vật chất , tức là nhưng điều kiện làm cơ sở cho mọi hoạt động lịch sử của con người là những gì ? Mác đã lưu ý đến tất cả những vấn đề ấy và vạch ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách hoa học, coi lịc sử là 1 quá trình thống nhất và bị những quy luật chi phối , mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có rất nhiều mâu thuẫn ………..
Một khi đã thấy rõ tính chất hoàn toàn sai lầm của chủ nghĩa duy tâm Đức trước kia , thì tất nhiên phải quay về với chủ nghĩa duy vật , nhưng không phải quay về với chủ nghĩa duy vật thuần tuý siêu hình , hoàn toàn máy móc của thế kỷ XVIII . Trái với chủ nghĩa duy vật cũ , cách mạng 1 cách ngay thơ và gạt bỏ 1 cách đơn giản toàn bộ lịch sử đã qua , chủ nghĩa duy vật hiện đại thấy rằng lịch sử là quá trình phát triển của nhan loại , và nhiệm vụ của nó là phải tìm ra những quy luật vạn động của quá trình đó . Trái với quan niệm về tự nhiên đã chi phối cả những người Pháp thế kỷ 18 lẫn Hêghen , thứ quan niệm coi tự nhiên như 1 toàn bộ trước sau vẫn không hề thay đổi và vậ động trong những vòng tuần hoàn chật hẹp , với những thiên thể vĩnh cửu theo những thuyết của Niu ton , với những loại hữu cơ bất di bất dịch theo như thuyết của LinNe – trái với quan niệm đó , CNDV hiện đại đã khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và cho rằng bản thân giới tự nhiên cũng có lịch sử của nó trong thời gian ; các thiên thể , cũng như các giống sinh vật có thể sống trong những điều kiện thích đáng trên các thiên thể , đều có sinh có diệt ; và những vòng tuần hoàn của vũ trụ , nếu quả là như vậy,thì đều có những quy mô vô cùng to lớn hơn . Trong cả hai trường hợp chủ nghĩa duy vật hiện đại về bản chất là biện chứng , nên nó chẳng cần đến 1 thứ triết học đứng trên cá khoa học khác . Khi mà mỗi khoa học đòi hỏi phải làm sáng tỏ vị trí của mình trong mối liên hệ chung của cá sự vật và của sự nhận thức các sự vật , thì bất cứ 1 khoa học đặc biệt nào về mối liên hệ chung ấy cũng trở thành thừa . Vậy thì trong toàn bộ nền triết học cũ , chỉ còn lại học thuyết về tư duy và những quy luật của nó – logic hình thức và phép biện chứng – là có ý nghĩa độc lập. Mọi cái khác đều thuộc vào khoa học thực nghiệm về tự nhiên và lịch sử .
Nhưng trong sự biến chuyển nói trên trong quan niệm về tự nhiên chỉ có thể thực hiện được dần dần tuỳ theo sự nghiên cứu khoa học đã đưa lại 1 số lượng tương đương những tài liệu thực nghiệm cho nhận thức , thì những sự kiện lịch sử đã xảy ra sớm hơn nhiều và đã dẫn tới một bước ngoặt quyết định trong quan niệm về lịch sử . Năm 1831 , cuộc khởi nghĩa thứ nhất của công nhân nổ ra ở Ly-ông ; từ 1838 đến 1842, phong trào toàn quốc đầu tiên của công nhân , phong trào hiên chương ở nước Anh , đạt tới mức cao nhất của nó. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản chuyển lên hàng đầu trong lịch sử các nước tiên tiến nhất ở châu Âu, một mặt là tương đương với sự phát triển của đại công nghiệp và mặt khác là tương đương với sự phát triển của quyền thống trị chính trị mà giai cấp tư sản mới giành được . Sự thật ngày càng vạch trần ra rằng những học thuyết kinh tế tư sản nói về sự nhất trí giữa lợi ích của tư bản và lợi ích của lao động về sự hoà hợp phổ biến và sự thịnh vượng phổ biến nhờ cạnh trnh tự do mà có , đều là những thuyết giả dối cả . Người ta không thể không tính đến sự thật ấy , cũng như không thể tính đến chủ nghĩ xã hội Pháp và Anh , tuy nó còn có nhiều chỗ chưa được hoàn thiện, nhưng vẫn là biểu hiện lý luận của những sự thật ấy .Nhưng quan diểm duy tâm cũ về lịch sử , 1 quan điểm chưa bị gạt bỏ , không hề biết gì về các cuộc đấu tranh giai cấp dựa trên lợi ích vật chất và nói chung không hề biết cả đến lợi ích vật chất nữa. Sản xuất và tất cả các quan hệ kinh tế chỉ được xem như những nhân tố thứ yếu của lịch sử nền văn minh . Những sự thật mới buộc phải đưa ra xét lại toàn bộ lịch sử đã qua và người ta thấy rằng toàn bộ lịch sử trước kia ( trừ xã hội nguyên thuỷ ) đều là lich sử dấu tranh giai cấp ; rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy bao giờ cũng là sản phẩm của các quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi , tóm lại là sản phẩm của các quan hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy ; do đó , cơ cấu kinh tế của thời đại nhất định bao giờ cũng vẫn là cơ sở hiện thực mà xét đến cùng , thì cần phải dựa vào cơ sở này mới giải thích được tất cả kiến trúc thượng tầng về thể chế pháp lý và chính trị , cũng như vàê những quan niệm tôn giáo , triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử … Bấy giờ thì chủ nghĩa duy tâm đã bị tống ra khỏi cái hầm chú ẩn cuối cùng của nó là quan niệm về lịch sử ; một quan niệm duy vật lịch sử đã ra đời , và người ta đã tìm thấy được phương pháp lấy sự tồn tại của con người để giải thích ý thức con người , chứ không lấy ý thức con người đer giải thích sự tồn tại của con người như ntừ xưa đến nay người ta vẫn làm .
Trong khi phát triển sâu rộng chủ nghĩa duy vật triết học, Mac đã đưa học thuyết đó tới chỗ triệt để và mở nhận thức xã hội loài người . chủ nghĩa duy vật lịch sử của mac là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. một lý luận khoa học hết sức chặt chẽ và cân đối đã thay cho sự hỗn độn và độc đoán, từ trước đến nay vẫn thống trị trong các quan niệm về lịch sử và chính trị…
Hai phát hiện vĩ đại ấy: quan niệm duy vật về lịch sử và việc dùng giá trị thặng dư để bóc trần bí mật của sản xúât tư bản chủ nghĩa , hai phát hiện ấy là công lao của Mac . Nhờ hai phát hiện ấy nên chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học , và ngày nay , vấn đề trước hết là phải phát triển nó thêm nữa trong mọi chi tiết và mọi liên hệ của nó
b) Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc tối cao của triết học Mac Lê Nin
Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia , kể cả chủ nghĩa duy vật của PhơBách , là ở chỗ: sự vật hiện thực cảm tính được xét chỉ dưới hình thức khách thể hay dưới hình thức trực quan chứ không phải với tính cách là hoạt động cảm tính của con người là thực tiễn . Đó là lẽ tại sao mặt hoạt động lại được chủ nghĩa duy tâm phát triển , ngược lại với chủ nghĩa duy vật, nhưng chỉ được phát triển một cách trừu tượng thôi, vì chủ nghĩa duy tâm tất nhiên không hiểu được sự hoạt động hiện thực , cảm tính với tính cách như vậy .
Thứ học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục , rằng do đó , con người đã được biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của 1 sự giáo dục đã biến đổi , thứ học thuyết đó quên rằng hoàn cảnh được biến đổi bởi chính con người và bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục. Bởi thế , học thuyết ấy không tránh khỏi dẫn tới chỗ phân chia xã hội thành hai bộ phận mà một trong hai bộ phận đó đứng lên trên xã hội
Sự phù hợp giữa sự biến đổi của hoàn cảnh và hoạt động cảu con người chỉ có thể xét và hiểu một cách hợp lý như là thực tiễn cách mạng
PhơBach xuất phát từ sự thực là có sự tự tha hoá về mặt tôn giáo , có sự phân thế giới thành hai: thế giới tôn giáo tưởng tượng và thế giới hiện thực. Công việc của ông là quy thế giới tôn giáo trở về cơ sở thế gian của nó. Nhưng ông không nhận thấy rằng sau khi hoàn thành công việc ấy , cái chủ yếu vẫn còn chưa làm được . Cụ thể là : cơ sở thế gian tự tách rời khỏi bản thân nó , bay lên mây mù thành một vương quốc độc lập , điều đó chỉ có thể giải thích bằng sự tự phân biệt và tự mâu thuẫn của cơ sở thế gian ấy . Vậy trước hết phải hiểu bản thân cơ sở thế gian trong mâu thuẫn của nó để rồi cách mạng hoá nó một cách thực tiễn bằng cách bài trừ mâu thuẫn đó . Do đó , chẳng hạn một khi người ta tìm thấy rằng gia đình ở trần thế là cái bí mật của cái gia đình thần thánh thì từ nay bản thân gia đình ở trần thế là cái mà chúng ta phải phê phán về mặt lý luận và phải cải tạo trong thực tiễn bằng cách mạng
Đời sống xã hội về bản chất là có tính chất thực tiễn . Tất cả những sự thần bí đang đẩy lý luận vào con đường chủ nghĩa thần bí , đều được giải quyết một cách hợp lí trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết về thực tiễn đó
Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới
Mac và AngGhen nói rằng thực tiễn của con người chứng minh sự đúng đắn của lý luận duy vật về nhận thức , và gợi ý những ý định không dựa vào thực tiễn để giải quyết vấn đề cơ bản của lý luận về nhận thức là triết học kinh viện và là những lối đánh trống lảng trong triết học
Sức mạnh và sức sống của chủ nghĩa Mac Lê nin là ở chỗ , trong hoạt động thực tiễn nó dựa chính vào những nhu cầu của sự phát triển đời sống vật chất của xã hội , không bao giờ tách rời khỏi đời sống hiện thực của xã hội
Sức mạnh và sức sống của chủ nghĩa Mac Lê nin là ở chỗ nó dựa vào một lý luận tiền phong, phản ánh đúng những nhu cầu của sự phát triển sinh hoạt vật chất của xã hội , ở chỗ nó đề cao lý luận một cách thích đáng và cho mình có nghĩa vụ triệt để lợi dụng sức mạnh động viên, tổ chức và cải tạo lý luận ấy
Đó là cách chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , giữa những điều kiện phát triển của sinh hoạt vật chất và sự phát triển của sinh hoạt tinh thần xã hội
C.Kết luận
Với số lượng bấy nhiêu trang viết đó tôi nghĩ thực vẫn chưa đủ để nói được hết những thành tựu của triết học Mac , 1 thành quả vô cùng quan trọng mà tôi chưa nói kĩ được trong đề tài đó là “ triết học Mac Lê Nin là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản “ . Vì thời gian có hạn , sự gián đoạn đó mong các bạn có thể tự tìm hiểu .
Tài liệu tham khảo :
1.Giáo trình triết học Mac Lê nin
2. Tập trích những tác phẩm kinh điển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Triết học Mác- Lênin, thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn.doc