Đề tài Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

A – PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tên đề tài Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập 2. Lý do chọn đề tài Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng hợp, không chỉ được nhìn nhận từ những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả từ góc độ văn hóa. Cuộc đấu tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với các cuộc đấu tranh khác, trước hết là cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục tiêu: Vì con người, tất cả cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ biện chứng, không thể nói cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của xã hội: Nền tảng kinh tế. Văn hóa là một nền tảng của xã hội: Nền tảng văn hóa. Nói một cách khác, kinh tế và văn hóa là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và phát triển của một dân tộc, một quốc gia. Sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường là quy luật của kinh tế, tác động trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của xã hội. Văn hóa không đứng ngoài tác động đó. Nhưng văn hóa có đặc điểm và quy luật riêng của nó. Không thể loại trừ hoạt động kinh tế trong văn hóa, cũng không thể loại trừ hoạt động văn hóa trong kinh tế. Sự tác động qua lại và đồng thời là đúng quy luật khách quan. 1 Dù xét từ giác độ nào thì mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh nên bản chất của kinh doanh là để kiếm lời. Trong kinh tế thị trường, kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Còn việc kinh doanh như thế nào, kinh doanh đem lại lợi ích và giá trị cho ai thì đó chính là vấn đề văn hóa kinh doanh. Và trong các yếu tố cấu thành nên văn hóa kinh doanh, ta không thể không nhắc đến triết lý kinh doanh. Một hệ thống các giá trị cốt lõi có vai trò như kim chỉ nam định hướng các hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Nằm trong một hệ thống tạo nên văn hóa kinh doanh, triết lý kinh doanh giữ vị trí đầu tiên và cũng là vị trí quan trọng quyết định giá trị của tổ chức. Nó quy chiếu trong mình những giá trị mang tính chiến lược trong hoạt động của doanh nghiệp mà qua quá trình thực hiện theo hệ triết lý này, cả khách hàng – đối tác và những cá nhân trong tổ chức sẽ nhận thức ra những “đặc sắc”, “độc đáo” và điều tạo nên sự khác biệt cho doanh nghiệp. 3. Mục tiêu nghiên cứu Như trên nhóm đã trình bày, càng ngày con người càng nhận thấy rằng văn hóa tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con người và sự tham gia đó ngày càng được thể hiện rõ nét và tạo thành các lĩnh vực văn hóa đặc thù như văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa gia đình và văn hóa kinh doanh. Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với hàng hóa và thị trường. Tuy nhiên, khi xã hội chúng ta phát triển đến một mức nào đó, những điều còn lại sau đồng tiền, sau lợi nhuận, sau những cạnh tranh, bon chen trên trường kinh tế sẽ là những giá trị nhân bản thuộc về con người. Tất cả những giá trị ấy quy tụ trong văn hóa kinh doanh. Tìm hiểu về vấn đề này, nhóm chúng tôi đã lựa chọn Triết lý kinh doanh như một nhân tố quan trọng tạo nên văn hóa kinh doanh xưa và 2 nay. Nhìn nhận một cách khách quan chúng ta có thể thấy triết lý kinh doanh chính là nền tảng chi phối đến các hoạt động của doanh nghiệp . Ở Việt Nam, kể từ sau những quyết định mở cửa nền kinh tế tiến hành từ Đại hội VI, hoạt động kinh doanh trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết, tuy nhiên thực tế cho thấy – ta gặp phải không ít khó khăn trong quá trình xác định mục tiêu, sứ mệnh của mình. Vì thế cần học tập kinh nghiệm xây dựng triết lý kinh doanh và kinh nghiệm khai thác vai trò triết lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiệp để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa các doanh nghiệp nước ta với các doanh nghiệp nước ngoài. Bài tiểu luận này của Nhóm xin phép được trình bày về quá trình phát triển của Triết lý kinh doanh, đồng thời chú trọng phân tích vai trò của triết lý kinh doanh trong giai đoạn hiện tại nhằm làm nổi bật nên giá trị của yếu tố này trong mỗi tổ chức vào mỗi thời kỳ. 4. Câu hỏi nghiên cứu Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập như thế nào ? 5. Giả thuyết nghiên cứu Mỗi một khu vực kinh tế khác nhau thì có triết lý kinh doanh khác nhau. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần lời mở đầu đi kèm, đề tài gồm 3 chương Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Triết lý kinh doanh Chương 2: Triết lý kinh doanh Việt Nam thời kỳ hội nhập Chương 3: Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập

pdf38 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8803 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, họ sẽ cố gắng vận dụng các tư tưởng triết học về kinh doanh và tổ chức quản lý của họ, phát triển nó thành triết lý chung của doanh nghiệp đó. Nó là lý tưởng, là phương châm hành động, là hệ giá trị và mục tiêu chung của doanh nghiệp chỉ dẫn cho hoạt động nhằm làm cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự phát triển của doanh nghiệp được định hướng chủ yếu từ triết lý doanh nghiệp đúng đắn. 8 Triết lý doanh nghiệp là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp: Xác định sứ mệnh, các giá trị cốt lõi và phương thức hoạt động, quản lý của doanh nghiệp, nên triết lý kinh doanh trở thành yếu tố quan trọng nhất của văn hóa doanh nghiệp. Sứ mệnh và giá trị cốt lõi có ý nghĩa định hướng sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, hướng mọi thành viên trong doanh nghiệp tới một mục đích chung. Trong khi các yếu tố khác của văn hóa doanh nghiệp có thể thay đổi, thì sứ mệnh và giá trị cốt lõi doanh nghiệp thường không thay đổi. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp trở thành nền tảng của văn hóa doanh nghiệp. Các kế hoạch chiến lược mang tính lâu dài phải được bắt nguồn từ sứ mệnh chung của doanh nghiệp. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp chính là công cụ để hướng dẫn cách thức kinh doanh phù hợp với văn hóa doanh nghiệp. Nó chính là cơ sở đào tạo, phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp: Mọi thành viên trong doanh nghiệp gắn kết với nhau bởi một mục tiêu chung mà họ cùng hướng tới. Triết lý doanh nghiệp chính là sợi dây kết nối các thành viên trong doanh nghiệp với nhau, đồng thời là tiêu chuẩn chung để đánh giá mỗi thành viên. Việc tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên các giá trị chung và sứ mệnh chung của doanh nghiệp. Triết lý quản lý là định hướng cơ bản có tính sống còn, gắn liền với sứ mệnh của tổ chức trong hoạt động của con người để đạt đến mục tiêu đã xác định. Triết lý quản lý phản ánh thái độ, mong đợi mà tổ chức biểu thị đối với quan hệ nhóm có liên quan, trở thành cơ sở rộng lớn cho việc giải quyết các vấn đề của tổ chức. Triết lý quản lý là phần cốt lõi trong hệ giá trị , nó dẫn đến bộ tiêu chuân chung điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình quản lý. Từ triết lý quản lý các công tác tổ chức, các chức năng của quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ, hướng theo triết lý đã xác định. Đây thường là triết lý do những người sáng lập ra 9 doanh nghiệp đưa ra để đạt được mục tiêu của mình. Triết lý kinh doanh là một dạng cụ thể của triết lý quản lý. Thông qua những hệ giá trị, tư tưởng cốt lõi, phương châm hoạt động của mình việc hình thành triết lý kinh doanh cũng không ngoài mục đích vận hành tổ chức một cách hiệu quả và đem đến những giá trị cho con người. Việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình vận hành doanh nghiệp. Ví dụ: Đối với những quốc gia phát triển như Nhật Bản, triết lý kinh doanh có vai trò như sứ mệnh kinh doanh; là hình ảnh của doanh nghiệp trong ngành và trong xã hội; là mục tiêu định hướng cho một thời kỳ phát triển dài. Mặt khác, các doanh nghiệp Nhật Bản coi triết lý kinh doanh như một yếu tố cấu thành thương hiệu khi mà họ sớm ý thức được rằng, kinh doanh sẽ được xã hội hoá với mức độ ngày càng gia tăng. Dù là bất cứ loại triết lý nào đã được đề cập ở trên, người lãnh đạo muốn tạo nên nó rất cần phải có sự hiểu biết về các yếu tố hình thành, có tham vọng biến nó thành sự thật, xuất phát từ chính hoàn cảnh thực tế để tạo nên những giá trị cần thiết… 1.2.5. Vai trò của triết lý kinh doanh trong việc hình thành văn hóa và đạo đức quản lý của doanh nghiệp Triết lý kinh doanh là công cụ định hướng và cơ sở để quản lý chiến lược của doanh nghiệp Triết lý kinh doanh là một lực lượng hướng dẫn, tạo sức mạnh to lớn cho thành công của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh có vai trò: 10 Thiết lập một tiếng nói chung hoặc môi trường của doanh nghiệp. Đảm bảo nhất trí về mục đích trong doanh nghiệp. Định rõ mục đích của doanh nghiệp và chuyển dịch các mục đích này thành các mục tiêu cụ thể. Nội dung của triết lý kinh doanh là điều kiện hết sức cần thiết thiết lập các mục tiêu và soạn thảo các chiến lược một cách hiệu quả. Một kế hoạch mang tính chiến lược bắt đầu với việc xác định một triết lý kinh doanh một cách rõ ràng. Triết lý kinh doanh được xem là bước chuẩn bị đầu tiên trong quản lý của doanh nghiệp mà cụ thể là quản lý chiến lược. Triết lý kinh doanh là cơ sở hoặc tiêu chuẩn để phân phối nguồn lực của tổ chức. Sứ mệnh hay mục đích của doanh nghiệp là một môi trường bên trong có ảnh hưởng đến các bộ phận chuyên môn như sản xuất, kinh doanh, quản trị nhân sự. Một bộ phận chuyên môn phải dựa vào mục đích hay sứ mệnh của công ty để viết ra mục tiêu của bộ phận mình. Đối với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý kinh doanh là một văn bản pháp lý và cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược. Theo Peters & Waterman, nhờ có sự định hướng của triết lý kinh doanh mà những nhà quản lý có được “chìa khoá vàng” mở cánh cửa thành công. Triết lý kinh doanh là một công cụ để giáo dục, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra một phong cách làm việc đặc thù của doanh nghiệp Triết lý kinh doanh cung cấp các giá trị, chuẩn mực hành vi nhằm tạo nên một phong cách làm việc , sinh hoạt chung của doanh nghiệp, đậm đà văn hoá của tổ chức đó. 11 Với việc vạch ra lý tuởng và mục tiêu kinh doanh thể hiện ở phần sứ mệnh, triết lý kinh doanh giáo dục cho công nhân viên chức đầy đủ về lý tưởng, về công việc trong một môi trường văn hoá tốt, nhân viên sẽ tự giác phấn đấu vươn lên. Do triết ký kinh doanh đề ra một hệ giá trị đạo đức chuẩn làm căn cứ đánh giá mọi hành vi của các cá nhân trong tổ chức nên nó có vai trò trong việc điều chỉnh hành vi của nhân viên trong việc xác định bổn phận, nghĩa vụ của mỗi nhân viên đối với tương lai của sự phát triển của tổ chức. Như vậy, vai trò của triết lý kinh doanh với doanh nghiệp có thể so sánh với bất kì nguồn lực nào khác trong tổ chức.Nhận xét về tầm quan trọng của triết lý kinh doanh Uwayaki : “Bí mật của các doanh nghiệp trong cuốn “chưa hề thất bại” viết : “Nguồn tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng, ngoài người, tiền của hay vật tư hàng hoá, còn bao gồm những nguồn tài sản mắt thường không nhìn thấy được nhưng lại có tác dụng vô cùng to lớn. Bộ phận quan trọng nhất của nguồn tài sản vô hình đó là triết lý kinh doanh và phong thái kinh doanh là cốt lõi của phong thái doanh nghiệp”. CHƯƠNG 2: TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THỜI KỲ HỘI NHẬP 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội thời kỳ hội nhập Cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế nền kinh tế Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12 -1986) đã khẳng định phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Những năm tiếp sau đó, tư tưởng này được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách và văn bản pháp.luật. Cơ chế thị trường đang từng bước được hoàn thiện để tạo ra những cơ hội bình đẳng trong kinh 12 doanh cho tất cả mọi thành phần kinh tế, cho mọi người đều có thể có điều kiện làm giàu cho bản thân và xã hội. Nghị quyết của Đại hội lần VI là cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế và được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách, văn bản pháp luật trong những năm tiếp theo. Tháng 11 – 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 217/HĐBT về việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước. Năm 1998, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, có quyền tự chủ kinh doanh toàn diện. Tháng 1 – 1998, Quốc hội đã thông qua luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Những thay đổi về pháp luật và chính sách trên đã từng bước tạo ra nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta. Có thể xem tháng 3 – 1989 là thời điểm Việt Nam thực sự đi vào quá trình chuyển biến sang kinh tế thị trường bởi vì: - Thứ nhất, tới thời gian đó, Chính phủ đã đổi mới thành công trong chính sách tài chính – tiền tệ, kiểm soát được lạm phát. - Thứ hai, Nhà nước đã có những giải pháp đa dạng hóa thành phần kinh tế, xóa bỏ chế độ độc quyền kinh doanh của Nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. - Thứ ba, thực hiện một bước tự do hóa thương mại, Chính phủ đã xóa bỏ các trạm kiểm soát “ngăn sông cấm chợ” và nới lỏng xuất nhập khẩu. Từ năm 1990 đến nay, xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường cả về chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt có hai sự kiện lớn trong những năm 2000 đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Việt Nam thực sự phát triển nhảy vọt đó là sự ra đời 13 của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư sửa đổi; sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tình hình kinh tế, xã hội nước ta thời kỳ hội nhập Kinh tế phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Song, cũng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế nên nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh và ngày càng phức tạp. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng lớn, là những mầm mống cho những bất ổn định xã hội. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến hàng triệu lao động nông nghiệp bị mất đất, di chuyển từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm và phải chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đầy rủi ro. Nguy cơ thất nghiệp, bệnh tật, ốm đau đang đe dọa một bộ phận lao động, nhất là lao động phổ thông, trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đói nghèo được thu hẹp nhưng tái nghèo vẫn là nguy cơ đối với hàng chục triệu người. Hậu quả của tình trạng xã hội trên đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước, ngăn trở mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh. Thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức ngày càng khắc nghiệt hơn khi nước ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cho Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng những cơ hội và thách thức mới. 14 Trước hết, Hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn, hàng hóa thâm nhập thị trường này cũng không gặp bất kỳ trở ngại nào. Việt Nam được đối xử tối huệ quốc vô điều kiện, thuế thu nhập vào các nước thành viên sẽ giảm đáng kể. Việt Nam sẽ tiếp nhận và tiếp cận được nguồn nhân lực, vật lực lớn từ những nước phát triển là thành viên của WTO. Việt Nam sẽ bình đẳng với các nước thành viên của WTO, Việt Nam sẽ nâng cao vị thế trong các mối quan hệ kinh tế, trong việc biểu hiện những vấn đề liên quan đến WTO đặc biệt trong việc giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh thương mại quốc tế. Ngoài ra, khi nước ta hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng hóa các nước sẽ xâm nhập thị trường trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức lớn là cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, cạnh tranh không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dich vụ. Trong khi đó khả năng cạnh tranh cả các doanh nghiệp nước ta chưa cao. Doanh nghiệp yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu không có khả năng cạnh tranh sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Điều này gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và con người yếu kém. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là để ra những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn 15 Trước tình hình đó những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã và đang ban hành những chủ trương, chính sách nhằm giải quyết vấn đề xã hội nói chung và vấn đề an sinh xã hội nói riêng. Các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội được Nhà nước ban hành, sửa đổi và bổ sung ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế nước ta Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý. Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại, các quy định về cạnh tranh để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng khi hội nhập. Các bộ, ngành đã tập trung rà soát và góp ý sửa đổi các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực điện ảnh, viễn thông, an toàn thực phẩm cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam đồng thời kiến nghị ban hành hàng loạt Nghị định để thi hành những lĩnh vực trên. Bộ tài chính đã ban hành danh mục sửa đổi thuế xuất khẩu, danh mục sửa đổi biểu thuế nhập khẩu ưu đãi để thực hiện đúng cam kết về cắt giảm thuế theo biểu cam kết đối với WTO cho bước cắt giảm của năm 2009..Ngoài những chính sách trên thì Đảng và nhà nước còn ban hành rất nhiều chính sách về kinh tế- xã hội, đang tiếp tục bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đánh giá chung về việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh của các doanh nghiệpViệt nam thời kỳ hội nhập Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có cố gắng nhất định trong việc xây dựng triết lý để định hướng cho hoạt động kinh doanh cũng là thể hiện văn hóa kinh doanh và đạo đức kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp ở các 16 khu vực kinh tế khác nhau đã xây dựng nên những triết lý kinh doanh khác nhau và mỗi triết lý kinh doanh ấy đã thể hiện bản sắc riêng của mỗi doanh nghiệp. Ví dụ về triết lý kinh doanh của “Cà phê Trung Nguyên” và “Viettel”. • Triết lý kinh doanh của Vietel : “ Vietel caring innovator” thông qua đó Vietel muốn nhấn mạnh triết lý của mình cho toàn bộ các nhân viên của mình và những người quản lý coi trọng, đó là: Tinh thần Caring – quan tâm, chăm sóc, hướng nội và Innovatorv – sáng tạo, hiện đại, đột phá mang hơi thở kĩ thuật. • Triết lý kinh doanh của Café Trung Nguyên: “Tạo dựng thương hiệu hàng đầu qua việc mang lại cho người thưởng thức cà phê nguồn cảm hứng sáng tạo và niềm tự hào trong phong cách Trung Nguyên đầm đà văn hóa Việt”. Tuy nhiên, nhìn chung triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam vần là hiện tượng mới mẻ, chưa có sự thống nhất trong nhìn nhận và đánh giá. 2.2. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước: Vị trí của các doanh nghiệp Nhà nước: Bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ trước đến nay vẫn được xem là thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế nước ta. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp: Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp còn ở mức thấp so với các nguồn lực của nó. Số lượng các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, phấn tán nhưng với số doanh nghiệp nhiều nên số tài sản trong khu vực kinh tế khá lớn. Quá trình hình thành và phát triển của Triết lý kinh doanh: Đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa có triết lý kinh doanh bến vững, được trình 17 bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Nhà nước chưa đặt vấn đề cần xây dựng một triết lý kinh doanh chung cũng như các triết lý kinh doanh phù hợp với đặc thù mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu nhấn mạnh vào các yếu tố lượng của kinh doanh thể hiện trong các chỉ tiêu cụ thể như: doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách, thuế… mà chưa chú ý tới các hệ giá trị của doanh nghiệp, điều này chứng tỏ chưa có sự chú trọng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Trên thực tế, các điều kiện như thực tiễn kinh doanh và sự kế thừa về lý tưởng, kinh nghiệm và triết lý ở các doanh nghiệp Nhà nước ở ta còn yếu ớt, thời hạn, quyền hạn, chức năng của người lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước chưa rõ ràng và ổn định. Như chúng ta đã biết, muốn có một bản triết lý kinh doanh giá trị, thường người lãnh đạo doanh nghiệp cần có khoảng 10, 20 năm lăn lộn trong kinh doanh và quản lý kinh doanh và giữa họ và người kế nhiệm phải có sự kế thừa về lý tưởng, kinh nghiệm và triết lý. Cả hai điều kiện trên ở nước ta còn yếu. Công tác cán bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu những quy chế khoa học, còn nhiều định kiến phiến diện. Chúng ta thường ngại sử dụng và đề bạt những cán bộ dám làm, dám nói. Tuyệt đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đều không có triết lý kinh doanh được trình bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Mặt khác, những triết lý chung, giáo điều đúng nhưng khó thực thi, “vô thưởng, vô phạt” cũng được các nhà quản lý kinh doanh trong khu vực Nhà nước tuyên truyền thay thế cho các giá trị của các triết lý kinh doanh đích thực. Có thể kể ra một số triết lý kinh doanh như: “Vì nhân dân phục vụ”; “chúng ta phải biết hi sinh cho lợi ích tập thể”; “kinh tế phải phục tùng chính trị”. Đây là những triết lý rất chung chung, khó thực hiện, khó đo lường hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. 18 Rõ ràng, vấn đề vai trò, tác dụng của các triết lý kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước có liên quan mật thiết tới công tác quản lý và công tác cán bộ. Tuy nhiên, trong tình hình đó đến nay đã có một số doanh nghiệp Nhà nước đã đưa ra triết lý kinh doanh của mình trong quá trình phát triển công ty, ví dụ như Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc Tổng Công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Arlines). Triết lý kinh doanh của Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc Tổng Công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines ):  Nhận thức rằng một danh tiếng bền vững về cách ứng xử văn hóa tự nó là một tài sản vô giá của doanh nghiệp, toàn thể cán bộ, công nhân viên Xí nghiệp thương mại Mặt đất Nội Bài luôn hướng tới xây dựng đơn vị mình thành một cộng đồng những con người có văn hóa.  Thông qua công việc mỗi ngày, chúng ta phấn đấu không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi ích vật chất – điều kiện để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho từng cá nhân, cho từng gia đình và cho toàn xí nghiệp.  Chúng ta cam kết cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ chất lượng ổn định và không ngừng được nâng cao bằng việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 vì không có khách hàng chúng ta không có lí do để tồn tại. Chúng ta làm cho khách hàng thấy họ đang được phục vụ bởi đội ngũ những nhân viên lành nghề ,đáng tin cậy và hết mình. Đồng thời chúng ta thấu hiểu rằng giá trị của sản phẩm, dịch vụ không chỉ giới hạn ở chính bản thân chúng ta mà còn ở cách thức chúng ta cung cấp chúng cho khách hàng. Do vậy việc tuân thủ nghiêm khắc các quy trình, hướng dẫn công việc chúng ta còn quan tâm đến những chuẩn mực, hành vi, quy tắc ứng xử trong quá trình tạo ra sản 19 phẩm, dịch vụ trong quá trình chúng ta sống và làm việc bên nhau. Chính những chuẩn mực này tạo nên bản sắc riêng của NIAGS chúng ta.  Chúng ta tạo ra và duy trì một môi trường để mỗi thành viên đều cảm thấy được tin yêu và quý trọng như những tài sản quý giá nhất, tự hào khi đứng trong đội ngũ NIAGS và sẵn sàng thể hiện đầy đủ những khả năng và phẩm chất cao quý của mình; một môi trường mà sự đóng góp của bất kì thành viên nào vào thành công của NIAGS đều được thưởng xứng đáng và ngược lại, những hành vi ứng xử trái với văn hóa NIAGS, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ, tổn hại lợi ích của khách hàng đều phải bị lên án và không còn chỗ đứng ở NIAGS.  Chúng ta phấn đấu xây dựng một NIAGS mà hình ảnh của nó trong khách hàng không chỉ là một sản phẩm, dịch vụ hoàn hảo mà còn là sự liên tưởng ngay đến một cộng đồng, một tập thể những con người sôi nổi, đoàn kết gắn bó, tương thân tương ái. Có thể thấy triết lý kinh doanh của công ty đã nói lên ý nghĩa tồn tại của công ty và cũng chính là nét văn hóa tổ chức của công ty đó. Luôn hướng tới khách hàng, đáp ứng những nhu cầu của khách hàng ở mọi lúc, mọi nơi là sứ mệnh cũng như mục đích tồn tại của công ty. Vấn đề con người được quan tâm từ bên trong nội bộ công ty đến khách hàng cho thấy giá trị nhân văn của NIAGS cũng là một phần trong đạo đức quản lý của doanh nghiệp. 2.3. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Phát huy vai trò của triết lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiêp Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là khu vực kinh tế phát huy vai trò của triết lý kinh doanh tốt nhất ở nước ta hiện nay. Hầu hết các công ty nước ngoài thành đạt, đặc biệt là các công ty Mỹ và Nhật Bản đều mang vào Việt Nam và sử dụng triết lý kinh doanh của họ như là một công cụ quản lý 20 chiến lược, như là hạt nhân của văn hóa doanh nghiệp và là phương tiện giáo dục tất cả các thành viên trong công ty. Khác với các doanh nghiệp Nhà nước, nơi triết lý kinh doanh nặng về tính hình thức hoặc chỉ có vai trò phụ trợ, phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam đều coi triết lý kinh doanh như một yếu tố trong sức mạnh quản lý của mình. Ví dụ: Với các triết lý như “khách hàng là thượng đế”; “khách hàng luôn luôn đúng”; “tinh thần tranh đua”; “sản phẩm chất lượng là niềm kiêu hãnh”… đã góp phần làm cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển mạnh trên thị trường. Các doanh nghiệp liên doanh với Nhật thì có riêng triết lý của mình. Đó là các triết lý đề cao tinh thần cộng đồng và họ đã phát huy được hết nỗ lực, tận dụng được các thế mạnh tại thị trường của Việt Nam. Ví dụ triết lý “tôn trọng cá nhân” tạo nên môi trường bình đẳng của công ty Sony tại Việt Nam. Triết lý kinh doanh của một số doanh nghiệp • Tập đoàn “Castrol Việt Nam” áp dụng triết lý “tạo ra một nhu cầu tiêu dùng thực sự và đáp ứng các nhu cầu đó với mức cao nhât”. Bắt đầu vào kinh doanh ở Việt Nam từ tháng 1 – 1992, do SaigonPetro góp vốn 40% và Castrol Limited 60%, những ngày mới thành lập công ty mới chỉ có 5 người trong đó có 3 người nước ngoài, đến tháng 4 - 1998 lên tới 165 người, chỉ còn một người nước ngoài và nâng tổng số đầu tư lên 12 triệu USD, gấp 2 lần so với vốn đầu tư ban đầu. • Tập đoàn Canon với triết lý “Kyosei” Canon định nghĩa Kyosei là: “Tất cả mọi người, không kể chủng tộc, tôn giáo hay nền văn hoá, sống hoà thuận và làm việc cùng nhau cho tương lai”. Triết lý này đã xuyên suốt tại Canon trong mọi khía cạnh trong kinh doanh, cống hiến cho xã hội cũng như môi trường. • Triết lý của Samsung: Tại Samsung, chúng tôi thực hiện một triết lý kinh doanh đơn giản: cống hiến tài năng và công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ siêu việt, bằng cách đó đóng góp cho một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn. 21 Mỗi ngày, chúng tôi mang triết lý này áp dụng vào cuộc sống. Các nhà lãnh đạo tích cực tìm kiếm những tài năng sáng giá nhất trên khắp thế giới, và cung cấp cho họ những nguồn lực cần thiết để thực hiện hết khả năng của mình. Kết quả là tất cả các sản phẩm của chúng tôi - từ các chip nhớ giúp cho doanh nghiệp lưu trữ thông tin quan trọng đến những chiếc điện thoại di động kết nối mọi người trên khắp các châu lục - khiến cuộc sống trở nên phong phú hơn. Và đó chính là điều giúp tạo ra một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn. • Ngoài ra, chúng ta cũng cần kể đến một doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài khi đi vào hoạt động tại Việt Nam đã thể hiện rất tốt triết lý kinh doanh đó là Unilever. Cụ thể triết lý kinh doanh của Tập đoàn Unilever như sau: - Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever: “Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever chúng ta là thỏa mãn các nhu cầu hàng ngày cảu con người ở mọi nơi, nắm bắt được nguyện vọng đó một cách sáng tạo và hiệu quả thông qua các dịch vụ và nhãn hàng danh tiếng nhằm nâng cao chất lượng của cuộc sống”. • Tầm nhìn của Unilever Việt Nam:  Gốc rễ sâu của chúng tôi trong văn hóa bản địa và các thị trường trên toàn thế giới là sự kế thừa không thể sánh kịp của chúng tôi và nền tảng cho sự phát triển trong tương lai của chúng tôi .  Chúng tôi sẽ mang kiến thức và kinh nghiệm quốc tế của mình để phục vụ những người tiêu dùng trong nước – thực sự là một công ty đa quốc gia đa nội địa ( a truly multilocal mutilnational).  Thành công dài hạn của chúng tôi cần phải có sự cam kết toàn bộ cho các chuẩn mực đặc biệt về kết quả hoạt động và năng suất, về cùng nhau làm việc một cách hiệu quả và về mong muốn nắm lấy những ý tưởng mới và liên tục học hỏi. 22  Chúng tôi tin rằng để thành công cần phải có các chuẩn mực cao hành vi của doanh nghiệp đối với nhân viên, người tiêu dùng, xã hội và thế giới mà chúng ta đang sống.  Đây là con đường mà Unilever để đi đến phát triển bền vững, sinh lợi cho hoạt động kinh doanh của chúng tôi và tạo ra giá trị dài hạn cho các cổ đông và nhân viên của mình. Tuy nhiên, không phải bất kỳ một nhà kinh doanh nước ngoài nào cũng thực hiện tại Việt Nam một triết lý kinh doanh và quản lý tích cực. Những người chỉ coi Việt Nam như một thị trường mới lên, có thể tranh thủ kiếm chác và làm giàu thì không thể có và trung thành với một triết lý kinh doanh tích cực. Những nhà kinh doanh có ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam sẽ gặp một trở ngại chung là sự khác biệt về văn hóa. Vì vậy, triết lý kinh doanh của họ, trong trường hợp tích cực cũng khó có khả năng và điều kiện phát huy vai trò của nó ra khỏi phạm vi một doanh nghiệp. 2.4.Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các công ty cổ phần: Điều kiện hình thành và phát triển triết lý kinh doanh Các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn các doanh nghiệp Nhà nước trong việc phát huy tác dụng của triết lý kinh doanh. Cụ thể: • Ở khu vực nhà nước thường phải chịu sự chỉ đạo rất khắt khe từ cấp trên nhưng hiệu quả làm việc lại không đáng kể. Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, do không phải chịu sự cai quản và sức ép của nhiều cấp trên, những người lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn so với đồng nghiệp của 23 họ. Hơn nữa, ở các doanh nghiệp tư nhân, do họ tự trang trải kinh phí và nguồn vốn hoạt động nên quá trình hoạt động của họ được thực hiện gắt gao và quy củ hơn rất nhiều so với tình trạng “của chùa”, “cha chung không ai khóc” như các doanh nghiệp nhà nước. Vì nếu hoạt động có hiệu quả thì mới có thể mang lại đc nguồn lợi nhuận cao phục vụ cho các hoạt động của mình. Đó là lý do trước hết mà các doanh nghiệp chú trọng phát triển triết lý kinh doanh trong hoạt động của mình hơn doanh nghiệp nhà nước. • Cũng xuất phát từ việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Các doanh nghiệp tư nhân trong sự ảnh hưởng của quá trình kinh tế thị trường, họ ngày càng có xu hướng đi theo tác phong công nghiệp hóa, làm theo năng lực hưởng theo lao động, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Nguồn nhân lực thì có trách nhiệm hơn với công việc so với bộ phận doanh nghiệp nhà nước… Do vậy, đây là những điều kiện không thể thiếu để triết lý kinh doanh hình thành và đạt hiệu quả một cách cao nhất. • Trong các doanh nghiệp tư nhân, do không có sự chỉ đạo từ trên xuống như các doanh nghiệp nhà nước, không có chuyện sẽ có một nơi tìm nguồn đầu tư và mang đến cho bạn làm nên hầu như việc tìm kiếm đối tác hay công việc đều phải tự xoay xở. Vì vậy, việc “lăn lộn” trong thương trường đã để lại cho các doanh nghiệp tư nhân nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn. Từ đó diễn ra quá trình các nhà lãnh đạo tổng kết các kinh nghiệm kinh doanh đúc rút thành triết lý và truyền bá, giáo dục cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp Triết lý kinh doanh của một số doanh nghiệp • “Chữ tín là vàng” là triết lý kinh doanh của doanh nghiệp vàng Bảo Tín. Bảo Tín là một doanh nghiệp tư nhân được hình thành từ nhiều năm nay nhưng chất lượng sản phẩm và sức ảnh hưởng vẫn còn rất lớn trong khi có 24 rất nhiều doanh nghiệp khác mọc lên. Trải qua nhiều năm hoạt động bản thân doanh nghiệp cũng nhận thấy rằng nhận được sự tin tưởng của khách hàng là một điều kiện vô cùng thuận lợi để giúp mình có thể đứng vững trên thị trường và phát triển mạnh mẽ hơn. Đây chính là kinh nghiệm lâu năm được chuyển hóa thành triết lý kinh doanh cho doanh nghiệp. • “Đẹp và hơn thế nữa” là triết lý kinh doanh của hãng thời trang Foci; • Sứ mệnh của FPT là “FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu mạnh bằng nỗ lực lao động sáng tạo trong khoa học kĩ thuật và công nghệ, làm khách hàng hài lòng, góp phần hưng thịnh quốc gia. Mục tiêu của công ty là nhằm đem lại cho mỗi nhân viên của mình điều kiện phát triển tốt nhất về tài năng, một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần”. Nhưng muốn có một bản triết lý kinh doanh tích cực, người lãnh đạo doanh nghiệp phải có nhiệt tâm theo đuổi nghề nghiệp của mình và phải có đủ tài đức. Song nhìn chung, triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân mới chỉ dừng lại ở câu khẩu hiệu hoặc những câu quảng cáo chứ chưa mang đầy đủ các nội dung của một bản triết lý kinh doanh. Nguyên nhân chính là do họ thiếu kiến thức, chỉ có 11% các doanh nhân của tư nhân có kiến thức cơ bản về kinh doanh. Mặt khác, với triêt lý “tiền là tiên, là phật” một số doanh nghiệp tư nhân bị chi phối bới lối làm ăn “đánh quả”, “mì ăn liền”, gian lận, những khía cạnh đạo đức trong kinh doanh chưa được coi trọng đúng mức. Những triết lý vị kỷ, tư lợi đó không thể phát huy được tinh thần đoàn kết, cộng đồng cùng thúc đấy doanh nghiệp tiến lên vì mục tiêu chung. Nhìn chung, nước ta còn thiếu vắng những nhà kinh doanh thành đạt nhờ kết hợp công nghệ kinh doanh với lý tưởng cao cả. Với thực trạng và trình độ phát triển như hiện nay, chúng ta còn rất yếu kém so với trình độ và khả năng chung của 25 các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Có rất nhiều nguyên nhân trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân sau: - Chúng ta chưa chú ý đúng mức đến lý tưởng của các cá nhân và tổ chức, chưa có một phong cách kinh doanh nào cụ thể phát huy được các giá trị nhân văn của con người Việt Nam trên mặt trận kinh tế. - Vai trò của các triết lý kinh doanh bao hàm được các giá trị chân, thiện, mỹ còn mờ nhạt trong các hoạt động kinh doanh của nước ta hiện nay. Muốn giải quyết triệt để tình trạng này thì không thể chỉ xuất phát từ phương diện pháp luật và kinh tế với các chính sách và công cụ của chúng. Cần phân tích thêm từ phương diện văn hóa doanh nghiệp. CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT HUY TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI NHẬP 3.1. Điều kiện để triết lý kinh doanh phát huy tác dụng Như chúng ta đã biết, sự ra đời của triết lý doanh nghiệp, cần có sự hội đủ những nhân tố khách quan và chủ quan, có những triết lý doanh nghiệp tích cực- đối tượng nghiên cứu của chúng ta – có cả triết lý kinh doanh và triết lý doanh nghiệp tiêu cực cần được phê phán, loại bỏ trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh. Một văn bản triết lý doanh nghiệp tích cực khi đã được tạo lập rồi chỉ phát huy được vai trò của nó khi bộ phận lãnh đạo, quản lý gương mẫu thực thi. Nếu những người lãnh đạo không trung thành với nó, “ nói một đằng làm một nẻo”, hoặc chỉ thực hiện nó khi gặp hoàn cảnh thuận lợi, thì triết lý doanh nghiệp đó chỉ tồn tại về mặt hình thức, không có giá trị. 26 Sự gương mẫu thực hiện và trung thành với triết lý doanh nghiệp của giới lãnh đạo- quản lý, đến lượt nó, lại trở thành điều kiện thiết yếu để lực lượng lao động của doanh nghiệp noi gương, thực thi triết lý một cách tự giác và rộng khắp. Và khi đã hội đủ cả hai điều kiện từ hai lực lượng cơ bản này của nguồn nhân lực thì vai trò của triết lý doanh nghiệp mới thực sự được phát huy. Quá trình này sẽ tiến triển nhanh hơn nếu các nhà lãnh đạo coi trọng nhiệm vụ truyền bá, giáo dục triết lý doanh nghiệp cho toàn thể nguồn nhân lực. Thậm chí một số nội dung của văn bản triết lý doanh nghiệp cần được truyền bá ra ngoài xã hội bằng những cách thức và phương tiện phù hợp như sách, báo, quảng cáo… Muốn phát huy được vai trò của triết lý doanh nghiệp thì người lãnh đạo doanh nghiệp phải biết được cả mặt mạnh và mặt yếu của nó. Mặc dù có một tiềm lực và khả năng lớn đối với công tác quản lý doanh nghiệp, nhưng xét toàn diện, triết lý doanh nghiệp chỉ là một yếu tố cơ bản ( và cũng là một bộ phận) của hệ thống ( nền ) văn hóa doanh nghiệp. Tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của văn bản triết lý này chỉ là trong phạm vi tổ chức của doanh nghiệp và thuộc về lĩnh vực kinh doanh. Không có một doanh nghiệp nào thành công trên thương trường chỉ nhờ một bản triết lý tốt. Mối quan hệ giữa triết lý doanh nghiệp với các nguồn lực và phương tiện phát triển khác của doanh nghiệp ( vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân lực, sự quản lý…) không phải là sự thay thế mà là quan hệ tương tác, lồng ghép và linh hoạt. Chẳng hạn, triết lý doanh nghiệp không thể thay cho việc lập các kế hoạch kinh doanh, việc ban hành các chế độ và quy định quản lý, việc triển khai các chiến lược tiếp thị của doanh nghiệp v.v…nhưng nó có thể làm cho các công tác trên được thực hiện đúng đắn hơn, với tinh thần tự giác và phấn khởi hơn, có văn hóa hơn. 27 Triết lý doanh nghiệp là yếu tố rất ổn định so với các nguồn lực khác của doanh nghiệp. Nhưng khi môi trường kinh doanh có sự biến đổi sâu sắc thì triết lý doanh nghiệp nói riêng, văn hóa doanh nghiệp nói chung, cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp. 3.2.Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 3.2.1.Tăng cường nghiên cứu, giảng dạy và quảng bá triết lý kinh doanh Điều kiện đầu tiên để sử dụng và phát huy được vai trò của triết lý kinh doanh là phải có nhận thức đúng và đầy đủ về nó, bao gồm cả mặt mạnh và mặt yếu, ưu điểm và khuyết điểm. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, triết lý kinh doanh mà hình thức quan trọng nhất là triết lý doanh nghiêp đã trở thành một công cụ quản lý chiến lược rất quan trọng, là coi cốt lõi và nền tảng của văn hóa doanh nghiệp. Nhưng ở nước ta hiện nay, triết lý doanh nghiệp vẫn còn là một vấn đề tương đối mới mẻ. Bởi vậy vấn đề nghiên cứu, giảng dạy về triết lý kinh doanh, triết lý doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trọng, không thể bỏ qua, đối với nhiệm vụ nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công việc nghiên cứu về triết lý kinh doanh cần tiến hành theo ba bước chính: • Tìm hiểu về triết lý kinh doanh của nước ngoài, tập trung vào triết lý kinh doanh của các công ty, tập đoàn xuất sắc của thế giới, từ đó rút ra những kinh nghiệm, bài học thiết thực cho ta. Ví dụ: Tập đoàn ô tô Trường Hải( Trường Hải Group) đã xây dựng triết lý kinh doanh riêng của mình trên cơ sở học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu 28 triết lý kinh doanh của nước ngoài, tập trung chủ yếu vào triết lý kinh doanh của các công ty, tập đoàn xuất sắc của thế giới, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực. Trong các triết lý kinh doanh nước ngoài, Trường Hải đặc biệt quan tâm đến triết lý kinh doanh của Ford. Ford là một công ty dẫn đầu quốc tế trong nghành ô tô và các dịch vụ sản phẩm có liên quan đến ngành ô tô cũng như trong các ngành non trẻ như hàng không, viễn thông và các dịch vụ tài chính. Triết lý của Ford là “không ngừng cải tiến sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giúp chúng ta phát triển trong kinh doanh và đem lại lợi nhuận hợp lý cho cổ đông, những người sở hữu công ty chúng ta.” • Nghiên cứu về triết lý kinh doanh truyền thống của dân tộc ta trong lịch sử Việt Nam, để tìm ra những nét bản sắc phong cách kinh doanh truyền thống cần phát huy trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa các nền kinh tế hiện nay. • Nghiên cứu về thực trạng của triết lý kinh doanh trong các doanh nghiệp nước ta hiện nay để phê bình mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nó, giúp cho doanh nghiệp xây dựng và hoàn thiện triết lý phát triển của mình. Công việc nghiên cứu triết lý kinh doanh có liên quan chặt chẽ, liên hệ biện chứng với công việc giảng dạy và quảng bá về nó, trước hết là trong các trường, khoa giảng dạy về quản trị kinh doanh, văn hóa kinh doanh… Người học về kinh tế, quản trị kinh doanh cần thấu hiểu và sử dụng được triết lý kinh doanh như một công cụ trong hoạt động và sự nghiệp của mình. Ở phạm vi rộng hơn, xã hội cần có một cách hiểu tích cực và thống nhất về triết lý kinh doanh qua sự thành công, phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh có văn hóa. 29 Công việc quảng bá về triết lý kinh doanh không chỉ do các nhà nghiên cứu và giảng dạy tiến hành mà cái chính là phải do các doanh nghiệp kiên trì thực hiện. Cách thức quảng bá có thể tiến hành lồng ghép vào các chương trình quảng cáo sản phẩm, xây dựng thương hiệu nhưng chủ yếu phải bằng chính hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua sự đóng góp của họ cho xã hội. 3.2..2.Nhà nước tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, công bằng, minh bạch Thể chế kinh tế thị trường ở đây bao gồm hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức điều hành của nhà nước đối với các doanh nghiệp, doanh nhân. Thể chế kinh tế thị trường sẽ tạo ra một môi trường được ví như là một sân chơi bằng phẳng, nhà nước có vai trò là người trọng tài khách quan, vô tư, khuyến khích các doanh nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư và kinh doanh lâu dài, cạnh tranh công bằng, người nào giỏi và tốt sẽ được phần thưởng xứng đáng, người kém hoặc xấu sẽ bị thị trường trừng phạt như thua lỗ, phá sản hoặc bị pháp luật và công luận kết tội. Hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực ( năm 2000) đến nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đang được hoàn thiện từng bước, từng bước một. Thế nhưng tình trạng các doanh nghiệp nhà nước được hưởng chính sách bảo hộ, ưu đãi cả Nhà nước hoạt động kém hiệu quả vẫn diễn ra ở mức độ và phạm vi đáng lo ngại. Hiện tượng tập trung quá nhiều quyền lực, nguồn lực của các gia vào các PMU với “các doanh nghiệp sân sau” của nó mà PMU 18 là trường hợp điển hình, không chỉ tạo ra một sân chơi gồ ghề, lồi lõm mà còn triệt tiêu động lực tích cực của nhiều doanh nghiệp. Trong tình hình như vậy, lối làm ăn chụp giật, phi văn hóa sẽ thắng thế lối kinh doanh có văn hóa, nếu xuất hiện các triết lý kinh doanh thì sẽ có tính chất tiêu 30 cực có thể “ trói chân, trói tay” những doanh nhân, doanh nghiệp tích cực và làm giảm hiệu lực, thậm chí làm vô hiệu văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh tốt đẹp mà họ theo đuổi. Muốn văn hóa kinh doanh, mà cốt lõi của nó là triết lý kinh doanh, được sử dụng, phát huy vai trò tích cực của nó thì nhà nước cần tiếp tục đổi mới thể chế, nâng cao năng lực quản lý nền kinh tế thị trường ở nước ta theo các nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch, đáp ứng các thách thức, yêu cầu mới của thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng các thách thức yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp nước ta cũng cần không ngừng mở rộng tầm nhìn, biết tranh thủ thời cơ, phát huy sức mạnh của văn hóa dân tộc để chủ động đối mặt với các thách thức mới của thì trường trong nước và quốc tế. 3.2.3.Khuyến khích các doanh nhân, doanh nghiệp chú trọng việc xây dựng triết lý kinh doanh, triết lý doanh nghiệp và kiên trì vận dụng, phát huy nó vào trong hoạt động kinh doanh Triết lý kinh doanh như đã nói ở các mục trên, thể hiện lý tưởng, tầm nhìn và phương thức hành động của các chủ thể kinh doanh có văn hóa. Xây dựng một văn bản triết lý kinh doanh của doanh nghiệp phải mất nhiều năm hoạt động và suy nghĩ. Việc áp dụng, phát huy nó vào thực tế hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của doanh nghiệp đòi hỏi không chỉ người lãnh đạo mà cả đội ngũ các bộ, nhân viên của doanh nghiệp phải có niềm tin sâu sắc và có tính kiên trì theo đuổi sự nghiệp chung, tinh thần vượt lên khó khăn gian khổ… Trong điều kiện thể chế thị trường chưa hoàn thiện, môi trường cạnh tranh chưa công bằng, việc theo đuổi một triết lý kinh doanh có văn hóa có thể tạo ra tình trạng “ trói chân, trói tay” cho doanh nghiệp, làm giảm sức cạnh tranh trong giai đoạn khởi nghiệp của nó so với các đối 31 thủ kinh doanh phi văn hóa. Song nhìn tổng thể và lâu dài, triết lý kinh doanh tốt sẽ là cơ sở và động lực để doanh nhân, doanh nghiệp phát triển bền vững, tạo ra nhiều sản phẩm và giá trị cho xã hội. Nhóm chúng tôi rất chú trọng yếu tố của nhà lãnh đạo vì đây chính là những người đứng đầu tổ chức – phong cách lãnh đạo của họ sẽ góp phần quan trọng hình thành nên triết lý kinh doanh của doanh nghiệp. Và cũng chính họ sẽ quyết định phương hướng, triết lý kinh doanh theo mục đích nào. Vì vậy, muốn kinh doanh bền vững, phải đi từ những điều cơ bản nhất. Các doanh nghiệp kinh doanh thành công và có thương hiệu lớn trên thị trường nội địa cũng như trên toàn thế giới đều đã xác định mục tiêu và xây dựng cho doanh nghiệp mình một triết lý kinh doanh ngay từ đầu. Theo sơ đồ Pareto, 20% người giỏi tạo ra 80% hiệu quả của doanh nghiệp. Một câu hỏi đặt ra: người giỏi luôn được trải thảm, mời mọc, họ thừa khôn ngoan để chọn cho bản thân mình một người quản lý, một người chủ để phục vụ, thì tại sao họ không làm việc cho doanh nghiệp khác mà làm việc cho doanh nghiệp bạn? Họ phấn đấu hết sức mình cho bạn? Đem lại cho bạn những giá trị lớn như vậy? Câu trả lời là người quản lý phải có cái gì đó thu phục họ, có cái gì đó làm cho họ muốn gắn bó và cống hiến, có cái gì đó họ cảm nhận giống như một phần của chính họ. Như vậy, việc sử dụng người có tính tương tác hai chiều: sử dụng và được sử dụng. Nên ngạn ngữ có câu: dùng người thì được người dùng. Dùng người phải kết hợp giữ “vật” và “tâm”. Thiếu chữ Tâm, là thiếu đi một vế quan trọng của việc dùng người, và đưa đến sự khập khiễng trong quản lý. 500 công ty đứng đầu thế giới đều nhấn mạnh khẩu hiệu “lấy con người làm gốc – dùng điều kiện, đời sống của con người để phân tích và giải quyết mọi vấn đề liên quan tới con người”. Trong văn hóa của những doanh nghiệp này, giá trị cốt 32 lõi “lấy con người làm gốc”, “phát triển toàn diện con người” đã trở thành một trong những từ ngữ có tần số xuất hiện cao nhất – đó chính là triết lý kinh doanh bền vững cho mọi tổ chức dù là khu vực kinh tế nào trong xã hội. Con người ở đây chính là: cán bộ nhân viên, khách hàng, cộng đồng, xã hội. Quay về Việt Nam, đến thăm Hoa Sen Corporation (Tôn Hoa Sen, VLXD Hoa Sen, CKXD Hoa Sen…), hoạt động theo mô hình Công ty mẹ Công ty con. Sau 06 năm hoạt động, Hoa Sen đã xây dựng hẳn cho mình 70 chi nhánh khắp cả nước (mua tậm gốc, bán tận ngọn). Một hệ thống bán lẻ trực tiếp đến khách hàng có qui mô lớn nhất ở Việt Nam. Năm 2004, doanh thu Tổng công ty là 625 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế 18,8 tỉ đồng; năm 2005, doanh thu đạt được hơn 1.071 tỉ đồng; năm 2006, doanh thu đạt được hơn 1.700 tỉ đồng, lợi nhuận hơn 110 tỉ đồng; năm 2007, nhà máy thép cán nguội đi vào hoạt động cuối quí 1, doanh thu Hoa Sen sẽ đạt 2.200 tỉ đồng, lợi nhuận ước tính từ 120 – 150 tỉ đồng. Số tiền Hoa Sen làm từ thiện phải tính bằng con số tỉ đồng, ủng hộ, tài trợ cho đội trọng tài Việt Nam, đội tuyển bóng đá Việt Nam vì màu cờ sắc áo Việt Nam… Dựa vào đâu mà Hoa Sen Corporation có một kết quả kinh doanh tốt, phát triển nhanh và bền vững như vậy? Ông Lê Phước Vũ – Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Hoa Sen Corporation tâm sự: “Tiền bạc chỉ là phương tiện, đức mới là cứu cánh, vì vậy, tôi mong mang đức đến cho đời”. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, chữ Tâm đã thể hiện rất rõ trong cái tên công ty, trong logo và trong triết lý kinh doanh (Trung Thực – Cộng Đồng – Phát Triển) của mình. Chữ Tâm đó không chỉ dừng lại ở cá nhân ông, ở các cộng sự trực tiếp của ông mà ông còn chuyển tải nó đến từng cán bộ nhân viên của Hoa Sen. Đây là công việc mà ông Vũ đã đầu tư rất nhiều công sức, và chính nó đã phát huy tác dụng thật sự, đã - đang - sẽ đem lại cho Hoa Sen Corporation một sự phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh Việt Nam hội nhập toàn diện với kinh tế thế giới. Đến nhiều công ty có tên tuổi như SAMCO, 33 SAPUWA, May Việt Tiến…, chúng ta sẽ thấy chữ Tâm luôn được chú trọng và đề cao. Lấy con người làm gốc là thể hiện thước đo giá trị chuyển dịch từ “vật” sang “người”, phản ánh sự tập trung của việc quan tâm tới số phận con người hiện thực và quan tâm tới phương hướng giá trị cuộc đời, là hạt nhân của tinh thần thời đại. Lấy con người làm gốc không chỉ là khẩu hiệu mà là nhân tính, cái tâm của doanh nghiệp. Đây là việc đầu tư dài hạn và khả năng sinh lợi cao. Nó được chứng minh qua sự phát triển bền vững của 500 công ty hàng đầu thế giới. Vậy, muốn phát huy sức mạnh của triết lý kinh doanh trong xã hội nước ta hiện nay cần thực hiện một số biện pháp chính sau đây: • Chính phủ khuyến khích, tôn vinh các doanh nhân, doanh nghiệp kinh doanh có văn hóa, có đóng góp xuất sắc vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, hàng năm nên tổ chức trọng thể các buổi lễ tôn vinh tặng thưởng thành tích này ở tầm quốc gia vào ngày Doanh nhân Việt Nam ( 23 tháng 10) Ví dụ: Đảng và nhà nước luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất và kinh doanh, khuyến khích, tôn vinh các doanh nhân, doanh nghiệp có văn hóa, có đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Cụ thể, hàng năm chính phủ đã tổ chức trọng thể các buổi lễ tôn vinh, các giải thưởng cho các doanh nghiệp trong đó có hai giải thưởng tiêu biểu đó là: giải thưởng sao đỏ, giải thưởng sao vàng đất Việt. Giải thưởng sao vàng đất Việt được đánh giá là giải thưởng có quy mô và có chất lượng tốt nhất Việt Nam, là chứng chỉ quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong mở rộng thị trường và hội nhập quốc tế. 34 • Công việc đánh giá, bình chọn chất lượng và năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp cần xem xét về triết lý kinh doanh và văn hóa kinh doanh của nó như một tiêu chí không thể bỏ qua • Doanh nghiệp cần sử dụng triết lý kinh doanh như là một “ bệ đỡ tư tưởng” cho văn hóa kinh doanh của nó, lồng ghép nội dung, tinh thần của triết lý kinh doanh vào các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của doanh nghiệp, trong các chương trình, kế hoạch hành động khác của doanh nghiệp như chương trình ISO 9000, chương trình phát triển nguồn nhân lực, phát triển sản phẩm mới… • Giới khoa học cần kết hợp với giới truyền thông tăng cường việc giới thiệu, quảng bá cho những triết lý kinh doanh có giá trị trong thực tiễn phát triển kinh tế của nước ta giai đoạn hiện nay.. Như vậy, khía cạnh của người lãnh đạo, những năng lực mà người lãnh đạo cần có là phải có khả năng lãnh đạo nhân viên; phải có kiến thức về chuyên ngành; năng lực quản lý, kinh doanh và nắm bắt chính xác tình hình. Ngoài ra, Nhóm cũng khẳng định, một người lãnh đạo thành công, là người lãnh đạo phải nắm bắt được kiến thức của nhân loại với cái tâm trong sáng, có lòng tin mạnh mẽ để tìm kiếm con đường mới, xét đoán nhìn nhận bản chất của vấn đề bằng tự thân. Cuối cùng là có khí chất hướng tới sự phát triển thật sự, mở ra một cánh cửa mới cho lịch sử. 35 C – KẾT LUẬN Văn hóa đã và đang trở thành một nhân tố có tác động tới mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh: Từ tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh, các quan hệ trong và ngoài doanh nghiệp cho đến phong thái, phong cách của người lãnh đạo và cách ứng xử giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Với tư cách là một nguồn lực vô hình, triết lý kinh doanh là một trong những nguyên nhân tạo nên thành công của các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Thực tế đã khẳng định quản lý doanh nghiệp được định hướng bởi một triết lý kinh doanh tích cực là một phương pháp, công cụ để phát triển doanh nghiệp bền vững. Ngày nay, mọi định hướng phát triển cũng như đường lối chiến lược của tổ chức đều phụ thuộc vào tài năng và phẩm chất của người lãnh đạo. Đã qua rồi thời của những hoạt động kinh doanh hỗn loạn mà mọi giá trị văn hóa bị phủ nhận, trong thời kỳ hội nhập – kinh doanh phải gắn liền với những triết lý nhân bản vì con người mà phát triển, vì con người mà tiến bộ. Đó cũng chính là kinh nghiệm được đúc kết qua thực tiễn lịch sử, làm nền tảng cho các doanh nghiệp hiện nay phát triển bền vững và tạo nên những giá trị mang tính bản sắc toàn cầu. 36 Danh mục tài liệu tham khảo: 1. PGS, PTS. Nguyễn Thị Doan – PTS. Đỗ Minh Cương, Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; 2. Đỗ Minh Cương, Triết lý kinh doanh, Tạp chí Thông tin lý luận, Số 7– 1988; 3. Lê Minh Quốc và các chuyên gia của PACE, Bộ sách Đạo kinh doanh Việt Nam và thế giới – Bạch Thái Bưởi, khẳng định doanh tài nước Việt, NXB Trẻ, 2005. 4. Bài giảng “Văn hóa kinh doanh” – Trường Đại học kinh tế quốc dân 5. PGS.TS. Phạm Ngọc Thanh: “Những vấn đề lý luận chủ yếu của văn hoá quản lý”, ĐH Quốc Gia Hà Nội,2008. 6. Triet_ly_la_gi/ 7. QU%C3%82N-S%E1%BB%B0-TRUY%E1%BB%80N-TH%E1%BB %90NG-VI%E1%BB%86T-NAM 8. dao/Triet_ly_doanh_nghiep/ 37 38

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTriết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.pdf