Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới

Con người là tài nguyên lớn nhất của mỗi quốc gia. Bởi, một dân tộc có cường thịnh, hùng mạnh hay không phụ thuộc vào sự quy tụ sức người, sức của đại đoàn kết dân tộc. Với việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới nhóm chúng em đã hiểu được vị thế, vai trò to lớn của con người trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong công cuộc xây dựng , đổi mới đất nước .Học tập theo tư tưởng của Bác, là công dân Việt Nam mỗi người trong chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện bản thân, để trở thành những con người hiện đai mà văn minh, đúng với những tư tưởng của Bác nêu ra. Đặc biệt học sinh, sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước hãy ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức để xây dựng đất nước giàu đep, văn minh

doc35 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 16110 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đep và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hóa này đã góp phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bât khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đó là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa- tinh thần Việt Nam. Thứ hai tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái trong hoạn nạn khó khăn là truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc ta. Là người Việt Nam ai cũng thuộc, cũng nhớ những câu tục ngữ như “ Lá lành đùm lá rách” hoặc câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Kế thừa truyền thống ấy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ , Đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải thực hiện bốn chữ “đồng”: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. Thứ ba, dân tộc ta là một dân tộc cần cù, dũng cảm thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất và chiến đấu, là môt dân tộc không ngừng học hỏi điều hay lẽ phải, sẵn sàng mở cửa đón nhận tinh hoa nhân loại. Bên cạnh đó dân ta còn rất lạc quan yêu đời, trong muôn nguy, ngàn khó người lao động vẫn động viên nhau: “ chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Cơ sở của niềm lạc quan đó là niềm tin vào bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý mà Hồ Chí Minh là một hiện thân của truyền thống đó:[1] Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao Muốn nên sự nghiệp lớn Tinh thần phải càng cao b. Tinh hoa văn hóa nhân loại[3] Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây. Tinh hoa văn hóa phương Đông là một trong những cội nguồn quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã đươc tiếp thu một nền quốc học và hán học khá vững vàng. Nho giáo , phât giáo cũng ảnh hưởng lớn tới tư tưởng , lối sống của Người : thương người như thể thương thân, bình đẳng, dân chủ chất phát, giản dị, luôn làm việc thiện cho đời… Tư tưởng về văn hóa phương Tây là một trong những nguồn gốc quan trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh : phần lớn thời gian hoạt động của người ở nước ngoài, ở các nước châu Âu, nền văn hóa, chế độ dân chủ tư sản và tư tưởng cách mạng đã ảnh hưởng sâu sắc tới người. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tiếp thu tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ. Tiếp theo là chủ nghĩa Mac- Lênin: từ một người yêu nước thành môt người cộng sản là kết quả của sự tác động biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại trong con người của Hồ Chí Minh. Nhờ phép biện chứng Người đã tiếp trhu những yếu tố tích cực, kết hợp chặt chẽ những yếu tố ấy để chuyển hóa và tạo lên hệ tư tưởng của mình. Vì vây có thể nói , tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mac- Lênin ở thời đại các dân tộc áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới. Cuối cùng là những nhân tố chủ quan thuộc phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh. Bản thân Hồ Chí Minh là người tự chủ sáng tạo, độc lập trong tư duy. Người đã có một quá trình khổ công học tập, rèn luyện để tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tri thức nhân loại, sớm vươn tới đỉnh cao tri thức nhân loại để tạo nên tri thức và kinh nghiệm của mình. Người là một nhà yêu nước chân chính, một người cộng sản nhiệt tình cách mạng, yêu nước thương dân, yêu thương người cùng khổ, một tinh thần sẵn sàng hi sinh vì độc lập , vì tự do, vì hạnh phúc của đồng bào, vì sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng loài người. 1.2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1.Nội dung nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các quan điểm cơ bản về giải phóng dân tộc, giai cấp và con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người công bộc thật trung thành của nhân dân. Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống toàn diện , bao gồm các nội dung chủ yêu như:[1] Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Viêt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh… Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, đa lĩnh vực và là một hệ thống mở. Các ngành, các giới , các đối tượng có thể lựa chọn, bổ sung những chuyên đề có nội dung phù hợp với nhiệm vụ chính trị của mình. 2.Giá trị tư tưởng hồ chí minh a, Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.[2] -Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại,nó trường tồn, bất diệt,là tài sản vô giá của dân tộc ta. Sở dĩ như vậy vì tư tưởng của người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh hoa văn hoá,tư tưởng vĩnh cửu của loài người trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác-Lênin,mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại. - Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta nhận thức đúng vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc,phát triển xã hội và đảm bảo quyền con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân,chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với thời đại.qua thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng,chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu con người. b, Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới[1] Phản ánh khát vọng thời đại Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại,không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam,mà còn là sản phẩm của thời đại,của nhân loại tiến bộ. Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xâu sắc về lí luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin và từ đó góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh,trong đó có cả những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội,về hoà bình hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc...có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay. Tìm ra giải pháp đấu tranh giải phóng loài người Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn vấn đề làm cách nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa. Người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của dân tộc bị áp bức và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, cần phải thực hiện đại đoàn kết, đại hoà hợp.Đây là một đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ,ngay từ rất sớm.Trên cơ sở nắm vững đặc điểm của thời đại, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và phạm trù cách mạng vô sản. Từ đó Người đã đề ra đường lối chiếm lược,sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước,giải phóng dân tộc . Cổ vũ các dân tộc đáu tranh vì những mục tiêu cao cả Hồ Chí Minh là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại,người thầy thiên tài của cách mạng việt nam, một nhà macxit lỗi lạc,nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỉ xx. Hồ Chí Minh đã làm sống lại nhũng giá trị tinh thần của dân tộc việt nam.Sự nghiệp cứu nước của người đã xoá bỏ tất cả những tủi nhục nô lệ đè nặng lên đầu dân tộc ta trong gần một thế kỉ. CHƯƠNG 2 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI 2.1 CON NGƯỜI LÀ MỘT CHỈNH THỂ.[1] Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu, xuyên suốt toàn bộ nội dung, tư tưởng của Người. Tư tưởng ấy được dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình, Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Đó là một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một hiên triết phương đông. Người xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó.con người luôn hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”. Người nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình"Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.[7] Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong các mối quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; mấy mươi triệu người viêt nam có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi giống lạc hồng. những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v .) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. 2.2 CON NGƯỜI CỤ THỂ, LỊCH SỬ Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một vấn đề có tính khái quát hóa và trừu tượng hóa mà là một vấn đề cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước” và cũng có thể suy rộng ra là những “nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”, “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?" Niềm tin của Bác hướng vào nhân dân. Cuộc chiến đấu chống áp bức sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi".[3] Quan điểm tin vào dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làmngười cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn gắn liền với lịch sử, ý thức nhân dân gắn liền với độc lập dân tộc.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông. 2.3 BẢN CHẤT CON NGƯỜI MANG TÍNH XÃ HỘI.[3] Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất.Trong quá trình lao động, sản xuất ấy con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối quan hệ giữa người với người. Con người là sản phẩm của xã hội, trong quan niệm của Hồ Chí Minh con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh em, họ hàng , bầu bạn, đồng bào , loài người… Nói tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy. CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ CHIẾN LƯỢC “TRỒNG NGƯỜI” 3.1 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI a. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng[6] Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Lòng thương người của Hồ Chí Minh đồng nghĩa với tình yêu thương dành cho các dân tộc bị áp bức. Tình yêu thương đó luôn đi cùng với triết lý hành động vì con người. Đi tìm và khai phá con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc luôn đặt vấn đề tự do song hành với hạnh phúc của dân tộc. Có người Mỹ nói: “Cụ Hồ vừa là Washington, vừa là Lincoln”[3]. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải trải qua nạn đói khủng khiếp do Pháp – Nhật gây ra. Trong tình cảnh khó khăn ấy, Người chủ trương phát động nhân dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Bản thân Người gương mẫu mỗi tháng nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói. Ngay cả khi đi chiến dịch Biên giới, Người không chịu cưỡi ngựa mà cùng đi bộ với các cán bộ, chiến sĩ để ngựa thồ hành lý cho anh em. Khi đi thăm trại tù binh về, Người không còn áo khoác vì Người đã cho một tên tù binh bị rét cóng. Tình yêu thương của Hồ Chí Minh dành cho mọi kiếp người, mọi số phận. Một trong những học trò xuất sắc của Người là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết “Những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách mạng của Bác, cũng như trong đời sống hàng ngày của mình, Hồ Chí Minh luôn đối xử với người có lý, có tình. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Chúa Jesus nói: gặp một người có lỗi mà hối cải thì trên trời vui mừng hơn gặp 99 vị tu hành. Cụ Hồ nói rằng “người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.[8] b. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng,phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.[1] Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy".[3] Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào các động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ. Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi". Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ[7]. 3.2 CHIẾN LƯỢC HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN ĐIỂM “TRỒNG NGƯỜI” a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người: Trong sự nghiệp trồng người của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa vô cùng giản dị mà đúng đắn về “con người”. Theo quan điểm của Người, “người” ở đây có ý nghĩa chính là gia đình, anh, em , bạn bè, cũng có nghĩa là cả dân tộc hay sâu xa hơn là cả thế hệ của loài người khắp thế giới và châu lục. Hồ Chí Minh không thừa nhận con người trừu tượng, con người không bao giờ tồn tại ở một khía cạnh, một chiều hướng mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, đó là bởi vì nó được đặt trong những mối quan hệ khác nhau: - Về quan hệ: Đó là quan hệ vũ trụ - tự nhiên, với tộc loại, cộng đồng, với nhóm xã hội và với chính bản thân mình. - Về vị trí: Đó là vị trí chủ động hay thụ động, quản lí hay bị quản lí, chủ thể hay khách thể... Không chỉ thế còn có một số mối quan hệ quan trọng khác nữa như tự mình làm chủ hay đánh mất chính mình ( Độc lập hay tha hóa ) …. Trong quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh luôn cho rằng yếu tố con người là quan trọng nhất, là trung tâm của mọi sự vật hiện tượng. Chính vì vậy nên mục tiêu cao cả nhất của bác đó chính là giải phóng, đem lại hạnh phúc tự do, rèn luyện và xây dựng con người, Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp ấy. Người luôn đặt niềm tin vào phẩm chất và khả năng tốt đẹp của con người, luôn tạo điều kiện cho con người được phát triển một cách tốt đẹp hơn. Hồ chí minh không chấp nhận bất cứ hình thức lăng mạ, hạ nhục con người mà luôn động viên con người hạn chế mặt xấu và phát triển mặt tốt của mình. Xem xét con người trong các mối quan hệ xă hội - lịch sử cụ thể như nhân ái, tin tưởng vững chắc đối với con người; tất cả vì con người và do con người; thực hiện giải phóng con người bắt đầu từ giải phóng dân tộc; con người vừa là mục tiêu phục vụ, vừa là động lực cách mạng... đó là bản chất và cũng là đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. b. Chức năng của giáo dục – đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài:[4] Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, chiến lược “trồng người” là một vấn đề tối quan trọng, được xếp vào một trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của đất nước thời bấy giờ. Không chỉ thế, giáo dục “trồng người” còn là việc thực hiện di chỉ của cha ông ta, các thế hệ đi trước về “khai trí” được trở thành hiện thực[3]. Chính vì những lẽ đó nên từ khi có chính quyền, người đã chủ động thực hiện nhiệm vụ khai trí cho dân dù cho đất nước có đang gặp rất nhiều khó khăn từ những cuộc chiến khốc liệt. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng “giặc dốt” là vô cùng nguy hiểm, được xếp trên cả giặc ngoại xâm vì vậy nên chiến dịch “chống giặc dốt” đã được phát động một cách mạnh mẽ và được toàn dân hưởng ứng, đó là bước khởi đầu và cũng là nhiệm vụ thường xuyên của sự nghiệp mở mang dân trí của đảng ta. Người chỉ rõ: "Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Từ đó sự nghiệp giáo dục là của toàn thể dân tộc và đối tượng cũng là toàn thể dân tộc. Người đã cần cù mở từng lớp nhỏ, chắt chiu rèn luyện từng con người với cả một tấm lòng của sự nhiệt tình, kiên nhẫn và tràn ngập yêu thương. Ngoài ra người còn luôn luôn lắng nghe tiếp thu và học hỏi nhiều ý kiến của dân, Người viết “Dân rất thông minh, quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều, chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà thôi". Người căn dặn: “Phải học, học ở nhà trường, học trong sách vở, học ở quần chúng nhân dân, không học quần chúng là một sai lầm lớn”. Hồ Chí Minh luôn đề cao việc giáo dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng CNXH. “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Người luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào khả năng giáo dục nước nhà. Người chỉ rõ Tiền đồ của dân tộc chúng ta sẽ ra sao, một phần quan trọng lŕ do sự nghiệp giáo dục trực tiếp quyết định: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên".[8] Đặc biệt Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào các thế hệ thanh thiếu niên và đặt rất nhiều hy vọng vào những người chủ tương lại của đất nước, như người từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Tư tưởng trông người của Hồ Chí minh toàn diện cả về phương pháp lẫn về nội dung. c. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của tính người, nhân cách con người: Trong con người luôn tồn tại cái thiện và cái ác. Hồ chí minh cho rằng “tính người” là do giáo dục và thực tiễn của mỗi người. Người luôn tin vào phẩm chất tốt đẹp luôn khuyến khích nâng niu gìn giữ cái tốt và loại bỏ dần cái xấu tôn lên mặt thiện của con người, người đã từng nói rằng “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”[8]. Nếu người xưa coi tốt xấu là do bản chất trời sinh của mỗi con người thì Hồ Chí Minh lại cho rằng hiền hay dữ “phần nhiều do giáo dục mà nên”. d. Giáo dục đạo đức cùng tài năng: Hồ Chí Minh bắt đầu từ việc xây dựng một nền tảng đạo đức vững chắc trong sự nghiệp “trồng người”. Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” chính vì vậy nên tất cả mọi người, không trừ một ai phải tích cực thường xuyên trao dồi đạo đức cũng như tư tưởng cách mạng cho thật bền vững. Người rất coi trọng đạo đức nhưng cũng rất mực coi trọng tài năng, người luôn giang tay chào đón và trọng dụng những người có tài năng. Người đòi hỏi người cán bộ phải tinh thông công việc của mình, phải biết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bởi vì nếu như thiếu tính thành thạo trong công việc thì sẽ gây ra hậu quả khôn lường, nhất là những hoạt động liên quan đến nhà nước. Cả hai yếu tố giáo dục đạo đức và tài năng đều được người coi trọng. Vì vậy nên để phát triển toàn diện, người việt nam cần phải: Thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tinh thần nhân ái, khoan dung. Chú trọng phát triển đồng đều cả tri thức, tình cảm, ý chí. Phải có sự thống nhất giữa khối óc, trái tim và đôi bàn tay. Người dạy: “Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người… Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. e. Bồi dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau: Người đã từng viết trong di chúc của mình “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trong và rất cần thiết”.Trong việc giáo dục, bồi dưỡng những người kế tục ý tưởng của cách mạng, phải quan tâm đến đức và tài là điều vô cùng quan trọng. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và căn dặn: “Đảng và chính quyền cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Điều này thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh trong công cuộc lựa chọn rèn luyện các nhân tố của con người. Người rất quan tâm “chiêu hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” và luôn nhắc nhở phải “khéo dùng cán bộ”, phải “hiểu và đánh giá đúng cán bộ”, “có gan cất nhắc cán bộ”, muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Trong cách sử dụng con người trong bộ máy nhà nước, người luôn cân nhắc một cách hợp lý để đạt hiệu quả tốt nhất, không lãng phí nhân tài. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong chiến lược “trồng người” chính là sự kết tinh những tinh hoa cao đẹp của truyền thống dân tộc, nhân loại và tư tưởng của thời đại: Tư tưởng nhân đạo cộng sản. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, những tác động tiêu cực đang xói mòn đạo đức, đời sống văn hóa của nhân dân ta. Song, Đảng ta nhất quán cho rằng: Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và "phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước... Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta”[8] CHƯƠNG 4 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI 4.1 THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ LỐI SỐNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI DÂN TA HIỆN NAY. a. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong chiến lược xây dựng con người mới của Đảng: Trong chiến lược xây dựng con người của Đảng ta, mà then chốt là vấn đề giáo dục-đào tạo, Đảng ta đã giải quyết một số vấn đề mà tại hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ường khoá IX Đảng ta đã khẳng định: Qua 5 năm thực hiện nghị quyết, nền giáo dục nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở ở một số tỉnh, thành phố trình độ dân trí và chất lượng nguồn lực con người được nâng lên, chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và được toàn xã hội quan tâm. Song bên cạnh những thành tựu đạt được, nền giáo dục nước ta còn đứng trước nhiền khó khăn, yếu kém, nhất là về chất lượng và quản lý nhà nước về giáo dục. Cơ cấu giáo dục còn bất hợp lý, mất cân đối, nhiều nhu cầu nhân lực của nền kinh tế chưa được đáp ứng (kết luận của hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương khoá VIII...Tạp chí cộng sản số 25, 2002). Tuy nhiên, sau nhiều năm phát triển giáo dục-đào tạo ở nước ta, như nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã chỉ rõ, chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết hội nghị đã chỉ ra 5 yếu kém (về quy mô cơ cấu, về đội ngũ giáo viên, về chất lượng và hiệu quả, về kỷ cương trong giáo dục, về thực hiện công bằng xã hội) của ngành giáo dục và đào tạo của nước ta. Số liện thống kê xác nhận, chúng ta có hơn 10.000 giáo sư, PGS, Tiến sĩ, Thạc sĩ chiếm 2,3% tổng số lao động xã hội. Trong đó lĩnh vực khoa học công nghệ chiếm 15,4%, nhưng 67,5% của tổng số cán bộ kỹ thuật ấy lại làm việc trong lĩnh vực phi vật chất, còn sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 32,7% (cán bộ khoa học - kỹ thuật cao trực tiếp làm việc trong các lĩnh vực sản xuất của Thái Lan là 58,8%, Hàn Quốc 48%, Nhật 64,4%). Trong khi cơ cấu và phân bổ cán bộ khoa học và công nghệ chưa cân đối, còn nhiều bất hợp lý, thì cán bộ có trình độ cao, giỏi chỉ lại tập trung làm việc chủ yếu ở cấc cơ quan trung ương. Rõ ràng ở cơ sở và các đơn vị sản xuất kinh doanh lại đang rất thiếu cán bộ có trình độ cao. Bộ giáo dục và đào tạo nhận định: để có mức tăng trưởng 9-10% GDP thì tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật phải đạt từ 4-5%/năm. Trên thực tế, mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực nhưng đào tạo chuyên gia trình độ cao mới chỉ đạt từ 2-3%/năm. Về văn hoá, cơ bản chúng ta đã phổ cập được ở diện rộng, nhưng trình độ chung của người lao động vẫn còn ở mức thấp, lao động có trình độ cấp 1 chiếm 12,72%, cấp 2 có hơn 40%, cấp 3 vào khoảng 30%, trung học chuyên nghiệp 6,84%, đại học 11%.[4] b.Thực trạng đạo đức của cán bộ, Đảng viên và thanh niên Việt Nam hiện nay: Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà nước ta đang tiến hành hiện nay đang tồn tại song song hai vấn đề về lối sống đạo đức của con người mà tiêu biểu là đội ngũ cán bộ, Đảng viên - những người chủ trì của đất nước, đó là hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực được thể hiện ở chỗ vẫn có nhiều người vẫn duy trỳ và phát huy được phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, sống và làm việc theo lý tưởng của Đảng, có lối sống văn minh, ý chí phấn đấu xây dựng nước nhà giàu mạnh và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Bên cạnh đó tồn tại mặt trái là lối sống tiêu cực về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã nhận định: "Tình trạng cán bộ thoái hoá, biến chất chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Trong đội ngũ cán bộ vẫn tồn tại tình trạng trì truệ, thiếu trách nhiệm và tính chiến đấu chưa cao". Biểu hiện của tình trạng thoái hoá khá phức tạp và đa dạng như bệnh chuyên quyền độ đoán, không tôn trọng dân chủ, bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời nhân dân, bệnh xu nịnh và tâm lý cầu an hưởng lạc, không giám đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống cái sai, chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng; chủ nghĩa địa phương hẹp hòi; lối sống xa hoa, đua đòi, thậm chí mê tín, dị đoan...Không chỉ có vậy mà còn có: ''biểu hiện của tư tưởng sùng ngoại, tôn sùng Chủ Nghĩa Tư Bản, chạy theo lối sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt đối hoá giá trị vật chất, tiền bạc ''văn hoá'' lai căng, tự ti dân tộc, thậm chí phai nhạt ý thức giai cấp, niềm tin và lý tưởng cộng sản...đã xuất hiện một cách báo động". Trong tất cả những vấn nạn đó phải đặc biệt quan tâm đến nạn tham nhũng, có thể coi tham nhũng đang là quốc nạn, là vấn đề chính trị ở nước ta. Trên đây là một số tồn đọng đang nổi cộm trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên - những người chủ trì trong công cuộc xây dựng đất nước ta trong thời kỳ hiện nay, và một lực lượng cũng cần nhắc đến đó là giới trẻ, lớp thanh niên - những người chủ tương lai của đất nước. Bên cạnh những thanh niên thông minh, sáng tạo và nghị lực, biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để vượt qua những thử thách của cuộc sống xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, thì vẫn tồn tại không ít lớp thanh niên có thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm, bi quan, chán nản, trông chờ ỷ lại hay có những hành động mang tính cực đoan, chạy theo lợi ích cá nhân, cơ hội, vụ lợi, chạy theo cái xấu, đua đòi, giả dối,...Thậm trí trong lối sống thanh niên hiện nay đang tồn tại lối sống văn hoá thứ cấp: nhu cầu, thị hiếu, năng lực, văn hoá của thanh niên chưa định hình, đang có những biến đổi, biến động sâu sắc, phong phú và phức tạp. 4.2 NGƯỜI VIỆT NAM VỚI VĂN HÓA ỨNG XỬ CỘNG ĐỒNG Nói đến văn hóa người ta thường tìm về văn hóa truyền thống. Tùy quốc gia,dân tộc,vùng miền…mà hình thành những nền văn hóa khác nhau,trong đó có văn hóa ứng xử. Văn hóa là giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc, trình độ cao trong sinh hoạt xã hội,là biểu hiện của văn minh. Còn văn hóa ứng xử thể hiện giá trị nhân văn, phản ánh “trình độ người” trong quan hệ cộng đồng. Văn hóa ứng xử là thái độ, cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hằng ngày với các mối quan hệ khác nhau được thể hiện ở nhiều khía cạnh, trước hết là văn hóa giao tiếp trong cuộc sống thường ngày, văn hóa ứng xử với các phương tiện giao thông,văn hóa ứng xử với môi trường…Vì vậy, việc ứng xử có văn hóa không chỉ tạo nét đẹp cho từng cá nhân mà còn phản ánh nền văn hóa cho một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc. Bên cạnh những mặt tích cực, còn không ít những mặt hạn chế trong văn hóa ứng xử ngoài cộng đồng ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Đó là một trong những hạn chế lớn trong quá trình xây dựng con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những năm gần đây , chúng ta thường xuyên được nghe tới cụm từ: “Văn hóa xếp hàng” , được xem những video về những cảnh người dân Việt Nam xếp hàng trên truyền hình. Đó là những thông điệp gửi tới mỗi chúng ta hãy xếp hàng, xếp hàng thể hiện nhân cách bản thân, văn minh của dân tộc. Hiện nay dường như từ siêu thị, trường học, bệnh viện, công sở ở đâu tôi cũng thấy cảnh chen lấn, bát nháo, mất trật tự. Mọi người đa phần không tự giác xếp hàng, chỉ cần một người chen lấn là tất cả mọi người cùng chen lấn, không ai chịu nhường ai. Thực ra, văn hóa xếp hàng là điều nên thực hiện vì xếp hàng thể hiện sự trật tự và khoa học,văn minh. Khi có trật tự và khoa học trước sau, mọi việc mới suôn sẻ và trôi chảy. Trong hành vi xếp hàng cũng có một số đối tượng cần ưu tiên, chẳng hạn như các cụ già, trẻ em, phụ nữ mang thai nhưng đáng buồn là có những người chưa già cũng tự nhận mình là già để nhận được sự ưu tiên. Mỗi người Việt Nam nên tự giác xếp hàng ở những nơi công cộng, nó thể hiện sự bình đẳng , văn minh trong hành vi ứng xử xã hội. Để cải thiện tình trạng chen lấn, bát nháo nơi công cộng, tôi nghĩ việc các cơ quan, ngân hàng, sở điện lực, phòng khám bệnh áp dụng hình thức bấm số tự động rất hay. Ai đến trước sẽ được phục vụ trước. Giáo dục nếp văn hóa xếp hàng ngay trong nhà trường cũng là một cách thức lâu dài để rèn luyện thói quen xếp hàng cho thế hệ trẻ. Bên cạnh “ Văn hóa xếp hàng” thì việc xả rác bừa bãi đã và đang là một trong những vấn đề nóng hiện nay. Ở nhiều khu vực người dân gần như sống chung với rác thải. Đôi khi đi trên đường ta thường bắt gặp những cảnh tượng người ta vứt rác nhẹ nhàng như không có chuyện gì xảy ra.Đường phố bỗng dưng trở thành cái bãi rác công cộng. Môi trường ô nhiễm chính người dân là người chịu hậu quả. Mặc dù các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của người dân đã được tổ chức rất nhiều, tuy nhiên một bộ phận không nhỏ vẫn dửng dưng, ý thức vô cùng kém. Để hạn chế tình trạng xả rác bừa bãi cần phải tiếp tục tuyên truyền, đưa hoạt động này vào trong nhà trường để nâng cao ý thức cho học sinh ngay từ khi còn nhỏ . Và hơn hết đó chính là ý thức của mỗi người,nếu mỗi người đều có ý thức tốt thì chúng ta sẽ có một môi trường sống sạch đẹp. Trên đây là một số ví dụ thực tiễn thể hiện trực tiếp ý thức của con người. Quá trình xây dựng con người mới theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình lâu dài, gắn liền với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước . Trải qua thời gian thì con người cũng đang tích cực hoàn thiện mình , tuy nhiên vẫn còn một bộ phận người dân còn mang những tư tưởng trì trệ, ý thức cá nhân. Để góp phần xây dựng con người mới theo đúng chuẩn mực mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra thì cần phải khắc phục được những hạn chế đó. 4.3 SINH VIÊN HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Hoà chung với những khát vọng và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, lớp thanh niên sinh viên ngày nay cũng có những trăn trở, suy nghĩ riêng với mong muốn đóng góp ngày một thiết thực, hiệu quả hơn đối với sự nghiệp chung của Tổ quốc. Ngày càng có nhiều tầng lớp, lực lượng thanh niên trưởng thành trong thời đại mới, có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng đất nước, đưa đất nước ta dần thích ứng với những điều kiện mà quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra. Cũng chính quá trình đó, những đòi hỏi và kỳ vọng từ xã hội đối với thế hệ trẻ cũng đang được đặt ra, điều đó cũng cho thấy thế hệ trẻ cần tiếp tục xác định thêm những nhiệm vụ mới cho chính bản thân mình. Từ góc độ là những sinh viên,đoàn viên của nhiều trường đại học,chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và nhân lên những giá trị nhân văn của nhân loại . Đó là thanh niên sinh viên có thể có những hành động cụ thể nào thể hiện cho tinh thần học tập Bác Hồ? những hành động đó được tổ chức như thế nào? Thứ nhất, luôn xác định cho thế hệ trẻ biết ngoài 3 nguy cơ đang đặt ra cho đất nước ta về xu hướng chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu về kinh tế và diễn biến hoà bình cần quan tâm đến một nguy cơ nữa: nguy cơ của chính giới trẻ không nhận thức được những nguy cơ trên. Cần tạo những kênh thông tin chính thức cho thế hệ trẻ về những vấn đề đang đặt ra cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, những kênh thông tin đó cần cởi mở, nhẹ nhàng, kịp thời và thường xuyên hơn. Thứ hai, thế hệ trẻ là nguồn nhân lực quan trọng cho nước nhà trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhiệm vụ mới đang đặt ra: làm sao để có thể phát huy hơn nữa năng lực, trí tuệ thanh niên sinh viên Việt Nam ngày hôm nay với tư cách lực lượng nòng cốt cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những chủ thể đại diện cho tương lai của dân tộc thông qua những hành động cụ thể phù hợp với đặc điểm của lực lượng xã hội này. Trong những năm qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào thanh niên sinh viên sôi nổi và hiệu quả cao ở khắp mọi miền Tổ quốc. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào và tin tưởng về những kết quả đạt được từ những phong trào đó. Đây thực sự là một cơ sở thuận lợi để khơi dậy hơn nữa tinh thần chủ động và sáng tạo tham gia hoạt động đóng góp xây dựng của thanh niên sinh viên. Thứ ba, theo đúng tinh thần hành động giản dị và thiết thực của Hồ Chủ tịch, khi phát động tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trong nhiều chủ đề chúng ta có thể khai thác, theo tôi, chúng ta cần lưu ý đến khía cạnh văn hoá, tri thức thanh niên sinh viên. Cụ thể, đó là việc hoàn thiện mình từ trong chính sinh hoạt, học tập ngày thường. Bên cạnh việc tuyên truyền, học tập những bài học lý luận, cần chú trọng hơn nữa đến việc khơi dậy ý thức sống và hành động có văn hóa, học tập tự giác, thái độ suy nghĩ độc lập tự chủ, trí sáng tạo trong thanh niên sinh viên. Nói một cách giản dị, tinh thần tự cường dân tộc của thanh niên sinh viên ngày nay không chỉ là sự tiếp nối ý chí, quyết tâm của nhiều lớp ông cha đi trước mà, trong bối cảnh mới ngày nay, còn được mở rộng ra ở tinh thần năng động, óc tư duy sáng tạo độc lập, thái độ tự tin, đàng hoàng của các bạn trẻ sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay. Để mãi mãi cho biểu tượng độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội trường tồn, thế hệ trẻ phải biết tự trang bị cho mình có thêm những tiêu chí của thanh niên thời đại mới, có tri thức, năng lực và đặc biệt hơn cần có cái tôi xã hội, mình vì mọi người chứ không thuần tuý chỉ vì sự phát triển đơn thuần của bản thân.[5] Thứ tư, nói đến việc học tập lý tưởng nêu cao độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh, tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nữa đấy là một lý tưởng chung của toàn thể dân tộc và như vậy, nỗ lực đóng góp của thanh niên sinh viên cần phải được nhìn nhận trong phạm trù ấy. Điều đó có nghĩa là các hoạt động của thanh niên sinh viên phải nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với những nhiệm vụ chung của toàn thể dân tộc, đặt trong quỹ đạo định hướng và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Xét ở cấp độ vi mô, tôi xin đề cập đến hai chiều cạnh. Trước hết, các hoạt động của thanh niên sinh viên phải gắn với lợi ích của cộng đồng. Và tiếp theo, các hoạt động đó chỉ thực sự có hiệu quả khi nhận được sự tham vấn, chỉ đạo sát sao của cơ quan đoàn hội cấp trên, lãnh đạo Đảng và chính quyền cơ sở. Điều này đã được minh chứng rất rõ ràng trong thực tiễn công tác. Trên thực tế, những phong trào, hoạt động thành công đều có một phần lớn nhờ vào sự ủng hộ, hỗ trợ và tạo điều kiện của tổ chức Đảng, chính quyền. Thế hệ trẻ cần tạo nên một cách nhìn mới từ xã hội, hãy làm cho xã hội tin tưởng hơn và lạc quan hơn về bản thân mình. Thứ năm, và là vấn đề cuối cùng mà tham luận này muốn đặt ra: nhiều người mải mê tìm kiếm cái cao siêu, to tát ở con người Bác nhưng không hiểu rằng cái làm nên sự vĩ đại của Hồ Chủ Tịch chính lại là sự giản dị của Người. Việc thực hiện theo lời Bác dạy cũng vậy, chúng ta cần kiến tạo các hoạt động thật sự gắn liền với hoạt động của thanh niên, hãy tạo sức hút đối với thanh niên từ chính mối quan tâm của thanh niên; hãy tạo cho thanh niên môi trường hoạt động bằng chính năng lực của họ; từng bước trang bị cho thanh niên không chỉ về kỹ năng, trình độ chuyên môn mà hãy cho họ niềm tin và sự kỳ vọng… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi người, đó chính là con đường để đi tới đạo đức cách mạng: - Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức - Xây đi đôi với chống - Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời Nhiệm vụ chính trị của thanh niên Việt Nam là: Rèn luyện về lý tưởng, đạo đức cách mạng, về trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, về thể chất, xung kích đi đầu tham gia phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ tổ quốc. Thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quốc tế hoá và hội nhập là người có lý tưởng, đạo đức cách mạng, có lối sống văn hoá, có ý chí tự tôn, tự cường dân tộc, có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, có cái trách nhiệm với cộng đồng, xã hội trong từng cá nhân. C. KẾT LUẬN CỦA NHÓM Con người là tài nguyên lớn nhất của mỗi quốc gia. Bởi, một dân tộc có cường thịnh, hùng mạnh hay không phụ thuộc vào sự quy tụ sức người, sức của đại đoàn kết dân tộc. Với việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới nhóm chúng em đã hiểu được vị thế, vai trò to lớn của con người trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong công cuộc xây dựng , đổi mới đất nước….Học tập theo tư tưởng của Bác, là công dân Việt Nam mỗi người trong chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện bản thân, để trở thành những con người hiện đai mà văn minh, đúng với những tư tưởng của Bác nêu ra. Đặc biệt học sinh, sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước hãy ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức để xây dựng đất nước giàu đep, văn minh. Không bao giờ là muộn bởi: Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên Với không gian nhỏ hẹp của một đề tài tiểu luận, nhóm chúng em đã cố gắng chỉ ra những nét chung nhất về những tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, những mặt đã làm tốt và chưa tốt của người dân. Đồng thời đưa ra một số phương hướng giải quyết các vấn đề này. Tuy đã cố gắng tìm tòi nghiên cứu, song chắc chắn tiểu luận còn rất nhiều thiếu sót, chúng em rất mong được giáo viên hướng dẫn chỉ bảo thêm. Chúng em xin cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình “ Tư tưởng Hồ Chí Minh” năm XB 2009, NXB đại học Công nghiệp tp HCM 2. Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh” năm XB 2011, NXB Chính trị quốc gia. 3. “Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh” năm XB 2006, NXB Chính trị quốc gia. 4. Kết luận của hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương khoá VIII...Tạp chí cộng sản số 25, 2002). 5. “Tư tưởng về con người và chiến lược “trồng người””, Nguyễn Thái Sơn, 03/03/2005, Diễn đàn đại học Hà Nội. 6. GS. Trần Văn Giàu, “Vĩ đại một con người”năm XB 2008, Nxb Chính trị quốc gia, HN 7. Hồ Chí Minh tuyển tập- NXB Chính trị quốc gia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctu_tuong_ho_chi_minh_ve_con_nguoi_moi__6919.doc
Luận văn liên quan