Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương, người Việt phân biệt thức ăn
theo năm mức âm- dương ứng với Ngũ hành: lạnh (âm nhiều- Thủy), nóng (dương
nhiều- Hỏa), ấm (dương ít- Mộc), mát (âm ít- Kim), trung tính (Thổ). Theo đó
tuân thủ nghiêm ngặt luật âm- dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến.
Để tạo sự quân bình âm dương trong cơ thể, ngoài việc ăn các món chế biến có
tính đến sự quân bình âm dương, người Việt còn sử dụng thức ăn như những vị
thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Người bị ốm do quá
âm cần ăn đồ dương và ngược lại, người bị ốm do quá dương cấn ăn đồ âm.
Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường, người Việt có
tập quán ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa. Việt Nam xứ nóng nên thức ăn
phần lớn đều thuộc loại trung tính, âm. Mùa hè nóng, người Việt thích ăn rau quả,
tôm cá những thức ăn âm tính, chế biến : luộc, nấu canh Mùa đông lạnh, tỉnh ở
phía Bắc, thích ăn thịt mỡ là những thức ăn dương tính, chế biến khô: xào, rán,
kho
27 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3678 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài : Tư tưởng triết học của âm dương gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt (2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện: Thạch Tố Kim
Lão Tử (khoảng thế kỷ V - VI trước CN) cũng đề cập đến khái niệm Âm-Dương. Ông
nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm và bồng dương”, ông không
những chỉ tìm hiểu quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà còn muốn khẳng định
trong mỗi sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là Âm-Dương.
Nói về nguồn gốc của âm dương và triết lí âm dương, theo rất nhiều người như Khổng
An Quốc và Lưu Hâm ( nhà Hán) cho rằng Phục Hy là người có công sáng tạo. Tương
truyền, Phục Hy (2852 trước CN) đi chơi ở sông Hoàng Hà nhìn thấy bức đồ bình trên
lưng con Long Mã (con vật tưởng tượng mình ngựa đầu rồng) mà hiểu được lẽ biến hóa
của vũ trụ, Phục Hy mới đem lẽ đó vạch thành nét làm ra Hà Đồ.
Lại có một số tài liệu cho rằng đó là công lao của “ âm dương gia”, một giáo phái của
Trung Quốc.
Nhưng Phục Hy chỉ là nhân vật huyền thoại, không có thực còn âm dương gia chỉ có
công áp dụng âm dương để giải thích địa lí- lịch sử, và phái này hình thành vào thế kỉ thứ
ba nên không thể sáng tạo âm dương. Vì vậy cả hai giả thuyết này đều không có cơ sở
khoa học.
Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận “ khái
niệm âm dương có nguồn gốc phương Nam” ( “ phương nam” ở đây bao gồm vùng nam
Trung Hoa từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam). Trong quá trình phát triển,
nước Trung Hoa đã trãi qua hai thời kì: thời kì “ Đông tiến”, và thời kì “ Nam tiến”.
Trong quá trình “ Nam tiến”, người Hán đã tiếp thu triết lý âm dương của các cư dân
phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người
du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động
trở lại cư dân phương nam.
Cư dân phương nam sinh sống bằng nông nghiệp nên quan tâm số một của họ là sự sinh
sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và
mẹ, nữ và nam; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời - "đất sinh, trời
dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha", "đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con
đường dẫn đến triết lý âm dương. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp "mẹ-cha" và
"đất-trời" này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặp đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình,
các cặp này lại là cơ sở để suy ra vô số các cặp mới.
2. Trừu tượng hóa âm dương
Từ việc khái niệm âm dương được dùng để chỉ những cặp đối lập cụ thể ở trên, người
xưa tiến thêm một bước là dùng nó để chỉ những cặp đối lập trừu tượng hơn ví dụ như
"lạnh-nóng", rồi cặp "lạnh-nóng" lại là cơ sở để suy tiếp như về phương hướng: "phương
bắc" lạnh nên thuộc âm, "phương nam" nóng nên thuộc dương; về thời tiết: "mùa đông"
lạnh nên thuộc âm, "mùa hè" nóng nên thuộc dương; về thời gian: "ban đêm" lạnh nên
thuộc âm, "ban ngày" nóng nên thuộc dương. Nếu tiếp tục suy diễn nữa thì: đêm thì tối
Tiểu luận Triết học
5
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
nên "tối" thuộc âm, ngày thì sáng nên "sáng" thuộc dương; tối có màu đen nên "màu
đen" thuộc âm, ngày sáng thì nắng "đỏ" nên "màu đỏ" thuộc dương.
Từ cặp "mẹ-cha" (nữ-nam, cái-đực) có thể suy ra rằng:
Giống cái có khả năng mang thai (tuy một mà hai), nên về loại số, thì số "chẵn"
thuộc âm; giống đực không có khả năng ấy, một là một, nên số "lẻ" thuộc dương.
Điều này giải thích tại sao quẻ dương là một vạch dài (-), còn quẻ âm là hai vạch
ngắn (--).
Về hình khối thì khối vuông ổn định, tĩnh, tỷ lệ giữa cạnh và chu vi là 1:4, số 4 là
số chẵn, chính vì thế mà khối vuông thuộc âm; hình cầu không ổn định, động, tỷ lệ
giữa đường kính và chu vi là 1:3 (số π), số 3 là số lẻ, chính vì vậy mà khối cầu
thuộc dương.
Tuy vậy, các cặp đối lập chưa phải là nội dung chính của triết lý âm dương. Triết lý âm
dương không phải là triết lý về các cặp đối lập. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều có các
phạm trù đối lập nhau, ngôn ngữ của tất cả các dân tộc đều có từ trái nghĩa. Điều quan
trọng của triết lý âm dương chính ở bản chất và quan hệ của hai khái niệm âm dương. Đó
chính là điều khác biệt triết lý âm dương với các triết lý khác.
3. Các quy luật của triết lý âm và dương
Tất cả các đặc điểm của triết lý âm dương đều tuân theo hai quy luật cơ bản. Đó là quy
luật về bản chất của các thành tố và quy luật về quan hệ giữa các thành tố.
3.1. Quy luật về bản chất của các thành tố của triết lý âm dương là:
Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương
Trong âm có dương, trong dương có âm.
Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự
so sánh với một vật khác. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm nhưng
càng đi sâu xuống lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng thuộc
dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa lạnh thuộc
âm. Trong mỗi người đều tiềm ẩn chất khác giới, nên giới tính có thể biến đổi bằng cơ
chế thức ăn hoặc giải phẫu. Chính vì thế mà việc xác định tính âm dương của các cặp đối
lập có sẵn thường dễ dàng. Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có hai hệ
quả để giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:
Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết phải xác
định được đối tượng so sánh.
Tiểu luận Triết học
6
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Ví dụ: Nam so với nữ thì mạnh mẽ (dương) nhưng so với hùm beo thì lại yếu đuối
(âm), màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so với màu đen thì là dương… Ta
có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví dụ, về màu sắc thì đi từ âm
đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất "đen" sinh ra mầm lá "trắng", lớn
lên thì chuyển thành "xanh", lâu dần chuyển thành lá "vàng" và cuối cùng thành
"đỏ"). Tuy nhiên không phải xác định được đối tượng rồi là xác định được tính
chất âm dương của chúng.
Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì sau khi xác định
được đối tượng so sánh còn phải xác định được cơ sở so sánh.
Đối với cùng cùng một cặp hai vật, các cơ sở so sánh khác nhau sẽ cho ra những
kết quả khác nhau. Ví dụ: nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là
dương, nhưng về độ linh động thì nước là dương, đất là âm; nữ so với nam, xét về
giới tính là âm, nhưng xét về tính cách có thể là dương…
3.2. Quy luật về quan hệ giữa các thành tố của triết lý âm dương là:
Âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau.
Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến cùng
cực thì chuyển thành âm.
Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,... luôn chuyển hóa cho nhau. Cây
màu xanh từ đất "đen", sau khi lớn chín "vàng" rồi hóa "đỏ" và cuối cùng lại rụng xuống
và thối rữa để trở lại màu "đen" của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun nóng đến cùng
cực thì bốc hơi lên trời (thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh đến cùng cực thì
nó sẽ thành nước đá (thành dương).
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại yếu tố (lực lượng) mà còn phản ánh hai loại
khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau xoắn vào nhau; trong âm có
dương và trong dương có âm. Đó cũng là sự thống nhất giữa cái động và cái tĩnh; trong
động có tĩnh, trong tĩnh có động… nghĩa là trong âm và dương đều có tĩnh và có động,
chỉ khác ở chỗ, bản tính của âm thì hiếu tĩnh, còn bản tính của dương thì hiếu động…
Do thống nhất, giao cảm với nhau mà âm và dương có động, mà động thì sinh ra biến;
biến tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cữu được. Chính sự thống
nhất và tác động của hai lực lượng , khuynh hướng đối lập âm và dương tạo ra sự sinh
thành biến hóa của vạn vật; khi vạn vật biến hóa tới cùng thì quay trở lại cái ban đầu.
Biểu tượng Thái cực (hình thành trong đạo giáo vào đầu công nguyên) phản ánh đầy đủ
hai qui luật về bản chất hòa quyện và quan hệ chuyển hóa của triết lí âm dương;- vòng
tròn khép kín: trong đó được chia thành nửa đen nửa trắng, âm màu đen nặng hướng
Tiểu luận Triết học
7
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
xuống, dương màu sáng nhẹ nổi lên, trong nửa đen có chấm trắng, trong nửa trắng có
chấm đen; phần trắng là dương, phần đen là âm, chúng nói lên âm và dương thống nhất:
trong âm có dương và trong dương có âm, trong thái âm có thiếu dương, trong thái dương
có thiếu âm. Thiếu dương trong thái âm phát triển đến cùng thì có sự chuyển hóa thành
thiếu âm trong thái dương và ngược lai. Cứ vậy vạn vật thay đổi, biến hóa không ngừng.
Biểu tượng Thái cực
4. So sánh với các quy luật của lô-gíc học
Trong lô-gíc học cũng có hai quy luật tương đương với hai quy luật ở trên. Đó là quy luật
về bản chất của thành tố - luật đồng nhất, và quy luật về quan hệ giữa các thành tố - luật
lý do đầy đủ mà hệ quả của nó là luật nhân quả.
Luật đồng nhất (bản chất A = A) chỉ đúng khi sự vật và hiện tượng đứng yên, mà điều
này thì không biện chứng vì sự vật và hiện tượng luôn vận động (đổi mới), mà nếu vận
động thì nó không thể đồng nhất với chính nó được nữa. Trong khi đó, quy luật về bản
chất của triết lý âm dương là trong âm có dương, trong dương có âm, tức là trong A đã có
B rồi.
Luật lý do đầy đủ xác lập nên luật nhân quả cũng chỉ xem xét sự vật và hiện tượng trong
sự cô lập, không liên hệ với môi trường xung quanh, trong khi trên thực tế, sự vật và hiện
tượng tồn tại trong không gian và quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Cái này là
nhân của cái kia, nhưng nó lại là quả của cái khác. Không có nhân tuyệt đố và quả tuyệt
đối rất phù hợp với luật chuyển hóa âm dương bất tận, vô thủy (không có bắt đầu) và vô
chung (không có kết thúc).
Hai quy luật của lôgíc học là sản phẩm của lối tư duy phân tích, chú trọng đến các yếu tố
biệt lập của văn hóa du mục; trong khi quy luật của triết lý âm dương là điển hình của tư
duy tổng hợp, chú trọng đến các quan hệ của văn hóa nông nghiệp.
5. Hai hướng phát triển của triết lý âm dương
Tiểu luận Triết học
8
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Triết lý âm dương là cơ sở để xây dựng lên hai hệ thống triết lý khác đó là hệ thống "tam
tài, ngũ hành" và "tứ tượng, bát quái".
Nếu so sánh phương Đông với phương Tây thì phương Tây chú trọng đến tư duy phân
tích, siêu hình còn phương Đông chú trọng đến tư duy tổng hợp, biện chứng. Nhưng nếu
xét riêng ở phương Đông thì nếu đi từ bắc xuống nam ta sẽ thấy phía bắc Trung Quốc
nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về tổng hợp hơn phân
tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với các dân tộc Đông Nam
Á, do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương sơ khai mang tính tổng hợp.
Trong khi đó khối Bách Việt đã phát triển và hoàn thiện nó. Tổ tiên người Hán cũng vậy,
sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân
tích của họ mạnh hơn năng lực phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương
ban đầu, người Bách Việt và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau.
Ở phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình vũ
trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm (ngũ hành). Chính
vì thế mà Lão Tử, một nhà triết học của nước Sở (thuộc phương Nam) lại cho rằng: "nhất
sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của
phương Nam. Trong rất nhiều thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9
xuất hiện rất nhiều. Ví dụ: "ba mặt một lời"; "ba vợ, bảy nàng hầu"; "tam sao, thất bản" ...
Ở phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là lưỡng
nghi, và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng
thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy Kinh Dịch trình bày sự hình thành vũ trụ như sau:
"lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng" (hai sinh
bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số chẵn; ví dụ, "tứ đại", "tứ mã", "tứ
trụ",... Lối tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho ngũ hành - điều này cho thấy,
quan niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" chỉ là sản phẩm của người Hán có
lẽ là một sai lầm.
II. TAM TÀI
Tam tài là một khái niệm bộ ba “ ba phép” : Thiên- Địa- Nhân. Đây có lẻ là một tên gọi
xuất hiện về sau dùng để gọi sự vận dụng cụ thể một quan niệm triết lí cổ xưa về cấu trúc
không gian của vũ trụ dưới dạng một mô hình ba yếu tố.
Với lối tư duy tổng hợp và biện chứng quen thuộc, người xưa sớm nhận ra các cặp âm
dương tưởng chừng riêng rẽ như trời- đất, trời- người, đất- người thực ra có mối liên hệ
chặc chẽ với nhau, tạo nên một loại mô hình hệ thống gổm ba thành tố; đây có lẻ là con
đường dẫn đến tam tài từ triết lí âm dương. Trong tam tài “ Trời- Đất- Người” , Trời
dương, Đất âm, Người ở giữa.
Tiểu luận Triết học
9
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
III. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NGŨ HÀNH
1. Học thuyết Ngũ Hành qua các thời kì ở Trung Hoa
Nếu như sự vận động không ngừng của vũ trụ đã hướng con người tới những nhận thức
sơ khai trong việc cắt nghĩa quá trình phát sinh của vũ trụ và hình thành thuyết âm
dương, thì ý tưởng tìm hiểu bản thể thế giới, bản thể các hiện tượng trong vũ trụ đã giúp
hình thành thuyết ngũ hành. Thuyết ngũ hành có thể hiểu đó là thuyết biểu thị quy luật
vận động của thế giới của vũ trụ, nó cụ thể hóa và bổ sung cho thuyết âm dương thêm
hoàn bị.
Sự đề cập đầu tiên về ngũ hành được thấy trong tác phẩm "Kinh thư" ở chương "Hồng
phạm. Trong Cửu trù "Hồng Phạm" thì ngũ hành về mặt tự nhiên được hình thành bằng
những tên của năm loại vật chất cụ thể (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và kèm theo tính chất
của các loại vật chất đó, năm loại vật chất này không thể thiếu được đối với đời sống con
người. "Hồng phạm" đã ảnh hưởng rất lớn đến triết học của thời đại phong bến sau này.
Các nhà duy vật và duy tâm từ những lập trường và giác độ khác nhau mà rút ra từ "Hồng
phạm" những tư tưởng phù hợp với mình. Chính "Hồng phạm" và "Kinh dịch" đã tạo nên
cái nền của vu trụ luận.
Trong thiên "Thập nhi kỉ" sách “Lã Thị Xuân Thu" phần nói về mối quan hệ giữa ngũ
hành với giới tự nhiên có rõ nét hơn. "Nguyệt lệnh" dùng thuộc tính vốn có của năm loại
vật chất và tác dụng (tương sinh) lẫn nhau giữa chúng để thuyết minh cho sự biến hóa của
thời tiết bốn mùa. Sự thuyết minh này tuy có tính chất khiên cưỡng nhưng là một quan
điểm duy vật.
Trâu Diễn là một lãnh tụ quan trọng của các nhà ngũ hành thời Chiến quốc. Khi đưa
thuyết ngũ hành vào lịch sử ông đã dùng trật tự của ngũ hành để gán ghép cho trật tự của
các triều đại vua. Ý tưởng của ông đã thành một nếp khẳng định trong ý thức hệ của giai
cấp phong kiến, đến nỗi gây ra cuộc tranh luận về việc chọn tên "hành" cho triều đại nhà
Hán (một triều đại mà học thuyết âm dương ngũ hành rất thịnh và được đem ứng dựng
vào tất cả các công việc hàng ngày, vào mọi mặt của đời sống xã hội). Lý luận của Trâu
Diễn được các danh gia đương thời hấp thụ và quán triệt vào các lĩnh vực của hình thái ý
thức xã hội.
Học thuyết ngũ hành của Đổng Trọng Thư một nho si uyên bác đời Hán có nhiều điểm
khác với tư tưởng của Cơ Tử và Trâu Diễn. Đi sâu vào hình thái của quy luật ngũ hành,
Đổng Trọng Thư cho rằng: trật tự của ngũ hành bắt đầu từ Mộc qua Hỏa, Thổ, Kim,
Thủy. Khi phân tích quy luật sinh khắc của ngũ hành, ông đã dựa hẳn vào sự diễn biến
của khí hậu bốn mùa. Theo ông, sở dĩ có sự vận chuyển bốn mùa là do khí âm, dương
biến đổi.
Trong "Kinh Dịch", khi nói về ngũ hành, các nhà toán học và dịch học đã lý giải nó trên
hai hình Hà đồ và Lạc thư. Theo "Kinh Dịch” thì trời lấy số 1 mà sinh thành thủ, đất lấy
Tiểu luận Triết học
10
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
số 6 mà làm cho thành, đất lấy số 2 mà sinh hành hỏa, trời lấy số 7 mà làm cho thành, trời
lấy số 3 mà sinh hành mộc, đất lấy số 8 mà làm cho thành, đất lấy số 4 mà sinh hành kim,
trời lấy số 9 mà làm cho thành.
2. Ngũ hành là gì?
Theo thuyết duy vật cổ đại thì tất cả vật chất cụ thể được tạo thành trong vũ trụ đều do
năm nguyên tố cơ bản ban đầu tạo thành và luôn trãi qua năm trạng thái gọi là: Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ( tức là Kim loại, Cây, Nước, Lửa, Đất). Năm trạng thái này gọi là
Ngũ hành, không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo nghĩa đen theo tên gọi của
chúng mà đúng hơn là cách quy ước từ xưa để xem xét mối tương tác quan hệ của vạn
vật.
3. Cơ sở Ngũ hành- Hà Đồ.
3.1. Hà Đồ
Hà Đồ là một hệ thống gồm những chấm đen hoặc trắng được sắp xếp theo những cách
thức nhất định
Hình Hà Đồ
Những nhóm chấm- vạch ấy chính là những kí hiệu biểu thị 10 số tự nhiên từ 1 đến 10 ở
thời kì chưa có chữ viết, nhưng đã xuất hiện triết lí âm dương, bởi các chấm trắng là các
số dương (số lẻ), và các chấm đen biểu thị các số âm (số chẵn).
Đây là sản phẩm mang tính triết lí sâu sắc của lối tư duy tổng hợp:
Thứ nhất, đó là sự tổng hợp giữa số học và hình học (người làm nông vừa tính đếm, vừa
đo đạt ruộng đất): 10 con số được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 1 số âm (chẵn) và
một số dương (lẻ), gắn với một phương Băc- Nam- Đông- Tây và trung ương ( nơi con
người đứng- không có trung ương thì không thể nào xác định bắc- nam- đông- tây được).
Tiểu luận Triết học
11
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Thứ hai, đây là sự tổng hợp cuộc đời của các con số với cuộc sống của con người: Các số
nhỏ (từ 1 đến 5) gọi là số sinh, nằm ở vòng trong, các số lớn (từ 6 đến 10) gọi là số thành,
nằm ở vòng ngoài (ngay cả ở trung ương số 5 cũng nằm trong số 10), cũng như con
người khi mới sinh ra còn quanh quẩn trong nhà, trưởng thành lên mới đi ra ngoài xã hội.
Hà đồ thực sự là một triết lí uyên thâm về các con số: mỗi nhóm có một chẵn một lẻ (một
âm, một dương); một nhỏ một lớn (một sinh một thành). Người nông nghiệp chú trọng
nhiều đến các quan hệ, cho nên đặc biệt quan tâm đến chỗ giữa- con số 5 ở giữa của
chính giữa, trung tâm của trung tâm được gọi là số “ tham thiên lưỡng địa” (3 trời 2 đất =
ba dương hai âm).
3.2. Ngũ hành theo Hà Đồ
Trong sự tồn tại và phát triển Hà Đồ đã trở thành cơ sở cho việc tạo nên Ngũ Hành.Trong
đồ hình không những có Âm Dương mà còn có cả nội dung tương tác của 10 số đếm,
thông qua sự định vị 5 con số Sinh đầu tiên, đại diện cho 5 yếu tố vận động trong vũ trụ:
Số Trời 1 sinh Thủy, thành số Đất 6,
Số Đất 2 sinh Hỏa, thành số Trời 7,
Số Trời 3 sinh Mộc, thành số Đất 8,
Số Đất 4 sinh Kim, thành số Trời 9,
Số Trời 5 sinh Thổ, thành số Đất 10.
Như vậy Ngũ Hành đã được định cùng với 5 cặp số Sinh Thành ra chúng, có vị trí Tiên
Thiên theo đúng các hướng của các cặp số:
1-6: Hành Thủy, phương Bắc
2-7: Hành Hỏa, phương Nam
3-8: Hành Mộc, phương Đông
4-9: Hành Kim, phương Tây
5-10 Hành Thổ, ở Trung Tâm.
Ngũ hành được xây dựng như thế chính là một mô hình 5 yếu tố về cấu trúc không gian
của vũ trụ. Sự sắp xếp các hành theo phương cho thấy rõ nguồn gốc nông nghiệp của
ngũ hành: đối với nông nghiệp không gì quan trọng hơn đất, cho nên hành Thổ được đặt
vào trung ương, cai quản bốn phương. Sau đất thì đến nước, nên hành Thủy ứng với số 1,
Tiểu luận Triết học
12
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
là khởi đầu, Thủy là âm nên ở phương Bắc; Hỏa là dương nên ở phương Nam. Hành Mộc
(dương), bởi cây cối là sự sống, xanh tốt vào buổi sáng, mùa xuân nên ứng với phương
Đông dương tính, còn hành Kim (âm bởi kim loại tĩnh) ứng với phương Tây âm tính .
Các hành được sắp xếp theo thứ tự của Hà Đồ là thứ tự Thủy- Hỏa- Mộc- Kim- Thổ. Thứ
tự quen dùng “ Kim- Mộc- Thủy- Hỏa- Thổ” là thứ tự đã bị sau này làm cho sai lạc.
Ngũ hành tương sinh theo Hà Đồ
Giữa các hành có quan hệ tương sinh: quan hệ này xác định giữa từng cặp hai thành một
theo trật tự kim đồng hồ của ngũ hành theo Hà Đồ. Ngoài tương sinh giữa các hành còn
có quan hệ tương khắc.
4. Các quy luật tương sinh và tương khắc trong Ngũ hành
Học thuyết Ngũ hành diễn giải sự sinh hóa của vạn vật qua hai nguyên lí cơ bản gọi là
Tương Sinh và Tương Khắc trong mối tương tác và quan hệ của chúng.
Thủy sinh Mộc ( ví du: nước giúp cây tươi tốt).
Mộc sinh Hỏa (ví dụ: gỗ làm nhiên liệu cho lửa).
Hỏa sinh Thổ ( ví dụ: lửa đốt tro bụi làm cho đất màu mỡ).
Thổ sinh Kim (ví dụ: trong lòng đất sinh ra kim loại).
Kim sinh Thủy (ví dụ: kim loại nóng chảy trở về thể lỏng).
Ngũ hành tương sinh thực chất là sự chi tiết hóa của âm dương chuyển hóa (Thủy là cực
âm và Hỏa là cực dương).
Thủy khắc Hỏa (ví dụ: nước dập tắc lửa).
Tiểu luận Triết học
13
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Hỏa khắc Kim (ví du: lửa nung chảy kim loại).
Kim khắc Mộc (ví dụ: dao chặt cây).
Mộc khắc Thổ (ví dụ: cây hút chất màu của đất).
Thổ khắc Thủy (ví dụ: đất đắp đê ngăn nước).
Một số học giả dựa trên cơ sở sinh và khắc lại bổ sung thêm tương thừa, tương vũ thực
chất là suy diễn ra từ hai nguyên lí cơ bản trên. Tương sinh, tương khắc, tương thừa,
tương vũ kết hợp thành chế hóa, biểu thị mọi sự biến hóa phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để phát triển. Đem Ngũ
hành liên hệ với nhau thì thấy năm hành có quan hệ tiếp xúc lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau. Trong luật tương sinh của Ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào
cũng có quan hệ trên hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, ứng dụng
này vào y học còn gọi là mẫu và tử.
Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là áp chế lẫn nhau. Sự tương khắc có tác
dụng duy trì sự cân bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hóa
trở thành bất thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai mối quan hệ:
Cái khắc nó là cái nó khắc. Từ quy luật tương khắc, bàn rộng thêm ta có tương
thừa (nghĩa là khắc quá đỗi) và tương vũ (nghĩa là khắc không nổi mà bị phản
phục lại).
Hiện tượng tương sinh, tương khắc không tồn tại độc lập với nhau. Trong tương khắc
luôn có mầm mống của tương sinh, trong tương sinh luôn có mầm mống của tương khắc.
Do đó vạn vật luôn luôn tồn tại và phát triển.
Lấy Ngũ hành theo Hà Đồ làm gốc, kéo hành Thổ từ trung tâm ra biên, biểu diễn mối
quan hệ tương sinh tương khắc trong hình ngôi sao.Các mũi tên liền nét theo vòng thuận
chiều kim đồng hồ biểu thị quan hệ ngũ hành tương sinh, còn các mũi tên không liền nét
vẽ heo hình ngôi sao bên trong biểu thị ngũ hành tương khắc.
Ngũ hành tương sinh- tương khắc
Tiểu luận Triết học
14
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Với tư cách một mô hình bộ 5 về cấu trúc không gian của vũ trụ, Ngũ hành có các ưu có
các ưu điểm:
Có số lượng thành tố vừa phải ( không nhiều quá không ít quá).
Có số lượng thành tố lẻ ( bao quát được trung tâm).
Có số lượng về mối quan hệ tối đa.
Về mặt toán học, người ta đã chúng minh rằng hệ thống 5 trung tâm chính là hệ thống tự
điều chỉnh ưu việt nhất.
Tóm lại, thuyết Ngũ hành đã khẳng định tính vật chất của thế giới; Vạn vật và thế giới
không ở trong trạng thái tĩnh mà ở trong trạng thái động và không tồn tại tách biệt lẫn
nhau mà tồn tại trong mối quan hệ mật thiết chuyển lẫn nhau. Tuy nhiên, hạn chế của
Ngũ hành là đã coi sự vận động và quan hệ của vạn vật chỉ đi theo chu trình tuần hoàn,
lập lại.
5. Mối quan hệ giữa âm dương và Ngũ hành
Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với
hai mặt đối lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ
cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp khó khăn
khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất. Khi đó nó phải dùng thuyết Ngũ hành để
giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết âm dương với học thuyết Ngũ hành mới có thể
giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời.
Muốn nhìn nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học
thuyết âm dương và Ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể nói
lên được tính đối lập thống nhất, tính thiên lệch và cân bằng của các bộ phận trong cơ thể
con người, còn học thuyết Ngũ hành nói lên mối quan hệ phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu
tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa con người với tự nhiên. Có thể khẳng định,
trên cơ bản, âm dương Ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh, giữa âm dương và Ngũ hành có
mối quan hệ không thể tách rời.
Âm dương Ngũ hành là những phạm trù cơ bản trong tư tưởng của người cổ đại. Đó cũng
là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích sự sinh thành, biến
hóa của vũ trụ. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương ngũ hành đã phát triển đến
một trình độ khá cao và trở thành phổ biến trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Song
học thuyết âm dương Ngũ hành cũng như các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại là
thế giới quan của người Trung Hoa ở vào một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ vãng, lúc đó
lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp, cho nên không khỏi có những hạn
chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định. Đặc biệt, sự phát triển của nó chưa
gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang dấu ấn của tính
Tiểu luận Triết học
15
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
trực giác và tính kinh nghiệm. Song học thuyết đó đã trang bị cho con người tư tưởng duy
vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một số ngành khoa học cụ thể.
IV. BÁT QUÁI
Như đã nói, hướng phát triển khác của triết lí Âm Dương là phân đôi cặp Lưỡng nghi
thành Tứ Tượng (từ hai mùa nóng lạnh được bốn mùa Xuân- Hạ- Thu- Đông; từ hai
phương chính Nam- Bắc được bốn phương Nam- Bắc- Đông- Tây). Rồi từ Tứ tượng
phân đôi tiếp thành Bát Quái có tám quẻ (Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn);
mỗi quẻ được biểu thị bằng ba vạch liền (lẻ, dương) và hoặc đứt (chẵn, âm). Bát quái
Tiên thiên biểu tượng cho 8 hiện tượng tự nhiên: Trời- Đầm- Lửa- Sấm- Gió- Nước-
Núi- Đất. Bát quái Hậu thiên biểu tượng cho cha mẹ và 6 con trong gia đình.
Bát Quái
La bàn Bát quái có năm vòng tròn: giữa là Thái cực, vòng hai là lưỡng nghi, vòng ba là tứ
tượng, vòng bốn là bát quái, vòng năm 64 quái. Theo Kinh dịch thì vũ trụ biến dịch từ Vô
cực đến Thái cực. Lưỡng nghi: nghi dương ký hiệu là vạch liền (-), nghi âm ký hiệu là
vạch đứt (- -). Ta lấy dương chồng lên dương và lấy âm chồng lên dương sẽ được hai
hình tượng Thái Dương biểu tượng cho lửa và Thiếu Dương biểu tượng cho kim khí; Ta
lại lấy âm chồng lên âm và dương chồng lên âm sẽ được hai hình tượng Thái Âm biểu
tượng cho nước và Thiếu Âm biểu tượng cho gỗ. Chúng ta lấy dương lần lượt chồng lên
Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm và sau đó lấy âm lần lượt chồng lên Thái
Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Thiếu Dương ta sẽ được hình tượng của Bát quái: Kiền là
Trời, Ly là lửa, Cấn là núi, Tốn là gió, Khôn là đất, Khảm là nước, Đoài là đầm, Chấn là
sấm.
Trong tám quẻ đơn chỉ Chấn, Đoài là thuận. Mỗi quẻ có ba vạch gọi là ba hào. Hào trên
là hào hạ tượng trưng cho đất- âm; hào giữa là hào trung tượng trưng cho người; hào dưới
là hào thượng tượng trưng cho trời- dương.
Tiểu luận Triết học
16
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Lấy mỗi quẻ trong tám quẻ ấy lần lượt chồng lên cả tám quẻ sẽ tạo ra 64 quẻ kép. Mỗi
quẻ kép có 6 hào, ba hào trên là ngoại quẻ, ba hào dưới là nội quẻ. Chẳng hạn các quẻ
trùng quái: Trùng Kiền (2 kiền), Trùng Khôn (2 khôn), Truân (Khảm dưới, chấn trên),
Mông (Khảm dưới, cấn trên), Nhu (Cấn dưới, khảm trên), Tụy (Khảm dưới, càn trên),
Khiêm (Khôn trên, cấn dưới), Thái (Càn dưới, khôn trên), Bĩ (Khôn dưới, càn trên), ...
Trong thế giới dù khác nhau đến mức nào cũng quy về 64 quẻ ấy. Khi cần dự báo lành
hay dữ người ta xem sự kiện đó ứng với quẻ nào và đọc quẻ đó. Tùy đối tượng nghiên
cứu mà việc ứng dụng mỗi quẻ đơn và mỗi quẻ kép nhận những ý nghĩa cụ thể khác
nhau. Chẳng hạn theo Hà Đồ thì: - Kiền là trời, hướng Nam, số 1, dương; - Khôn là đất,
hướng Bắc, số 8, âm; - Khảm là nước, hướng Tây, số 6, âm; - Ly là lửa, hướng Đông, số
3, dương; - Đoài là đầm, hướng Đông Nam, số2, âm; - Chấn là sấm, hướng Đông Bắc, số
4, âm: - Tốn là gió, hướng Tây Nam, số 5, dương; - Cấn là núi, hướng Tây Bắc, số 7,
dương. Từ 1-4 tức từ Kiền đến Chấn là đi thuận; từ 5-8 tức từ Tốn đến Khôn là đi nghịch.
1. Kiền (Nam) 2. Đoài (Đnam) 5.Tốn (T.nam) 4.Chấn (Đ.bắc) 7.Cấn (T.bắc) 8 Khôn
(Bắc) Hoặc: Cửu Dương (số 9) là Nam, Cương, Thiện, Đại, Chính, Thành, Thực, Quân
tử, Phú. Lục Âm (số 6) là Nữ, Nhu, Ac, Tiểu, Tà, Ngụy, Hư, Tiểu nhân, Bần.
V. VĂN HÓA
1. Văn hóa là gì?
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội.
2. Các đặc trưng của văn hóa
Văn hóa có tính hệ thống: Văn hóa là một sự phản ánh một cách tổng quát những mối
quan hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiến của một quốc gia. Đồng thời chính tính hệ
thống của văn hóa sẽ là phương tiện cần thiết để chúng ta có ứng phó với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình nhằm điều chỉnh tích cực tạo điều kiện cho con người và môi
trường được hòa hợp.
Văn hóa có tính giá trị: bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần
Giá trị vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể hiện ở giá trị
của những của cải vật chất do xã hội tạo ra trong từng thời kì lịch sử.
Giá trị tinh thần là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần bao gồm khoa học và mức
độ áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y
tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong hành vi của các thành viên trong xã hội, trình độ
phát triển nhu cầu của con người… Và bao gồm cà những phong tục, tập quán, những
phương thức giao tiếp…
Tiểu luận Triết học
17
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Văn hóa có tính nhân sinh: Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện
tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con
người. Sự tác động con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất hoặc tinh thần. Do
mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực
hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết con người lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là
hình thức giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
Văn hóa còn có tính lịch sử: Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá
trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một
chiều sâu; buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố các
giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng hệ thống văn hóa.
Tính lịch sử còn được thể hiện bằng truyền thống văn hóa, đó là những giá trị tương đối
ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được
đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ, phong tục tập
quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…
3. Khái quát văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước, có thể chia thành 6
giai đoạn: văn hóa tiền sử; văn hóa Văn Lang- Âu Lạc; văn hóa thời chống Bắc thuộc;
văn hóa đại Việt; văn hóa địa Nam và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba
lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa
giao lưu với phương Tây. Trong đó:
Thuộc loại nhận thức được hình thành trong lớp văn hóa giao lưu với phương Tây thì có
các tri thức khoa học.
Thuộc loại nhận thức được hình thành trong lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu
vực thì để lại dấu ấn sâu đậm về vũ trụ quan và nhân sinh quan do Tam giao ( Nho giáo-
Phật giáo- Đạo giáo) mang lại.
Thuộc loại nhận thức hình thành trong lớp văn hóa bản địa có triết lí Âm dương giải thích
bản chất vũ trụ; Ngũ hành giải thích cấu trúc không gian vũ trụ. Những tri thức đó đã
được vận dụng để tìm hiểu và khám phá con người trên các phương diện tự nhiên xã hội.
Tiểu luận Triết học
18
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ÂM DƯƠNG ĐẾN ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT
Văn hóa Việt Nam là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp nên chứa những đặc trưng âm
tính là chủ yếu: ở thì muốn yên ổn một nơi, với thiên nhiên thì muốn hòa hợp, với con
người thì nặng về tình cảm, với môi trường xã hội thì bao dung… Còn văn hóa gốc du
mục thì lại chứa những đặc trưng dương tính là chủ yếu: ở thì nay đây mai đó, với thiên
nhiên thì muốn chinh phục, với mọi người thì thiên về bạo lực, với môi trường xã hội thì
ưa độc tôn… Xét về gốc độ triết lí âm dương, có thể gọi văn hóa gốc nông nghiệp là loại
văn hóa trọng âm, còn văn hóa gốc du mục là loại văn hóa trọng dương.
1. Triết lí âm dương và tính cách người Việt
Như đã nói, triết lí âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư
dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người. Từ hai cặp đối lập gốc “ mẹ-
cha” và “đất- trời”, người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính
của âm dương. Lối tư duy đó tạo ra một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp có phần chất
phát và thô sơ về thế giới ở người Đông Nam Á cổ đại.
Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông Nam Á
xưa đã mở rộng ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái niệm, sự vật
biệt lập. Có lẽ từ quá trình này dẫn đến chỗ cảm nhận được tính hai mặt của âm dương và
quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Và cũng từ những ý niệm còn hồn nhiên và
chất phát này là tiền đề cho tổ tiên người Hán phạm trù hóa và hệ thống hóa thành triết lí
âm dương.
Đối với người Việt Nam, tư duy lưỡng phân lưỡng hợp bộc lộ rất đậm nét qua khuynh
hướng cặp đôi ở khắp nơi: từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói
quen hiện đại:
Đa số các quốc gia trên thế giới, biểu tượng vật tổ của các dân tộc thường là một
loài động vật cụ thể (sư tử, chim ưng, đại bang…) trong khi đó vật tổ của người
Việt Nam lại là một cặp đôi trừu tượng Tiên- Rồng. Kể cả những dân tộc thiểu
số cũng có khái niệm truyền thuyết mang tính cặp đôi: người Mường (chim Ây-
cái Ứa); người Thái (nàng Kè- Tạo Cặp)… đây là những dấu vết của tư duy âm
dương thời xa xưa.
Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hòa:
ông Đồng- bà Cốt, đồng Cô- đồng Cậu,… Khi sinh âm dương (xin keo) thì hai
đồng tiền phải một ngửa một sấp; ngói âm dương lợp nhà phải viên ngửa viên sấp;
khi ghép gỗ thì phải một tấm gờ lồi ra khớp với tấm kia có rãnh lõm vào… Lối tư
duy âm dương khiến người Việt khi nói đất, núi liền nghĩ ngay đến nước, nói đến
Tiểu luận Triết học
19
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
cha là nghĩ ngay đến mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nuo1c trong
nguồn chảy ra”.
Đối với người Viện Nam tổ quốc là một khối âm dương đất nước: “ đất- nước”, “
núi- nước”, “ non- nước”, “ nước- lửa”… là những cặp khái niệm thường trực.
Ngay cả ở Tây nguyên phần lớn tên gọi các địa danh đều bắt đầu bằng chư ( núi)
và krông hay dak ( sông hay nước), ví dụ: Chư Sê, Kroong Pa, Dak B’la…
Thông qua việc giao lưu văn hóa, một số khái niệm vay mượn đơn độc khi du
nhập vào Việt Nam lại được nhân đôi thành cặp, ví dụ: ở Trung Hoa, thần mai
mối là ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam lại trở thành ông Tơ- bà Nguyệt; ở Ấn Độ
chỉ có Phật ông, nhưng khi vào Việt Nam lại xuất hiện Phật ông- Phật bà…
Biểu tượng âm dương (hình thái cực) chỉ được đặt ra từ sau Công nguyên và được
dùng phổ biến hiện nay, nhưng trước đó thì người Việt đã có biểu tượng âm dương
lâu đời hơn đó là biểu tượng vuông tròn. Theo quan niệm của người Việt Nam,
nói đến vuông tròn là nói đến sự hoàn thiện, có vuông có tròn tức là có âm có
dương: trời tròn- đất vuông. Thành ngữ có câu: mẹ tròn con vuông, ba vuông bảy
tròn,… Ca dao có câu: “ Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha vinh hiển, đời con
sang giàu…”, “ Lạy trời cho đặng vuông tròn, trăm năm cho trọn lòng son với
chàng”,…
Trống đồng Yên Bồng và trống Thôn Mống có hình biểu tượng âm dương vuông-
tròn và tròn- vuông lồng vào nhau, hay các đồng tiền cổ Việt Nam qua các thời đại
với lỗ vuông ở giữa chính là dấu vết truyền thống của biểu tượng âm dương.
2. Nhận thức về hai quy luật về triết lí âm dương của người Việt Nam
Sự nhận thức về quy luật “ trong dương có âm và trong âm có dương” được thể hiện cụ
thể qua những quan niệm nhân gian như: “ trong rủi có mai, trong dở có hay, trong họa
có phúc”; “ chim sa cá nhảy chớ mừng, nhện sa xà đón xin đừng có lo”.
Còn sự diễn đạt cụ thể về nhận thức quy luật “âm dương chuyển hóa” được thể hiện qua
những quan niệm về nhân quả như sau: “ trèo cao ngã đau”; “ yêu nhau lắm cắn nhau
đau”;…
Người Việt Nam có triết lí sống quân bình là do lối tư duy âm dương đã thấm sâu vào
máu thịt. Với triết lí này dẫn đến hình thành tính cách người Việt: trong cuộc sống gắng
không làm mất lòng ai, trong việc ăn ở gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài
hoà với môi trường thiên nhiên… Và triết lí này không chỉ vận dụng cho người sống mà
cho cả người chết: Trong các ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) có niên đại vào thế
kỉ thứ 3 trước Công Nguyên được gióng theo hướng nam- bắc, các đồ vật bằng gỗ
(dương) được đặt ở phía bắc (âm), ngược lại các vật bằng gốm đất (âm) lại được đặt ở
Tiểu luận Triết học
20
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
phía nam (dương). Cách sắp xếp âm dương bù trừ này rõ ràng là để tạo ra sự quân bình.
Ngay cả hộ pháp ở chùa cũng có ông Thiện và ông Ác do triết lí âm dương này.
Chính triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt một khả năng thích nghi cao
với mọi hoàn cảnh (lối sống linh hoạt), không chán nản dù khó khăn, tinh thần lạc quan:
thời trẻ khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, suốt đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng
(không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời…).
3. Triết lí về cấu trúc thời gian của vũ trụ
Nghề nông rất cần biết về thời tiết, khí hậu, vòng quay bốn mùa, cho nên trên thế giới
này, mọi nền lịch pháp đều là sản phẩm của các vùng văn hóa nông nghiệp. Có ba loại
lịch cơ bản: lịch thuần dương, lịch thuần âm, và lịch âm dương.
Lịch của Á Đông mà ta thường gọi là lịch “ lịch âm” thực chất là một thứ lịch âm dương.
Là sản phẩm của lối tư duy tổng hợp, nó đã kết hợp được cả chu kì mặt trăng lẫn mặt trời.
4. Triết lí âm dương qua tín ngưỡng, phong tục, nghệ thuật thanh sắc, quan
niệm về ăn của con người Việt Nam
4.1. Tín ngưỡng
Duy trì và phát triển sự sống đã là một nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Đối với văn
hóa nông nghiệp, để duy trì cuộc sống, cần cho mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống,
cần cho con người sinh sôi. Hai hình thức sản xuất lúa gạo (để duy trì sự sống) và sản
xuất con người (để kế tục dòng giống) này có bản chất giống nhau, đó là sự kết hợp của
hai yếu tố khác loại (đất và trời, mẹ và cha).
Từ đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam- Á phát triển theo hai hướng: những trí tuệ sắc
sảo đi tìm quy luật khách quan để lí giải hiện thực, kết quả là tìm được triết lí âm dương.
Còn những người có trình độ hạn chế thì tìm thấy ở hiện thực một sức mạnh siêu nhiên,
dẫn đến sùng bái nó như thần thánh, kết quả là xuất hiên tín ngưỡng phồn thực. Triết lí
âm dương và tín ngưỡng phồn thực chỉ là hai mặt của một vấn đề. Hình thái đơn giản của
tín ngưỡng này là thờ sinh thực khí. Bên cạnh đó còn thờ hành vi giao phối, có tục “ giã
cối đón dâu”.
4.2. Phong tục
4.2.1. Phong tục cưới hỏi
Trong lễ vật cưới có một loại bánh đặc biệt rất có ý nghĩa là bánh su sê ( tên đọc chệch đi
của bánh phu thê): bánh phu thê hình tròn bọc bằng hai khuôn hình vuông úp khít vào
nhau. Đó chính là biểu tượng của triết lí âm dương ( vuông tròn) và ngũ hành (ruột dừa
Tiểu luận Triết học
21
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
trắng, nhân đậu vàng, rắc vừng đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ), biểu tượng cho sự vẹn
toàn hòa hợp- hòa hợp của đất trời và của con người.
4.2.2. Phong tục tang lễ
Phong tục tang lễ của người Việt Nam thấm nhuần sâu sắc tinh thần triết lí Âm Dương
Ngũ hành.Về sắc, tang lễ truyền thống dùng màu trắng là màu của hành Kim (hướng
Tây) theo Ngũ hành, mọi thứ liên quan đến hướng Tây đều được xem là xấu, nơi để mồ
mả thường là hướng Tây của làng. Sau màu trắng là màu đen của hành Thủy. Chỉ khi
chắt chút để tang cụ, kị (là tốt, bởi đó là bằng chứng cho thấy các cụ sống lâu) thì mới
dùng các màu tốt như màu đỏ và vàng. Tất cả đều theo đúng trình tự ưu tiên của Ngũ
hành.
Theo triết lí âm dương, âm ứng với số chẵn, dương ứng với số lẻ, vì vậy mọi thứ liên
quan đến người chết (âm) đều ứng với số chẵn: Lạy trước linh cữu thì phải lạy hai hoặc
bốn lạy, ở nhà mồ các dân tộc miền núi số bậc than phải là số chẵn. Khác với người sống
(dương) mọi thứ phải theo số lẻ: lạy người sống phải là 1 hoặc 3 lạy, cầu thang lối lên
nhà phải có số lẻ.
Cũng theo luật âm dương, việc phân biệt tang cha với tang mẹ: khi con trai chống gậy để
tang thì cha gậy tre, mẹ gậy vông (vì thân tre tròn- dương, cành vông đẽo thành hình
vuông- âm). Đưa tang và để tang còn có tục cha đưa mẹ đón, và tục mặc áo tang cha thì
trở bằng sống lưng ra, tang mẹ thì trở bằng sống lưng vô, điều này thể hiện triết lí âm
dương qua cặp nghĩa hướng ngoại (dương- cha), hướng nội (âm- mẹ).
4.2.3. Nghệ thuật thanh sắc
Giống như ngôn từ, tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc Việt Nam thể hiện trước hết
ở nguyên lí đối xứng hài hòa, nghệ thuật múa tuân thủ chặc chẽ luật âm dương với các
đội hình phổ biến: hình tròn và hình vuông; với nguyên lí xây dựng trên cơ sở những
tương quan cặp đôi giữa các bộ phận của cơ thể, các phần của động tác.
4.2.4. Quan niệm về ăn
Tục ăn trầu tìm ẩn triết lí về sự tổng hợp của nhiều chất khác nhau: cây cau vươn cao là
biểu tượng của trời (dương), vôi chất đá là biểu tượng của đất (âm), dây trầu mọc từ đất
quấn lấy thân cây, biểu tượng cho sự trung gian hòa hợp. Đó là sự tổng hợp của biện
chứng âm- dương, tam tài.
Biểu hiện quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn là ở chỗ người Việt Nam
đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương. Bao gồm ba mặt liên quan mật
thiết với nhau: sự hài hòa âm dương của thức ăn, sự quân bình âm dương trong cơ thể, sự
cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên.
Tiểu luận Triết học
22
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương, người Việt phân biệt thức ăn
theo năm mức âm- dương ứng với Ngũ hành: lạnh (âm nhiều- Thủy), nóng (dương
nhiều- Hỏa), ấm (dương ít- Mộc), mát (âm ít- Kim), trung tính (Thổ). Theo đó
tuân thủ nghiêm ngặt luật âm- dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến.
Để tạo sự quân bình âm dương trong cơ thể, ngoài việc ăn các món chế biến có
tính đến sự quân bình âm dương, người Việt còn sử dụng thức ăn như những vị
thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Người bị ốm do quá
âm cần ăn đồ dương và ngược lại, người bị ốm do quá dương cấn ăn đồ âm.
Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường, người Việt có
tập quán ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa. Việt Nam xứ nóng nên thức ăn
phần lớn đều thuộc loại trung tính, âm. Mùa hè nóng, người Việt thích ăn rau quả,
tôm cá những thức ăn âm tính, chế biến : luộc, nấu canh… Mùa đông lạnh, tỉnh ở
phía Bắc, thích ăn thịt mỡ là những thức ăn dương tính, chế biến khô: xào, rán,
kho…
5. Ứng dụng của Ngũ hành
Ngũ hành có ứng dụng rất rộng. Sở dĩ là vì các hành trong Ngũ hành là những khái niệm
vừa cụ thể vừa trù tượng, chúng rất đa nghĩa.
Stt Lĩnh vực Thủy Hỏa Mộc Kim Thổ
1 Số Hà Đồ 1 2 3 4 5
2 Hành được
sinh
Mộc Thổ Hỏa Thủy Kim
3 Hành bị
khắc
Hỏa Kim Thổ Mộc Thủy
4 Vật chất Nước Lửa Cây Kim loại Đất
5 Phuong
hướng
Bắc Nam Đông Tây Trung
ương
6 Thời tiết
(mùa)
Đông Hạ Xuân Thu Khoảng
giữa các
mùa
7 Mùi vị Mặn Đắng Chua Cay Ngọt
8 Thế đất Ngoằn
ngoèo
Nhọn Dài Tròn vuông
9 Màu biểu Đen Đỏ Xanh Trắng vàng
10 Vật biểu rùa Chim Rồng Hổ Người
Một số ứng dụng của Ngũ hành
Trong truyền thống văn hóa dân gian, ta thể gặp rất nhiều ứng dụng của Ngũ hành. Chẳng
hạn, người Việt Nam trị tà ma bằng bùa ngũ sắc (Ngũ hành), bằng bức tranh ngũ Hổ vẽ 5
con hổ ở 5 phương với 5 màu theo Ngũ hành với ý nghĩa: Hổ tượng trưng cho sứa mạnh,
Tiểu luận Triết học
23
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
trấn thị ở khắp 5 phương. Ở lễ hội, sử dụng những lá cờ hình vuông may bằng vải 5 màu
theo Ngũ hành.
6. Nhận thức về con người tự nhiên
Cuộc sống của con người nông nghiệp gắn bó mật thiết với thiên nhiên, cho nên con
người được xem là nằm trong một thể thống nhất, cho nên vũ trụ làm sao con người làm
vậy- con người là một “ tiểu vũ trụ”, từ đó suy ra rằng các mô hình nhận thức đúng với
vũ trụ cũng sẽ đúng cho lĩnh vực con người.
Trong vũ trụ có âm dương con người cũng vậy: theo quan hệ trên dưới, từ ngực trở lên là
phần dương, từ bụng trở xuống là âm; trán là dương, cằm là âm; mu bàn tay, mu bàn chân
là dương, lòng bàn tay lòng bàn chân là âm. Theo quan hệ trước sau: bụng là âm, lưng là
dương… Cứ như vậy có thể phân biệt âm dương tới từng bộ phận cơ thể.
Với cơ chế Ngũ hành trong cơ thể người cho phép chúng ta nhìn thấy, một mặt các quan
hệ hàng ngang các yếu tố cùng loại qua luật tương sinh- tương khắc, mặt khác là quan hệ
hàng dọc giữa các yếu tố khác loại nằm trong cùng cột, ứng với cùng một hành. Những
mối liên hệ hệ thống ấy chính là cơ sở của cách chuẩn đoán và chữa bệnh Đông y.
Stt Lĩnh vực Thủy Hỏa Mộc Kim Thổ
1 Số Hà Đồ 1 2 3 4 5
2 Hành được
sinh
Mộc Thổ Hỏa Thủy Kim
3 Hành bị
khắc
Hỏa Kim Thổ Mộc Thủy
1 Ngũ tạng Thận Tâm Can Phế tì
2 Ngũ phủ Bang qua Tiểu tràng Đởm Đại tràng Vị
3 Ngũ quan Tai Lưỡi Mắt Mũi Miệng
4 Ngũ chất Xương tủy Huyết
mạch
Gân Da, lông Thịt
Ngũ hành trong cơ thể người
Vai trò của số 5 đối với nền văn hóa nông nghiệp Nam- Á lớn đếm mức người Việt Nam
ta có tục kính nể con số 5, kiêng con số 5 và kiêng luôn cả các cặp số cấu thành nên nó:
Mồng năm, mười bốn, hai ba: đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn!
Tiểu luận Triết học
24
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
KẾT LUẬN
Bằng những kiến thức tích lũy được trong quá trình học, tham khảo tài liệu và kinh
nghiệm cuộc sống, tôi đã cố gắng trình bày đề tài của mình theo một hệ thống là đi từ lí
luận đến vận dụng vào thực tiễn của triết lí âm dương trong cuộc sống tinh thần người
Việt. Tin rằng đề tài này đã cung cấp được những thông tin nhất định cho những mối
quan tâm về vấn đề này.
Do hạn chế về thời gian và kiến thức nên đề tài không thể phân tích sâu sắc và toàn diện
về vấn đề này. Vì vậy sự nhận xét quý báu của quí thầy cô và các bạn sẽ đề tài hoàn
chỉnh hơn.
Tiểu luận Triết học
25
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ts Nguyễn Ngọc Thu- Ts Bùi Văn Mưa Đại Cương lịch sử Triết học- nhà
xuất bản tổng hợp TP. HCM _ 2003.
2. Trần Ngọc Thêm Cơ sở văn hóa Viêt Nam- nhà xuất bản giáo dục _ 2000.
3. Đỗ Hoàng Linh Luận bàn về cổ học Đông Phương- nhà xuất bản văn hóa-
thông tin_ 2008.
4.
5. Web Cuộc sống Việt.
6. Web WikipediaA.
7. Web VietShare.com.
8. Web Tạp chí Triết học.
Tiểu luận Triết học
26
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……..…………………………………….…………………………..trang 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN………………………………………………………....3
I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG……………………………………………………3
1. Triết lí âm dương: khái niệm, nguồn gốc và bản chất…………………………3
1.1 Âm dương theo Dịch học………………………………………………………....3
1.2 Khái niệm âm dương……………………………………………………………..3
1.3 Nguồn gốc của âm dương………………………………………………………...3
2. Trừu tượng hóa âm dương……………………………………………………….4
3. Các quy luật của triết lý âm và dương…………………………………………..5
3.1. Quy luật về bản chất của các thành tố của triết lí âm dương………………..5
3.2. Quy luật về quan hệ giữa các thành tố của triết lí âm dương………………..6
4. So sánh của các quy luật của logic học…………………………………………..7
5. Hai hướng phát triển của triết lí âm dương…………………………………….7
II. TA TÀI…………………………………………………………………………….8
III. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NGŨ HÀNH………………………………………..9
1. Học thuyết Ngũ hành qua các thời kì ở Trug hoa………………………………9
2. Ngũ hành là gì?.....................................................................................................10
3. Cơ sở Ngũ hành- Hà Đồ………………………………………………………...10
3.1. Hà Đồ…………………………………………………………………………10
3.2. Ngũ hành theo Hà Đồ………………………………………………………..11
4. Các quy luật tương sinh và tương khắc trong Ngũ hành……………………..12
5. Mối quan hệ giữa âm dương và ngũ hành…………………………..…………14
IV. BÁT QUÁI………………………………………………………………………15
V. VĂN HÓA………………………………………………………………………16
Tiểu luận Triết học
27
Học viên thực hiện: Thạch Tố Kim
1. Văn hóa là gì?.......................................................................................................16
2. Các đặc trưng của văn hóa……………………………………………………..16
3. Khái quát văn hóa Việt Nam…………………………………………………...17
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ÂM DƯƠNG ĐẾN ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT……………………………………...18
1. Triết lí âm dương và tính cách người Việt…………………………………….18
2. Nhận thức về hai quy luật triết lí âm dương của người Việt Nam.....……….19
3. Triết lí về cấu trúc thời gian của vũ trụ……………………………………….20
4. Triết lí âm dương qua tín ngưỡng, phong tục, nghệ thuật thanh sắc, quan
niệm về ăn uống của con người Việt Nam……………………………………..20
4.1. Tín ngưỡng…………………………………………………………………...20
4.2. Phong tục……………………………………………………………………..20
4.2.1. Phong tục cưới hỏi…………………………………………………………...20
4.2.2. Phong tục tang lễ…………………………………………………………….21
4.2.3. Nghệ thuật thanh sắc………………………………………………………...21
4.2.4. Quan niệm về ăn……………………………………………………………..21
5. Ứng dụng của Ngũ hành………………………………………………………..22
6. Nhận thức về con người tự nhiên………………………………………………23
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………..24
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………..25
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai3_thachtokim_d1k19_5729.pdf