Hồ Chí M inh đã dậy “M uốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có con
người xã hội chủ nghĩa”. N gày nay chúng ta muốn thực hiện công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải đào tạo được những con người đáp ứng được
những yêu cầu của thời kì mới. Con người ấy chịu sự tác động của rất nhiều yếu
tố: gia đình và xã hội, truyền thống và hiện đại, tín ngưỡng, dân tộc và quốc tế
.đặc biệt là về mặt đạo đức.
Trong lịch sử Việt Nam, Nho giáo cùng các tư tưởng khác như Phật giáo,
Đạo giáo, Đạo Thiên Chúa đã có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống văn hoá
tinh thần người Việt. Đ ến nay, N ho giáo đã có mặt ở Việt Nam khoảng 2000 năm
và cũng trải qua nhiều thăng trầm. N gười Việt Nam, xã hội Việt N am tiếp nhận
Nho giáo từ thế bị động sang thế chủ động, từ thái độ tiêu cực sang thái độ tích
cực.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2961 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt (2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống yên ổn.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử,
dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc,
Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 4
Tử. Thời kỳ này Nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và
phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Tuân Tử (315- 230 TCN) phát triển Nho giáo
theo xu hướng duy vật, còn Mạnh Tử (372-298 TCN) phát triển Nho giáo theo
hướng duy tâm. Họ bất đồng nhau trong việc lý giải bản tính con người. Tuy
nhiên, Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho giáo
nguyên thuỷ. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy,
còn gọi là Nho giáo Tiên Tần (trước đời Tần).
Đến triều Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN), Nho giáo được đưa lên ngôi vị "độc
tôn". Nhưng về thực chất, đây không còn là thứ Nho giáo thời Tiên Tần nữa, mà
là một thứ "Nho giáo cải biên" do Đổ
ng Trọng Thư (179 – 104 TCN) thiết kế, nhằm lấy đó làm chỗ dựa để thống
nhất tư tưởng hiện đang năm bè bảy phái của người Trung Quốc hồi bấy giờ.
Trên đại thể, thứ Nho giáo mới này bao gồm ba thành tố : "âm dương ngũ hành",
"vương quyền thần thụ" và "tam cương ngũ thường".
Tư tưởng "âm dương ngũ hành" như ta biết, vốn rất thịnh hành vào thời
Hán. Lợi dụng tình hình này, Đổng Trọng Thư đã đem tư tưởng "thiên mệnh", tư
tưởng "thiên nhân cảm ứng", cùng tư tưởng "tông pháp" của Nho giáo nguyên
thuỷ nhào nặn với tư tưỏng "âm dương ngũ hành" để làm nên thuyết "vương
quyền thần thụ". "Vương quyền" (quyền lực nhà vua) ở đây được Đổng Trọng
Thư luận chứng như là do "Trời" (thần) ban cấp. Trời là chủ tể của muôn loài, mà
vua (Hoàng đế) là con của Trời (Thiên tử), người thể hiện quyền lực và ý chí của
Trời, thay mặt Trời để cai trị nhân gian. Quyền lực của nhà vua do vậy cũng
được xem như tối thượng, thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mặt khác, Khổng Tử từng nói "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử". Đổng
Trọng Thư đã đem nguyên tắc ứng xử này lồng ghép với quan niệm thần học
"dương tôn, âm ti " để thành thuyết "tam cương ngũ thường". "Tam cương"
(quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương) là phỏng theo mối quan
hệ giữa trời và đất, âm và dương, trong đó bề tôi, con cái, thê thiếp đều thuộc
"âm" ; còn vua, cha, chồng đều thuộc "dương" ; "âm" tất yếu phải theo "dương".
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 5
"Ngũ thường" (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) là năm chuẩn mực về đạo đức tương ứng
với "ngũ hành", lấy "tam cương" làm nền tảng. Đổng Trọng Thư coi "tam cương
ngũ thường" là "ý trời" (thiên ý), và cho rằng "Trời không thay đổi, đạo cũng
không thay đổi" (Thiên bất biến, đạo diệc bất biến). Từ đó về sau, "tam cương
ngũ thường" đã trở thành gông cùm về mặt tinh thần đối với người dân Trung
Quốc.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo
nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con
trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Thời kỳ, Tống Nho do Chu Đôn Di (1017 – 1073), Thiệu Ung (1011 –
1077), Trình Hiệu (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Trương Tải (1020 –
1077) đều là người Bắc Tống khai sáng, và tiếp đó được Chu Hy (1130 – 1200)
người Nam Tống tập đại thành. So với Nho giáo nguyên thuỷ thời Tiên Tần và
Nho giáo thần hoá thời Lưỡng Hán thì Lý học đời Tống có thể gọi là một thứ
Nho giáo phát triển, mang đậm tính tư biện và triết lý. Khi luận chứng về tính tất
yếu của cương thường danh giáo, các nhà Tống Nho đã vất bỏ lập luận "vương
đạo thông tam" có phần đơn giản và thô thiển của Đổng Trọng Thư. Thay vào đó,
họ đưa ra khái niệm "thiên lý" siêu hình để nói về tính thống nhất của thế giới tự
nhiên và các hiện tượng xã hội. Họ nhấn mạnh thế giới hiện tượng có một
nguyên nhân cuối cùng là "thiên lý". Phạm trù cốt lõi này là một sáng tạo của
Tống Nho, như chính một nhân vật quan trọng trong số họ đã tự nhận : "Cái học
của ta tuy có chỗ tiếp thu từ nơi này nơi khác, nhưng riêng hai chữ "thiên lý" thì
thực do tự ta thể nhận ra" (Trình Hạo ngữ. Nhị Trình ngoại thư, Q. 12).
Sang đời M inh, Vương Thủ Nhân (1472 – 1529) xuất hiện với tư cách một
nhà triết học "đi ngược lại truyền thống" (phản truyền thống). Khác với Tống
Nho, ông cho rằng cái "lý" của muôn sự muôn vật đều ở trong tâm ta. Và cũng
không giống với các nhà Lý học Trình Chu, ông chủ trương : "hiểu biết và hành
động gắn với nhau làm một". Dù vậy, Vương Thủ Nhân vẫn đứng trong hàng ngũ
những nhà "Lý học" nổi tiếng đương thời, các triết thuyết của ông đã góp phần
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 6
làm cho Nho giáo thời kỳ Tống Minh trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã
hội Trung Quốc kể từ đầu đời Minh cho đến cuối đời Thanh.
2. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Việt Nam
2.1 Nho giáo Việt Nam từ buổi đầu du nhập- đến hết thế kỷ XIV
Vào cuối thời Tây Hán và đầu thời Đông Hán, cùng với chính sách cai trị
và "Hán hóa" vùng đất nước cổ Việt Nam thời đó gọi là Giao Chỉ, Cửu Chân, văn
hóa Hán bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam, với tên tuổi hai viên quan mà sử
sách Việt Nam cũng như sử sách Trung Quốc đều ca ngợi họ có công lao trong
việc "khai hóa" lễ nghĩa, mở mang phong tục mới...là Tích Quang và Nhâm
Diên. Nho giáo là một thành phần của văn hóa Hán, tất nhiên cũng sớm có mặt
tại Việt Nam như là một công cụ Hán hóa nước Việt. Nhưng sự hiện diện tương
đối rõ nét của Nho giáo ở nước ta có lẽ chỉ thật sự bắt đầu vào cuối đời Đông
Hán với vai trò tích cực của Sĩ Nhiếp (187-226 Cn) trong việc làm cho nước ta
"thông thi thư, tập lễ nhạc" như sử thần Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV) từng bình luận
trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Ở Trung Quốc từ sau loạn Vương Mãng (năm 27 tr.Cn) trở đi tới cuối đời
Đông Hán, rất đông sĩ phu nhà H án liên tục tránh nội nạn chạy sang cư trú ở Việt
Nam. Thí dụ vào thời Sĩ Nhiếp có hàng trăm danh sĩ nhà Hán bỏ sang Việt Nam
nương nhờ Sĩ Nhiếp. Những sĩ phu trí thức này trở thành lực lượng quan trọng
trong quá trình truyền bá Nho giáo ở Việt Nam.
Từ thời Tích Quang-Nhâm Diên rồi Sĩ Nhiếp đến trước đời Đường (618-
907Cn), Nho giáo được truyền bá sang Việt Nam là H án nho.
Từ thời Tùy-Đường thống trị Việt Nam đến khi Ngô Quyền giành lại được
quyền độc lập năm 938, Nho giáo cùng văn hóa Hán vẫn tiếp tục được truyền bá
sang Việt Nam, nhưng trong mấy trăm năm này, diện mạo Nho giáo như thế nào
sử sách không ghi chép. Trong khi đó ở Giao Châu (tức là ở Việt Nam) mà nhà
Đường đổi làm An Nam đô hộ phủ, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, kết hợp với
Đạo giáo phù thủy phổ biến tràn lan.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 7
Trong hàng nghìn năm bị lệ thuộc phong kiến phương Bắc, Nho giáo được
đưa vào Việt Nam chủ yếu với tư cách là công cụ phục vụ cho chính sách cai trị
và đồng hóa Việt Nam về văn hóa, nghĩa là người Việt Nam tiếp nhận Nho giáo
vẫn với thái độ thụ động.
Nho giáo chỉ được người Việt Nam chủ động thừa nhận như là một văn hóa
chủ thể và xác lập địa vị cao của nó khi nền độc lập dân tộc được hoàn toàn ổn
định vững chắc và đi vào phục hưng dân tộc ở vương triều Lý bắt đầu từ năm
1010 – năm triều Lý dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội ngày
nay).
Năm 1070, dưới thời Lý Thánh Tông (1054-1072), triều đình cho xây miếu
thờ Khổng Tử, tức Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, phụ thờ Nhan Uyên, Tăng
Tử, Tử Tư, Mạnh Tử là 4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử cùng 72 người học trò
giỏi khác của Khổng Tử, định ra nghi lễ bốn mùa cúng tế. Bên cạnh đó là Quốc
tử giám, nơi các hoàng thái tử đến học tập.
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128) triều đình cho mở
khoa thi Minh kinh bác sĩ và thi Nho học tam trường.
Hai sự việc này trở thành cái mốc quan trọng đánh dấu một bước phát triển
có ý nghĩa lịch sử đối với vai trò của Nho giáo trong đời sống văn hóa, giáo dục
ở Việt Nam.
Khổng miếu và Quốc tử giám được xây dựng chính thức mở đầu cho nền
giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt Nam, nhưng dưới triều Lý (1010-1225) và
triều Trần (1225-1400), Phật giáo giữ vai trò Quốc giáo. Bộ mặt văn hóa Việt
Nam thời Lý - Trần là văn hóa Phật giáo.
Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn cuối triều Trần và triều Hồ (1400-1407) là
Tống Nho, song diện mạo tư tưởng chưa thật rõ nét.
Tóm lại, Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam trong hàng ngàn năm Bắc
thuộc, chủ yếu là Hán nho. Từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XV, Tống Nho chi
phối ảnh hưởng ở Việt Nam. Nhưng nhìn chung, Nho giáo ở Việt Nam trong suốt
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 8
thời kỳ dài hơn 1000 năm đó, Hán Nho cũng như Tống Nho, diện mạo tư tưởng
đều chưa được thể hiện rõ nét.
2.2 Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV- đến đầu thế kỷ XX
Năm 1406, đế quốc M inh đem quân xâm lược Việt Nam. Năm 1407, cuộc
kháng chiến của triều Hồ thất bại. Nhà Minh đổi nước Việt thành quận Giao Chỉ,
rồi chia ra phủ, vệ, thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành đồng hóa mạnh mẽ.
Nhằm Hán hóa Việt Nam về văn hóa, tư tưởng, nhà Minh cho lập Văn miếu thờ
Khổng Tử ở các phủ, châu, huyện trên toàn quốc và bắt các địa phương xây
nhiều đền miếu thờ cúng, cầu đạo theo nghi lễ Trung Quốc. Đạo sĩ thầy cúng
được khuyến khích hành nghề khắp nơi. Để đào tạo ra những người biết chữ
phục vụ bộ máy thống trị của nhà M inh tại Việt Nam, nhà M inh cho mở trường ở
các phủ, châu, huyện. Mở trường dạy học nhưng không có thi cử. Hàng năm,
quan lại đô hộ nhà Minh chỉ lựa chọn lấy một số học sinh đủ tiêu chuẩn rồi sử
dụng.
Nội dung chương trình dạy và học hoàn toàn theo sách giáo khoa của nhà
Minh, gồm có Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học), Ngũ kinh
(Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) và Tính lý đại toàn,
tức là bộ sách do nhóm Hồ Quảng theo lệnh vua Minh soạn, gồm 70 quyển, thâu
thái thuyết Tống Nho bàn về hơn 100 nhà, chia thành môn loại như lý khí, quỷ
thần, tính lý, thánh hiền...
Những sách vở này được chở từ Trung Quốc sang Việt Nam cấp phát cho
các thôn, huyện. Giảng dạy tại các trường học ở phủ, châu, huyện, chủ yếu là
thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ được nhà Minh tuyển dụng, phong làm Giáo quan.
Sau khi đánh đuổi hết quân Minh, giải phóng đất nước, vương triều Lê
chính thức được thiết lập (1428) và bắt đầu công việc xây dựng, phát triển nền
văn hóa độc lập dân tộc.
Việc đầu tiên Thái Tổ Lê Lợi (1428-1433) làm là sai quan đi tế các thần
linh ở núi sông, đền miếu ở các xứ trong nước và lăng tẩm của các triều đại
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 9
trước. Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến việc phong thần, muốn mượn uy danh
thần linh bảo vệ vương triều và đất nước được bình yên.
Năm Đinh Tỵ (1437), Lê Thái Tông (1434-1442) tiến hành gia phong các
thần linh trong nước và tổ chức tế lễ, khấn cáo long trọng. Đến thời Lê Nhân
Tông (1443-1459) năm Kỷ Tỵ (1449), triều Lê cho lập các đàn thờ Đại thành
hoàng ở kinh thành Thăng Long, thờ thần Gió, thần Mây, thần M ưa, thần Sấm để
bảo vệ kinh thành.
Một mặt tôn thờ thần linh, mặt khác để thống nhất tư tưởng xã hội, thống
nhất văn hóa, củng cố đời sống tinh thần, nhà Lê đã chủ động chọn Nho giáo làm
ngọn cờ tư tưởng của vương triều phục vụ cho công cuộc xây dựng chế độ phong
kiến trung ương tập quyền.
Lê Thái Tông lên ngôi năm Giáp Dần (1434). Thái Tông đã họp triều đình
bàn định việc mở khoa thi Tiến sĩ và đưa ra điều lệ thi Hương, thi Hội cùng phép
thi ở các kỳ. Nhưng phải tới tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442), thời Lê Nhân Tông,
triều Lê mới chính thức cho thi đối sách ở sân điện để lấy Tiến sĩ và cũng bắt đầu
cho dựng bia khắc văn nói về việc mở khoa thi Tiến sĩ, khắc tên những người đỗ
Tiến sĩ. Khoa thi Tiến sĩ năm Nhâm Tuất là cái mốc quan trọng xác lập vị trí độc
tôn của Nho giáo ở Việt Nam hồi thế kỷ XV. Để tỏ rõ lòng tôn sùng Nho giáo,
vào tháng 2 mùa xuân năm Ất Mão (1435), vua Lê Thái Tông cho chọn ngày
Thượng đinh, sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn miếu,
vị tổ khai sáng ra Nho giáo, từ đấy về sau định làm thường lệ. Văn miếu thờ
Khổng Tử tại các lộ được Nhà nước cấp phu trông nom quét dọn. Đạo đức Nho
giáo như lòng trung với vua, sự tiết hạnh của phụ nữ được cổ vũ, tuyên dương.
Nho giáo ở thời Lê thế kỷ XV đến triều Thánh Tông Thuần Hoàng đế (1460-
1497) thì đạt tới đỉnh cao thịnh vượng.
Đến đời Lê Thánh Tông, diện mạo của Nho giáo đã rõ ràng với những đặc
điểm khá cụ thể, dễ nhận biết. Người xưa học Nho giáo có hai phép: học nghĩa lý
và học từ chương. Học từ chương là học kinh nghĩa, thơ phú, văn sách, cốt để đi
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 10
thi làm quan. Cũng gọi là học khoa cử. Còn học nghĩa lý là học chuyên sâu vào
huấn hỗ học, lý học, Hán học,...với mục đích dò tới nguồn gốc của Nho giáo.
Để tôn vinh Nho học, tôn vinh người đỗ đạt và để biểu thị lòng quý trọng kẻ
sĩ chân Nho của triều đình, Lê Thánh Tông cho dựng bia khắc tên họ những
người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442) đời Thái Tông trở đi đặt tại
nhà Quốc học.
Có thể thấy từ nửa sau thế kỷ XV, dưới sự bảo trợ của triều đình, hệ tư
tưởng Nho giáo ngày càng phát huy tác dụng và trở thành hệ tư tưởng chủ đạo
trong xã hội. Phật giáo, Đạo giáo ... cũng từ đó bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Và
được kéo dài mãi ở Việt Nam cho đến tận cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Xét về tính chất, thì Nho giáo Việt Nam từ Lê sơ cho đến cuối Nguyễn chủ
yếu vẫn là "Lý học" đời Tống.
Như vậy Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm, nhưng có
vị trí chi phối và phát triển cao nhất từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 20 được
xem như là quốc giáo ở Việt Nam, đến năm 1919 khoa cử nho học bị bãi bỏ.
II. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết
về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về
đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo
1.1 Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời
nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng
bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
• Đại học: Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào
bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 11
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa
cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chỗ chí
thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri,
thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân
tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ
nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai
cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
• Trung Dung: sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng
Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo
“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức
trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách
Luận Ngữ và M ạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
• Luận Ngữ: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những
lời nói của người đương thời, cách đây hơn 2500 năm, các học trò của nhà tư
tưởng và triết học Khổng Tử đã cố gắng tìm tòi ghi lại từng mảnh rời rạc và từng
câu chuyện rời rạc về cuộc đời và những lời dạy của ông. Những ghi chép phần
lớn dựa trên những bài thuyết giảng, sau này được tổng hợp lại thành sách “ Luận
Ngữ”. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và
các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất
tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu
hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ,
từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho
mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ
của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 12
• Mạnh Tử: sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi M ạnh Tử và các môn đệ của
ông như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những
điều đối đáp của M ạnh Tử với các vua chư hầu, giữa M ạnh Tử và các học trò
cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học
thuyết của M ặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần:
Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự
giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó
để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho
người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái
Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có
sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương
tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. M ạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên,
cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
- Chính trị học: M ạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang
thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy
dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật
pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó.
Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của
dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy
nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô
cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân
chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình
thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
1.2 Ngũ Kinh
• Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình
yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình
cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. M ột lần,
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 13
Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng
Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận Ngữ).
• Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân
như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
• Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh
Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
• Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên
các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải
thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa
của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch.
Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là
Thoán truyện và Hào truyện.
• Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước
nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để
giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu,
thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm
đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy
ra).
• Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít
làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại
ngũ kinh.
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã
hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 14
ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo".
2.1 Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ
Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội
giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
• Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ:
Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành
một dạ.
Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng
phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ
vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
• Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhân: Được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người, chi
phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội. Khổng Tử cho rằng nhân
là lòng thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử cho rằng nhân là lòng trắc ẩn.
Nói chung, nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người.
Nghĩa: Được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm
điều đó có đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không.
Lễ: Được hiểu là luân lý đạo đức, như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp
sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội, trước lễ nghi, trật tự, kỷ
cương.
Trí: Được hiểu là sự sáng suất nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu đạo trời,
đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 15
Tín: Được hiểu là lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau.
• Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
• Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là t ính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
Công: khéo léo trong việc làm.
Dung: hòa nhã trong sắc diện.
Ngôn: mềm mại trong lời nói.
Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
• Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung),
tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là
Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung".
Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ
quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
• Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói:
"Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau,
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân,
nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là Ngũ thường.
• Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân
tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn
văn hóa toàn diện.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 16
2.2 Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn -
trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ
nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
• Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người
và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng
Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm
cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý,
đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không
có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
• Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không
thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với
vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và
đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi,
thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà
không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo
đức thì được gọi là t iểu nhân (như dân thường).
Tóm lại, quan điểm đạo đức- chính trị- xã hội của Nho giáo (Khổng -
Mạnh) là xây dựng mẫu người quân tử (xem người quân tử là giai cấp thống trị).
Muốn trở thành người quân tử không chỉ có tu thân, dù tu thân là gốc mà phải
biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. M uốn hành động hiệu quả người
quân tử thực hành đường lối nhân trị- cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người,
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 17
coi người như bản thân mình và chính danh- cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ. Hạn chế lớn nhất của Nho giáo
là xem nhẹ khoa học tự nhiên và lao động sản xuất, chưa hiểu được tầm quan
trọng của pháp luật, xem nhẹ quần chúng nhân dân tức kẻ “tiểu nhân”…
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐ NG VĂN HOÁ TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam thời kỳ trước cách mạng
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu
Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó
nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí
Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết
sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa
Việt Nam.
Suốt thời Hạ Thương và lâu sau hơn nữa, nước Văn Lang của tộc người
Lạc Việt ở miền sông Hồng đã thành một thực tế lịch sử. Ngay cả nhà Chu cũng
chưa hề với tay tới đất nước của vua Hùng, của lạc hầu, lạc tướng, lạc dân. Nhà
Tần khi đã thôn tính lục quốc thì có sai quân mom men xuống miền xa lạ cực
nam tiếp giáp với Văn Lang, Âu Lạc, nhưng bị đánh bật ra ngay. Vậy thuở ấy
làm gì ở nước ta có hơi hám Nho giáo tuy ở phương Bắc đức Khổng cùng môn
đồ đã làm nhiệm vụ sáng lập Khổng giáo rồi.
Đến nhà Hán được dựng lên ở Trung Nguyên, rồi Nam tiến, sáp nhập
Nam Việt của họ Triệu, mà Nam Việt của họ Triệu thì đã đánh chiếm Âu Lạc, thì
từ đó bắt đầu thời kỳ gọi là Bắc thuộc của lịch sử dân tộc Việt Nam, không còn
Văn Lang, Âu Lạc nữa, nước ta trở thành Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam đô hộ
phủ của Hán, Đường, Ngô… suốt thời gian dài hàng ngàn năm. Đến thế kỷ thứ X
sau Công nguyên mới dứt Nam Hán. Trong giai đoạn giữa và giai đoạn sau của
thời kỳ Bắc thuộc, đã có những nhà cai trị và có nhiều nhân sĩ Bắc phương lánh
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 18
nạn, tránh loạn chạy xuống Giao Châu tìm nơi nương náu và sống bằng nghề dạy
học, thì từ đó Nho giáo mới có những hạt giống đầu tiên ở sứ sở này, cũng từ đó
đã vào nước ta những tư tưởng như Đạo giáo của Trung Quốc, như Phật giáo của
Ấn độ, những tôn giáo này lắm lúc trộn lẫn với Nho giáo mà thường dễ thâm
nhập dân gian hơn là Nho giáo. Cần chú ý rằng, so với Phật và Đạo, thì trong
phạm vi thời Bắc thuộc, Nho giáo rất ít được đi vào các tầng lớp xã hội bản xứ,
có lẽ bởi vì muốn học Nho thì cần phải biết chữ Hán, mà chữ hán thì khó đọc
lắm, còn theo Phật, theo Đạo thì chỉ cần có lòng tin, mà tín ngưỡng dân gian
không phải xa xăm gì lắm với Phật giáo, “quyền năng và phù phép” đạo giáo. Lý
do chính cắt nghĩa được vì sao trải từ Tiền Hán đến Nam Hán, người Việt Nam
rất ít thấm Nho giáo là ở chỗ Nho giáo dính liền với nhà cai trị, với kẻ cầm quyền
ngoại bang. Thời kỳ dài Bắc thuộc đó ít có những người Việt học thành đạt tại
Trường An; trái lại thì có rất đông nhà sư và phật tử tổ chức, tham gia các cuộc
khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ. Lịch sử ghi danh chỉ một nhà khoa bảng
Việt đỗ đạt ở Trường An mà giữ chức gác cổng thành nên bực tức về Nam hợp
tác với Lý Bí khởi nghĩa.
Các triều đại đầu tiên của Việt Nam độc lập đều xa lạ với Nho giáo hay là
không gần gũi với Nho giáo. Ở các triều đình này, không phải nhà nho mà nhà sư
(Phật hay Đạo) đóng vai trò chính. Phật giáo khi ấy là quốc giáo. Nhà Lý xuất xứ
từ cửa Phật. Các vua Trần là người sáng lập Thiền Tông Việt Nam, Nho giáo
chưa có thế lực lớn. Nhưng khi đã có một chính quyền phong kiến tập trung, ở
bên cạnh Trung Quốc, thì sớm hay muộn, từ từ hay mau chóng, cũng chính thức
du nhập bởi vì Nho giáo là một cách trị quốc đã tỏ ra hữu hiệu từ cả ngàn năm.
Nó cũng là một cách để tu thân, tề gia, tạo được sự an bình trong xã hội. Cho nên
từ triều Lý đã thấy nhà vua lập Văn Miếu thờ Khổng Tử và các học trò xuất sắc
của ông ở Thăng Long. Trong lúc Phật giáo còn là quốc giáo thì suốt thời kỳ Lý
Trần thực lực của Nho giáo ở triều đình và trong dân càng ngày càng phát triển
như một tất yếu lịch sử Việt Nam.
Nho giáo chiếm lĩnh vai trò trong nhà nước Việt Nam độc lập, từ triều Lê
(thế kỷ XV) sau khi tầng lớp nho sĩ dân tộc đã lập công lớn trong cuộc kháng
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 19
chiến dài 20 năm đánh đuổi quân M inh xâm lược. Bình Ngô Đại Cáo của
Nguyễn Trãi, Lê Lợi, về mặt văn hóa chính trị, có thể được xem là cái vương
miện để trao cho Nho giáo Việt Nam.
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Xét về mặt nguồn gốc lịch sử thì Nho giáo ở
Việt Nam, cũng tựa như Nho giáo ở các nuớc Á Đông khác, là một nhánh Nho
giáo mà gốc là Nho giáo Trung Quốc. Có thể nhận thấy rằng Nho giáo (hay bất
cứ tôn giáo nào) du nhập một nước có văn hiến thì phải uốn mình theo văn hóa
nước đó; vừa uốn mình theo, vừa đóng góp vào nhiều hay ít, cụ thể như thế nào
tùy khả năng tiếp thu và sáng tạo của mỗi dân tộc. Tiếp thu mà không sáng tạo
thì cả văn hóa và dân tộc đều sẽ mất. Việt Nam tiếp thu Nho giáo phương Bắc mà
sáng tạo Nho giáo của mình chứ không phải sao chép thuộc lòng Khổng Mạnh,
Hán nho, Tống nho…
Đặc điểm nổi bật của Nho giáo Việt Nam là sống chan hoà với Phật giáo,
Đạo giáo và những tín ngưỡng dân gian.
1.1 Ảnh hưởng tích cực
Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng
một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và
kinh tế quốc gia.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học
nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam
đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp
luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy
tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi
trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao
văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm
“học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị
trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 20
điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong
đó có Việt Nam. Nền Nho học phát triển đã giáo dục, đào tạo và cung cấp
được nhiều nho sĩ trí thức có tài năng vào làm việc cho bộ máy chính quyền
các cấp từ trung ương tới địa phương, đáp ứng được yêu cầu nhân lực xây
dựng một chế độ phong kiến tập quyền đang lên mạnh mẽ.
Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng
đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày
càng phát triển văn minh hơn.
Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn,
có tôn tri trật tự… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới
tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền
chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-
vợ, anh-em, bạn-bè”.
Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây
dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn
đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ
quốc và trung hậu với nhân dân.
Nhân nghĩa trong Nho giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề
tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với
Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải
đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải
nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo.
Nho giáo với luân lý đạo đức "Tam cương" đã góp phần quan trọng đưa xã hội
Việt Nam thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI (nói riêng) đi vào khuôn phép chặt chẽ
từ trung ương xuống địa phương, làng xã theo luật lệ quy định rõ ràng: bày tôi
phải trung thành với vua (vua phải ra vua, bày tôi phải ra bày tôi), con phải có
hiếu với cha mẹ, vợ phải giữ tiết tháo với chồng, anh em phải hòa thuận...
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 21
Nho học là một nền giáo dục có tinh thần dân chủ cao. Mọi tầng lớp trong xã
hội không phân biệt giàu nghèo đều có thể đi học, đi thi đỗ đạt làm quan. Nhà
nho luôn luôn nêu cao phương châm cao quý của Khổng Tử là "dạy không
mệt, học không chán".
1.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng
cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài
xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi
mua bán, kìm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong
cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó
tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến
đất nước không thể phát triển.
Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.
Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà
không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm
được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn
minh, khoa học tự nhiên, kỹ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại
so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau.
Nho giáo coi trọng nam, khinh nữ “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,
không tạo điều kiện cho người phụ nữ học tập và tham gia vào các công việc
xã hôi, tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, tư tưởng này ngày nay vẫn
còn ảnh hưởng, biểu hiện là nhiều người muốn sinh con trai và tỷ lệ trẻ sơ sinh
giữa nam và nữ mất cân đối, có nguy cơ dẫn đến bất ổn trong tương lai.
Về nội dung học tập bao đời chỉ có thơ phú, văn sách, lại gò bó trong khuôn
mẫu công thức nên đã tạo ra cho người học một đầu óc chỉ biết bắt chước, mô
phỏng, học vẹt, không dám sáng tạo, phát kiến; tư duy thì viển vông... M ục
đích học tập duy nhất là "học để làm quan" (học tắc sĩ).
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 22
Nền giáo dục khoa cử Nho học ở Việt Nam đã chấm dứt hàng trăm năm rồi.
Nhưng cái di sản tiêu cực ấy của nó cho đến hôm nay dường như vẫn chưa
được gột tẩy hết trong tư duy, trong tâm lý người Việt Nam. Đó là tư tưởng
chạy theo bằng cấp.
Tư tưởng của Nho giáo là xem nhẹ vai trò của người dân, coi người dân chỉ là
kẻ tiểu nhân, kẻ thống trị là người quân tử, tư tưởng này nó đã tạo nên sự phân
biệt và đối xử giữa các giai cấp trong xã hội, tạo nên sự mất công bằng trong
xã hội, dẫn đến sự đấu tranh giữa các giai cấp.
Tư tưởng của Nho giáo đã ăn sâu vào con người Việt Nam là học để “làm qua-
một người làm quan cả họ được nhờ ”, chính tư tưởng này nó cũng gây nên
nhưng tiêu cực trong xã hội, đó là nhờ thân quen, tạo ra bè phái, người có tri
thức, nếu không thân quen sẽ khó phát triển, tạo tính thiếu năng động trong
con người đặc biệt trong giới trẻ.
2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam
Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp
đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên
thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một
sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ
xâm lược.
Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối
đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỹ thuật, tiềm năng kinh
tế, tổ chức quân đội và vũ khí tối tân. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư
tưởng và hành động.
Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng
suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy
những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí
Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận
lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 23
mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ
phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.
Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn
dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”,
phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã
xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô
địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc.
Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ
chỗ khinh rẻ phụ nữ đến chỗ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình.
Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ
cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý
đất đai.
Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi
không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin
vào thanh niên và tiền đồ dân tộc.
Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu
của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà
giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ
chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong
quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều
câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo,
nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân
đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh
thần mưu trí và sáng tạo.
3. Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời đại ngày nay ở Việt Nam
Cách mạng Việt Nam thành công, xóa bỏ chế độ phong kiến, xoá bỏ hệ tư
tưởng Nho giáo, xây dựng xã hội mới với những chuẩn mực đạo đức mới. Trong
xã hội mới không còn quan hệ Vua – tôi, không còn nghĩa vụ trung với vua song
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 24
những quan hệ khác như quan hệ vợ chồng; anh em; cha con, bạn bè, thầy trò vẫn
còn tiếp tục được duy trì. Các trách nhiệm, nghĩa vụ của con người đối với con
người trong xã hội vẫn được nhấn mạnh, những biểu hiện của tính nhân dân vẫn
tiếp tục được ngợi ca, bảo tồn và duy trì. Vì vậy trong suốt mấy chục năm qua,
dù không được cổ vũ, thậm chí có thời gian nó còn bị xã hội ra sức bác bỏ nhưng
trên thực tế, tư tưởng đạo đức Nho giáo vẫn âm thầm ảnh hưởng đến xã hội, con
người Việt Nam.
Con người Việt Nam hiện nay phải đi lên bằng hai chân, một bên là tri
thức hiện đại, kỹ năng kỹ xảo của công nghiệp mới, khả năng linh hoạt thông
minh, biết chiến thắng, biết làm giàu, một bên là nhân cách nhân bản. Trong nền
kinh tế thị trường, khi qui luật giá trị dang chi phối hoạt động xã hội, đồng tiền
làm chao đảo mọi quan hệ, cách nghĩ, cách làm truyền thống, nếu cứ để nó phát
triển một cách tự phát, xã hội sẽ đi vào vết xe đổ của những nước phát triển đi
trước là một hiện thực mà các nhà nghiên cứu xã hội đã cảnh tỉnh. Trong cơn lốc
của nền kinh tế thị trường cần chủ động phát huy những ảnh hưởng của giá trị
nhân bản trong văn hoá truyền thống làm sức mạnh nội sinh để có thể gạn đục,
khơi trong, cản phá nhiều luồng gió độc tràn vào từ bên ngoài nhằm lành mạnh
hoá xã hội.
Nho giáo dạy rằng, khi thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa. Quan điểm đó cũng
phù hợp với quan niệm truyền thống của người Việt xưa và nay, cha ông ta luôn
sống và hành động theo phương châm đó. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay
người ta chỉ nhớ đến một qui luật giá trị, chạy theo lợi nhuận. Vì vậy, một mặt
cần khuyến khích con người hoạt động theo qui luật giá trị nhưng cũng cần có
một tiếng nói nhân bản khác để hạn chế những ham muốn vật chất thái quá mà
bất chấp đạo lý. Tham gia vào quá trình dó, tư tưởng nhân nghĩa truyền thống
của Nho giáo là một nhân tố đáng kể để hạn chế mặt trái trong nền kinh tế thị
trường.
Cùng với tư tưởng nhân nghĩa, quan niệm Trung- Tín vốn bắt nguồn từ
Nho giáo cũng để lại những ảnh hưởng tích cực. Nho giáo qui định kẻ làm tôi
phải có nghĩa vụ trung với vua, là bạn bè phải giữ chữ tín cho nhau - ấy là đạo
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 25
làm người. Trong xã hội phong kiến tư tưởng này được cha ông tiếp nhận, đưa nó
vào phổ biến trong cuộc sống và đã trở thành những giá trị hết sức gần gũi, đáng
trân trọng của người Việt. Trong văn hoá ứng xử, người Việt luôn đề cao, quí
trọng những người có tấm lòng trung chính, tín nghĩa, lên án những kẻ bội bạc,
giả dối. Trong xã hội hiện nay sự trung chính, tín nghĩa cũng cần được coi trọng,
đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi chữ tín không chỉ là giá trị đạo đức mà
nó còn bao hàm cả ý nghĩa kinh tế “uy tín quý hơn vàng”. Việc giữ gìn chữ tín
trên thương trường là một trong nhiều nhân tố tạo nên sự phát triển ổn định.
Những giá trị của Nho giáo về hiếu cũng ngày càng được phát triển, con
cái phải có hiếu với bố mẹ, ông bà, phải biết hướng về cội nguồn, nó đã thấm sâu
vào trái tim con người Việt Nam, “ dù ai đi ngược về xuôi nhớ ngày dỗ Tổ mùng
mười tháng ”, đó là những câu nói đã ăn sâu vào tâm hôn người Việt, và nó đã đi
vào cuộc sống của từng người con đất Việt.
Đặc biệt là ảnh hưởng của Nho giáo về tinh thần hiếu học của người Việt
Nam được kế thừa từ xưa và đến nay vẫn còn giữa được nguyên giá trị đã ăn sâu
vào tiềm thức của mỗi người dân, những tấm gương những học sinh Việt Nam đi
thi đạt giải quốc tế ngày càng nhiều.
Như vậy những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo sẽ vẫn mãi còn ảnh
hưởng và sống mãi trong lòng người dân Việt Nam, đặc biệt gần đây Chính phủ
đã ký quyết định cho thành lập Học Viện Khổng Tử, điều này cho thấy những tư
tưởng của Khổng Tử vẫn còn rất nhiều giá trị trong xã hội ngày nay và cần được
nghiên cứu để phát huy những mặt tích cực.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 26
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh đã dậy “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có con
người xã hội chủ nghĩa”. Ngày nay chúng ta muốn thực hiện công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải đào tạo được những con người đáp ứng được
những yêu cầu của thời kì mới. Con người ấy chịu sự tác động của rất nhiều yếu
tố: gia đình và xã hội, truyền thống và hiện đại, tín ngưỡng, dân tộc và quốc tế
...đặc biệt là về mặt đạo đức.
Trong lịch sử Việt Nam, Nho giáo cùng các tư tưởng khác như Phật giáo,
Đạo giáo, Đạo Thiên Chúa… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống văn hoá
tinh thần người Việt. Đến nay, Nho giáo đã có mặt ở Việt Nam khoảng 2000 năm
và cũng trải qua nhiều thăng trầm. Người Việt Nam, xã hội Việt Nam tiếp nhận
Nho giáo từ thế bị động sang thế chủ động, từ thái độ tiêu cực sang thái độ tích
cực. Do nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền, giai cấp phong kiến Việt Nam đã tìm thấy ở Nho giáo những điểm tương
đồng về mục đích, về văn hóa và cả về tư tưởng, vì vậy Nho giáo lúc đầu là hệ
tưởng của kẻ đi xâm lược sau lại trở thành công cụ để chống lại kẻ đi xâm lược
và trở thành vũ khí tinh thần đắc lực cho giai cấp phong kiến Việt Nam trên con
đường củng cố địa vị của mình. Trong một thời gian dài, Nho giáo là hệ tư tưởng
chính thống của nhà nước phong kiến, mọi chính sách đối nội, đối ngoại đều lấy
Nho giáo làm ngọn đuốc soi đường. Tư tưởng của Nho giáo đã ảnh hưởng lớn
đến đời sống văn hoá tinh thần người Việt trên tất cả các lĩnh vực.
Tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết và đồng lòng của toàn
dân, trên cơ sở giữ gìn truyền thống, văn hoá dân tộc nói chung và truyền thống
tư tưởng Nho giáo nói riêng, đất nước ta ngày càng giàu mạnh, để tạo cơ sở vững
chắc đi lên con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã chọn.
Tiểu luận triết học GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đại cương lịch sử triết học - TS Nguyễn Ngọc Thu và TS Bùi Văn
Mưa (đồng chủ biên)- Nhà xuất bản tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2003
2. Khổng tử tinh hoa - Hoàng Phú Phương và Mai Sơn (dịch)- Nhà xuất bản trẻ,
2009.
3. Khổng Tử - Nguyễn Hiến Lê- Nhà xuất bản văn hoá – thông tin, 2001.
4. Nho giáo - Trần Trọng Kim, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
5. Nho giáo xưa và nay - Vũ Khiêu, Nxb - KHXH – Hà Nội, 1991.
6. Nho giáo và phát triển ở Việt Nam - Vũ Khiêu, Nxb. Khoa học xã hội Hà
Nội, 1997
7. Luận Ngữ - Đoàn Trung Còn (dịch ) NXB Sài Gòn, 1950.
8. Tham khảo một số bài viết và tài liệu về Nho giáo trên diễn đàn
www.caohockinhte.info
9. Tham khảo một số bài hội thảo KH về Nho giáo trên www.hannom.org.vn
10. Tham khảo một số tạp chí nói về Nho giáo trên www.vientriethoc.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai2_dinhvanbinh_d1k19_5028.pdf