Đề tài Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt (4)

Những nghi thức ứng xử hàng ngày, nh ững lời răn dạy của ông cha, những gia huấn, gia giữ đ ược lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha mẹ trong nhàgắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong h ọ, việc xây dựng nh à thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít hơn m ối quan hệ trong gia đ ình, gia t ộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của t ình ng ười nảy sinh từ đó. Sư giáo dục cùa Nho giáo l ấy lễ làm biện pháp đ ã đạt được tới mức đo sâu sắc ở chổnó thành tiêu chu ẩn để đánh giá h ành vi của con người. Nho giáo đ ã huy động được dư luận toàn thểxãhội, biết quí trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ và điều này đãđi vào sâu lương tâm của con ng ười. Viphạm lễtrở thành điều đau khổ, đán g sỉ nhục, thậm chí đến mức phải chết chứ không bỏ lễ.

pdf19 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3086 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt (4), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BAÙO CAÙO TIEÅU LUAÄN MOÂN TRIEÁT HOÏC Ñeà taøi: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA SVTH : Nguyeãn Thò Thuùy An LÔÙP CAO HOÏC D1 K19 Thaùng O2/2010 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP HOÀ CHÍ MINH NGAØNH QUAÛN TRÒ KINH DOANH KHOA ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC LỜI MỞ ĐẦU Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa v à tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo. Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các t ư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa l à thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời khiến việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng t ìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông. Ngày nay chúng ta thường nghe nói “Quốc có quốc pháp,gia có gia phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con ng ười Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời còn là biểu tượng tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hóa. Vì vậy mà tư tưởng triết học của nho giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của ng ười Việt. I. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO. Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chu Công,Khổng Tử đ ã tạo ra một trường phái tư tưởng mới được gọi là Nho gia và sau này được nâng lên thành Nho giáo. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử h ình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh. Nho giáo tiền Tần không phát triển mạnh vì lúc bấy giờ trong thời kỳ loạn lạc chiến tranh, mà tư tưởng chính trị trong học thuyết Nho giáo của ông thiên về hòa bình, dùng chữ Nhân để trị nước nên không được các nhà vua trọng dụng, vì vậy lúc bấy giờ tư tưởng của ông chỉ được truyền bá cho những học trò theo Nho gia chứ chưa được nâng lên thành một tôn giáo lớn. Mãi đến thời nhà Hán, khi giai cấp phong kiến cần một học thuyết đề cao luân lý đạo đức, đề cao tôn ti trật tự, đề cao đạo vua tôi, vai trò đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến, chính lúc này nó đã cần đến học thuyết của Khổng Tử. Tuy nhiên phải cải tạo lại, phải đề cao thần thánh hóa giai cấp cầm quyền, Đổng Trọng Thư chính là người đã cải tạo lại căn cứ trên cốt lõi của học thuyết Khổng Tử, khoát cho nó thêm màu sắc tôn giáo để nó phù hợp với lợi ích phong kiến, biến nó trở thành học thuyết vừa là luân lý đạo đức, vừa là triết học, vừa là tôn giáo. Chính lúc này Nho giáo đ ã được nâng lên tầm cao nhất trở thành quốc giáo, đồng thời là đường lối trị nước chính của Trung Hoa trong suốt 2000 năm lịch sử của chế độ phong kiến. 1. Tư tưởng triết học trong nho giáo của Khổng Tử: Tư tưởng triết học của Khổng Tử thể hiện tập trung ở ba nội dung: Quan điểm về trời,quỷ thần,con người; học thuyết về đạo đức; tư tưởng chính trị và xã hội. Trước Khổng Tử, quan niệm về trời đã được hình thành tương đối rõ ràng theo hai khuynh hướng : + Khuynh hướng thứ nhất, bắt nguồn từ thế giới quan tín ngưỡng nguyên thủy của người Trung Hoa cổ. Khuynh hướng này cho rằng có một đấng tối cao, đầy uy quyền, cai quản cả quỉ thần, con người và nhân vật đó là trời hay thượng đế. Trời bao bọc khắp nơi, là cái linh diệu quyết định sự biến hóa của muôn vật, làm ra sự sống chết của con người, sự linh thiêng của quỷ thần. Phàm cái đã hiện diện trong vũ trụ, thì không có cái gì thoát khỏi vòng tạo hóa của trời. Có lẽ, vì thế mà việc kính trời sợ trời trở thành một quan niệm mang tính thế giới quan truyền thống của người Trung Hoa, và những tập tục, nghi lễ tế trời, quỷ thần vừa mang tính chất tín ngưỡng, vừa mang tính chất văn hóa trở thành phổ biến đối với họ. Đến đời nhà Thương, quan niệm về Thượng đế được giai cấp quý tộc chủ nô đề cao và trở thành tư tưởng truyền thống được truyền bá rộng rãi trong xã hội. Quan niệm đó đã có sự ảnh hưởng đến các nhà tư tưởng sau này, đặc biệt là Khổng Tử. Từ thời trẻ ông đã nổi tiếng về việc tế lễ, cẩn trọng việc kính trời và quỷ thần. + Khuynh hướng thứ hai trong quan niệm về trời bắt đầu từ bức Hà Đồ của Phục Hy cho đến Chu Dịch đó chính là Thái cực. Quan niệm về Thái cực, âm dương, ngũ hành bao hàm tính chất tự nhiên và phép biên chứng thô sơ chất phát bắt nguồn từ kinh nghiệm đời sống lâu dài của người Trung Hoa đã dần trở thành tư tưởng truyền thống chi phối mạnh mẽ các triết gia Trung Hoa sau này.Quan ni ệm về trời của Khổng Tử bao hàm cả hai khuynh hướng trên một cách phức tạp và mâu thuẫn. Ông cho rằng vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành và biến hóa không ngừng, nguyên nhân sinh thành và biến hóa đó đều bao hàm hai mặt âm dương, vừa đối lập nhau vừa liên hệ tương tác với nhau trong một thể thống nhất là Thái cực.Lực vô hình nhưng mạnh mẽ giữ cho âm dương “trung hòa”, làm cho vũ trụ vạn vật sinh hóa không ngừng, các triết gia Trung Quốc cổ đại và Khổng Tử gọi là đạo hay Thiên lý.Thiên lý là cái huy ền vi màu nhiệm, mạnh mẽ chi phối và định sự sống cho vạn vật, con người mà ta không cưỡng lại được nên Khổng Tử gọi là thiên mệnh “làm sao cải được mệnh trời”. Như vậy trong quan điểm về thế giới khổng Tử đã từ quan niệm về đạo, thiên lý có tính chất duy vật chất phát và biện chứng tự phát, chuyển sang tư tưởng thiên mệnh. Đây chính là bước lùi trong tư tưởng của ông.Tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử bao hàm ba nội dung, đó là: Tri mệnh,sợ mệnh và thuận mệnh. Khổng Tử nói:”Không hiểu mạng trời, chẳng đáng gọi là quân tử - Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” ( Luận ngữ,Nghiêu viết,3). Khi đã biết mệnh trời, theo Khổng Tử phải sợ mệnh trời, bậc chủ tể vũ trụ. “Người quân tử có ba điều sợ : sợ thiên mệnh, sợ người lớn, sợ lời của thánh nhân-Quân tử hữu tam úy;úy thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn”(Lu ận ngữ, Quí thị,8). Từ đó, Khổng Tử rơi vào quan điểm duy tâm, tin vào số mệnh và cho rằng “ Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời - Tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên”( Luận ngữ,Nhan Uyên,5).Tuy nhiên Kh ổng Tử lại không tán thành quan điểm cho rằng con người cứ nhắm mắt dựa vào thiên mệnh.Ông luôn luôn yêu cầu con người học tập, tận tâm, tận lực làm việc, việc thành bại thế nào lúc đó mới là tại trời. Thực chất mâu thuẫn và tính chất hai mặt trong tư tưởng của Khổng Tử là phản ánh những mâu thuẫn thời cuộc.Nhu cầu và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội đã giúp cho Khổng Tử có những quan niệm cấp thiết thoát ly chủ nghĩa thần bí tôn giáo, đặt vấn đề đời sống con người lên hàng đầu để giải quyết.Song do hiện trạng xã hội, cái cũ đã suy tàn và mất vai trò lịch sử nhưng cái mới đang manh nha, cùng với lợi ích giai cấp Khổng Tử lại hoang mang dao động, quay lại với chủ nghĩa duy tâm. Đó là một số hạn chế của Khổng Tử.Ngoài ra tư tưởng đóng vai trò quan trọng hơn, đóng góp lớn hơn của Khổng Tử, đó cũng là nội dung cốt lõi của Nho gia đó là tư tưởng của ông về luân lý đạo đức.Trong hệ thống các phạm trù đạo đức như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung…. Được thể hiện trong mẫu người lý tưởng, toàn trí toàn đức.Những phạm trù đạo đức này không tách rời mà chúng có liên hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề cho nhau tạo thành thể thống nhất. Trong đó chữ “nhân” được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất.Nó được xem là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người thông qua lễ, nghĩa, nó qui định những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến bên ngoài xã hội.Có thể nói các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như một vòng tròn đồng tâm mà chữ “nhân” là tâm điểm. Khổng Tử chọn chữ nhân là phạm trù đạo đức căn bản không phải là ngẫu nhiên, mà ông đã xuất phát từ hai căn cứ: căn cứ lý luận và căn cứ thực tiễn đời sống xã hội.Về mặt lý luận, theo Khổng Tử, theo sự chi phối của đạo,của thiên lý, vạn vật trong vũ trụ biến hóa không ngừng.Sự sinh thành biến hóa ấy của vạn vật là do sự liên hệ tương tác trung hòa, trung dung giữa âm dương trời đất mà có. Vì thế trong thiên Ung dã, sách luận ngữ, ông nói:” Trung dung là cái đ ức cực điểm - Trung dung chi vị đức dã”,”Trung là gốc lớn của thiên hạ,hòa là đạo thông đạt của thiên hạ.Đạt tới trung hòa, ắt mọi người, mọi vật trong trời đất đều được yên ổn trật tự và vạn vật sẽ sinh sản nảy nở một cách thuận chiều”(Trung dung,I).Con người là kết quả bẩm thụ của khí âm dương trời đất mà sinh thành; tuân theo Thiên lý, h ợp với đạo trung hòa, đạo sống của con người phải là đạo trung thứ, nghĩa là sống đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.Đó chính là chữ nhân.Không Tử chọn chữ nhân làm phạm trù đạo đức căn bản trong triết học của mình,còn xuất phát từ căn cứ thứ hai: đó là yêu cầu của thực tiễn xã hội đương thời.Thời kỳ xuân thu mà Khổng Tử sống là thời kỳ đang trải qua những biến đổi sâu sắc, thiên hạ trở thành vô đạo, con người trở nên bất nhân.Nhiệm vụ lịch sử đặt ra với kẻ cầm quyền và các nhà tư tưởng là phải ổn định lại trật tự xã hội, cải hóa con người.Để đáp ứng nhiệm vụ ấy,trên cơ sở triết lý của mình, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân nghĩa để giáo hóa đạo đức con người và cải biến xã hội.Rõ ràng dù Khổng Tử thuộc tầng lớp trí thức không phải là giai cấp lao động, nhưng trong tư tưởng của ông có lòng yêu thương con người với tư cách là người thuộc tầng lớp trên, thống trị cũng đã biết xót thương cho số phận nhân dân, khi ông đề cao chữ nhân.Theo ông tất cả mọi người đều phải có lòng nhân, vua phải có lòng nhân,đó là vua phải có tài đức, quan lại phải có lòng nhân đó là phải trung với vua, yêu dân như con, cha mẹ phải có lòng nhân đó là yêu quí dạy dỗ con cái… nhân là đức hoàn thiện của con người, nên nhân chính là đạo làm người. Đi đôi với phạm trù nhân là phạm trù “Nghĩa”. Nghĩa theo Khổng Tử là việc phải làm theo bổn phận dù trong bất kì hoàn cảnh nào và không vì bất cứ một việc gì. Trong quan điểm về nghĩa, Khổng Tử luôn đối lập với lợi.Ông cho rằng, người có đức nhân, người quân tử làm việc nghĩa, kẻ tiểu nhân mới nghĩ về lợi.Do vậy làm việc nhân nghĩa theo Khổng Tử là trách nhiệm nặng nề, phải làm suốt đời. Người muốn đạt được nhân nghĩa, phải là người có trí và dũng.Theo ông, có thể người có trí mà không có nhân, nhưng không th ể là người nhân mà thiếu trí.Trí ở Khổng Tử chính là trí thức, hiểu biết sáng suốt đạo lý, xét đoán sự việc, phân biệt phải trái, để trao dồi đạo đức là hành động hợp với thiên lý.Nếu không có trí sáng suốt thì chẳng những không giúp được mình mà còn làm hại đến thân mình.Nhưng vì tin theo thiên mệnh nên trong quan niệm về trí, một mặt Khổng Tử tin vào tri thức tiên thiên, cho rằng:”Con người sinh ra tự nhiên đã biết đạo lý,đó là hạng người cao thượng”(Luận ngữ, Quí Thị,9), mặt khác ông lại quan niệm trí không phải là ngẫu nhiên mà có,nó chỉ hình thành khi người ta trải qua quá trình học tập tu dưỡng. Chính ông cũng đã tự nhận:”Chẳng phải ta sinh ra là tự nhiên hiểu biết đạo lý.Thật ta là người hâm mộ kinh thơ của thánh hiền đời xưa,cho nên ta cố gắng mà tầm đạo lý”(Luận ngữ, Thuật nhi,19). Từ đó Khổng Tử đã chủ trương giáo dục con người.Đây là phần lý luận có giá trị quí báu trong hệ thống tư tưởng của Khổng Tử. Nó không chỉ có ý nghĩa với xã hội đương thời mà còn có ý nghĩa với nền giáo dục trong thời đại hiện nay.Nó góp phần xứng đáng vào kho tàng lý luận giáo dục của nhân loại.Theo Khổng Tử, tác dụng của việc học có ý nghĩa rất lớn.Cho nên Khổng Tử nói:” Buổi sáng nghe được đạo lý, buổi chiều dẫu chết cũng vui – Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ” (Luận ngữ, Lý nhân,8).Nội dung giáo dục của Khổng Tử là giáo dục đạo lý nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho con người chứ không phải nghề “làm ruộng, trồng trọt”. Về đối tượng giáo dục, trước xu thế biến đổi của lịch sử, buộc Khổng Tử phải có khuynh hướng tiến bộ, ông chủ trương: “hữu giáo vô loại”(Luận ngữ,Vệ Linh Công,38).Đó là luận điểm giáo dục tiến bộ, nhằm vượt qua giới hạn đẳng cấp danh phận, góp phần làm cho giáo dục mở mang trí thức xuống đến quần chúng ở một phạm vi nhất định. Nhưng do hạn chế của điều kiện ịch sử và địa vị đẳng cấp xã hội, Khổng Tử lại xác định mẫu người lý tưởng có thể hiểu được đạo và thi hành đạo chỉ là người quân tử, kẻ sĩ, không phải là nhân dân lao động, những người ở bậc dưới. Đó là mâu thuẫn mang tính hai mặt hằn sâu dấu ấn giai cấp trong tư tưởng của ông. Khổng Tử còn phân biệt: “ Người sinh ra đã biết là bậc trên, người học mới biết là bậc thứ, người khốn mới học là hạng dưới nữa, người khốn không học là kẻ bậc thấp”( Luận ngữ, Quí thị,9).Đó là quan điểm nhận thức có tính chất duy tâm tiên nghiệm và mang tính đẳng cấp danh phận. Về phương pháp giáo hóa con ngư ời, Khổng Tử đã đề ra một hệ thống về phương pháp giáo dục, với các hình thức phong phú, đặc sắc. + Phương pháp giáo dục thứ nhất là phương pháp gợi mở, đối thoại giữa thầy và trò nhằm phát huy tính năng động chủ quan và tính độc lập sáng tạo của người học.Ông luôn yêu cầu người học phải quan sát tinh tường và biết suy luận từ một vật, một việc mà biết được những cái khác, từ cái này biết cái kia. + Phương pháp thứ hai là phương pháp gắn học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, phản đối nói suông và học suông. + Phương pháp thứ ba là phương pháp “ôn cũ biết mới” thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng học tập. Theo Khổng Tử, muốn tiến bộ người học nhất định phải có thái độ khách quan, không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố chấp “ Vô ý, vô cố, vô tất, vô ngã” Với Khổng Tử, người muốn đạt được nhân, chỉ có trí không chưa đủ mà còn phải có “ Dũng ” nữa.Người có dũng ở đây, theo Khổng Tử không phải là kẻ ỷ vào bạo lực, sức mạnh vì lợi mà hành động bất chấp đạo lý.Người có dũng phải là người có ý chí kiên cường quả cảm,hành động xả thân vì nhân nghĩa, “lập nhân” và “đạt nhân”. Có thế nói, nếu thịnh đức của trời đất là sinh thành, bắt nguồn từ đạo trung hòa, trung dung thì cái g ốc của đạo lý con người là trung thứ và đạo đức luân lý con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung,hiếu, kính đễ, nhờ đó mà dân tốt nước yên, thiên hạ bình trị. Người đạt được tri thức đạo đức lý tưởng ấy là người quân tử, đó là người vừa có tài vừa có đức, vừa có nhân vừa có lễ nghĩa, hiếu hòa, thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa văn và chất. Cùng với tư tưởng về luân lý đạo đức thì học thuyết về chính trị xã hội là một trong những nội dung cốt lõi, quan trọng tạo thành thể thống nhất hữu cơ trong triết học của Khổng Tử.Trung thành với nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình ông phản đối nhà cầm quyền dùng pháp chế mà chủ trương dùng “nhân tr ị”,để giáo hóa dân, thu phục nhân tâm, ông nói:” Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng, chuyên dùng hình ph ạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm pháp đấy thôi, chớ họ chẳng biết hổ người. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng mà cầm quyền phải dùng đức hạnh; muốn trị dân nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết thì chẳng những dân biết hổ người, họ lại còn cảm hóa mà trở nên tốt lành” (Luận ngữ, Vi chính,3). Trước hoàn cảnh rối ren loạn lạc như trong thời Xuân thu- Chiến quốc, cái cũ đã lỗi thời, cái mới đang manh nha, các giá tr ị đạo đức đang băng hoại, danh thực, trật tự lễ nghĩa rối loạn, xã hội vô đạo, xa rời đạo lý.Theo ông muốn ổn định lại trật tự xã hội thì phải chủ trương giáo hóa đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “chính danh định phận”. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử biến đổi, nên cần phải cải biến các chuẩn mực đạo đức, các định chế lễ tiết để cho phù hợp với hoàn cảnh và thời cuộc. Vì nhân nghĩa được ông xem là bản tính của con người, cho nên ông chủ trương việc trị nước là dùng nhân trị, đức trị, giáo hóa đạo đức. Khổng Tử cho rằng mỗi vật, mỗi người sinh ra đều có một chức năng, công dụng nhất định và ứng với mỗi chức năng công dụng đó là một tên gọi, một danh nhất định.Do vậy, mỗi danh có yêu cầu và tiêu chuẩn riêng, vật nào người nào thực hiện đúng những yêu cầu của danh đó thì gọi là “chính danh”, ngược lại là loạn danh. Theo tư tưởng chính danh, trong mối quan hệ giữa vua-tôi, thì vua phải lấy lòng gia huệ, tôi phải trung , đó là “ Chính danh “.Về đạo cha con, con đối với cha phải lấy chữ “ Hiếu “ làm đầu, cha đối với con phải lấy lòng “ Từ ái “ làm trọng….. Nhưng làm thế nào để thực hiện được chủ nghĩa “chính danh”? Để giải đáp điều đó, ông đã đưa ra phạm trù “lễ” trong hệ thống triết học chính trị đạo đức của ông. Theo Khổng Tử lễ là phương tiện để thực hiện chủ nghĩa “ Chính danh định phận”; Lễ quan hệ mật thiết với nhân, nếu nói nhân là chất thì lễ là văn, là hình thức biểu hiện của nhân.Có thể nói, lễ theo Khổng Tử là chuẩn mực của mọi quan hệ đạo đức luân lý xã hội. Như vậy, lễ ở Khổng Tử vừa mang tính đạo đức, vừa mang tính chính trị để giáo hóa con người thực hiện đức nhân. Vì chủ trương nhân trị, phản đối pháp trị cho nên lễ của Khổng Tử chính là bổ sung chổ thiếu sót của của đức trị. Mục đích cơ bản nhất của lễ là nhằm duy trì trật tự đẳng cấp xã hội. Như vậy, tư tưởng triết học của Khổng Tử là một hệ thống các phạm trù, các nguyên lý với nội dung hết sức phong phú và sâu sắc. Chúng có mối liên hệ thống nhất, chặt chẽ với nhau, thể hiện sinh động quan niệm của ông về thế giới và con người, về luân lý đạo đức, về chính trị xã hội như: Đạo, trung hòa, trung thứ, thiên lý, thiên mệnh, nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, chính danh định phận, quân tử, tiểu nhân…Chúng luôn thâm nhập vào nhau và thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cố gắng giải quyết những vấn đề lịch sử xã hội đặt ra. Đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của Khổng Tử. Mặc tích cực trong tư tưởng triết học của Khổng Tử là ông đưa ra những chuẩn mực để ổn định trật tự đẳng cấp danh phận trong xã hội nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng với mẫu người lý tưởng lấy nhân nghĩa làm gốc. Tuy nhiên do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và địa vị lợi ích của giai cấp xã hội, tư tưởng triết học của Khổng Tử lại luôn chứa đựng mâu thuẫn và mang tính chất hai mặt, đan xen những yếu tố duy vật vô thần với những yếu tố duy tâm tôn giáo, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ lạc hậu, phản ánh tâm trạng của ông trước những chuyển biến của thời cuộc. Khi phản ánh đúng xu thế phát triển của lịch sử và vượt qua giới hạn đẳng cấp danh phận, tư tưởng Khổng Tử hàm chứa cái nhân hợp lý mang giá trị nhân loại phổ quát.Đó là mặt tích cực tiến bộ trong triết học của ông.Nhưng khi bị ràng buộc bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, tư tưởng của ông lại bộc rõ tính bảo thủ lạc hậu. Chính mặc hạn chế này đã trở thành cơ sở cho các thế hệ sau khai thác phát triển theo hướng tiêu cực, phục vụ cho lợi ích cá họ.Nhưng dù sao với những đóng góp của mình, nhất là trong lĩnh vực chính trị, luân lý giáo dục, ông vẫn xứng đáng được nhân dân Trung Hoa gọi là: “ người thầy của muôn đời”. Khi ông sinh thời, Nho gia chỉ là học phái tư tưởng không được phổ biến vì không hợp thời cuộc lúc bấy giờ.Đến mãi sau này(thời nhà Hán), mới được đưa lên thành một tôn giáo (Nho giáo) , nó không ch ỉ là tư tưởng triết học chính trị mà nó còn mang cả nội dung tôn giáo, nó thần thánh hóa đề cao sức mạnh siêu hình của trời.Nho giáo ra đời khi giai cấp phong kiến cần một học thuyết đề cao luân lý đạo đức, đề cao tôn ti trật tự, đề cao đạo vua tôi, vai trò đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến, chính lúc này nó đã cần đến học thuyết của Khổng Tử. Tuy nhiên phải cải tạo lại, Đổng Trọng Thư chính là người đã cải tạo lại căn cứ trên cốt lõi của học thuyết Khổng Tử, khoát cho nó thêm màu sắc tôn giáo để nó phù hợp với lợi ích phong kiến, biến nó trở thành học thuyết vừa là luân lý đạo đức, vừa là triết học, vừa là tôn giáo.Học thuyết của Đổng Trọng Thư là học thuyết “tam cương ngũ thường” . “Tam cương” là ch ỉ ba mối quan hệ lớn trong xã hội: quan hệ quân thần, quan hệ phụ tử, quan hệ phu phụ. Đây là ba mối quan hệ chính mang tính chất giường cột trong xã hội . “Ngũ thường” là năm đức tính mà con người ai cũng phải có đó là: nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng. Chuẩn mực đạo đức của ông dựa vào học thuyết thiên mệnh luân (luận về mệnh trời ) và âm dương gia (thừa hưởng một phần từ Khổng Tử). 2. Tư tưởng triết học trong nho giáo của Đổng Trọng Thư: Đổng Trọng Thư (180-105 tr.CN) ông là nhà triết học duy tâm tôn giáo nổi tiếng, học thuyết của ông sau này được coi là hệ tư tưởng chính thống, là khuôn mẫu của đạo đức xã hội của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đổng Trọng Thư, ông tự coi mình là người tiếp tục tư tưởng của phái nho gia, tiếp thu và khuyếch trương những yếu tố duy tâm trong triết học của của Khổng Tử, Mạnh Tử, của phái “Âm dương - Ngũ hành” và các trường phái khác nhau để nhào nặn nên thứ học thuyết của mình, một học thuyết mang đậm màu sắc chính trị duy tâm thần bí và khắc nghiệt. Về tư tưởng triết học và chính trị: Hai mệnh đề quan trọng nhất trong học thuyết của Đổng Trọng Thư là “Trời trao chính quyền” và “Trời và người có thể thông quan, hiểu biết lẫn nhau”. Đẩy đến mặt cực đoan, mặt duy tâm trong tư tưởng “Mệnh trời” của Khổng Tử. Ông cho rằng mọi hiện tượng tự nhiên xã hội và trật tự của nó đều được xuất phát và sắp đặt theo ý “trời”, thân thể và ý thức của con người đều do thựơng đế ban cho. Ông cho rằng mọi hoạt động tốt hay xấu của giai cấp thống trị ở dưới trần thế đều gây nên những “cảm xúc” vui hay giận của trời, biểu hiện ra những hình thức “ban ơn” hay “trừng phạt” của trời như được mùa, mưa thuận, gió hòa. Đổng Trọng Thư cũng sử dụng học thuyết “Âm dương - Ngũ hành” để xây dựng học thuyết duy tâm tôn giáo của mình, vận dụng vào xã hội. Ông đề ra lý luận xã hội có tính chất thần học cho rằng: trật tự và quy luật vận động của xã hội là do ý chí của Thượng đế xếp đặt và chi phối, giai cấp thống trị phải nắm được quy luật ấy để mà cai trị, mọi người phải biết mà tuân theo cho hợp với ý trời. Ông đưa ra lý luận “dương thiện, âm ác”, “dương tôn, âm ti” kh ẳng định giai cấp thống trị, người quân tử biểu hiện thế lực “dương”, là sáng suốt, là người lãnh đạo, còn giai cấp bị trị, kẻ tiểu nhân là biểu hiện của thế lực “âm” là ngu đần, bị động, phục vụ cho thế lực “dương”; Trệt tự của tự nhiên “âm dương” không thể thay đổi được, do vậy trật tự của xã hội hiện hành là hợp ý trời, là hợp lý vĩnh hằng. Ông dùng cặp phạm trù “khí” “âm dương” “ngũ hành” để giải thích quy luật vận động phát triển của thế giới và khẳng định quy luật ấy do trời chi phối và chỉ có thiên tử “con trời-vua” được “Trời trao cho chính quyền” mới nắm được “Thiên thống” để cai trị dân cho hợp ý trời. Như vậy chúng ta thấy tư tưởng triết học của Đổng Trọng Thư trong quan niệm về tự nhiên và chính trị xã hội là duy tâm tôn giáo, mang màu sắc mục đích luận rõ nét, ông mưu toan kết hợp thần quyền và vương quyền vào một cá nhân vua, người đứng đầu xã hội, được mệnh danh là “thiên tử”. Về lý luận đạo đức xã hội: Đổng Trọng Thư xây dựng một hệ thống các phạm trù “tam cương”, “ngũ luân”, “ngũ thường” làm khuôn mẫu cho mọi hành vi cư xử, giao tiếp, giáo dục, tự trau dồi cá nhân của mội giai tầng trong xã hội. Thuyết “Tam cương” của ông cho rằng, trong quan hệ giữa người với người trong xã hội có ba mối quan hệ là: vua - bề tôi; cha – con; vợ - chồng. Sau mở rộng ra hai mối quan hệ nữa là: anh - em; bạn bè thành “ngũ luân”. Thực ra đây là mối quan hệ đã được Khổng Tử, Mạnh Tử đề cập đến rồi, như Đổng Trọng Thư đã tước đi một số yếu tố có tính nhân đạo, tiến bộ mà đưa vào quan niệm một chiều khắt khe. Đặc biệt là với “Tam cương” ông đưa ra th ứ quy tắc đạo đức phi lí, phi nhân bản: vua xử tội chết thần phải chết nếu không mắc tội bất trung, cha bảo con chết, con phải chết, nếu không là mắc tội bất hiếu, chồng bảo vợ phải tuyệt đối tuân theo. Ông đã dùng thuyết “âm dương” nhưng bỏ mặt duy vật, nên ông cho rằng quy luật của tự nhiên và viện đến ý “trời”để biện minh cho học thuyết đạo đức của mình: Vua là tượng của “trời”, nên có đức che chở, hướng dẫn; bề tôi là tượng của “đất”, nên có đức tính chuyên chở, tuân theo; chồng là khí “dương” nên có đức sinh, dẫn đầu, vợ là thuộc khí “âm” nên có đức phụ trợ, tuân theo; cha là thuộc “mùa xuân” nên có đức sinh, con là thuộc “mùa hạ” nên có đức dưỡng, tuân theo và tất cả là do trời định đoạt. Thuyết “Ngũ thường” (năm cái thường lý, thường tình của con người) là Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Về mặt tên gọi và nội dung của nó là “chép lại” của Không Tử. Nhưng Đổng Trọng Thư đã giải thích và vận dụng nó theo mục đích của mình. Ông cho rằng con người phải có đủ “Ngũ luân” để thực hiện đạo “Tam cương”, và con người mới có đạo “Cương-Thường”. Thực ra học thuyết về luân lý đạo đức của Đổng Trọng Thư nhằm mục đích cao nhất là “trung quân”, trung thành tuy ệt đối với nhà vua. Bởi vì mối quan hệ vua-tôi là đứng đầu trong ba mối quan hệ được coi là dường cột, cơ bản của con người, xã hội. Điều này cho thấy hoàn toàn trái ngược với Khổng Tử, Mạnh Tự. Về bản tính của con người: Đổng Trọng Thư chia con người thành ba loại: loại thứ nhất tính dục rất ít, không cần dạy dỗ cũng thành người tốt đó là “tính thánh nhân”; loại thứ hai tính dục quá nhiều có dạy dỗ cũng khó mà được người tốt gọi là “tính nhỏ mọn”; loại thứ ba là loại tuy có tính dục nhưng thể là tốt hoặc xấu gọi đó là “bậc trung”. Ông lập luận về bản tính của con người là cơ sở lý luận để củng cố đẳng cấp bất bình đẳng trong xã hội phong kiến. Như vậy, Nho giáo qua bàn tay “ch ế biến” của Đổng Trọng Thư thời Hán so với Nho giáo thời Khổng Tử, thậm chí cả thời Mạnh Tử là một bước thụt lùi nghiêm trọng. Chính tính nghèo nàn, xơ c ứng của nó đã đẻ ra một truyền thống học hành thi cử theo kiểu sách vở “Từ chương huấn hổ” và để lại tấm gương Hiếu - Trung mù quáng của các thế hệ nhà Nho sau này. Nó trở thành công cụ thống trị tinh thần đắc lực của nhà nước trung ương tập quyền, chuyên chế của các triều đại phong kiến tiếp sau. cho chúng ta thấy triết học trong Đổng Trọng Thư là lập trường triết học duy tâm-bảo thủ. II. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NG ƯỜI VIỆT. 1.Ảnh hưởng của Nho giáo trước Cách mạng tháng 8. Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam khá lâu có ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống giáo dục, tư tưởng nhân dân ta từ xưa đến nay. Nho giáo trong xã hội phong kiến : Tư chỗ không được ưa thích trong nhân dân Việt Nam Nho giáo dần dần chiếm giữ vị trí quan trọng trong h ê thống xã hội phong kiến, đề cao uy quyền nh à vua, xây dựng hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới, đảm bảo mối quan hệ giữa nh à nước và nhân dân. Nho giáo vào Việt Nam được Việt Nam hóa, vì lợi ích bảo vệ và xây dựng tổ quốc đã khai thác tích cực những quan điểm của Nho giáo để khẳng định giá trị truyền thống của Dân tộc. Ở Việt Nam Nho giáo đặt quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong “ngũ luân”. Các nhà nho Việt Nam không “ngu trung”, họ đòi vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và hiếu với dân. Họ đã ủng hộ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ, khi các ông này gạt bỏ những vua quan bất lợi của triều đình cũ để lập lên triều đình mới. Đó là ảnh hưởng quan điểm thuyết Chính danh của Khổng Tử khi vua không ra vua. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta thì Nguyễn Trãi gọi là “thằng nhãi con Tuyên Đức”. Các Nho sĩ Việt Nam xưa kia “sôi kinh nấu sử” để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên Hạ, đó là con đường của các nhà Nho tiến thân, cống hiến cho nước nhà, tận trung với vua, hết l òng vì xã tắc. Các bậc vua chúa xưa nay vẫn lấy điều “lấy dân làm gốc”,” đưa thuyền cũng là dân , lật thuyền cũng là dân” ( Tuân tử), vì dân lấy đạo nghĩa trên hết, chăm lo cho dân, giáo hóa dân.Nhân ngh ĩa là phạm trù trung tâm đứng đầu trong “ ngũ thường” mà Khổng Tư đã dạy làm gương soi mình cho các sĩ tư Việt nam thời trước. Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với vua, của con đối với cha, của vợ đối v ới chồng. Nguyễn Trãi đã viết :“ Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân để thắng cường bạo “ và quan điểm của ông cha ta từ xưa đến nay đã lấy điều “ Đức trị “ để trị nước, trong nếp sống hàng ngày, để đối nhân xử thế của từng người : giữa thầy với trò, cha con, vợ chồng, anh em, nổi bật là vấn đề “ Hiếu đễ “. Đặc biệt ảnh hưởng đến nền giáo dục nước ta “ Tiên học lễ, hậu học văn”,“ Thầy ra thầy, tr ò ra trò” đó là tư tưởng và chính danh của Khổng Tử. Hệ thống giáo dục từ x ưa là các nho sĩ học đi ra làm quan, giúp vua giúp nước. Nho giáo cũng khẳng định s ư giáo dục trong gia đình cũng có tác động mạnh mẽ. Các kiến trúc đất, đền thờ, văn miếu th ơ Khổng Tư cũng đều mang đậm nét tư tưởng của Nho giáo. Có thể nói nho giáo ở Việt nam được sư dụng như hệ tư tưởng chính thống. Nho giáo trở thành tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất đạo đức của con người. Bên cạnh mặt tích cực nho giáo cũng có những mặt tiêu cực là xem nhẹ dân, không phát huy sức sáng tạo của dân. Tư tưởng coi thường người phụ nữ đan sâu vào đầu óc người Việt Nam từ xưa đến nay. Về kinh tế: Nho giáo cũng khuyên con người ta nên làm giàu, tạo ra của cải vật chất cho xã hội "dân giàu, nước mạnh". Tuy nhiên Nho giáo cũng khuyên can con người ta làm giàu chính đáng, đừng vì mối lợi mà bất chấp tất cả. 2. Ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa ng ày nay của Việt Nam. Hồ chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và nhiều câu chuyện nho giáo của Ng ười. Nhưng Người đã vượt qua những hạn chế của Nho giáo ra đi t ìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm : “lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng nước và giữ nước. Người cũng coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương việc nước. Qua 2 cuộc kháng chiến người đã nhắc nhở rất nhiều câu chữ của Nho giáo để giáo dục cán bộ nhân dân về phẩm chất tư cách đạo đức, về lòng nhân đạo của con người Việt Nam. Người mượn câu nói của Mạnh Tư để nêu lên khí phách của người cách mạng : “ giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Đây cũng chính là câu nói của Mạnh Tử: “ Phu quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam gi ành lại được độc lập và thống nhất đất nước ta bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng mọi mặt của đất nước theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới một tương lai tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại thường xuyên áp dụng nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho chúng ta n hiều bài học cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại điều hay y tốt như tạo thêm năng lượng cho cổ xe cách mạng tiến lên, nhưng cũng có trường hợp nho giáo trở nên thọc gậy bánh xe. Hiện nay Việt Nam đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội. Để chống lại, khôi phục lại truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, đảng ta chủ trương giáo dục con người, chiến lược con ngưới, phát huy sáng tạo, độc lập tự chủ, chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “ là những điều cốt yếu của nền giáo dục. Về kinh tế chủ trương làm giàu chính đáng, cạnh tranh lành mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta trong công cuộc xây dựng đất nước, dần hình thành đạo đức trong kinh doanh. Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình, các phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn có những quan điểm coi thường phụ nữ, lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”. Người phụ nữ trở nên bị cương tỏa, dồn nén trong vòng tứ đức không phát huy được hết năng lực của mình. Truyền thống quan hệ cha con và anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được tư tưởng của nho giáo, là nét đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt nam. Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các th ành viên trong một gia đình, trong một dòng họ, nó kêu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn truyền thống của gia đình và dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của ông cha, những gia huấn, gia giữ được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha mẹ trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít hơn mối quan hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của t ình người nảy sinh từ đó. Sư giáo dục cùa Nho giáo lấy lễ làm biện pháp đã đạt được tới mức đo sâu sắc ở chổ nó thành tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Nho giáo đã huy động được dư luận toàn thể xã hội, biết quí trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ và điều này đã đi vào sâu lương tâm của con người. Vi phạm lễ trở thành điều đau khổ, đáng sỉ nhục, thậm chí đến mức phải chết chứ không bỏ lễ. Ảnh hưởng của nho giáo trong lịch sử phát triển x ã hội, truyền thống văn hóa của nước ta vẫn tiếp tục. Đây là một sự thật không phủ nhận được. Vấn đề "gạn đục khơi trong" Nho giáo để phục vụ mục đích tích cực cho đất nước ta hiện nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa là vấn đề cần làm ngay và làm càng sớm càng tốt. III. KẾT LUẬN Nho giáo từ khi ra đời đến nay trên 2500 năm, dù có nhi ều mặc tích cực và cũng có không ít mặc tiêu cực, tuy nhiên cũng không thể chối cãi rằng Nho giáo đã ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam, đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất. Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trên con đường tiến tới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, chúng ta lại thường xuyên sử dụng đến những vấn đề Nho giáo.Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện và tiếp tục mang lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện.Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… Tài liệu tham khảo: 1.Lịch sử triết học – T.S Nguyễn Thế Nghĩa & T.S Dõan Chính-nhà xuất bản KHXH 2002. 2. -nhogiao. 3.Nho giáo Trung Quốc – Nguyễn Tôn Nhan-Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdetai2_nguyenthithuyan_d1k19_4756.pdf