Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho
sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất
đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu
nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của
lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong
xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm
qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc.
Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật
khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết
để chúng ta hoàn thiện pháp luật và Hiến pháp của nước ta cũng đã ghi nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3155 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại (1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.... 19
3. Kiến nghị đề xuất ................................................................................................................... 23
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 27
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong mấy ngàn năm qua không ai không biết Nho gia là trường phái tư
tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc, song trên thực tế triết thuyết của phái này
nhiều khi quá cao xa, vì chỉ thời Nghiêu - Thuấn mới có được; và chính những đại
biểu trụ cột, cốt lõi của phái này đương thời không thành công trong hoạt động
chính trị mà họ theo đuổi. Nhưng những đại biểu của Pháp gia thì khác, bản thân
họ tuy phải trả giá, song tư tưởng của họ đã giải quyết được vấn đề đương thời
giúp nước Tần hùng mạnh, và đã thống nhất được Trung Quốc.
Tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc
biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp
luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Học thuyết pháp trị của
phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất
sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện
bởi Hàn Phi Tử.
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Pháp, Thế và Thuật. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời
trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính
sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức
mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai
trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Pháp gia là một bước tiến lớn trong tư tưởng chính trị cổ đại Trung Quốc.
Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá
trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay; mà đặc biệt là trong công cuộc
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 3
Chương 1
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA CỦA HÀN PHI TỬ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Pháp gia là một trong sáu trường phái triết học tiêu biểu của Trung Quốc
thời cổ - trung đại, nó có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và
chính trị trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Tư tưởng pháp trị đã được hình
thành từ khá sớm với Quản Trọng là người khởi xướng. Quản Trọng (thế kỷ VI
TCN) là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính trị,
được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật như là phương cách trị
nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao
gồm 4 điểm chủ yếu sau1:
Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường "Kho lẫm đầy
rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục".
Hai là, muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công
thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: "Tội nặng thì
chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một
cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì
tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt nộp
mỗi bên một bó tên rồi xử hòa"
Ba là, chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật
là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình
là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường
ngay lẽ phải.
Bốn là, trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa,
liêm... trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy
tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn hơn về chính trị,
nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Sang thời Chiến Quốc, tư tưởng Pháp trị
1
Nguyễn Thị Kim Bình (2008), “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó trong lịch sử”, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ, (Số 3(26).2008)
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 4
được tiếp tục phát triển bởi Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh
chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra chủ
trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước.
Thân Bất Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không
được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít,
yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và
lừa gạt nhà vua.
Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo (370-290
TCN), ông là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về
đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng
pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều
đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây
là một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong
phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: "Người
hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà
phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn làm dân thường thì
không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên hạ, do
đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí không đủ
cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi,
kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do
đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa
vị đủ khuất phục được người hiền"
Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó
là Thương Ưởng. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và
kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng
đề cao "pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình
phạm). Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên
người dưới đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng. Trong
chính sách thực tiễn, Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn
nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 5
công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống
làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi
hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một
thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính được nhiều nước
khác.
Cuối thời Chiến Quốc, tư tưởng pháp trị được Hàn Phi Tử (280 –
233TCN) hoàn thiện. Ông là một vị công tử, vương thất nhà Hàn, là học trò của
Tuân Tử - là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của trường phái triết học
Nho gia. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về phép, thế, thuật của những nhà triết
học trên thành một học thuyết có tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi
Tử. Trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh
đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho gia,
"Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa mà cần phải
dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử
xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có
những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh
viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính
trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp
gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy
giờ.
2. Tư tưởng triết học pháp gia của Hàn Phi Tử
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử là sự tổng hợp của Pháp - Thế - Thuật,
trong đó: Pháp là nội dung của chính sách cai trị, Thế và Thuật là phương tiện để
thực hiện chính sách đó. Cả ba đều quan trọng như nhau, hỗ trợ nhau và trở thành
công cụ trị nước của bậc đế vương2.
2
Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa, Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, NXB TP.HCM 2003
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 6
Pháp
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, Pháp là thể chế quốc gia, chế độ chính trị của xã
hội. Còn theo nghĩa hẹp, pháp là luật lệ, quy định, điều luật, hiến lệnh có tính
chất khuôn mẫu buộc mọi người phải tuân thủ.
Theo Hàn Phi Tử, vua là người tượng trưng cho chủ quyền quốc gia nên nhà
vua nắm cả 3 quyền này: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khi thực hiện phải đảm
bảo điều kiện như sau:
- Luật pháp phải kịp thời.
- Pháp luật soạn cho dân phải dễ hiểu, dễ thi hành. Như vậy, nội dung chủ
yếu của luật pháp là thưởng và phạt. Đây là hai đòn bẩy của vua trong hệ thống
chính quyền, mục đích là khuyến khích người dân làm điều thiện, ngăn ngừa kẻ
làm điều ác. Như vậy, làm cho nước yên, không có gì hại cho dân cả.
- Pháp luật phải công bằng, chủ trương trừng phạt trong pháp luật phải
nghiêm minh, triệt để. Mọi người phải bình đẳng trước pháp luật, không được
loại trừ ai kể cả giới quý tộc và quan lại.
- Pháp luật cần phổ biến, pháp là những điều luật, luật lệ mang tính nguyên
tắc được biên soạn rõ ràng, minh bạch, mang tính khuôn mẫu, được ghi chép
trong đồ thư, phải được bày ra và ban bố rộng rãi trong dân chúng. Pháp là cơ sở
khách quan, là tiêu chuẩn phân biệt rõ phải trái, tốt xấu, danh phận, hành pháp để
mọi người biết rõ bổn phận trách nhiệm, biết được điều cần làm và không cần
làm để từ đó thưởng phạt nghiêm ngặt.
Vì vậy, khi sử dụng luật pháp không được thiên vị, khách quan mà phải công
bằng. Ông đòi hỏi bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không
ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp.
Thế
Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa vị đó phải
là độc tôn, mọi người nhất thiết phải tuân theo, được gọi là tôn quân quyền hay
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 7
trung quân. Thế còn được hiểu là sức mạnh của thần dân, đất nước, cũng có thể
là vận nước.
Theo Hàn Phi Tử, muốn thi hành pháp luật phải có thế, thế có vị trí rất quan
trọng và được Hàn Phi ví giống như nỏ yếu nhờ có gió kích mới làm tên bay xa
như rồng bay được là nhờ mây. Theo Hàn Phi Tử thế và pháp không được tách
rời nhau. Trong trị nước quyền thế của vua mới quan trọng, đức không quan
trọng, tức là trọng thế. Ông đưa ra chủ trương sau:
- Chủ quyền (gồm các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp), được tập trung
ở một người đó là vua.
- Vua phải được tôn kính và tuân theo triệt để. Dân không có quyền làm
cách mạng, không được làm trái ý của vua, vua bắt chết phải chết, không chết là
bất trung.
- Đưa thưởng phạt lên hàng đầu quốc sách, vì thưởng phạt nhất là phạt là
phương tiện hiệu nghiệm nhất để tiến hành cưỡng chế. Ông cho rằng “thưởng
phải tín phạt phải tất, thưởng phải hậu phạt phải nặng”, thưởng phạt trong phép
nước phải chí công vô tư.
- Vua phải nắm hết hai quyền thưởng phạt vì hai quyền đó giống như nanh
vuốt của cọp. Ông ta nói “cọp sở dĩ phải làm cho chó phải khiếp sợ vì cọp có
nanh vuốt, nếu cọp bỏ nanh vuốt cho chó dùng thì cọp phải sợ chó”, vì vậy dứt
khoát nhà vua phải nắm hết hai quyền này.
Thuật
Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, điều khiển công việc
để dùng người, để cho con người phải triệt để, tận tâm thực hiện lệnh của vua mà
không hiểu vua dùng họ như thế nào3. Thuật có hai nghĩa, nếu hiểu theo nghĩa kỹ
thuật: là phương án tuyển, dùng, xét khả năng của quan lại, nếu hiểu theo nghĩa
tâm thuật: là mưu mô chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm ý của họ.
3
Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa, Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, NXB TP.HCM 2003.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 8
Theo Hàn Phi Tử để trị nước, ông cho rằng:
- “Vua trị lại bất trị dân” tức là công việc có quá nhiều, vua không thể làm
hết được nên vua phải giao quan lại, hễ dân không loạn là quan làm tốt. Vua tổ
chức bộ máy quan lại trong từng lĩnh vực, từng địa phương và phải có cách thức
sử dụng theo ý của vua.
- Vua phải giấu điều mình biết mà hỏi để biết thêm điều mình chưa biết, nói
ngược lại điều mình muốn nói để dò xét cái gian tình của người, ngầm hại những
bề tôi mà mình không cảm hóa được, không cho họ biết được mưu tính của mình.
Không để cho họ tự ý hành động, làm gì phải hỏi ý mình trước, bắt họ phải làm
đúng theo pháp luật và vua cũng phải làm theo pháp luật, xem lời nói của họ có
phù hợp với hành động không, không cho họ lấy tiền trong kho để chi riêng, khi
họ khen chê ai thì xem người được khen có thực tài không, người được chê có
đúng tội không.
- Để kiềm chế người có địa vị cao, có chức vụ lớn thì nhà vua có 3 cách:
+ Nếu là người hiền thì bắt vợ con của họ làm con tin.
+ Nếu là kẻ tham lam thì ban phước lộc hậu để mua chuộc họ, để họ không
làm phản.
+ Nếu là kẻ gian xảo thì làm cho họ khốn khổ.
- Ông cũng cho rằng có mười hạng người không nên dùng:
+ Hạng người khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ để chạy theo cái khác.
+ Hạng người giả dối, đặt lời trái pháp luật.
+ Hạng người thường chê bai vua.
+ Hạng người tri ân thu phục người dưới.
+ Hạng người tư lợi, giao tiếp với chư hầu.
+ Hạng người vì người quen cũ mà lợi dụng cái riêng tư.
+ Hạng người bỏ chức quan, thích giao du.
+ Hạng người tranh thắng với bề trên.
+ Hạng người uốn cong pháp luật vì người thân.
+ Hạng người đem của công ra bố thí.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 9
- Về phương pháp dùng người, khi nghe bề tôi nói thì vẻ mặt của vua phải
trầm mặt, lầm lì, không khen, không chê, không để lộ tình cảm của mình. Phải
bắt bề tôi nói, không được làm thinh, khi nói phải có đầu đuôi chứng cứ, lời nói
của bề tôi trước sau không được mâu thuẫn, bề tôi phải đưa ra ý kiến ba phải,
không được mập mờ, lời nói phải thiết thực.
- “Dụng nhân như dụng mộc”: người nào cũng có thể sử dụng được, căn cứ
vào tài năng của họ. Giao việc rồi mới biết họ hay hay dỡ, khi giao chức phải
theo 3 quy tắc:
+ Giao bậc từ nhỏ đến cao: chức tước càng cao, chức vụ càng lớn, càng có
tài cai trị.
+ Không được cho kiêm nhiệm, mỗi người làm một chuyên môn nhất
định.
+ Khi giao trách nhiệm thì phải dùng người khác để dòm ngó người đó.
Để xây dựng một quốc gia lý tưởng:
- Là một quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua phải có uy thế
tuyệt đối, đích thân chế ngự quần thần, không ủy một chút quyền cho ai cả.
- Pháp trị gồm:
+ Ai cũng phải tuân theo pháp luật, kể cả vua, phải chí công vô tư, không
được dùng nhân nghĩa tình cảm.
+ Phải thống nhất tư tưởng, không dung nạp tư tưởng học thuyết trái với chủ
trương của chính quyền.
+ Phải “trọng nông bất thương” tức coi trọng phát triển nông nghiệp, hạn chế
thương nghiệp bởi vì “phi nông bất ổn” tức không có nông nghiệp thì nền kinh tế
không ổn định, “phi thương bất hoạt” tức không có thương nghiệp thì nền kinh tế
không hoạt động, “phi công bất phú” tức không có công nghiệp thì nền kinh tế
không giàu mạnh, “phi trí bất hưng” tức không có tri thức thì đất nước không
hưng thịnh, trọng vũ lực theo chủ nghĩa quân quốc.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 10
- Theo Hàn Phi Tử, trong một quốc gia lý tưởng không có:
Không có năm hạng mọt người:
+ Bọn học giả xuyên tạc thiên vương, tạ khẩu trọng nhân nghĩa; trau chuốt
tướng mạo, y phục, lời nói để làm loạn pháp độ, mê hoặc vua chúa.
+ Bọn tu sĩ dùng thuyết gian xảo, mượn thế lực nước ngoài để đạt tư lợi, làm
thiệt hại quốc gia.
+ Bọn đeo gươm, tập hợp đàn em, lập tiết tháo để nổi danh, phạm cấm lệnh.
+ Bọn thị thần nịnh bợ, tích tụ tài sản, ăn hối lộ.
+ Bọn thương gia, công nhân sửa lại đồ xấu xí, tàng trữ vật dụng, đầu cơ trục
lợi.
Không có sáu hạng sĩ:
+ Hạng sĩ quý trọng sự sống, sợ chết, trốn tránh trách nhiệm, đầu hàng giặc;
+ Hạng sĩ văn học: lập ra các học thuyết làm trái pháp luật;
+ Hạng sĩ tài năng: ở không ăn bám;
+ Hạng sĩ biện trí: hay nói quanh co, bậy bạ, loạn bàn;
+ Hạng sĩ dũng cảm: hung bạo, chỉ giỏi đâm chém người;
+ Hạng sĩ hào hiệp: cứu sống giặc, che giấu kẻ gian.
Trong quốc gia lý tưởng: thương mại ít trao đổi hàng hóa cần dùng, công
nghệ chế tạo những dụng cụ cần thiết, mỹ nghệ không còn, ca nhạc không có,
trường học chỉ dạy một số ít người biết đọc, biết viết để làm quan, để giảng giải
pháp luật cho dân. Để trị nước thì vua phải dùng thế để thi hành pháp luật, phải
khéo dùng thuật để chế ngự bầy tôi.
3. Những đóng góp và hạn chế của triết học Pháp Gia đối với xã hội Trung
Hoa cổ đại.
a) Đóng góp:
Thời Chiến Quốc chính là thời kỳ lịch sử phát triển rực rỡ về tư tưởng
“trăm hoa đua nở”, “bách gia chư tử”. Trong thời đại “ Bách gia chư tử” ấy, có
những khuynh hướng mà tư tưởng nhiều khi đối lập nhau, quan trọng nhất phải
kể đến là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 11
- Phái thứ nhất có Nho gia và Mặc Tử, Khổng Tử muốn khôi phục nhà Chu.
Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy quá, không cứu được, lại mong có
vị minh quân thay Chu thống nhất Trung Hoa bằng chính sách Đức trị có sửa đổi
ít nhiều.
- Phái thứ hai, phái Đạo gia muốn giảm thiểu, thậm chí giải tán chính
quyền, sống tự nhiên như thuở sơ khai, từ bỏ xã hội phong kiến để trở về xã hội
cộng sản nguyên thuỷ.
- Thứ ba, phái pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến phân
tán và lập ra chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo” của
Khổng Mạnh bằng chính sách “Bá đạo”.
Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong
tư tưởng chính trị thời cổ Trung Hoa. Mục đích chính của quyền lực là để giúp
cho nhà lãnh đạo có đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính
sách "Canh chiến" do Hàn Phi đề xướng. Tuy rằng Khổng Tử đã từng chủ trương
"Tiên phú hậu giáo", nhưng thật sự thì chữ "Phú” đó, chỉ chiếm một tỉ số rất nhỏ,
trong nấc thang giá trị của nhà Nho. Đến Mạnh Tử thì lại càng coi trọng nhân
nghĩa hơn phú cường, rõ ràng có khuynh hướng đi ngược lại với đòi hỏi của
chính trị thời đại, nên không được vua chúa các nước hoan nghênh. Mãi cho đến
thời Tuân Tử, nhà Nho mới bắt đầu để ý tới vấn đề làm sao cho quốc gia giàu
mạnh, là bởi chịu ảnh hưởng về tư tưởng và thành quả cụ thể của Pháp gia cùng
thời4.
Nói chung các nhà tư tưởng có xu hướng coi triết thuyết họ sáng lập hay kế
thừa đều sống hết mình với nó. Từ góc độ lịch sử khách quan mà nói trong những
dòng tư tưởng kể trên không có dòng nào được coi là hoàn toàn, mà tùy vào thời
điểm, từng hoàn cảnh để xét đến tính hợp thời của nó. Trong mấy ngàn năm qua
không ai không biết Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung
Quốc, song trên thực tế triết thuyết của phái này nhiều khi quá cao xa, vì chỉ thời
Nghiêu- Thuấn mới có được; và nữa chính những đại biểu trụ cột, cốt lõi của
phái này đương thời không thành công trong hoạt động chính trị mà họ theo đuổi.
4
Ngô Quân, Bảy đại triết gia Trung Quốc đời Chu - Tần
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 12
Nhưng những đại biểu của Pháp gia thì khác, bản thân họ tuy phải trả giá, song tư
tưởng của họ đã giải quyết được vấn đề đương thời giúp nước Tần hùng mạnh,
và đã thống nhất được Trung Quốc.
Tư tưởng của Hàn Phi Tử: là dùng pháp trị nhưng lại trọng dân. Trước khi
đặt ra luật lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua;
quy tắc lập pháp phải lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì
phải công bố luật cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi nhiều,
phải “chí công vô tư”,”vua tôi, sang hèn đều phải theo pháp luật”, thưởng phạt
phải nghiêm minh, “danh chính, pháp hoàn bị thì bậc minh quân chẳng có việc
gì phải làm nữa, vô vi mà được trị”.
Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn thì gì thì cấp cho cái đó,
không muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra quan điểm: bản chất
con người là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ nghĩa và chế định ra
pháp luật để uốn nắn tính xấu của con người; theo các ông quản lý xã hội là vị
Pháp chứ không vị Đức.
Hơn hai nghìn năm sau, tư tưởng vị lợi của Hàn Phi được tái hiện trong tư
tưởng “con người kinh tế” - cơ sở triết học của học thuyết quản lý theo khoa học
của Taylor và bản chất con người là lời nhác và ham lợi của “Thuyết X”, được
Mc. Gregor đưa ra. Thực dụng hơn, cực đoan hơn trong tư tưởng quản lý so với
thời Taylor. Hàn Phi đã mở rộng cái bản chất vị lợi đến mọi mối quan hệ gia đình
và xã hội. Chẳng hạn trong mối quan hệ cha - con, chữ “Hiếu” của Nho gia đã bị
thay thế bằng sự tính toán lợi hại tàn nhẫn. Chúng ta có thể cho rằng, Hàn Phi là
một người duy lý, duy lợi theo chủ nghĩa thực dụng. Song cũng phải thừa nhận
rằng ông có một trí tuệ rất sâu sắc. Và chính ông đã vì sự tồn vong của đất nước
mình mà phải chịu chết thảm, tuy rằng ông biết trước đó là số phận chung của
các pháp gia có tài và có tâm, nhiệt thành yêu nước.
Kỳ lạ hơn, Hàn Phi đã vượt rất xa thời đại mình khi ông nêu ra tư tưởng đấu
tranh sinh tồn và giải thích nguyên nhân của sự nghèo khổ là do dân số tăng lên
quá nhanh, vượt xa sự gia tăng của sản xuất (xem thiên ngũ đố). Hàn Phi nhắc
các vị vua phải cứng rắn, nghiêm khắc trong việc trị nước, đồng thời ông cũng
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 13
mong muốn họ thực hiện chí công vô tư, từ bỏ tư lợi, tà tâm cứ theo phép công
mà làm thì nước sẽ thịnh: “Không nước nào luôn mạnh, không nước nào luôn
yếu. Người thi hành pháp luật (tức vua) mà cương cường thì nước mạnh, người
thi hành pháp luật mà nhu nhược thì nước yếu...
Cho nên ở vào thời kỳ này, nhà cầm quyền nào biết từ bỏ lợi, tà tâm mà
theo phép công thì binh sẽ mạnh, địch sẽ yếu”. Mặc dù dân trí thấp, người dân
chỉ biết cái lợi trước mắt..., nhưng Hàn Phi vẫn đề cao chính sách dùng người, tài
năng của nhà cai trị thể hiện ở việc dùng sức, dùng trí của người khác. Đây là
một tư tưởng rất sâu sắc về quản lý mà Hàn Phi đã nêu ra. Hàn Phi phát triển học
thuyết của mình trên cơ sở kế thừa của các pháp gia trước ông, nhưng phải đến
Hàn Phi thì nó mới trở nên sâu sắc, phổ biến với nhiều nội dung mới. Hàn Phi
dùng chữ “pháp” theo nghĩa phép tắc, còn pháp gia nói tới “pháp” là chỉ pháp
luật. Hàn Phi ví pháp luật với dây mực, cái quy, cái củ... tức là những đồ dùng
làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp không tách rời khỏi Thế và
Thuật mà cùng tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp phải kịp thời. Hàn Phi
viết: “Thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm
lệnh không biến thì nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công”
điều khiển hành vi của mọi người. Trong các phạm trù cơ bản của pháp học thi
pháp là quan trọng nhất, sau mới đến Thế và Thuận. Hàn Phi đã kế thừa tư tưởng
“vô vi” của Nho và Đạo, biến nó thành thuật cai trị của vua chúa.
Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong
tư tưởng chính trị cổ đại Trung Quốc. Mục đích chính của quyền lực là để giúp
cho nhà lãnh đạo có đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính
sách "Canh chiến" do Hàn Phi đề xướng. Được như vậy thì vào thời bình, nhân
dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích; một
khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn trong thời bình, đều
trở thành lính chiến, có thể đưa ngay ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã
nói: vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc binh cường".
Trong cai trị - quản lý thì “tiên phú, hậu giáo”- trước hết là làm cho dân
giàu sau đó thì giáo dục họ. Trong giáo dục thì “tiên học lễ - hậu học văn”. Nho
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 14
gia chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học thuyết- phương
pháp Đức trị (Nhân trị). Ngược lại, Pháp gia đã đưa ra một học thuyết và phương
pháp cai trị mới - Pháp trị “Pháp bất vị thân”, pháp phải hợp thời, pháp luật phải
soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành; pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ
thiểu số; thưởng phải trọng hậu, phạt phải nặng... Đó là tư tưởng về chính trị
quản lý xã hội còn có ý nghĩa đối với hiện nay.
Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thể chắc chắn một điều là không có gì
hoàn toàn cả. Tư tưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm chí
là phản động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cả ngày nay
cũng là lý tưởng.
Vậy, thành công lớn nhất của giai đoạn này, mặc dù còn bị hạn chế dưới
giác độ tư tưởng quản lý đã tạo lập nhiều quan điểm quản lý quan trọng thuộc
phạm vi quản lý vĩ mô, đã vạch ra được lôgích của quá trình quản lý xã hội bao
gồm các mức từ thấp đến cao: “Chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”, đã đưa ra được trình tự tiến hành các hoạt động quản lý: “trị đạo, trị học, trị
thể, trị tài, trị phong, trị thuật” mà ngày hôm nay trong quản lý nói chung, và
quản lý kinh tế nói riêng vẫn còn có thể khai thác và sử dụng tốt.
b) Hạn chế:
Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được
các nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc
Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng
hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện này,
Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa ra
một nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách
làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
1. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 15
2. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá
máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp
luật.
3. Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với
pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
4.Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực
ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
5. Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch
sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử .
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 16
Chương II
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHÁP GIA
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM.
1. Vận dụng tư tưởng triết học Pháp Gia trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay
Luật được áp dụng để tạo ra sự nghịch biện, bằng cách ấy các quan lại của
Hoàng đế có thể tìm kiếm và lựa chọn ra điều luật để áp dụng. “Thế” chính là
mưu mẹo khôn khéo để vượt trên pháp luật, dù xét theo từng điều một thì pháp
luật là rõ ràng và đơn giản, nhưng nó vẫn là một cơ cấu mà theo đó một sự vi
phạm pháp luật dù là nhỏ nhất, mà bất kỳ ai ở bất kỳ địa vị nào đều có thể phạm
phải, cũng không thể bày tỏ được nếu không có khả năng chứng minh. Khi ấy,
“những thủ đoạn đặc biệt” bắt đầu mang lại kết quả, bởi vì quyền lựa chọn luật
pháp để mang ra thi hành chỉ nằm trong tay Hoàng đế. Sự vượt trên pháp luật vừa
diễn ra bằng quy trình tố tụng vừa bằng sự lựa chọn luật tố tụng, và bằng sự vắng
mặt hay sự đình chỉ tố tụng bởi một điều luật mâu thuẫn. Lúc ấy tất cả mọi người
buộc phải hiểu được tính bí ẩn trong cách hành xử của Hoàng đế. Thậm chí cả
những người đại diện cho Hoàng đế nắm quyền lực trong tay cũng chính là
những đối tượng của mạng lưới luật pháp phức tạp theo học thuyết này của pháp
gia. Rất khó để hiểu được động cơ hành động của Hoàng đế, vì việc áp dụng luật
kiểu này này lại dễ dàng khiến nó trở nên xung đột với một kiểu áp dụng khác.
Vì thế, chỉ có Hoàng đế là hoàn hảo. Lợi thế kiểm soát luôn nằm trong tay nhà
vua, người luôn giám sát việc lựa chọn (hay tạo ra) luật lệ quyết định cuối cùng
để áp dụng cho mọi tình huống.
Đa số các nhà triết học và tư tưởng chính trị Trung Quốc có cái nhìn rất
tiêu cực đối với Pháp gia, buộc tội nó là một xã hội mà ngày nay chúng ta gọi là
xã hội chuyên chế. Nhiều học giả Trung quốc tin rằng chính một phản ứng chống
lại pháp gia đã làm cho chính trị đế quốc Trung Quốc mang nhiều đặc tính cá
nhân và đạo đức hơn là sự nhấn mạnh vào sự cai trị của pháp luật. Tuy nhiên,
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 17
quan điểm này về nhà Tần có thể là có thành kiến, bởi vì đa số các sách sử Trung
Quốc đều do các học giả Khổng giáo viết ra, mà những nhà nho Khổng giáo lại
bị đàn áp ở thời Tần5.
Ngay sau khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã coi việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Việt Nam hiện đang ở đâu trên lộ trình đi đến nhà
nước pháp quyền - đặc biệt tôn trọng quyền lực của pháp luật?
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa tinh hoa tri thức của triết học phương
Đông, đặc biệt là tư tưởng pháp trị về “Pháp”, “Thế”, “Thuật” của Hàn Phi Tử,
để xây dựng nhà nước pháp quyền XNCN Việt Nam hiện nay, cụ thể:
Pháp trị nghĩa là cai trị bằng pháp luật, thực thi quyền hành bằng pháp luật.
Pháp quyền là quyền lực của pháp luật, thượng tôn pháp luật: nhấn mạnh quyền
lực, sức mạnh của pháp luật.
Nói pháp trị là nói phương thức, công cụ; nói pháp quyền là tính chất, bản
chất của xã hội. Như vậy trong pháp quyền đã ngầm có pháp trị. Quan niệm hiện
nay tại Việt Nam về nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước được làm điều mà
pháp luật cho phép, dân được làm điều mà pháp luật không cấm.
Vận dụng tư tưởng “Pháp” trong phép trị nước, Đảng ta đã xây dựng nhà
nước Pháp quyền XHCN Việt Nam, nhà nước trong đó luật pháp giữ địa vị cao
nhất. Pháp luật trở thành tiêu chuẩn và căn cứ cơ bản nhất, cao nhất trong mọi
hoạt động của bản thân nhà nước, của các tổ chức xã hội và của mỗi công dân.
Việc xây dựng luật pháp được thực hiện trên cơ sở tính nghiêm minh, khách
quan, công bằng với mọi người.
Uy tín của Đảng và nhà nước ngày càng được nhân dân tin tưởng thông qua
việc cải cách đường lối, thể chế chính trị của Đảng; chính sách pháp luật của nhà
nước. Nhà nước giữ địa vị cao nhất nắm cả ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp và mọi người dân phải chấp hành theo luật pháp; Quốc hội là cơ quan cao
nhất, được Nhà nước giao quyền lập pháp; Tòa án, Viện Kiểm Sát là hai cơ quan
tư pháp bảo vệ pháp luật; hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương là
5
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia – Áp dụng thực tiễn của Pháp gia.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 18
cơ quan hành pháp. Đó chính là tư tưởng về “Thế” trong phép trị nước, mà Đảng
và Nhà nước đã vận dụng một cách tài tình.
Tư tưởng pháp trị về “Thuật” được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm,
thông qua việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong sạch, có
năng lực; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức kịp thời
đáp ứng được khả năng công việc trong tình hình mới. Đặc biệt trong thời kỳ,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vai trò của cán bộ, công chức, viên chức trong
sự nghiệp xây dựng đất nước ta ngày càng quan trọng.
2. Những thành tựu và hạn chế của Nhà nước pháp quyền VN hiện nay
Thành tựu:
- Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và qua rèn
luyện trong thực tiễn quản lý sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước
ta đã trưởng thành về nhiều mặt, đã thể hiện rõ bản chất của một Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ
thống pháp luật để quản lý đất nước, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân
làm gốc, biết dựa vào dân, thực hiện việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”.
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các
quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện từ
phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân
chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của
nhà nước. Mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng, cán bộ, công
chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm
trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp
hành Hiến pháp và pháp luật.
- Những thành tựu, những tiến bộ trên đây đã tạo nền tảng cho công tác
quản lý đất nước. Nhờ vậy, đất nước được ổn định và về chính trị, kinh tế, văn
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 19
hóa, xã hội có bước phát triển tốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được nâng lên rõ rệt, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Tuy vậy, vẫn
còn hai vấn đề cơ bản sau đây cần được tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất
lượng lên một trình độ mới để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự phát triển của
cách mạng trong tình hình mới: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao
chất lượng giáo dục và quản lý việc thực hiện pháp luật; chăm lo bồi dưỡng
phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước.
Hạn chế:
- Dù đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, vận dụng tốt tư tưởng về “pháp” của Hàn Phi Tử
trong phép trị nước. Tuy nhiên, công tác xây dựng luật của nước ta vẫn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt là ở ba khía cạnh:
+ Thứ nhất, sáng kiến và bản thân việc xây dựng luật do các cơ quan quản lý
nhà nước thực hiện theo một quy trình khá quan liêu nên nội dung luật mang
nhiều yếu tố chủ quan, xa rời thực tiễn.
Trong công tác xây dựng pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng như
Quốc hội có khi rơi vào thế bị động. Trước đòi hỏi của thực tế, theo đề nghị của
các cơ quan soạn thảo và Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hằng năm đều
có chương trình xây dựng luật và pháp lệnh, thế nhưng khi trình các dự án luật
cũng như pháp lệnh, các cơ quan soạn thảo nhiều khi đã không chuẩn bị kỹ càng.
Một số cơ quan trình dự án chỉ mới chú ý đến yêu cầu lập pháp của ngành mình,
chưa tổng kết thực tiễn, chưa tính hết khả năng chuẩn bị dự án và việc triển khai
dự án như thế nào, nên có rất nhiều dự án phải sửa đi sửa lại nhiều lần, có dự luật
phải sửa đến hơn 20 lần. Điều này khiến việc xem xét thông qua luật bị chậm so
với thời hạn đề ra trong chương trình. Có những dự luật lại không đủ tính cụ thể
để có thể triển khai. Và thường trong những trường hợp như vậy, lại phải giao
cho Chính phủ ra các văn bản dưới luật.
Luật Thuế thu nhập cá nhân là một ví dụ. Đây là một luật rất quan trọng, tiến
bộ, có ý nghĩa to lớn về xã hội. Trong quá trình thảo luận, các ý kiến đóng góp
của xã hội chủ yếu tập trung vào ngưỡng thu nhập chịu thuế . Tuy nhiên, có
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 20
những bất cập lớn vẫn tồn tại trong một lĩnh vực rất quan trọng là thuế thu nhập
từ chuyển quyền sử dụng đất. Những bất cập này không chỉ ngăn cản một luật
quan trọng, tiến bộ đi vào cuộc sống, gây thất thu cho Nhà nước mà còn tạo khe
hở cho tham nhũng.
+ Thứ hai, tình trạng mà các chuyên gia gọi là “luật ống” vẫn không thể khắc
phục. Luật có hiệu lực không thể đi vào cuộc sống chừng nào chưa có các văn
bản dưới luật hướng dẫn thực hiện.
Một điều khoản rất gây tranh cãi trong thực thi hiện nay là điều khoản về
điều kiện được miễn thuế thu nhập cá nhân khi nhà chuyển nhượng là nhà duy
nhất. Dụng ý tích cực của nhà làm luật khi đưa ra điều khoản này là nhằm xác
định đối tượng chính phải chịu thuế thu nhập là những người kinh doanh bất
động sản hoặc có nhiều bất động sản . Những người mua bán nhà vì nhu cầu thay
đổi chỗ ở không phải đối tượng chính điều chỉnh của luật .
Tuy nhiên, quy định này làm nảy sinh vấn đề làm sao xác định “người bán
chỉ có một nhà duy nhất” . Theo luật và Thông tư 84 của Bộ Tài chính , người bán
nhà tự kê khai và cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc nhà chuyển
nhượng là nhà duy nhất.
Tuy nhiên các cơ quan chịu trách nhiệm làm thủ tục chuyển nhượng hiện nay
đều không chấp nhận hình thức cam kết này với lý do “chưa có hướng dẫn về
cách thức xác minh và mức độ phạt nếu kê khai sai” . Người chuyển nhượng hoặc
chấp nhận nộp thuế (tức từ bỏ lợi ích chính đáng được pháp luật quy định ) hoặc
ăn chia với cán bộ tính thuế để được miễn giảm .
Do những điểm chưa rõ ràng trong thực thi luật , người dân sẽ không làm thủ
tục nếu chưa có nhu cầu bức thiết . Trong trường hợp phải có sổ đỏ để xin cấp
phép xây dựng , thế chấp… người dân sẽ phải chạy vạy , chấp nhận ăn chia với
cán bộ tính thuế để được miễn giảm thuế theo quy định . Thông thường t rong
những trường hợp này , người có quyền lợi chính đáng thì không được hưởng
trong khi những đối tượng phải nộp thuế sẽ tìm cách mua chuộc cán bộ để lẩn
tránh nghĩa vụ thuế.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 21
Trong mọi trường hợp , nhà nước là bên chịu thua thiệt vì thất thu thuế . Ý
nghĩa tích cực của luật không đạt được . Và điều đáng lo ngại hơn là kỷ cương
phép nước bị xâm hại, tư cách cán bộ công chức bị thoái hóa.
+ Thứ ba, Tình trạng luật được nhà nước ban ra nhưng người dân lại không
chấp hành hoặc chấp hành không đúng quy định là do pháp chế chưa nghiêm,
chưa hoàn chỉnh, các chế tài xử phạt trong các lĩnh vực hành chính, tài chính,
thuế, hải quan, lao động… vẫn còn nhẹ nên người dân có tâm lý chủ quan không
chấp hành. Điều này, đã được thể hiện rõ qua các lần sữa đổi nghị định, thông tư
về xử phạt hành chính để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Ngày 16/4/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định 113/2004/NĐ-CP quy
định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động. Nghị định này sẽ
thay thế Nghị định 38/CP trước đây và có hiệu lực thi hành từ tháng 5-2004, với
5 chương, 37 điều, Nghị định 113/2004/NĐ-CP có rất nhiều điểm mới, gia tăng
chế tài đối với những hành vi vi phạm.
Chúng ta đan g trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội là hết sức
quan trọng. Nhưng để pháp luật được tuân thủ nó phải phản ánh đúng nhu cầu
và sự phát triển của cuộc sống và phải khả thi . Các nhà làm luật cần sâu sát hơn
với cuộc sống , với thực tiễn , cần tính đến việc làm thế nào để thực thi các quy
định do mình xây dựng , đừng để các lỗ hổng pháp luật khiến người dân phải vất
vả trước cửa công quyền.
- Trong những năm qua, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, người dân đã thực sự có niềm tin về sự
lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước theo nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng pháp trị về “Thế” đã được
Đảng ta vận dụng một cách tài tình trong việc xây dựng bộ máy nhà nước, uy tín
của Đảng và Nhà nước ngày một củng cố. Dù vậy, bên cạnh đó cũng có không ít
người dân vẫn còn bức xúc về chế độ chính sách của Nhà nước và cách giải
quyết của một số cán bộ công chức ở chính quyền cơ sở vẫn chưa hợp tình hợp lý
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 22
nên xảy ra tình trạng người dân đi khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là khiếu
nại đông người tại trụ sở tiếp dân của trung ương Đảng ở Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh, đã gây ra hình ảnh không tốt về bộ máy nhà nước đối với nhân dân, làm
giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Theo thống kê của các cơ quan chức năng thì hiện nay có khoảng 80% số vụ
khiếu nại có nội dung liên quan đến đất đai. Bên cạnh nội dung khiếu nại, còn có
các nội dung tố cáo sai phạm của một bộ phận cán bộ cơ sở có sai phạm trong
quản lý tài chính, đất đai...Do vậy, Đảng và Nhà nước cần phải rà soát lại cơ chế,
thể chế, những vấn đề liên quan đến tài chính, đất đai bởi nguyên nhân khiếu
kiện chính là do cơ chế chính sách chưa hợp lý và đồng thời cần phải xử lý
nghiêm minh những cán bộ có hành vi làm trái quy định của luật pháp. Có như
vậy, niềm tin của người dân với Đảng và Nhà nước được củng cố, uy tín của
Đảng và Nhà nước ngày càng vững chắc.
- Bên cạnh đó, chính sách tuyển dụng, đào tạo và sử dụng cán bộ công chức
của nhà nước ta đang có vấn đề, đó là sự biểu hiện của việc vận dụng chính sách
“Dụng nhân như dụng mộc” trong tư tưởng pháp trị về “Thuật” của Hàn Phi Tử
chưa tốt.
Trong thời gian gần đây, không ít cán bộ, công chức các cơ quan của nhà
nước xin nghỉ việc để ra làm cho các công ty tư nhân hoặc mở công ty riêng do
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp. Mức
thu nhập từ lương của cán bộ, công chức chưa đảm bảo đời sống của bản thân và
gia đình. Việc trả lương còn nặng về chủ nghĩa bình quân “sống lâu lên lão làng”,
không phản ánh đúng năng lực của mỗi cán bộ, nhất là chưa tương xứng với năng
lực và kết quả làm việc của những người tài.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng nhiều công chức bỏ việc đi làm cho
tư nhân là do nơi đến có điều kiện môi trường làm việc tốt hơn, nhiều ưu đãi về
vật chất hơn, có cơ hội học tập và thăng tiến tốt hơn. Ngoài nguyên nhân về
chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng, còn do nề nếp, kỷ cương làm việc bị buông
lỏng; việc phân loại công chức chưa bảo đảm tính khoa học, khách quan, còn dựa
trên cảm tình cá nhân, bè phái, dẫn đến hậu quả sai lệch trong việc bố trí, sử
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 23
dụng, quy hoạch và đề bạt cán bộ, không đáp ứng đúng yêu cầu, nhiệm vụ trong
từng giai đoạn. Đấy cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng chán nản, bất bình đối
với những cán bộ có năng lực, từ đó họ xin nghỉ việc ra làm ngoài tự do thoải
mái hơn. Ngoài ra, ở nước ta tình trạng một người kiêm nhiệm nhiều chức vụ hay
một người được giao công việc không đúng chuyên môn của mình vẫn còn phổ
biến. Điều đó, đã làm giảm năng suất làm việc cũng như hiệu quả làm việc của
họ.
3. Kiến nghị đề xuất
Một trong những chức năng trọng tâm của Quốc hội là xây dựng hệ thống luật.
Tuy nhiên, thời gian qua công tác này vẫn còn một số nhược điểm. Để xây dựng
một hệ thống pháp luật chặt chẽ, mang tính khách quan và không quá xa rời thực
tiễn, đòi hỏi:
+ Nhà làm luật phải là người có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị nhất
định. Vì vậy, cần phải xây dựng lại cơ cấu tiêu chuẩn để được bầu làm đại biểu
quốc hội. Đại biểu quốc hội phải là người có trình độ chuyên môn, phải là người
hiểu được tâm tư nguyện vọng của nhân dân, phải là người nắm bắt được xu
hướng của thời đại và đất nước hiện nay.
+ Khi xây dựng luật thì phải khách quan, bám sát vào thực tế, không được
dựa vào ý chí chủ quan của cá nhân mà áp dụng một cách tùy tiện, trước khi luật
được ban hành phải đưa ra cho dân xem xét, phản ảnh.
+ Luật phải có tính khả thi, nội dung phải rõ ràng, cụ thể. Tránh tình trạng
luật được ban hành với một nội dung này nhưng mỗi người lại hiểu một nghĩa
khác, Cần phải hạn chế đến mức thấp nhất các nghị định, thông tư hướng dẫn
luật.
+ Luật được ban hành phải phù hợp với xu thế hiện tại, đồng thời phải có tầm
nhìn xa, tránh có sự chồng chéo về nội dung với luật khác. Không để tình trạng
luật vừa ban hành lại phải sửa đổi.
Cần phải nâng cao địa vị và cũng cố lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà
nước thông qua việc xây dựng bộ máy nhà nước phù hợp với tình hình mới. Để
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 24
tránh tình trạng người dân khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo làm giảm lòng tin của dân
về cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước, thì cần phải xây dựng cơ chế chính
sách hợp lý, xây dựng luật khiếu nại, tố cáo và luật phòng chống tham nhũng để
người dân có thể phản ánh những bức xúc của mình trước cửa công quyền và qua
đó nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay,
chính sách sử dụng con người cần theo các hướng sau:
+ Cần làm tốt công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức;
thông qua việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, xác định rõ những người
đủ và không đủ tiêu chuẩn. Có chính sách thích hợp và kiên quyết thực hiện đối
với những người không đủ tiêu chuẩn phải đưa ra khỏi bộ máy.
Bên cạnh đó, phải đổi mới chế độ đào tạo, tuyển dụng và quản lý cán bộ,
công chức. Tuyển dụng cán bộ, công chức phải căn cứ vào nhu cầu, vị trí, cơ cấu
và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức. Khắc phục tình trạng vào cơ quan
Nhà nước rồi mới đưa đi đào tạo và chủ yếu là đào tạo tại chức. Muốn vậy cần
phải đẩy mạnh hơn nữa việc "thi tuyển vào các chức danh", trong đó có cả "thi
tuyển lãnh đạo" như cách thức mà một vài thành phố đã làm và khá thành công.
Thi tuyển phải đảm bảo sự minh bạch và công bằng.
Hàn Phi Tử nói “Dụng nhân như dụng mộc”. Đó chính là phương pháp sử
dụng đúng người, đúng việc. Do vậy, Nhà nước khi xây dựng bộ máy cần làm
đồng bộ, giảm sự lệ thuộc vào thứ bậc hành chính, thâm niên công tác mà chuyển
sang phụ thuộc vào năng lực của mỗi người. Phải xóa bỏ cả việc phân công mà
không đúng năng lực, khiến có người "long đong cả đời không biết mình giỏi ở
lĩnh vực nào"
Đôi khi, luân chuyển sẽ ảnh hưởng tới quá trình phấn đấu của mỗi người,
nhưng người tài cần phải được trọng dụng, được cống hiến trọn vẹn trí tuệ và tâm
huyết chứ không phải đơn thuần là một "chiếc ghế", một vị trí trong cơ quan.
+ Kiên quyết đưa người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi bộ máy với các giải
pháp sàn lọc cán bộ không đủ tiêu chuẩn và nâng cao chất lượng cán bộ trong
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 25
tình hình hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình cải cách hành chính
trong thời gian tới.
Các giải pháp khác, bao gồm:
Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình
thực thi công vụ, nhất là kỹ năng hành chính;
Ngoài ra, vấn đề quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; khen thưởng, kỷ luật; quản
lý sử dụng cán bộ, công chức cấp xã... cần có những quy định cụ thể hơn.
+ Cần có chính sách tiền lương đủ sức thu hút người có tài
Cần có chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ, đủ sức thu hút những người có
tài, có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc trong giai đoạn mới, để
trên cơ sở đó làm thay đổi cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức và tạo cơ
chế để thay thế những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi bộ máy Đảng, Nhà
nước.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 26
KẾT LUẬN
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho
sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất
đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu
nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của
lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong
xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm
qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc.
Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật
khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết
để chúng ta hoàn thiện pháp luật và Hiến pháp của nước ta cũng đã ghi nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn
có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Qua đề tài này, tôi hi
vọng phần nào lí giải được tầm quan trọng của pháp luật trong việc ổn định chính
trị và phát triển xã hội, phần nào nhận thấy pháp trị có vai trò vô cùng to lớn
trong việc quản lý và điều hành tốt bộ máy Nhà nước.
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Lương Ngân 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đại cương lịch sử Triết học , TS. Nguyễn Ngọc Thu &TS. Bùi
Văn Mưa, NXB Tổng hợp TP.HCM 2003.
2. Nguyễn Tài Đông. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Tạp chí Triết học số
12 (187), 2006.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X
4. Nguyễn Thị Kim Bình (2008), “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò
của nó trong lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (Số 3(26).2008)
5. Website Tạp chí cộng sản
6. Website Bách khoa toàn thư mở.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai4_nguyenluongngan_d1k19_1349.pdf