Nhà nước Pháp quyền Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, là
sự tổng hợp tinh hoa từ các tư tưởng phương đông đặc biệt là tư tưởng Pháp gia,
phương tây và đặc biệt tiếp thu tư tưỡng Lenin trong tư tưởng về Nhà nước và cách
mạng, về xây dựng xã hội mới của Lenin cũng có chứa yếu tố pháp quyền.Lenin
hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng con người và phát triển tòan diện
con người. Lenin đã yêu cầu bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao
động, phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật. Và, Nhà nước Pháp quyển
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được hình thành là nhà nước thượng tôn pháp luật và
đảm bảo tính dân chủ và là nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân.
26 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2764 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại (2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
CAO HỌC KHÓA K19
…………………... .. …..……………….
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:
TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHÁP GIA VÀ SỰ
ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH
TRỊ CỦA THỜI ĐẠI
GVHD : TS BÙI VĂN MƢA
SVTH : Nguyễn Thị Kim Ngân
THÁNG 3 NĂM 2010
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì ấn Độ Và Trung Quốc
là những Trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh
ấy. Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông thời đó mà ý nghĩa của nó vẫn
còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề chính trị- xã hội và là nền tảng lý luận
đầu tiên để xây dựng một nhà nước Pháp quyền sau nay, đó là những tư tưởng triết
học của Pháp gia.
Trường phái Pháp gia cũng là một trong những trường phái du nhập vào Việt Nam và
cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, đặc biệt chính trị giúp xây dựng
khái niệm sơ khởi cho một nhà nước quản lý xã hội bằng Pháp luật. Nội dung của bài
tiểu luận trình bày khái quát lịch sử hình thành, giá trị cốt lõi của Pháp gia với đường
lối Pháp trị tiêu biểu của Hàn Phi. Trên cơ sở tìm hiểu về những giá trị và hạn chế của
Pháp gia, sẽ phân tích ảnh hưởng của Pháp gia có thể mang đến để xây dựng nhà nước
Pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Bài tiểu luận này được thực hiện từ một sự nổ lực rất lớn để tham khảo, nghiên cứu và
tìm kiếm các tài liệu liên quan, nhưng do trình độ chuyên môn về Triết Học có hạn và
thời gian nghiên cứu có hạn, nên phần trình bày sẽ không thể tránh khỏi sai sót. Rất
mong nhận được đóng góp của Giảng Viên để có thể hoàn thiện hơn được kiến thức
đã học cũng như nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn
2
Chƣơng 1:
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA
I. Đặc điểm lịch sử xã hội Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc - cơ sở xã hội
cho tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia
-
. Và bắt nguồn
từ cải cách phương pháp cai trị, phái Pháp gia xuất hiện các đại biểu nổi tiếng sớm
nhất: Quản trọng, Tử Sản.
càng nhiều hơn như: Lý Khôi, Ngô Khởi, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương
Ưởng…Đặc biệt, Hàn Phi dựa trên thực tế của tình hình xã hội tiếp thu, kết hợp
những lý thuyết pháp gia đã có từ trước, vận dụng sinh động và hoàn chỉnh học thuyết
Pháp Gia.
3
II. Những tiền đề lý luận hình thành tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia
. Các học giả Pháp Gia mỗi người mỗi vẻ,
tuy nhiên tựu trung lại tất cả đều nhắm đến đích là chủ trương thực tế, trọng quyện
lực, dùng chính sách để tiến hành cải cách.
Quản Trọng (từ năm 685 – 645 TCN) là tướng quốc nước Tề, được Tề Hoàn
Công coi trọng như cha nên đươc gọi là Trọng Phụ. Trong vòng 40 năm dưới quyền
cai trị của Quản Trọng, nước Tề từ chỗ đang suy hóa thịnh, thành bá chủ các nước
chư hầu. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm
86 thiên 4 điểm chủ yếu sau: Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh
cường "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục". Hai là, muốn
có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công thương nghiệp, mặt khác
phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: "Tội nặng thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo
giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai
rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà
bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa". Ba là, chủ
trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận
cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ
làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải, trong đó có:
Bản pháp, Lập pháp, Pháp cấm, Trọng lệnh, Pháp pháp,.. . Bốn là, trong khi đề cao
luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm... trong phép trị nước. Như vậy
có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy tổ của Pháp gia. Đồng thời ông cũng là cầu
nối Nho gia với Pháp gia.
Tử Sản cầm quyền ở nước Trịnh từ 554 – 523TCN nước Trịnh nhỏ nên
thường xuyên bị xâm lược, Tử Sản chủ trương dùng ngoại giao để cứu nước, cương
quyết áp dụng Pháp chế, tôn trọng ý kiến của nhân dân, chống lại tư tưởng mê tín dị
đoan. Tử Sản cho đúc các “Hình thư”, ông tuy chưa phải là chủ trương Pháp trị nhưng
cũng làm cho pháp luật có tính khách quan hơn.
4
Kế đến là Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh chuyên học về
“hình danh”, sau làm quan đến bậc tướng quốc nước Hàn. Thân Bất Hại đưa ra chủ
trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Thân Bất
Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho
kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhều hay biết ít, yêu hay ghét mình...
bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua. Nhờ tài
ngoại giao và nội trị của Thân Bất Bại mà nước Hàn trở thành nước mạnh, không
nước nào xâm lấn nổi giai đoạn lúc bấy giờ.
Thận Đáo (370-290 TCN) một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này, ông
là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử,
nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho
rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ
quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá tiến bộ mà
sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề
cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì
quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao.
Nghiêu hồi còn làm dân thường thì không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử
có thể làm loạn cả thiên hạ, do đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được
mà bậc hiền, trí không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là
nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của
quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền
thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền". [2][2] ( Theo tạp chí Khoa học Công
Nghệ Đại học Đà Nẵng số3(26).2008 136)
Thƣơng Ƣởng Người chủ trương Pháp trị một cách khá triệt để và đạt những
kết quả khá to lớn. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh
tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao
"pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm).
Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới
đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực tiễn,
Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai
hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người phạm tội. Đối
5
với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân, kiềm chế các
hành động lộng quyền và ăn chơi xa xỉ của các tầng lớp quý tộc. Ông cũng là người
đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường
thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần lượt
thôn tính được nhiều nước khác..
Hàn Phi Tử ( khoảng 280 – 233 TCN)cuối cùng phải kể đến Hàn Phi, người
có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của pháp gia. Nhưng những lí thiết
này qua Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Bại, … chỉ mới là phép tắc. Nó vẫn
còn thiếu một linh hồn để trở thành sinh động, uyển chuyển để áp dụng cho vô vàng
trường hợp khác nhau. Muốn khắc phục tình trạng xã hội đang suy đồi, xây dựng
nước giàu mạnh, trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế
hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho
gia, "Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa mà cần phải
dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm đề cao pháp luật đề cao kẻ chiến đấu và sản
xuất, hạ thấp địa vị quý tộc, không chấp nhận một lớp người sử dụng pháp luật mà
không bị pháp luật chi phối và một lớp người là đối tượng của pháp luật mà không
nhận được quyền lợi của pháp luật . Và tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã
hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những
đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như
không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn
năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị
nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ [3]
Thực tế lịch sử một số nước lúc đó đã chứng minh: những nước dựa vào pháp luật để
trị quốc thì mạnh lên và thôn tình các nước khác, xem ra vai trò của pháp luật hiển
nhiên là đã rõ. Từ đó Hàn Phi đề ra lí luận chính trị về trung ương tập quyền chuyên
chế quân chủ. Như vậy, Hàn Phi đã xây dựng một hệ thống tư tưởng chính trị kết hợp
“ Pháp, Thuật, Thế”, lấy pháp trị làm chủ. Hệ thốn lí luận này có lợi cho việc thực
hành và tăng cường sự thống trị của nền chuyên chấ quân chủ, cho nên được tầng lớp
thông trị của nền phong kiến sau này xem là chuẩn mực. Có thể nói bộ Hàn Phi là bộ
sưu tập đầy đủ của những tư tưởng Pháp gia từ trước đó.
6
Chƣơng 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP GIA
I. Tƣ Tƣởng Pháp, Thuật và Thế:
Pháp gia nhiều tính cách triết lý chính trị thực tiễn, với châm ngôn kiểu "khi thời đại
thay đổi, những đường lối cũng thay đổi" làm nguyên tắc chính của mình, hơn là một
triết học về luật. Trong hoàn cảnh đó, "Pháp gia" ở đây có thể mang ý nghĩa "triết lý
chính trị tán thành sự cai trị của pháp luật" và vì thế, khác biệt so với ý nghĩa của
Pháp gia phương Tây. Hàn Phi người tập đại thành tư tưởng Pháp gia, ông đã tiếp thu
điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng và phát triển một
hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Coi pháp
luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng, Hàn Phi đã đề
xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt
sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật... Với những tư tưởng đó, học
thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương” theo ba quy tắc
sau:
1. Quy tắc Pháp của Pháp gia: luật hay quy tắc. Luật pháp phải được trình bày rõ
ràng và thông báo rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình
đẳng trước pháp luật. Luật pháp phải thưởng cho những người tuân phục và trừng
phạt những người bất tuân. Vì thế, nó đảm bảo được rằng mọi phán xét của pháp luật
là đều có thể suy luận theo hệ thống để biết trước được (từ khi phát sinh hành động
liên quan tới pháp luật, đã có thể đoán trước phán xét của pháp luật cho hành động đó
là như thế nào). Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là
nhà vua cai trị. Theo Hàn Phi Tử: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và
trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng
đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa
trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm
số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới
không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”Nếu có thể làm
cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua kém tài cũng trở nên mạnh mẽ.
7
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp
luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định,
xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân
chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn luôn
mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mà
mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”(9),
Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương
“luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc
đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng
thiện bất di tứ phu)
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”(10). Đây là một tư tưởng hết
sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công”
khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền
đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để
tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là
cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ
không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” –
một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2
khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập pháp cần phải
xét đến các nguyên tắc sau:
1/ Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người
là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết
thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng
qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta
giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không
phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải
8
ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái
lợi của nó phải lớn hơn cái hại.
2/ Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực tế
của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật trong tư
tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu hình hay một
mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và
tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp
theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh
loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn
cấm theo khả năng mà thay đổi”.
3/ Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song
trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi (“số biến
pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho
bọn gian thần.
4/ Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
5/ Đơn giản mà đầy đủ.
6/ Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
1/ Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
2/ Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình bất tị
đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ – nhà vua – cũng
phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp
luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”(13); Nếu nhà vua biết bỏ điều riêng
tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu
9
xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ
trương quân quyền thần thánh không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này
vẫn bị chế ước bởi pháp quyền.
3/ Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người
không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
4/ Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
2. Quy tắc Thuật của Pháp gia: phương pháp, thủ đoạn hay nghệ thuật. Những thủ
đoạn đặc biệt và “bí mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác
(quan lại ...) không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Điều đặc biệt quan trọng là
không một ai có thể biết được những động cơ thực sự của những hành động của nhà
vua, và vì thế không ai biết được cách đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ
việc tuân theo “pháp” hay các luật lệ.
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua, bởi vì
“bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình thế buộc
không thể không thờ”. Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu mạnh, song
nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nước mà làm
giàu có cho các quan đại thần mà thôi”, Do vậy, nhà vua phải có “thuật” để dùng
người. Đối với Hàn Phi, “thuật” chính là một loạt các phương pháp bổ nhiệm, miễn
nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình danh là một thuật không
thể thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó
chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà
không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều
là những công cụ của bậc đế vương”
3. Quy tắc Thế của Pháp gia: : tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí
của nhà vua cai trị, chứ không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích
khuynh hướng, hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị vua cai
trị thực sự.
10
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi đặc biệt coi trọng “thế”. “Thế” còn được gọi là
“quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng
chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử dụng người, quyền
thưởng phạt, v.v.. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền thống trị trong tay, thì
một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng. Trong thiên “Bát
kinh”, ông viết: “Cái thế là cơ sở để thắng đám đông”(17) (Thế giả, thắng chúng chi
tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi quan
niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế: 1/Vua không được cho bề tôi mượn
quyền thế. 2/ Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi. 3/ Cần sử dụng thuật
thưởng phạt để củng cố quyền thế. 4/ Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không
được để bề tôi quá quý hiển, đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản
thân vị vua, thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là
công cụ.
Sử dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân
chủ, tạo nên bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung
ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ phương,
yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn Phi tử. Dương
quyền”); từ đó, góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước
trung ương tập quyền phong kiến thống nhất
II. Áp dụng thực tiễn Pháp gia
Pháp gia là tư tưởng trung tâm trong triều đình nhà Tần, lên tới cực điểm của nó khi
Trung Quốc thống nhất dưới thời „Hoàng đế đầu tiên‟ (Tần Thuỷ Hoàng). Bên cạnh
đó, tư tưởng pháp gia thường được đem ra so sánh với công việc của nhà chiến lược
người Italia Niccolo Machiavelli và Arthashastra ở Kautilya (theo quan điểm Châu
Âu).
Luật được áp dụng để tạo ra sự nghịch biện, bằng cách ấy các quan lại của Hoàng đế
có thể tìm kiếm và lựa chọn ra điều luật để áp dụng. “Thế” chính là mưu mẹo khôn
khéo để vượt trên pháp luật, dù xét theo từng điều một thì pháp luật là rõ ràng và đơn
giản, nhưng nó vẫn là một cơ cấu mà theo đó một sự vi phạm pháp luật dù là nhỏ
11
nhất, mà bất kỳ ai ở bất kỳ địa vị nào đều có thể phạm phải, cũng không thể bày tỏ
được nếu không có khả năng chứng minh. Khi ấy, “những thủ đoạn đặc biệt” bắt đầu
mang lại kết quả, bởi vì quyền lựa chọn luật pháp để mang ra thi hành chỉ nằm trong
tay Hoàng đế. Sự vượt trên pháp luật vừa diễn ra bằng quy trình tố tụng vừa bằng sự
lựa chọn luật tố tụng, và bằng sự vắng mặt hay sự đình chỉ tố tụng bởi một điều luật
mâu thuẫn. Lúc ấy tất cả mọi người buộc phải hiểu được tính bí ẩn trong cách hành xử
của Hoàng đế. Thậm chí cả những người đại diện cho Hoàng đế nắm quyền lực trong
tay cũng chính là những đối tượng của mạng lưới luật pháp phức tạp theo học thuyết
này của pháp gia. Rất khó để hiểu được động cơ hành động của Hoàng đế, vì việc áp
dụng luật kiểu này này lại dễ dàng khiến nó trở nên xung đột với một kiểu áp dụng
khác. Vì thế, chỉ có Hoàng đế là hoàn hảo. Lợi thế kiểm soát luôn nằm trong tay nhà
vua, người luôn giám sát việc lựa chọn (hay tạo ra) luật lệ quyết định cuối cùng để áp
dụng cho mọi tình huống.
III. Vai trò của Nhà cai trị
1. Vai trò của nhà vua
Ban đầu các thành viên của tầng lớp cai trị, những người theo Pháp gia nhấn mạnh
rằng hoàng đế với tư cách người đứng đầu quốc gia luôn gắn liền với "sự bí ẩn của
chính quyền", và như thế những quyết định của chính quyền buộc người dân phải kính
trọng và tuân thủ.
Nhà vua đại diện cho tính chính thống: những nhà cai trị tài năng được tôn kính, nhà
cai trị khôn khéo thì giữ kín mình. Vì vậy, theo lý thuyết, bằng cách che dấu đi những
mong ước, những ý định của mình, vị vua của pháp gia biết được kẻ nịnh bợ và buộc
quan lại phải lưu ý về tính độc tài của chính quyền. Hàn Phi Tử (học giả Pháp gia
được Tần Thuỷ Hoàng kính trọng nhất) lại yêu cầu một nhà cai trị khôn ngoan, một
lãnh đạo giỏi theo các tiêu chuẩn của ông phải biết từ chối chấp nhận lời đề nghị ngay
cả của những vị quan trung thành khi họ có sai sót, nhưng cũng phải tỏ ra nhã nhặn
với những kẻ dưới quyền và không quá tham lam. Vị vua cai trị tài giỏi cũng phải
hiểu được tầm quan trọng của sự khắt khe ngay cả khi đang rộng lượng. Mặc dù mong
12
rằng nhà vua cai trị không phải là gia trưởng, pháp gia nhấn mạnh rằng tỏ ra quá nhân
đức có thể làm hại đến tính quần chúng và đe doạ trật tự bên trong của quốc gia
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái
làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền
pháp trị của nước đó như thế nào. Theo Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – làm hết
sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng
của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm
giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước, tiền đề quyết
định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức
hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về với điều
lễ là nhân. “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ và Mặc Tử,
ông tổ phái Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức
sắc sảo loại quan điểm này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng
chủ trương của hai người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân
chính. Nghiêu, Thuấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là
đúng với Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ
trước đấy đã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho
và đạo Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba
ngàn năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm
được mà lại quyết định ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo
ngay thì đó là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo
Nghiêu và Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và
dối trá, cái hành động bác tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo”. Các nhà
Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát
nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn
Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác
lên mình.
Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá
cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân
theo một kiểu khác. Hàn Phi Tử viết: “Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không
13
nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu
rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói đến
những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương. Bọn
nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: „Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương‟. Loại người
nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho
nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân
nghĩa, không nghe lời bọn học giả”
Tương tự, khi nhấn mạnh quyền lực của vương quyền, những người pháp gia như
Thận Đáo (kh. 350-275 TCN) và Thân Bất Hại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của
một nhà cai trị có đạo đức (đối với nhân dân). Vì thế, thần dân bắt buộc phải tuân theo
những mệnh lệnh dù là đê hèn, tàn nhẫn nhất và/hay những vị vua cai trị dù là bất tài
nhất.. Trong khi Thương Ưởng (Tể tướng của Tần Hiếu Công) vẫn để cho những vị
vua cai trị say đắm vào nữ nhạc hơn là chú tâm tới chính sách đối ngoại. Khá ngạc
nhiên, là theo nhà sử học vĩ đại thời nhà Hán là Tư Mã Thiên (kh. 145-86 TCN), trong
khi vị Hoàng đế đầu tiên nhà Tần giấu mình khỏi thế giới (có lẽ vì muốn đạt tới bất
tử) và vì thế ít được biết đến, ông lại không cần phải theo mọi đề xuất của pháp gia
trong vai trò của nhà cai trị.
2. Vai trò của Quan lại trong tư tưởng Pháp gia
Để giúp đỡ vị vua cai trị và ngăn chặn quản lý kém, Thân Bất Hại – vị tướng quốc
nướcHàn – đã lập nên quan niệm những “thuật” cai trị, hay là hình thức quan liêu
hành chính có mục đích thúc đẩy sự áp dụng chương trình cai trị của pháp gia. Đối
với những nhà pháp gia:
Vị quan giỏi phải là người hỗ trợ đắc lực nhất cho nhà vua. Trong khi trách nhiệm
của quan là phải hiểu được cụ thể từng việc thì trách nhiệm của vua là phải chỉnh lý
lại công việc của quan.
Áp dụng trừng phạt và khen thưởng với quan lại, nhấn mạnh quan điểm rằng các vị
quan và những viên chức khác thường muốn có ảnh hưởng đối với những nước xung
quanh bằng cách lạm dụng địa vị của mình, Hàn Phi Tử thúc giục vua cai trị kiểm
14
soát các cá nhân đó bằng hai cách, trừng phạt và khen thưởng, các vị quan lại bị buộc
phải đảm bảo rằng sự thực hiện trách nhiệm của mình không tốt hơn mà cũng không
kém hơn công việc đã được giao. Cụ thể, theo nhà Hán học kiệt xuất Robin Yates,
những bộ luật mới được tìm thấy của nhà Tần cho thấy các quan lại bị buộc phải tính
toán số lượng chính xác nhân công cần thiết cho mọi công việc thủ công; nếu người
thợ bị bắt phải thực hiện công việc nhiều hơn hay ít hơn, vị quan đó sẽ có trách nhiệm
phải giải thích, và theo lý thuyết pháp gia, các quan lại và viên chức bị ngăn chặn
không thể thực hiện một số trách nhiệm của người khác và bị trừng phạt nếu họ có ý
định che giấu vua bằng lời lẽ hay không thể cảnh báo vua về nguy hiểm. Hệ quả của
việc này là vị quan phải luôn giải thích với vua về những nguy cơ có thể gây hại cho
vua trong khi đó nhà vua lại không bao giờ phải nhận trách nhiệm cá nhân.
Trong quá trình xây dựng học thuyết của Pháp gia, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý
thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân đức của
nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”), lý tưởng chính
trị Nghiêu Thuấn là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất
nước.
Bằng cách nhấn mạnh sự thực thi nhiệm vụ thông qua phương pháp nguỵ biện,
pháp gia hy vọng hạn chế tham nhũng trong quan lại và mưu đồ bên trong chế độ
quan liêu bằng sự đe doạ trừng phạt.
IV. Mục đích của Luật lệ
Những pháp luật do pháp gia ủng hộ là biện pháp ủng hộ quốc gia, nhà vua, và gia
đình hoàng gia, và cũng là những biện pháp có tính cải cách và đổi mới. Về lý thuyết,
pháp gia tin rằng nếu những sự trừng phạt là nặng nề và pháp luật được áp dụng bình
đẳng thì kể cả người có quyền lực và người dân thường đều không thể thoát khỏi sự
quản lý của nhà nước.
Trong khi những luật lệ do phái pháp gia đưa ra bề ngoài có vẻ là để mang lại lợi ích
cho người dân thì trên thực tế nó lại có mục đích mang lại lợi ích cho đất nước bằng
cách đặt chiến tranh và nông nghiệp lên vị trí những chính sách hàng đầu của đất
nước. Đặc biệt, Thương Ưởng nhấn mạnh nông nghiệp và chiến tranh là những nhân
15
tố quan trọng nhất trong cai trị. Luật pháp tốt đảm bảo rằng người dân thường sẽ
không được tiếp cận giáo dục và sẽ không hiểu biết chút gì về thuật cai trị, cho phép
sử dụng họ làm binh sĩ, và nông dân. Nghệ sĩ, thợ thủ công, và thương nhân đều bị coi
là những công dân vô dụng, những người không thể chiến đấu cũng không thể sản
xuất ra lúa gạo cho quân đội. Pháp gia nhấn mạnh trên chiến tranh là một công cụ nền
tảng quan trọng cho sự sống còn của quốc gia và yêu cầu có một quần chúng hăm hở
tham gia chiến tranh. Để tạo ra một quần chúng ham thích chiến tranh, pháp gia nhấn
mạnh rằng chính phủ phải tăng cường các biện pháp gây nên sự thù nghịch để làm
yếu người dân và sau đó khiến họ trở thành nô lệ vào lợi ích của quốc gia.
Pháp gia đặc biệt nhấn mạnh tính thực dụng chứ không phải địa vị và phong tục là
những nền tảng của pháp luật. Được hướng dẫn theo những tư tưởng pháp gia, Hoàng
đế đầu tiên nhà Tần làm yếu đi quyền lực của các lãnh chúa địa phương (mặc dù
không hoàn toàn như đã được ghi ở trên), phân chia các đế chế thống nhất thành ba
mươi sáu đơn vị hành chính (gọi là quận), và tiêu chuẩn hoá chữ viết. Phản ánh tham
vọng của pháp gia về trật tự và cơ cấu, các binh sĩ Tần chỉ được tập trung khi cả hai
thành phần (một do vua nắm giữ và một nửa do vị tướng chỉ huy) được tập hợp với
nhau.
Cũng như vậy, tất cả các tài liệu trong đế chế phải được ghi chép lại năm mà chúng
được viết ra, người sao chép chúng, và giờ giao chuyển chính xác. Chấp nhận những
sự nhấn mạnh trước kia của Thương Ưởng về tiêu chuẩn hoá đo lường và trọng lượng,
Thuỷ Hoàng đế cũng chấp nhận triết lý của Thương Ưởng rằng không một cá nhân
nào trong nước có thể đứng trên luật pháp (bằng cách đảm bảo trừng trị nghiêm khắc
cho tất cả những trường hợp bất tuân) và rằng các gia đình phải được phân chia thành
những hộ nhỏ hơn. Trong khi có lý do để nghi ngờ rằng Tư Mã Thiên đã tuyên bố
rằng Hoàng đế đầu tiên trên thực tế đã chia các gia đình thành những nhóm mười nhà,
chắc chắn những ví dụ khác về tiêu chuẩn hoá và tổ chức hành chính do Hoàng đế đầu
tiên đưa ra có ảnh hưởng quan trọng từ tư tưởng Pháp gia trong luật pháp nhà Tần.
Dựa vào việc phát triển các nguồn lợi quốc gia, pháp luật nhà Tần là một công cụ vừa
để kiểm soát dân chúng vừa để ngăn ngừa tội phạm.
16
V. Pháp gia và Quyền cá nhân
Các triết gia pháp gia nhấn mạnh tính vượt trội của nhà nước so với quyền cá nhân.
Cá nhân cô độc không có các quyền cá nhân hợp pháp và bất kỳ quyền tự do cá nhân
nào cũng phải bị hạn chế để tăng cường sức mạnh của vị vua cai trị. Đặc biệt, Hàn Phi
Tử, rất nghiêm khắc đối với những khái niệm về quyền cá nhân, từ một quan điểm
nền tảng, phái pháp gia coi những người bình dân và những hành động của họ là có
hại và ngu ngốc. Vì thế, theo truyền thuyết đời xưa, con người vốn ít và rải rác nên
nói chung là có sự dư dật, pháp gia cho rằng thời của họ quá đông dân và thiếu hụt
hàng hoá. Vì thế, theo Pháp gia chính người dân muốn nhà cai trị phải phát hành ra
luật lệ.
Ổn định xã hội ở đất nước pháp gia có nghĩa rằng người dân không bao giờ thoát khỏi
sự trừng phạt. Ví dụ, Nhà Tần đã sử dụng người dân để giám sát lẫn nhau vì nếu một
nhà xảy ra chuyện gì thì tất cả các nhà kia đều bị liên quan. Chính sách thực dụng này
cuối cùng cũng làm những người pháp gia cắn xé lẫn nhau. Thương Ưởng, khi ủng hộ
quyền nhà nước trừng phạt cả thế tử, thì cuối cùng khi thế tử lên ngôi là Huệ công nhà
Tần (r. 338-311 BC) đã quay lại chống đối ông. Ông từng có quyền trục xuất những
kẻ đối nghịch (và vì thế, ngăn chặn các chỉ trích cá nhân) ra những vùng biên giới, thì
cuối cùng ông bị xe ngựa xé ra từng mảnh. Tương tự như thế, Hàn Phi Tử cũng bị
đồng môn cũ là Lý Tư ép phải uống thuốc độc, nhưng đến lượt mình Lý Tư cũng bị
giết (theo luật mà ông đã đặt ra) bởi Tần Nhị Thế, người mà ông đã đưa lên ngôi.
VI. Giá trị và hạn chế lịch sử trong tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia
1. Giá trị trong tư tưởng Pháp gia:
Tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật, triết học, xã hội,
kinh tế, quân sự, giáo dục,...; trong đó, then chốt chính là tư tưởng chính trị. Ông để
tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời có thể vận dụng vô
số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn định, để cho nước
giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị học vĩ đại và học
17
thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương” (đế vương
chi học).
Hàn Phi tập là bộ sách với số lượng kiến thức đồ sộ, chứa đựng trong hơn mười vạn
chữ, phản ánh tất cả mọi mặt của đời sống xã hội lúc bấy giờ.
Các học giả Pháp gia, chính khách nắm được thực quyền ở các nước chư hầu đã dựa
vào luật pháp để cải biến tình hình, chính trị xã hội đen tối đương thời. Xây dựng hệ
thống tư tưởng chính trị kết hợp “ Pháp, luật, thế” lấy pháp trị làm chủ. Hệ thống này
có lợi cho việc thực hành và tăng cường sự thống trị của nền chuyên chế quân chủ.
Hạn chế trong tư tưởng Pháp gia: Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị,
nhà Tần đã thu phục được các nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang
sử mới cho dân tộc Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở
lại, Pháp gia cùng hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về
phương diện này, Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung
Quốc, đã đưa ra một nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do
bản thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực
đoan:
1. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc.
2. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy móc
và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.
3. Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp
luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
4.Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực ra, luật
pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
5. Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử,
dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử(18).
18
6. Sự thất bại của Pháp trước Nho có nhiều căn nguyên xã hội sâu xa
Khi nhà Tần sụp đổ, nhà Tây Hán từ Hán Cao Tổ đến Hán Vũ Đế lên ngôi từng tiếp
nhận kiến nghị “Độc tôn Nho học, loại bỏ các trường phái khác” (“Bãi truất bách gia,
độc tôn Nho thuật”) của Đổng Trọng Thư, nhưng vẫn tiếp tục con đường chính trị và
chính sách của Pháp gia và từ đây, sự đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng Nho và Pháp
ngày càng trở nên gay gắt hơn. Tuy nhiên đến đầu Tây Hán, việc mua bán, sử dụng
nô lệ với số lượng lớn vẫn được tiến hành, nhất là ở các nhà quý tộc sáu nước cũ (“lục
quốc cường tộc”). Ở đời Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế tiếp tục tiến hành con đường
của Pháp gia và tăng cường trung ương tập quyền, nhưng sự đấu tranh giữa Pháp gia
và Nho gia ngày càng gay gắt khi các nhà buôn và các ông chủ sản xuất lớn (nhất là
trong các ngành quan trọng: luyện sắt, làm muối, đúc tiền,…) cũng lấy nô lệ làm lực
lượng lao động chủ yếu. Hai thế lực này cấu kết với nhau, gây một áp lực lớn đối với
chính quyền nhà Hán
Đến trung kỳ, hậu kỳ Tây Hán, quá trình tập trung hóa đất đai vào tay số ít tư nhân
(các nhà quý tộc phong kiến, quan lại, đại địa chủ) diễn ra ngày càng mạnh. Trong
Hán Thư có chép: “Kẻ mạnh thì ruộng vườn ngàn mảnh, kẻ yếu thì tấc đất cắm dùi
cũng không” (“Cường giả quy điền dĩ thiên số, nhược giả tằng vô lập chùy chi cư”.
Hán Thư. Vương Mãng truyện). Thế lực đại địa chủ, thế gia hào tộc này cũng chính là
lực lượng bảo thủ trong xã hội. Họ ra sức tuyên truyền một ý thức hệ lạc hậu nhằm
kìm hãm sự bùng phát của số đông nông dân bị phá sản, tôn sùng Khổng Mạnh, đề
cao việc đọc kinh điển (tôn Khổng độc kinh), thi nhau nhận mình là học trò của
Khổng Mạnh. Sau khi Hán Vũ Đế vừa qua đời, lực lượng thế gia hào tộc liền mở cái
gọi là “Hội nghị làm muối làm sắt” (“Diêm thiết hội nghị”), tấn công Pháp gia nhằm
thay đổi con đường pháp trị. Tuy kế hoạch này thất bại, song đến lúc Hán Nguyên Đế
qua đời, lực lượng trên đã khống chế được quyền lực trong triều đình và từ đó, ý thức
hệ Nho gia chiếm địa vị thống trị. Quang Vũ Đế thành lập nhà Đông Hán, ông đặc
biệt đề cao Nho học, coi các con chữ trong kinh điển như những lời sấm truyền, bất
cứ ai tỏ thái độ hoài nghi hay bất kính với Nho gia đều bị khép vào tội chết “phi thánh
vô pháp”. Đến năm 79, Hán Chương Đế tự mình chủ trì một cuộc hội kinh học Bạch
Hổ Quan lớn, lý luận hóa thuyết “thiên nhân cảm ứng” của Đổng Trọng Thư, biên tập
19
ra Bạch Hổ thông nghĩa nổi tiếng, chính thức tuyệt đối hóa địa vị ý thức hệ Nho gia.
Cũng từ đây, hệ tư tưởng Pháp gia và phương thức pháp trị hạ thêm một bậc nữa trong
lịch sử Trung Quốc.
Chương 3:
TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỂN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. Khái quát tƣ tƣởng ảnh hƣởng hình thành nhà nƣớc và pháp luật Pháp quyền
trong lịch sử Việt Nam
Từ ảnh hưởng của các tư tưởng coi trọng pháp luật, những tư tưởng triết học Trung
Quốc như Lão tử, Trang Tử và đặc biệt là Pháp gia của Hàn Phi đã đưa ra về tính tối
thượng của Pháp luật, Hàn Phi Tử đặc biệt nhận mạnh đề cao vai trò của Pháp luật
trong công việc quản lý xã hội, đưa ra các tiêu chuẩn hết sức cần thiết trong việc xây
dựng luật Pháp như tính khách quan, tính công bằng, tính minh bạch và tính ổn định.
Sau đó, Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền lúc bấy giờ là chống lại
"thuyết đặc miễn trách nhiệm của nhà vua", tư tưởng về nhà nước Pháp quyền ra đời
chống lại sự chuyên quyền, độc đóan, gắn liền với việc xác lập và phát triển nền dân
chủ; bạo lực, lộng quyền và hỗn lọan là cái tương phản với công bằng, pháp luật, cần
phải xóa bỏ.
Ảnh hưởng và có tác động sâu sắc nhất sự đóng góp của những nhà kinh điển Chủ
Nghĩa Xã Hội. Marx, Engels và Lenin dù không chính thức nói đến nhà nước Pháp
quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong học thuyết của mình nhưng
các ông luôn quan tâm đến Nhà nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật
Như vậy, nhà nước Pháp quyền là một Nhà nước thượng tôn pháp luật và phải bảo
đảm dân chủ. Lịch sử nhà nước Pháp quyền đã có từ xa xưa và ngày càng hoàn thiện
20
qua các giai đọan lịch sử khác nhau và trở thành học thuyết vào thế kỷ XVII- XVIII,
gắn liền với Nhà nước Tư sản, nền dân chủ Tư sản.Bên cạnh đó, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Xã hội cũng đã có sự đóng góp nhất định vào học thuyết NNPQ nói
chung, và định hướng cho việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở các nước Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam - nhà nước Pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân sau này
II. Thực tiễn xây dựng hệ thống Pháp luật nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và những bài học lịch sử
Nếu so sánh với tư tưởng Pháp gia, nhà nước Pháp quyền cũng là hình thức tổ chức
nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực
hiện quyền lực của nhân dân
Tuy nhiên, tổ chức của nhà nước Pháp quyền:
Trong nhà nước Pháp quyền luật pháp giữ địa vị tối cao, luật pháp được đề cao và là
công cụ chủ yếu để quản lý mọi hoạt đông của xã hội và công dân. Tương tự Pháp
gia, nhà nước Pháp quyền thì pháp luật phải trở thành tiêu chuẩn và căn cứ căn bản
nhất, cao nhất trong mọi hoạt động của bản thân nhà nước, của tổ chức xã hội và mỗi
công dân. Điểm khác biệt giữa nhà nước Pháp quyền và nhà nước theo tư tưởng Pháp
gia là trong nhà nước Pháp quyền thì tính pháp quyền của hình thức tổ chức nhà nước
Pháp quyền phải là cao nhất ngay cả đối với chủ thể quyền lực, măc dù chủ thể quyền
lực đặt ra pháp luật, còn theo nhà nước Pháp gia cũng coi trọng công cụ Pháp luật
trong cai trị nhưng hầu như pháp luật chỉ mang tính tối cao đối với người bị cai trị.
Nhà nước Pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, mà ở đó quyền lực nhà nước thể
hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân, đây là điểm khác biệt to lớn giũa
nhà nước theo tư tưởng pháp gia và Pháp quyền, trong nhà nước Pháp quyền thì con
21
người được xem là giá trị và mục tiêu cao nhất. Cac quyền con người được thể chế
hóa thành hiến Pháp và pháp luật
Nhà nước Pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự đảm bảo thực tế
mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, nguyên tắc
“ tam quyền phân lập” là nguyên tắc đặc trưng của mọi nhà nước Pháp quyền. Quyền
lực nhà nước pháp quyền phân tách thành ba nhánh quyền lực độc lập nhau, chi phối
nhau trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, đó là quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước là nhà nước Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
thực hiện quản lý xã hội bằng Pháp luật, theo Pháp luật.
Ảnh hưởng của Pháp gia, quyền lực nhà nước cũng thực hiện trên lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và nhân dân.
Kết luận: tư tưởng Pháp trị của Pháp gia là mầm mống tư tưởng nhà nước Pháp
quyền được xuất hiện vào thời xuân thu của Trung Quốc, vai trò của Pháp luật trong
quản lý xã hội được đề cao, các nhà pháp gia như: Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn
Phi...Quản Trọng chủ trương đề cao "Luật, lệnh, hình, chính", vua phải giữ pháp,
"không vì vua muốn mà thay đổi lệnh, lệnh đáng tôn hơn vua". Hàn Phi coi pháp là
chuẩn mực cao nhất của việc cai trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì không kể đến
tình cảm riêng, không câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước
pháp luật . Đến sự phát triển lí luận học thuyết nhà nước Pháp quyền tư sản gắn liền
với chủ nghĩa lập hiến tư sản. Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hình
22
thành từ những tư tưởng về Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa đầu tiên của
Marx và Engels với việc trình bày luật pháp, quyền lực của luật pháp trong tương
quan với sở hữu, sự phát triển, sự phát triển công, thương nghiệp với mỗi giai cấp,
quan điểm của các ông là về tính giai cấp của pháp luật , pháp quyền nói riêng và Nhà
nước nóí chung, giải phóng con người là mục tiêu của một Nhà nước Pháp quyền kiểu
mới.
Nhà nước Pháp quyền Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, là
sự tổng hợp tinh hoa từ các tư tưởng phương đông đặc biệt là tư tưởng Pháp gia,
phương tây và đặc biệt tiếp thu tư tưỡng Lenin trong tư tưởng về Nhà nước và cách
mạng, về xây dựng xã hội mới của Lenin cũng có chứa yếu tố pháp quyền.Lenin
hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng con người và phát triển tòan diện
con người. Lenin đã yêu cầu bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao
động, phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật. Và, Nhà nước Pháp quyển
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được hình thành là nhà nước thượng tôn pháp luật và
đảm bảo tính dân chủ và là nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân.
23
MỤC LỤC
Chƣơng 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH
TƢ TƢỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA
2
I. Đặc điểm lịch sử xã hội Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc - cơ sở xã hội
cho tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia 2
II. Những tiền đề lý luận hình thành tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia 3
Chƣơng 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP GIA 7
I. Tƣ Tƣởng Pháp, Thuật và Thế 7
1. Quy tắc Pháp của Pháp gia 7
2. Quy tắc Thuật của Pháp gia 10
3. Quy tắc Thế của Pháp gia 11
II. Áp dụng thực tiễn Pháp gia 11
III. Vai trò của Nhà cai trị 12
1. Vai trò của nhà vua 12
2.Vai trò của Quan lại trong tư tưởng Pháp gia 14
IV. Mục đích của Luật lệ 16
V. Pháp gia và Quyền cá nhân 17
VI. Giá trị và hạn chế lịch sử trong tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia 17
1.Giá trị trong tư tưởng Pháp gia 17
2. Hạn chế trong tư tưởng Pháp gia 18
Chƣơng 3: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA VỚI SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỂN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 21
I. Khái quát tƣ tƣởng ảnh hƣởng hình thành nhà nƣớc và pháp luật Pháp quyền
trong lịch sử Việt Nam 21
24
II. Thực tiễn xây dựng hệ thống Pháp luật nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và những bài học lịch sử 22
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Bùi Văn Mưa & Nguyễn Ngọc Thu: Đại Cương lịch sử Triết học, Nhà xuất
bản tổng hợp TP.HCM, 2003.
2. TS Bùi Văn Mưa, PGS TS Lê Thanh Sinh: Triết học phần II ( tài liệu tham
khảo dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
nghành triết học), Tiểu Ban Triết Học trường ĐH Kinh tế TP.HCM, 2008.
3. Lê Vinh Quốc: Các nhân vật lịch sử cổ đại, Nhà XB Giáo Dục, 1998.
4. Website: Diễn đàn pháp luật forum, http: www.diendanphapluat/4rum/#_ftn6
5. số3(26).2008 136, theo tạp chí Khoa học Công Nghệ Đại học Đà Nẵng
6. Võ Mai Bạch Tuyết: lịch sử Trung Quốc, NXB Đại Học Tổng Hợp TPHCM,
1996
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai4_nguyenthikimngan_d1k19_5296.pdf