Tưtưởng chính trịcủa Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tửcó
nhiều yếu tốtích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tưtưởng
Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tốcó giá trịcó thểvận dụng trong xây dựng nhà
nước pháp quyền hiện nay.
Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thểchắc chắn một điều là không có
gì hoàn toàn cả. Tưtưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm
chí là phản động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cảngày
nay cũng là lý tưởng.
31 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 10866 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại (3), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
-------------------------------
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC
HVTH : Trần Nguyễn Băng Dương
LỚP : CH19-D1
Thành phố Hồ Chí Minh – 02/2010
háp trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những
những yếu tố của những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra
một phương thức giải quyết vững chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị
quốc: Lễ nghĩa, danh phận của Nho gia được cụ thể hoá trong pháp luật; Vô vi
của Lão gia được chuyển hoá thành quan hệ biện chứng vô vi- hữu vi; Kiêm ái của
Mặc gia tuy là nội dung yếm thế nhất của học thuyết pháp trị, nhưng Hàn Phi Tử
vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp luật. Nhờ học thuyết pháp trị, Tần
Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất
Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu
tiên tại Trung Quốc.
Trong khuôn khổ đề tài, người viết xin được đi sâu vào phân tích
để làm rõ tư tưởng trị quốc của phái Pháp gia, cùng sự ảnh hưởng của nó đến đời
sống chính trị của thời đại.
P
MỤC LỤC
~ ~ ~ * ~ ~ ~
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHÁP GIA
1.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................................. 1
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Pháp gia................................................. 1
1.2.1. Một số khái niệm ................................................................................... 1
1.2.2. Sự phát triển của Pháp gia qua các thời kỳ của các nhà tư tưởng............ 2
1.3. Phân tích tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.................................................... 4
1.3.1. Tư tưởng trị nước bằng pháp luật ........................................................... 5
1.3.2. Quan điểm coi trọng ba yếu tố “Pháp – Thế – Thuật” ............................ 6
1.3.3. So sánh với Nho gia ............................................................................. 14
CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP GIA ĐẾN ĐỜI SỐNG
CHÍNH TRỊ CỦA THỜI ĐẠI
2.1. Trung Quốc đương thời................................................................................ 17
2.2. Ý nghĩa ứng dụng thực tiễn tại Việt Nam ..................................................... 19
2.2.1. Pháp quyền và nhà nước pháp quyền ................................................... 19
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay........... 20
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Pháp gia là trường phái triết học hàm chứa các học thuyết khác nhau nhiều
nhất, gắn liền với dấu ấn lịch sử Trung Hoa cổ đại trong quá trình thống nhất đất
nước. Điều đó đã tạo sự cuốn hút đặc biệt với người viết, cũng là lý do người viết
chọn đề tài này.
2. Mục tiêu của đề tài:
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của Pháp gia.
- Tìm hiểu học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử.
- Tìm hiểu sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến cục diện chính trị
Trung Quốc cổ đại.
- Tìm hiểu ý nghĩa ứng dụng học thuyết này vào thực tiễn ở Việt Nam.
3. Phạm vi, đối tượng đề tài:
Tìm hiểu và phân tích những tư tưởng chủ đạo của học thuyết phái Pháp gia ở
Trung Quốc thời cổ đại.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp lịch sử thống kê
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn
- Phương pháp phân tích tổng hợp
5. Bố cục:
Bài viết được trình bày trong 20 trang, được kết cấu thành 2 chương như sau:
Chương 1: Tư tưởng triết học của Pháp gia.
Chương 2: Sự ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia đến đời sống chính trị của thời đại.
Nội dung chi tiết của bài viết sẽ được trình bày ở phần nội dung sau đây.
NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA PHÁP GIA
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Ở thời Đông Chu, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất được hình thành
thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước đó đã làm nảy sinh một loạt
những thế lực chính trị mới, đó là tầng lớp địa chủ mới lấn át và xung đột gay
gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực đã đẩy
xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời kỳ này bao
gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân Thu và Chiến Quốc.
Thời Xuân Thu (770 - 403 TCN), đất nước loạn lạc với hơn 400 cuộc
chiến lớn nhỏ. Giữa các nước lớn đã triển khai một cuộc giành giật quyết liệt
quyền bá chủ. Thời Chiến Quốc (403 - 221 TCN), cục diện ở Trung Quốc có
sự biến đổi lớn: rất nhiều nước chư hầu vừa và nhỏ đã bị thôn tính, chỉ còn lại
7 nước là Tề, Sở, Hàn, Yên, Ngụy, Triệu, Tần.
Giai đoạn này chính trị bất ổn, xã hội rối ren, đạo đức suy đồi, quan lại
tham nhũng, chiến tranh kéo dài khiến đời sống nhân dân càng thêm đói khổ
cùng cực. Trong bối cảnh đó, các học thuyết như Lão gia, Nho gia… đã không
giúp được xã hội thoát khỏi tình trạng rối loạn và suy sụp vì tính không tưởng
và không có khả năng đáp ứng yêu cầu thời cuộc. Đạo đức và tình thương
không đủ sức mạnh để lập lại trật tự xã hội. Học thuyết Pháp gia thì khác vì
giải quyết được vấn đề đương thời giúp nước Tần hùng mạnh, đi đến thống
nhất được Trung Quốc.
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP GIA:
Trước tiên cần tìm hiểu thế nào là pháp trị và tư tưởng chủ đạo của
Pháp gia.
1.2.1. Một số khái niệm:
Nếu nói theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại thì “Pháp trị là
dùng pháp luật để cai trị, chứ không phải dùng đạo đức để cai trị”1, còn nói
theo quan điểm trong xã hội hiện đại thì khái niệm pháp trị gắn liền với nhà
1
TS Nguyễn Sĩ Dũng, “Chế độ pháp trị”, www.tuoitre.com.vn
nước pháp quyền, tức “Pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập, nó bao gồm ba ý
nghĩa cơ bản: pháp trị là công cụ để điều chỉnh nhà nước (điều chỉnh quyền
lực); pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật;
pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức”2.
Pháp gia là một trường phái tư tưởng có mục đích tiếp cận tới cách
phân tích các vấn đề pháp luật đặc trưng ở lý lẽ logic lý thuyết nhắm vào việc
đưa ra văn bản pháp luật ứng dụng, hơn là nhắm tới xã hội, kinh tế, hay tình
huống chính trị.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua
nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thân Bất Hại, Thận
Đáo, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Để hiểu một cách
tương đối có hệ thống về đường lối trị nước của phái Pháp gia, ta cần tìm hiểu
tư tưởng cơ bản của các nhà pháp trị đã nêu trên cũng như những luận chứng
khá thuyết phục về sự cần thiết của đường lối pháp trị.
1.2.2. Sự phát triển của Pháp gia qua các thời kỳ của các nhà tư
tưởng:
Quản Trọng (725 - 645 TCN):
Là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính
trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật như là phương cách
trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử,
bao gồm 4 điểm chủ yếu sau:
(1) Mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường. “Kho lẫm đầy rồi mới
biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục”3.
(2) Muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công, thương
nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: “Tội nặng thì chuộc
bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một cái
2
TS Nguyễn Sĩ Dũng, “Chế độ Pháp trị”, www.tuoitre.com.vn
3
Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.334
qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì
tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt
nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa”4.
(3) Chủ trương phép trị nước phải đề cao “Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để
định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là
để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo
đường ngay lẽ phải.
(4) Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm...
trong phép trị nước.
Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy tổ của Pháp gia,
đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Thân Bất Hại (401-337 TCN):
Là người nước Trịnh chuyên học về Hình Danh, làm quan đến bậc
tướng quốc. Ông đưa ra chủ trương ly khai “Đạo đức” chống “Lễ” và đề cao
“Thuật” trong phép trị nước. Thân Bất Hại cho rằng “Thuật” là cái “bí hiểm”
của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt
hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề
tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
Thận Đáo (370-290 TCN):
Là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về
đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng
pháp luật. Thận Đáo cho rằng pháp luật phải khách quan như vật “vô vi” và
điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Đây là
một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi Tử đã tiếp thu và hoàn thiện.
Trong phép trị nước, Thận Đáo đặc biệt đề cao vai trò của “Thế”. Ông cho
rằng: “Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp;
kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Cây ná yếu mà bắn
4
Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, NXB Văn học, tr.40
được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi
hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ
cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người
hiền”5.
Thương Ưởng (390-338 TCN):
Là người nước Vệ, sau sang Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật
hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị
nước Thương Ưởng đề cao “Pháp” theo nguyên tắc “Dĩ hình khử hình” (dùng
hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật phải nghiêm,
ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành,
ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng; Pháp đã định rồi thì không ai được bàn
ra bàn vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”.
Thương Ưởng chủ trương: tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau,
khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công,
phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm
người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành
một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một
thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên.
Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN): được trình bày cụ thể ở mục 1.3 sau đây.
1.3. PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ:
Trước tiên, xin điểm sơ vài nét về Hàn Phi Tử (Hàn Phi). Ông sống
cuối đời Chiến Quốc, là Vương tộc nước Hàn. Ông nói ngọng, không có sở
trường hùng biện nhưng lại rất giỏi viết lách. Lúc đó, nước Hàn ngày càng suy
yếu, do yêu nước ông nhiều lần gửi sớ cho vua nước Hàn, kiến nghị biến pháp,
chủ trương người thống trị cần phải lấy nước giàu binh mạnh làm nhiệm vụ
trọng tâm, nhưng nhà vua không tiếp nhận kiến nghị của ông. Bởi vậy ông
mới viết các bài luận văn chính trị hơn 10 vạn chữ như “nội ngoại trư thuyết”,
5
Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.337
“thuyết lâm”, “thuyết nan”... căn cứ theo những kinh nghiệm quản lý đất nước
trong lịch sử và tình hình xã hội hiện thực, và gọi chung là sách “Hàn Phi Tử”.
Những bài luận văn này không được coi trọng ở nước Hàn, nhưng khi truyền
đến nước Tần thì lại được Tần Thủy Hoàng yêu chuộng. Tần Thủy Hoàng dấy
binh đánh nước Hàn. Vua Hàn cử Hàn Phi đi cầu hòa, Tần Thủy Hoàng liền
giữ lại và chuẩn bị trọng dụng. Lý Tư làm thừa tướng nước Tần lúc đó là bạn
học của Hàn Phi, biết người này có tài hơn minh, bèn dèm pha nói xấu với Tần
Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng nghe lời nên đã giam Hàn Phi và cho ông uống
thuốc độc.
Tìm hiểu cuộc đời Hàn Phi để thấy rằng ông là một nhà tư tưởng lớn.
Những phân tích sau đây sẽ minh chứng cho nhận định trên.
1.3.1. Tư tưởng trị nước bằng pháp luật:
Theo Hàn Phi, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không
thể viện dẫn theo “Đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi
trị” của Đạo gia như trước nữa mà cần phải dùng pháp trị. Ông đưa ra quan
điểm tiến hóa về lịch sử, cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá
và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng.
Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một
thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm.
Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một đường lối
trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ, coi pháp luật là
công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp
luật. Pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn
định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh,
làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có
nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những
người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi
hành pháp luật yếu thì nước yếu” 6, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng
luật pháp” (dĩ pháp trị quốc).
1.3.2. Quan điểm coi trọng ba yếu tố “Pháp – Thế – Thuật”:
Trong phép trị nước, nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề
cao “Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên
coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn
chỉnh, trong đó lấy “Pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “Pháp”, “Thuật” với
“Thế”, và cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời. Trong đó,
“Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; “Thế”
là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn “Thuật” là phương pháp cách
thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế
vương.
Phân tích “Pháp”:
Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, “Pháp” là phạm trù triết học được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng “Pháp” là thể chế quốc gia, là chế độ
chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp “Pháp” là những luật lệ mang
tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển lý luận pháp trị của pháp
gia thời trước, Hàn Phi cho rằng: “Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở,
thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ
pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp”7.
Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt, ông
gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông chê Thương
Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực hiện
toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt. Bởi vì
“thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân mới mau mắn mà làm,
phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán, dân mới mau mắn mà tránh...
thưởng hậu không phải chỉ để thưởng công, mà còn để khuyến khích dân
6
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.55
7
Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.346
chúng nữa, phạt mà nặng không phải chỉ là phạt một kẻ gian mà còn để ngăn
kẻ bậy trong nước”8. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện “Pháp”
để “cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không
lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi
đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân
nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù”9. Hàn Phi cho cách
thưởng phạt dựa theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất;
Thưởng thì phải trọng hậu, phạt thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng
phép nước, chí công vô tư; Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt.
Về việc lập pháp, cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
(1) Tính tư lợi: Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với
con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc
khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình
thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm
xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài
thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng
nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của
anh ta là ở chỗ người ta chết”10. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn
hơn cái hại.
(2) Hợp với thời thế: Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc
thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi
bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật
siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ
duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời
thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà
8
Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.346
9
Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.347
10
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.150-151
cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì
pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”11.
(3) Ổn định, thống nhất: Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế,
song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi,
vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho
bọn gian thần.
(4) Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
(5) Đơn giản mà đầy đủ.
(6) Thưởng hậu phạt nặng.
Về việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
(1) Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
(2) Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”,
“hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ –
nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ
phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”12; Nếu nhà vua
biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên,
mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có
thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không thể
xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền.
(3) Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho
người không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
(4) Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
Với nội dung và mục đích như trên, “Pháp” thật sự là tiêu chuẩn khách
quan để phân định danh - phận, phải - trái, tốt - xấu, thiện - ác và sẽ làm cho
11
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.588
12
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.394
nhân tâm và vạn sự đều quy về một mối, đều lấy “Pháp” làm chuẩn. Vì vậy,
“Pháp” trở thành cái gốc của thiên hạ.
Phân tích “Thế”:
Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân
tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có “Thế”. “Thế” trước hết là địa
vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. “Thế”
có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: “Chỉ có bậc hiền
trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền
vậy...”13. “Thế” không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh
của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: “Cái
ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có gió kích động, và nếu không có
sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”14.
Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất
mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư
tưởng. “Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái
thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai cách đều quý, việc làm không có
hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà không đúng với pháp
lệnh thì cấm”15.
Trọng “Thế” tức trọng sự cưỡng chế, cho nên Hàn Phi chủ trương:
(1) Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là
vua.
(2) Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. Điều này gần với tư tưởng Trung quân của Nho gia.
(3) Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện
hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế.
13
Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.348
14
“Tư tưởng Pháp gia, học thuyết của trí bình thiên hạ”, www.thuvien-ebook.com/forums
15
Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập I, NXB TPHCM, tr.105
Phân tích “Thuật”:
Công việc trị nước của vua phải thông qua bộ máy cai trị, là quan lại.
Hàn Phi cho rằng cái lợi của vua và bề tôi khác nhau, mà bản tính con người
nói chung là tư lợi nên bọn thần đều mang ít nhiều lòng phản nghịch. Như vậy
vua trực tiếp trị quan lại chứ không trị dân. Để trị được tầng lớp quan lại, đa
phần là những kẻ hơn người hoặc tài năng hoặc sức mạnh hoặc thế lực… bắt
buộc bậc minh chủ phải có thuật. Do vậy Pháp gia rất chú ý đến “Thuật” trong
đường lối cai trị.
“Thuật” trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn...
trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ
nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể “trị quốc bình thiên hạ”. Nhiệm
vụ chủ yếu của “Thuật” cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành,
tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công
trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ
sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế.
Theo Hàn Phi, “Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật – là phương án để
tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; Tâm thuật – tức mưu mô để chế ngự quần
thần, bắt họ để lộ thâm tâm của họ ra.
* Kỹ thuật: được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và
dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần có thể làm loạn là: kẻ thân thích
của vua, và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược
điểm của vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm họ, Pháp gia chủ trương
vua phải:
- Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình.
- Không cho họ biết mưu tính của mình.
- Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì
cũng phải hỏi mình trước.
- Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng pháp
luật trong việc thưởng phạt họ
- Xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ không.
- Khi tìm kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người
khác thì xét xem ai là kẻ có lợi.
Vua muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì:
- Nếu là người hiền thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin.
- Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc thật hậu để an định họ.
- Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt.
Nếu dùng những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ
họ, bằng cách mượn tay kẻ thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương
tổn danh tiếng. Nhưng cách tốt nhất là không nên dùng những hạng người đó
để khỏi phải đề phòng họ.
Ngoài ra, Hàn Phi cho biết một số hạng người không nên dùng:
- Hạng người coi khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ mà đi nơi khác.
- Hạng đặt lời giả dối trái pháp luật.
- Hạng người lánh đời, ở ẩn, chê bai vua.
- Hạng vì tư lời mà làm thân các chư hầu.
- Hạng vì người thân quen mà làm việc riêng tư.
Tuy nhiên Hàn Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài giỏi lại là gian thần, nếu
vua có thuật để khống chế họ thì vẫn có thể dùng.
* Tâm thuật: thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào ngoài
quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như ra lệnh
và ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác;
Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
“Thuật” còn thể hiện trong “thuật dùng người”. Quy tắc cơ bản của
thuật dùng người theo Pháp gia là thuyết Hình danh. Thuyết này kế thừa từ
Khổng Tử, và phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế, không bàn về tri
thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ thu hẹp vào
việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ông không nói đến
“Chính danh”, mà chỉ nói đến “Hình danh” hay là “Thực danh”. Danh và Hình
hay Thực phải hợp nhau. Ví như một người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là
Danh và hành động tới thăm là Hình hay Thực. Nếu người đó đến thăm thật
thì chứng tỏ Danh và Hình hợp nhau, nếu không thì chỉ có Danh mà không có
Hình hay không có Thực. Nếu pháp luật là Danh thì sự việc là Hình, sự việc
hợp pháp luật thì Danh và Thực hợp nhau. Nếu quan vị là Danh thì chức vụ là
Hình, chức vụ không hợp với quan vị thì Danh và Hình không hợp nhau. Hàn
Phi cho quy tắc Hình và Danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc trị quan
lại, nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi
kẻ gian, khó thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được.
Muốn dùng quy tắc Hình Danh hợp nhau để thu phục bề tôi thì vua phải
tự mình kiểm xét xem có chính đáng không, vì nếu chỉ nghe lời giới thiệu thì
có thể người giới thiệu hoặc vì tư lợi hoặc vì tình riêng hoặc vì bè phái mà đề
cử kẻ bất tài hay gian thần. Để không bị lừa gạt thì phải thận trọng, tham bác ý
kiến nhiều người, rồi đích thân xét tài đức, sau đến mới giao việc. Hàn Phi
không chỉ đưa ra cách xét người, mà còn chỉ ra phương pháp “Thỉnh ngôn”,
“Tham nghiệm”, và “Thí chi giao chức”.
* “Thỉnh ngôn”: tức phương pháp nghe, là:
- Khi bề tôi nói thì vua phải trầm mặc, lầm lì không khen không chê,
không để lộ ý nghĩ và tình cảm của mình.
- Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, mà nói thì phải có đầu có
đuôi có bằng cớ; Lời nói của bề tôi không được trước mâu thuẫn với sau.
- Bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ rệt, không được mập mờ, ba phải để trốn
tránh trách nhiệm.
- Quan trọng nhất lời nói phải thiết thực, có công dụng, không phải là
hư ngôn.
* “Tham nghiệm”: là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và để xem
lời nói của họ có giá trị không. Hàn Phi cho rằng muốn biết lời nói của họ có
thành thực không thì phải:
- Kiểm tra việc đã qua để biết lời nói có đúng không.
- Để bề tôi ở gần mình để biết nội tình của họ.
- Dùng những điều mình biết rồi để tra hỏi những điều chưa biết.
- Nói những điều trái ngược để biết ý tứ kẻ dưới.
* “Thí chi giao chức”: Giao chức tức cho bề tôi làm việc rồi mới biết
thực hay hay dở. Khi giao chức phải nhớ quy tắc:
- Mới đầu giao một việc nhỏ rồi tăng dần.
- Không cho kiêm nhiệm.
- Đã giao trách nhiệm cho một người thì đừng dùng kẻ khác để nhòm
ngó kẻ đó.
Thuật dùng người, quy tắc là như vậy nhưng đó chỉ để cho những vua
tầm thường theo, còn bậc minh chủ có pháp luật thì tự có cách riêng.
Ngoài các yếu tố “Pháp”, “Thế”, “Thuật”, tư tưởng Pháp gia còn coi
trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước
khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực
và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
1.3.3. So sánh với Nho gia:
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh
mẽ lý thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên
nhân đức của nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ
trị”) là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước.
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích
cho người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị
đất nước chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính
quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã
từng nói: “Bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác)
cũng thi hành; còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người
khác) cũng không tuân theo”16. Theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại
trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó
được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ”. Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ,
thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của ông là làm sao để xã hội có thể trở
về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ.
Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý là lời nói của thánh nhân đời
xưa, hay những gì đã từng được nói đến trong quá khứ.
Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan điểm này:
“Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai
người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu,
Thuấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với
Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước
đấy đã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của đạo
Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách
đây đã ba ngàn năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao?...”17. Các nhà
Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính
phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia
nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai
trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao
người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước
đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng
và Tề Hoàn Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng
này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một
kiểu khác. Ông viết: “Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không nói đến
cái làm cho đời nay được trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu
16
Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, NXB Văn học
17
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử. NXB Văn học, tr.561
rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói
đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên
vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá
vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thầy cúng, đồng cốt, vị vua có
pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái
vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”18.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi
ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh
mượn đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để
đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải
đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây
trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể
đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy
bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn
cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn.
Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn,
nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó
cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị
nước”19.
Trên đây là những tư tưởng pháp trị mang tính toàn diện nhất được đề
xuất và tổng hợp bởi triết gia tài ba Hàn Phi Tử. Những tư tưởng ấy đã được
vận dụng vào thực tế như thế nào? Nội dung này sẽ được trình bày ở chương 2
sau đây.
18
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử. NXB Văn học, tr.570
19
Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử. NXB Văn học, tr.327
Chương 2
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA
TƯ TƯỞNG PHÁP GIA
ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ
CỦA THỜI ĐẠI
2.1. TRUNG QUỐC ĐƯƠNG THỜI:
Đại diện tiêu biểu trong việc ứng dụng triệt để tư tưởng Pháp gia vào cai trị
đất nước và đạt nhiều thành tựu đáng kể là Tần Thủy Hoàng.
Năm 770 TCN, nước Tần - vốn là nước có lãnh thổ nhỏ, quốc lực không
mạnh - mới được phong làm một trong những Hầu Quốc phía Tây của Trung Quốc,
vì thế luôn bị Hầu Quốc Trung Nguyên khinh thường. Lúc bấy giờ, sự nghiệp thống
nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển
lên một trình độ mới, trong đó tư tưởng về “Pháp”, “Thế”, “Thuật” vừa được phát
triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được
Tần Thủy Hoàng vận dụng một cách triệt để, kết quả đã đưa nước Tần đến thành
công trong việc thống nhất đất nước: Năm 230 TCN, Tần Thủy Hoàng phát động
chiến tranh với quy mô lớn, trải qua 10 năm lần lượt tiêu diệt Hàn, Triệu, Ngụy, Sở,
Yên, Tề, đến năm 221 TCN đã thống nhất 6 nước, nhờ vậy cục diện chia rẽ trong gần
600 năm ở Trung Quốc đã kết thúc.
Lấy tư tưởng Pháp gia làm chủ đạo, sau khi thống nhất 6 nước, Tần Thủy
Hoàng đã áp dụng một loạt các biện pháp để củng cố nước Tần. Nhờ đó đã đạt được
những thành tựu đáng kể:
- Là triều đại đầu tiên bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu trước đây, thiết lập
chế độ quận huyện để xác lập quyền lực tuyệt đối của Hoàng Đế.
- Đặt ra tiêu chuẩn hóa chữ viết, tiêu chuẩn hóa hệ đo lường (về trọng lượng,
khối lượng, thước đo,…) và luật pháp thống nhất áp dụng trên toàn lãnh thổ.
- Mở rộng lãnh thổ, xây dựng biên cương, xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá,
cầu cống,…), nông dân được ưu đãi, đất đai thuộc sở hữu của người làm ruộng, mở
rộng các kênh tưới tiêu cho nông nghiệp, khuyến khích dân nhập cư, tăng gia sản
xuất lao động, chế tạo sản phẩm, thuế thu trực tiếp từ bộ máy quản lý nhà nước,
không thông qua giai cấp quý tộc…
- Pháp luật công khai những điều luật, luật lệ, quy định mang tính nguyên tắc
được biên soạn rõ ràng, minh bạch như khuôn mẫu, được chép trong đồ thư và bày ra
nơi quan phủ, ban bố rộng rãi cho dân chúng biết.
- Quân đội thuộc về nhà nước, không thuộc về quản lý của quý tộc.
- Thiết lập bộ máy chính quyền mới, có tính hệ thống.
- Quan trọng nhất là việc thống nhất tư tưởng.
Tuy nhiên, tư tưởng pháp trị cũng bộc lộ nhiều điểm quá cực đoan như:
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá
máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp
luật.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với
pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
- Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực
ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
- Lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử,
dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
Vì thế, việc áp dụng triệt để tư tưởng pháp trị của Tần Thủy Hoàng đã dẫn
đến nhiều hệ lụy như: áp đặt hệ tư tưởng do thực hiện độc tài chính trị khiến các trí
thức không phục; thủ tiêu nhiều tập quán văn hóa do tiêu diệt các trường phái tư
tưởng khác; bác bỏ lễ trị, coi thường nhân lễ nghĩa (nặng về hình nhẹ về đức), đã
đánh mất lòng dân, không thu phục lòng người; phân chia của cải trong xã hội không
hợp lý; triều đình nắm hết các mối lợi thương nghiệp, địa chủ thâu tóm tài sản đất
đai; giai cấp quý tộc cũ không được hưởng ưu quyền đặc quyền dẫn đến bất bình
ngấm ngầm bùng nổ;… Từ đó khiến nhà Tần sụp đổ chỉ 4 năm sau khi Tần Thủy
Hoàng qua đời.
2.2. Ý NGHĨA ỨNG DỤNG THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM:
Lịch sử Việt Nam thường gắn liền với lịch sử Trung Quốc. Nền độc lập và
diễn trình tiến hoá của dân tộc thưòng bị tác động bởi ảnh hưởng xa gần của người
láng giềng vĩ đại phương Bắc.
Việt Nam ta trong một thời gian dài đã trị nước bằng chỉ thị và nghị quyết.
Nhưng từ rất sớm (khoảng 1956) một luật sư nổi tiếng đã lên tiếng cảnh báo về sự
cần thiết phải cai trị theo pháp luật. Sau khi đường lối đổi mới đi vào cuộc sống, xã
hội Việt Nam đã thực sự phân hóa về giai tầng, về quyền lợi, nhất là sau khi nước ta
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, những mối quan hệ trong nước lại đan
xen phức tạp với các mối quan hệ quốc tế, thì dứt khoát nền đức trị cổ truyền đã
chấm hết vai trò lịch sử của nó, thay vào đó là một nền pháp trị cứng rắn bất vị thân
mới có khả năng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ xã hội phức tạp hiện nay.
Trên cơ sở đó, xây dựng nhà nước pháp quyền là mục tiêu quan trọng và cần
thiết.
2.2.1. Pháp quyền và nhà nước pháp quyền:
Pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật gắn với hiến pháp, được Bác Hồ
nêu rõ trong bản Tuyên ngôn độc lập: “…Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước với các quan hệ xã hội được xây dựng trên
cơ sở các quyền. Quyền của chủ thể này có thể là nghĩa vụ của chủ thể khác. Pháp
luật điều chỉnh và phân định các quyền này, chúng được phân chia và tổ chức sao
cho sự lạm quyền không thể xảy ra, đồng thời quyền tự do, dân chủ của người dân
được bảo vệ. Trong đó hiến pháp là công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định
các quyền, được coi là bản khế ước xã hội quan trọng nhất.
Vấn đề cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên nhà nước.
Nhà nước pháp quyền đó phải được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”
để kiểm tra nhau, cơ quan nhà nước và công chức thì chỉ được làm những điều luật
pháp cho phép còn dân thì được phép làm tất cả những điều gì mà luật pháp không
cấm, và để đảm bảo dân ủy quyền mà không mất quyền thì công việc của nhà nước
và các cơ quan công quyền phải công khai và minh bạch trước dân, dân có quyền
tham gia vào việc hoạch định pháp luật, giám sát và kiểm soát.
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay:
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: Phát huy dân chủ, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó có nêu phương
hướng nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là:
- Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả
thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu
cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu
chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. Tổ
chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng
Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm
mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
Luật hoá cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực,
bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính
quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư,
nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
- Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách
hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra.
Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong
phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân. Tổ chức
hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở
nông thôn, đô thị, hải đảo.
- Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của
cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi
dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Thực
hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp
trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định. Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những công chức
không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực.
Hoặc xét trên phương diện thực tế xã hội, các nội dung cần thực hiện là:
- Dân chủ hóa xã hội: xã hội dân chủ “lợi ích vì dân, quyền hạn của dân”,
“quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
- Hợp lý hóa bộ máy nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương… đổi
mới tổ chức và hoạt động có hiệu quả thiết thực.
- Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của nhà nước (dịch vụ công): luật
khoa học và công nghệ ra đời phát huy khả năng đầu tư không chỉ của nhà nước mà
của các thành phần kinh tế, thuận lợi cho sự đóng góp của trí thức, của nhà đầu tư
vào khoa học và công nghệ.
- Dân doanh hóa nền kinh tế: mở rộng và phát triển kinh tế dân doanh, thu
hẹp kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải bình đẳng với các doanh nghiệp
thành phần kinh tế khác và phải hoạt động có hiệu quả. Đẩy mạnh thi hành luật
doanh nghiệp, đơn giản tối đa với mọi thủ tục hành chính.
- Pháp chế hóa đường lối, chính sách của Đảng: xã hội văn minh là sống và
làm việc theo pháp luật. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không tự thân nó
đi vào cuộc sống xã hội được. Ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi
hành luật để luật thực sự đi vào cuộc sống.
Như vậy, phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là bắt
nguồn từ sự ảnh hưởng của tư tưởng phái Pháp gia. Trải qua thời gian cùng những
minh chứng lịch sử, ta đã đút kết được nhiều kinh nghiệm quý báu để đi đến một
đường lối đúng đắn và thực tế, mang tính quy luật hơn: nhà nước pháp quyền XHCN.
KẾT LUẬN
Tư tưởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có
nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng
Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà
nước pháp quyền hiện nay.
Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thể chắc chắn một điều là không có
gì hoàn toàn cả. Tư tưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm
chí là phản động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cả ngày
nay cũng là lý tưởng.
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình đại cương Lịch sử Triết học, NXB Tổng Hợp Tp.HCM
- Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học
- Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội
- Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, NXB Văn học
- Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập I, NXB
TPHCM
- Nguyễn Thị Kim Bình (2008), “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của
nó trong lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (Số 3(26).2008)
- ThS Nguyễn Tài Đông, “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi”, Tạp chí Triết học,
Viện Triết học
- Website:
o Pháp gia
o Nền văn minh Trung Hoa
o Hàn Phi Tử, Tần Thủy Hoàng,…
- Website:
o Hàn Phi – Nhà tư tưởng lỗi lạc
- Website:
o Tần Thủy Hoàng – Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc
- Website: www.thuvien-ebook.com/forums
o Tư tưởng Pháp gia, học thuyết của trí bình thiên hạ
- Website: www.tuoitre.com.vn
o Nguồn cội của pháp quyền
o Chế độ pháp trị
- Website: www.chungta.com
o Quản lý bằng pháp luật như thế nào?
o Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
o Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới
- Website: www.dangcongsan.vn
o Báo cáo chính trị của BCH Trung Ương Đảng Khóa IX tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai4_trannguyenbangduong_d1k19_0886.pdf