Từkhi du nhập cho đến nay, Phật Giáo Vi ệt Nam đ ã trải qua bao thăng tr ầm, lúc
thịnh lúc suy,do nhiều nguyên nhân khác nhau, t ừđây Phật Giáo Vi ệt Nam đ ã được
thống nhất từBắc chí Nam. Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi sinh ho ạt của người
Việt từtriết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệthuật cho đ ến phong tục tập quán,
nếp sống. Tìm hiểu và nghiên cứu về"Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đ ời sống
văn hóa tinh thần người Việt", chúng ta càng th ấy rõ nhận định trên.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2918 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần
người Việt. Với khuynh hướng trên, bài viết này sẽ được trình bày qua hai phần:
Phần A: Tổng quan về Phật giáo và các tư tưởng triết học của Phật giáo
Phần B: Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt
Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp cho độc giả nắm bắt được những nét đại
cương về Phật giáo Việt Nam và tầm ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hóa tinh
thần của người Việt. Dù hết sức cố gắng , nhưng với kiến thức còn hạn chế và thời
lượng cho phép nên vẫn không sao tránh khỏi những sai sót trong quá trình tìm hiểu,
nghiên cứu, kính mong Quí Bậc Giáo Thọ Sư, Giáo sư hướng dẫn chỉ giáo.
2PHẦN A: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO VÀ CÁC TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO
I. Khái quát về Phật giáo
1. Phật giáo là gì:
Phật giáo được sáng lập trên căn bản trí tuệ, lấy trí tuệ làm nền tảng để giải thoát
con người. Phật giáo chủ trương công bằng, con người có quy luật nhân quả
(Dhamma niyama) tức là con người là chủ nhân của chính mình.
Phật giáo không phải là một tôn giáo vì Phật giáo không phải là một tín ngưỡng
có hệ thống, lấy đức tin và tôn sùng lễ bái làm cứu cánh. Hơn nữa, Phật giáo không
trung thành với một thần linh hay siêu nhiên nào. Phật giáo khuyên con người tự
phát triển khả năng và trí tuệ của chính mình.
Phật giáo không phải là một triết lý, vì triết lý có tính chất mơ hồ. Có nhà hoạt
động chính trị nổi tiếng từng nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học
có thể bổ khuyết cho khoa học”. Phật học không những thích hợp với khoa học mà
còn bổ sung những khiếm khuyết của khoa học. Vì vậy, Phật giáo không đòi hỏi nơi
người Phật tử một đức tin mù quáng. Phật giáo khuyến khích và chủ trương tự do
bình đẳng, phù hợp với lý trí và thời đại.
Phật giáo là một nền giáo dục trí tuệ, nhân bản vô lượng vô biên, căn cứ vào
nguyên lý và hiện tượng của vũ trụ. Nền giáo dục mà đức Phật dẫn dắt và chỉ dạy
cho chúng sinh hài hòa âm dương, sống khiêm tốn và suy nghĩ linh hoạt. Khuyên
con người làm những điều phúc đức, tốt lành trong xã hội và trong đời sống cá nhân
hàng ngày từ những việc nhỏ nhất cho đến việc lớn nhất, vĩ đại nhất, dựa trên
phương diện thời gian, không gian và bao hàm c ả quá khứ - hiện tại - và tương lai.
Tóm lại, có nhiều cách định nghĩa Phật giáo, nhưng định nghĩa cách nào cũng
nên nhớ câu: “Tất cả vì Phật pháp, tất cả vì chúng sinh!”. Và những điều này đã
được các nhà hiền triết và các nhà tri thức đều phải công nhận đó là chân lý. Nói
một cách khác Phật giáo là một chân lý trường tồn không gì có thể đổi thay được.
32. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo:
Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VI trước công nguyên, người
sáng lập ra Phật giáo là thái tử Siddhartha Gautama, con vua Suddhodana, thu ộc bộ
tộc Thích ca (Shakya) của nước Capilavaxtu – một nước nhỏ ở miền Đông – Bắc Ấn
Độ. Ông sinh năm 563 trước Công nguyên, vào lúc ở Ấn Độ đạo Bàlamôn
(Brahmanism) đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi bất
bình của thái tử về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ
của muôn dân là những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới.
Siddhartha rời nhà năm 29 tuổi, được gọi là Sakia Muni (Thích ca Mầu Ni - hiền
nhân dòng dọ Thích Ca). Sakia Muni tìm gặp những người tu hành lâu năm để học
hỏi, nhưng những điều thu được không làm ông thỏa mãn. Ông rủ 5 người bạn đến
vùng Uruvela (gần thị trấn Gaya – sau này các sách thường ghi là ông đến núi Tuyết
Sơn), tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng mà chẳng ích lợi gì. Thấy mình đã tu sai đường,
ngài liền ăn uống cho lại sức rồi tìm đến một gốc cây pipal lớn, lấy cỏ làm nệm ngồi
tập trung suy nghĩ. Sau một thời gian (tương truyền là 49 ngày đêm), tư tưởng ngài
liền trở nên sáng rõ, ngài đã hiểu ra quy luật của cuộc đời, nỗi khổ của chúng sinh,
thấy được điều mà bấy lâu nay tìm kiếm.
Ngài liền đi tìm 5 người bạn đã từng tu khổ hạnh trước đây để giác ngộ cho họ,
rồi cùng với họ trong suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi khắp vùng lưu vực sông
Hằng để truyền bá những tư tưởng của mình. Từ đó, người đời gọi Ngài là Buddha
Cây pipal, nơi Ngài đã ngồi tu luyện, được gọi là cây bodhi (bồ đề) và trở thành biểu
tượng cho sự giác ngộ. Đức Phật qua đời năm 483 trước Công Nguyên, thọ 80 tuổi.
II. Các tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
1. Thế giới quan của Phật giáo:
Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết duyên
khởi và được làm sáng tỏ qua phạm trù vô ngã và vô thường [1].
+ Duyên Khởi là tư tưởng, giáo lý cơ bản nhất của Phật giáo, thể hiện quan điểm
của Phật giáo đối với đời người, với tồn tại và sinh mệnh, là cơ sở triết học của giáo
4thuyết cụ thể và tư tưởng quan trọng của Phật giáo như nhân quả, trung đạo, bình
đẳng, từ bi, giải thoát. Duyên khởi là nói tắt câu:”Chư pháp do nhân duyên nhi kh ởi”
có nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm
vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Nhân là năng lực phát sinh, còn duyên là lực hỗ
trợ cho nhân phát sinh. Tất cả các pháp đều sinh, diệt, tồn tại trong sự liên hệ mật
thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “có” một cách giả tạo, một cách vô thường.
- Nhân duyên hội họp thì sự vật là “có”
- Nhân duyên tan rã thì sự vật là “không”
Người thế gian không tu dưỡng, lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh viễn
nên bám giữ vào các pháp, vào sự vật (sinh mệnh, danh vọng, tiền tài). Nhưng thực
ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan rã thì người thế gian đau khổ.
Lý nhân duyên cho thấy sự vật hình thành do nhân duyên hòa h ợp, sự vật là hư
giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ cuộc đời mình, vận
mệnh mình.
+ Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào. Vạn vật
trong vũ trụ vốn không có tính thường hằng, nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ
nhân duyên nên thành ra tồn tại. Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người
chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” hội hợp lại: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn
tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức).Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất
khoáng), thủy (chất nước), hỏa (nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống)
và thức (ý thức). Nói tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố vật
chất “sắc’ và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là tôi (vô ngã)
+ Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Luật vô thường chi
phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi, không có gì là thường
trụ, bất biến. Nó chuyển biến không ngừng và sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai
hình thức:
5- Một là Sátna (Kshana) vô thường: là sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời
gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một sự chuyển biến vừa
khởi lên đã chấm dứt.
- Hai là nhất kỳ vô thường: là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô
thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, là kết
quả gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt,
kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới.
Vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh-trụ-dị-diệt, chúng bị lôi cuốn vào dòng
biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả
nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới…, cứ như
thế vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết
quả cuối cùng nào cả.
2. Nhân sinh quan Phật giáo:
Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Cũng như nhiều
trường phái khác của triết học Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu
cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moska) khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt
đến trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh
Phật giáo thể hiện ở chỗ nâng cao tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực
hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người và cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”.
Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là
một truyền thống chính trị Ấn Độ cổ đại. Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi
người”, không thể là độc quyền cho một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp quý tộc,
bình dân hay tiện nô. Nhưng đó không phải kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng
về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu cứu cánh giác ngộ.
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ
diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống
nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
6+ Khổ đế: Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì ngoài s ự đau khổ, rằng
buộc hệ lụy, không có tự do. Đó là tám nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng
phải gánh chịu; Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ, Biệt và Ly (yêu thương chia l ìa), Oán
tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà
không đạt được), và Ngũ thụ uẩn (năm yếu tố vô thường nung nấu làm khổ)
+ Nhân đế: là luận điểm giải thích những nguyên nhân sự thật đau khổ nơi cuộc
sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (t hập nhị nhân duyên): 1. Vô minh, 2. Hành,
3. Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thụ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sinh
và 12. Lão tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm t ất
cả. Bởi vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh.
+ Diệt đế: Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống
nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này
cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân
bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”, khát vọng của
con người tới Chân – Thiện – Mỹ.
+ Đạo đế: là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó
không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường “tu đạo”, thực chất của
con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự
thực hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng hay cải
cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo.
Con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối, không
sáng suốt), gồm tám con đường (Bát chính đạo). Đó là:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt đ ược phải trái
- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian t à
- Chính tịnh tiến: Phải siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới chân lý.
7- Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính .
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị thoái
chí, lay chuyển trước mọi cám dỗ.
Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát, nhập vào cõi
Niết bàn - Nirvana. Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử, luân
hồi. Như vậy Phật giáo có tư tưởng biện chứng, mang tính duy tâm chủ quan.
III. Sự hình thành và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam
Ngày nay, căn cứ vào các tài liệu và các lập luận khoa học, giới nghiên cứu hầu
hết đồng ý rằng Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ
II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch [2]. Trung tâm văn hóa Luy Lâu chính là nơi các
vị sư Ấn Độ đến truyền đạo. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu là trụ sở của Giao Chỉ,
nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng Việt Nam (Hà Bắc). Từ đây có những tuyến
đường thủy bộ nối với Bành Thành và Lạc Dương. Các nhà buôn người Ấn Độ và
người Trung Á đến buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ các nhà sư đến hành đạo.
“Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái viết vào thời Trần có chuyện Chử Đồng Tử,
chàng trai nghèo ở đầm Dạ Trạch (Hưng Yên), kết duyên với công chúa Tiên Dung
con gái vua Hùng. Sau đó, Chử Đồng Tử trên đường đi buôn, chàng đã gặp một nhà
sư Ấn Độ ở trong một túp lều trên đảo Quỳnh Viên. Nhà sư giảng đạo cho Đồng Tử,
Đồng Tử đã giác ngộ đạo Phật được nhà sư Ấn Độ cho một chiếc gậy và một nón lá
để có thể chống gậy úp nón lên làm phép cầu mưa cầu nắng. Khi trở về Chử Đồng
Tử đã truyền Phật pháp cho công chúa Tiên Dung và nhi ều người khác” [3,4].
Câu chuyện trên phần nào cũng đã phản ảnh Phật giáo du nhập vào đồng bằng
Bắc bộ khá sớm trước khi tiếp nhận văn hóa Trung Hoa. V ì Phật giáo trực tiếp với
người Ấn Độ nên thời ấy dân Việt Nam gọi Phật là ông Bụt bởi từ chữ Buddha mà
ra, về sau khi Phật giáo đã qua Trung Hoa thì Buddha đựơc phiên âm qua tiếng Hán
là Phật Đà và để lại tiếng Phật được phổ biến sử dụng.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần,
Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn
8đề trong cuộc sống. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa,
Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ, khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các
đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Bốn giai đoạn lịch sử của Phật giáo Việt Nam
Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành
và phát triển rộng khắp
Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh
Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam [7]:
+ Thiền tông: là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma sáng
lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Thiền là cách gọi tắt của Thiền na
(Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền)
nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật.
+ Tịnh độ tông: là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha lực của
Phật A Di Đà. Trong Tịnh Độ tông, có tồn tại một cõi Phật cụ thể, gọi là Thế Giới
Cực Lạc do đức Phật A Di làm giáo chủ. Việc tu hành được mở rộng ra những hành
động đơn giản như đi thăm chùa, tụng danh Phật A Di Đà. Nhờ vậy mà Tịnh Độ
tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam.
+ Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng
niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Mật tông là sự hợp nhất giới luật của
thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa.
Đạo Phật hội nhập vào văn minh Việt Nam là cả một quá trình lâu dài mãi cho
đến ngày nay và vẫn tiếp tục, đó là sự hòa mình của đạo Phật, với tư thế là một
luồng văn hóa ngoại lai vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Có thể nói đó là quá
trình đạo Phật dần dần được bản địa hóa, Việt Nam hóa, biến thành một phần cơ thể
của nền văn minh Việt Nam.
9PHẦN B: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
Đạo lý truyền thống của người Việt Nam đã hình thành trong hàng nghìn n ăm,
qua đấu tranh trường kỳ của dân tộc để tạo dựng và gìn giữ một đất nước có chủ
quyền, có văn hoá cũng như tiếp thu các hệ tư tưởng từ các nền văn minh khác, đặc
biệt là Phật giáo, Nho giáo. Những tư tưởng ấy được người dân mang theo và vận
dụng vào cuộc sống ngay từ những ngày đầu. Với vai trò, chức năng và những giá
trị nhân văn sâu sắc của mình, Phật giáo đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn
hóa tinh thần của một bộ phận quần chúng, ảnh hưởng khá lớn đến tư duy, quan
niệm sống, chuẩn mực đạo đức cũng như phong tục tập quán, lễ hội của người dân.
I. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng, nhận thức và quan niệm sống của
người Việt
Trong cuộc sống tinh thần của con người chồng xếp những mâu thuẫn xã hội:
sinh và tử, thiện và ác, lý tưởng và hiện thực, cảm tính và lý trí... Sự lựa chọn của
con người là tìm kiếm một mệnh sống trường thọ, là phản đối cái ác, xấu mà mong
muốn cái thiện - cái mỹ, là muốn thoát cảnh khổ đau, cầu mong hạnh phúc. Tuy
nhiên, giữa hiện thực mênh mông mà con người lại nhỏ bé, tất cả mong muốn dường
như chỉ là ảo tưởng. Trong bối cảnh này, Phật giáo lại tạo cho con người một hy
vọng, đó là tin vào bản thân, xã hội có thể cứu được khổ đau, thoát khỏi tai nạn và
có mệnh sống lâu dài.
1. Về mặt tư tưởng, nhận thức:
Trong cuộc sống và hoạt động của mình, con người có hai chỗ dựa về tinh thần,
đó là tri thức và giá trị [8]. Tri thức và giá trị có liên quan chặt chẽ với nhau, song
thực chất lại khác nhau. Tri thức hướng tới hiểu biết tường tận về các sự vật, hiện
tượng trong hiện thực, còn giá trị là biểu hiện lý tưởng tất cả những gì quý giá đối
với con người. Nhận thức hướng ngoại cố gắng làm cho nội dung tri thức phản ảnh
10
chân xác khách thể, còn giá trị lại hướng nội nhằm vươn tới sự hoàn thiện nhân cách
và tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống trong sự hòa hợp với những khởi nguyên trong
sáng muôn đời. Cần tiếp cận tôn giáo như một thành tựu văn hóa lớn thuộc lĩnh vực
giá trị học ta mới hiểu được thực chất, mới thấy được vai trò không thể thiếu vắng,
mới lý giải được tính phổ biến và lâu bền của tôn giáo.
Từ khi xã hội Việt Nam bị phân chia giai cấp, cộng đồng con người phân hóa ra
kẻ bóc lột và người bị bóc lột, kẻ áp bức và người bị áp bức, kẻ giàu, người nghèo.
Khi bất công xã hội ngự trị, khi lối sống, tâm lý, ý thức xuất hiện cái tham lam, giả
dối, độc ác, thấp hèn, thì đồng thời, từ trong quần chúng thống khổ đông đảo cũng
nảy sinh ước nguyện về một xã hội công bằng, về sự vươn đến lý tưởng, về sự bình
đẳng cho mọi người, về một cuộc sống hạnh phúc hợp với bản tính người, nảy nở hy
vọng và niềm tin về thắng lợi cuối cùng của cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Những ước nguyện, hy vọng và niềm tin đó được phản ảnh trong Phật giáo.
Trong giáo lý Phật, ở phần giới luật, giới thứ nhất là giới sát. Giới sát có nghĩa là
giới bất tàn sát, giáo lý Phật căn cứ vào tâm ý để phân biệt thiện ác mà không căn cứ
vào hành động. Nếu ta giết người với mục đích để diệt trừ quân xâm lăng hung ác ,
để bảo vệ dân nước thì việc làm đó là việc thiện vì hành động của ta xuất phát từ
một ý niệm thiện. Chiến tranh giải phóng dân tộc của các nước chống xâm lược để
mang lại hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc là
một cuộc phóng sinh vĩ đại, là một việc thiện, một việc chính nghĩa. Trái lại, nếu
chúng ta giết người để thỏa lòng tham ác, để mưu lợi cho bản thân thì việc chém
giết ấy là một việc ác, hành động ấy xuất phát từ một ý niệm ác.
Chiến tranh xâm lược do đế quốc tiến hành chống các nước yếu hơn, phá hoại
độc lập, hoà bình, an ninh của các dân tộc, hủy diệt môi trường sống là một tội ác.
Vấn đề căn cứ vào tâm, niệm để phân biệt thiện, ác là rất quan trọng. Lịch sử Việt
Nam đã chứng minh những điều nói trên bằng các gương người thực việc thực. Dân
tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất
11
gia ở 2 miền Nam - Bắc đã tham gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu
chống giặc một cách anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh
xâm lược, đâu là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó
chính là một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.
Triết lý Phật giáo cũng thể hiện sâu sắc lòng tin tưởng vào con người. Xã hội
xáo động, con người bị tha hóa, bao nhiêu người bị tước đoạt hoặc tự đánh mất một
phần bản chất người của mình và do đó bị hạ thấp phẩm giá, nhân cách. Nhưng đức
Phật tin tưởng rằng cái phần bản chất tốt đẹp nơi mỗi con người mà Ngài gọi là Phật
tánh, cho dù bị tha hóa vẫn không mất hẳn. “Tất cả chúng sanh đều có tánh của
Phật” (Diệu Pháp Liên Hoa kinh). “Ngươi là k ẻ đang thành Phật còn Ta là kẻ đã
thành Phật”. Và do tin tưởng bản chất tốt đẹp có trong mỗi con người nên đức Phật
đề ra mục đích học thuyết của Ngài là “giải thoát” Triết lý Phật giáo vẫn là thể hiện
lòng tin tưởng ở con người, nhấn mạnh để giải thoát, hãy dựa vào sức mình là chính.
Mỗi con người có trách nhiệm trước hết đối với bản thân. Nghiệp báo là cái do mình
đã gây ra và do đó tự mình có thể thay đổi nếu muốn. “Các ngươi phải tự thắp đuốc
lên mà đi!”. Lời căn dặn của đức Phật vang lên như câu châm ngôn tin tư ởng ở con
người, khích lệ con người hãy tự thắp lên ngọn đuốc trí tuệ soi đường, mạnh dạn
kiên trì bước đi trên con đường tự hoàn thiện đạo đức, nhân cách để đến với những
giá trị, nơi chứa đựng ý nghĩa đích thực cuộc đời.
2. Về quan niệm sống
Từ ngàn xưa cho đến nay, giáo lý nhân quả đã có những ảnh hưởng rất sâu sắc
và rộng lớn trong quan niệm sống của con người Việt Nam. Nó đã dẫn dắt bao thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân qu ả mà hành động sao cho tốt
đẹp trong một cộng đồng xã hội. Luật nhân quả cần được quan sát và áp dụng theo
nguyên tắc duyên sinh mới có thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật. Theo đạo lý
duyên sinh, một nhân đơn độc không bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân
bao giờ cũng đóng vai trò quả cho một nhân khác [9]. Giáo lý nghiệp báo hay
nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Nghiệp mà
12
con người lựa chọn được phân biệt là thiện và ác. Thiện nghiệp sẽ đưa đến thiện quả,
ác nghiệp nhất định đưa tới ác quả. Nhận thức về nhân quả báo ứng, nhân dân ta
thường nói: gieo gió thì gặp bão, đời cha ăn mặn đời con khát nước... Triết lý nhân
quả ấy của Đạo Phật rất phù hợp với nếp sống, với quan niệm nhân sanh và vũ trụ
xưa nay của dân tộc. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác
báo". Chúng phát biểu câu rất đúng với hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối phương.
Mặt khác cần hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay
đổi, do đó phải tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên
những tai họa, biến cố xảy ra thì ta nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên
mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để
chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Nguyễn Du đã thể hiện ý này trong truyện Kiều rằng:
“Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Phật giáo còn dạy muốn suy nghĩ thật khách quan cần phải có cái tâm bình tĩnh,
tỉnh táo. Tâm nhảy nhót như khỉ vượn, bị thiêu đốt bởi tham lam, hận thù, si mê, tâm
đứng ở nhị kiến, thích và không thích, yêu và ghét, thì nh ận thức không thể nào
khách quan được. Tâm như vậy giống như mặt nước hồ qua trận cuồng phong làm
nổi sóng, vẩn đục và không thể nào thấy được những viên cuội dưới đáy sông [10].
Trong làm ăn kinh tế, một số người vì sự lôi cuốn của đồng tiền, muốn làm ít hưởng
nhiều, muốn làm giàu nhanh chóng, đã bất chấp thủ đoạn, coi thường pháp luật, chà
đạp nghiêm trọng tới đạo đức, lối sống truyền thống. Với quan niệm tiêu dùng của
cải vật chất hợp lý, không quá coi trọng tài sản đến mức trở thành nô lệ của nó,
không ăn của người, cuộc sống an vui giải thoát chỉ đạt được khi con người đạt được
chân, thiện, mỹ, hạnh phúc của người này có được không phải bằng cách giẫm đạp
lên hạnh phúc của người khác, phải đem an vui đến cho mọi người, Phật giáo đã
phần nào tác động tốt tới nhân cách, lối sống các tín đồ.
13
Đạo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo cũng đã ảnh hưởng và
thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. "Từ là làm cho người ta lạc quan
và bi là làm cho người ta thoát khỏi đau khổ". Từ bi kết hợp với nhau tạo thành
nguyên tắc vì lợi ích chúng sinh mà hành động. Các nhà triết học gọi đó là chủ nghĩa
vị tha. Đạo Phật hướng người Việt tới việc suy nghĩ về làm những điều thiện, làm
lành lánh giữ với phương châm:
"Dù xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phước cứu cho một người".
Tinh thần thương người như thể thương thân cũng biến thành ca dao tục ngữ rất
phổ biến trong quần chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều
thấm nhuần, nói lên lòng nhân ái v ị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu
từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các
mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào, quê hương đất nước. Đặc biệt trong
đạo lý Tứ Ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình
cảm và đạo lý của người Việt. Vào những ngày rằm, mồng một, những ngày lễ tết,
hay những ngày đại lễ Phật Đản, Vu Lan, đông đảo khách thập phương với đủ
mọi thành phần đã quy tụ về chùa. Thông qua các đại lễ, họ cảm thấy gắn bó với
nhau hơn, tình yêu quê hương đất nước được khơi dậy, nhớ ơn tổ tiên, ông bà,
cha mẹ đã có công nuôi lớn, dưỡng dục mình.
II. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến văn học, nghệ thuật
1. Về văn học:
14
Trong ca dao, tục ngữ:
Phật giáo đã đến với cuộc đời, đã là nhịp thở của cuộc sống nên đã tô bồi cho
đất nước một nền văn hóa có thể nói là sinh động hơn. Trong đó ca dao tục ngữ cũng
mang chất vị của Phật giáo. Ca dao tục ngữ là một loại hình tư duy mang tính triết
học của nhân dân, thể hiện lối sống, phong tục tập quán của người dân đã lâu đời,
chứa đựng những nội dung triết lý sâu sắc trong cuộc sống. Quy luật nhân quả luân
hồi còn là bài học giáo dục có giá trị sâu sắc cho đời, không chỉ trong một thế hệ mà
trải qua nhiều thế hệ tiếp nối. Điều đó được đúc kết qua ca dao tục ngữ:
“Anh ơi! Hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau”
Hay:
“Bởi chưng kiếp trước vụng tu,
Kiếp này tu để đền bù kiếp sau.
Cây khô tưới nước cũng khô,
Kiếp nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo.
Kiếp này trả nợ cho xong,
Làm chi để nợ một chồng kiếp sau.”
Đạo Phật cũng rất chú trọng đến hiếu hạnh, và Đức Phật đã thuyết giảng đề tài
này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Ph ụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh
Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan. Nhắc đến công lao dưỡng
dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng
lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện
không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất hiếu". Lời dạy của Phật về việc
nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của người
Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên qua ca dao dân ca:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
15
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Hay:”Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín giữa ghi lòng con ơi”
Hay:“Đêm đêm khấn nguyện phật trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Có thể nói, càng đi sâu vào tìm hiểu kho tàng ca dao, tục ngữ dân gian Việt Nam
chúng ta càng bắt gặp và khám phá thêm biết bao điều mới lạ. Với những câu nói
tuy bình dị đời thường nhưng nội dung bên trong lại chứa đựng những triết lý,
những bài học giáo dục làm người thật sâu sắc dưới ảnh hưởng của giáo lý nhân quả.
Chỉ chừng đó thôi đủ thấy rằng giáo lý của Đạo Phật đã thật sự ăn sâu và thấm thấm
nhuần vào tận gốc rễ đời sống tinh thần người dân thông qua những câu ca dao tục
ngữ dân gian Việt nam.
Trong văn thơ chữ Hán Nôm:
Thơ văn Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những tư tưởng của Phật giáo.
Kết hợp từ những quan niệm bình dân cùng tín ngưỡng của dân tộc, các nhà văn,
nhà thơ đã khéo léo trao chuốt nên những tác phẩm có giá trị để đời như: tác phẩm
Quan Âm Thị Kính, tác phẩm Cung Oán Ngâm khúc của Ôn Như Hầu, đặc biệt tác
phẩm Kiều của Nguyễn Du.
Tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng trong thế kỷ 18 là Cung Oán Ngâm-tác phẩm đầu
tiên trong lịch sử văn học dân tộc việt đã sử dụng lối biểu diễn bằng cảm giác mà
trong đó tư tưởng triết lý đạo Phật đóng vai trò chủ đạo [5].
“Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất tình quyết dứt cho xong,
Đa mang chi nữa đèo bồng,
Vui vì thế sự mà mong nhân tình.
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời”
16
Qua thế kỷ 19, với thi hào Nguyễn Du ta có được một án văn bất hủ là Truyện
Kiều. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó ta thấy
nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế
đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo. Qua triết lý nhân
quả nghiệp báo của Đạo Phật, Nguyễn Du đã lấy đó để làm câu kết cho tác phẩm
của mình như một sự khẳng định, đề cao trách nhiệm con người.
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
Thuyết nhân quả nghiệp báo của Đạo Phật không chỉ được phản ánh qua tác
phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du mà nó còn được phản ánh sâu sắc qua truyện
Quan Âm Thị Kính. Nhằm ca ngợi đức tính nhẫn nhục, kiên trì, hy sinh và nhất là
tấm lòng từ bi của nhân vật. Qua lời đối đáp giữa hai thầy trò, nhân vật Kỉnh Tâm
phần nào hiểu rõ tính công bằng, bình đẳng ở đời “Làm lành gặp lành”. Do vậy,
Kỉnh Tâm đã không ngần ngại những tiếng thị phi, dèm pha qua lại mà hành động
cứu lấy mạng người.
“Bạch rằng muôn đội thầy thương,
Xưa nay thầy dạy muôn đường nhỏ to.
Dầu xây chín cấp phù đổ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
Vậy nên con phải vâng lời,
Mạng người không lấy làm chơi mà liều”.
Qua đầu thế kỷ 20, chúng ta có một nhà thơ, tuy không phải là tín đồ Phật Giáo,
nhưng thỉnh thoảng văn thơ của ông cũng đã ảnh hưởng ít nhiều từ ngôn ngữ, tư
tưởng nhà Phật, đó là thi sĩ Hàn Mạc Tử, xin đơn cử một bài thơ của ông:
“Thơ tôi thơm huyền dịu
Mọc lên Đạo Từ Bi
17
Khi xưa ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất
Bay từ Đao Lợi, đến trời Đâu Suất
Họp tinh khí muôn năm thành Chánh qu ả
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu
Não nề lòng viễn khách giữa lúc mơ
Trời từ bi cảm động ứa sương mờ
Sao gió lại bay hồn trong kẻ lá”
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như trên
ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên diễn đàn
tư tưởng của Việt Nam.
Trong kho tàng truyện kể dân gian và cổ tích:
Mục đích ra đời của Đạo Phật là hướng con người đến một đời sống hiền hòa
lương thiện, lấy chất liệu của tình thương làm lẽ sống. Giáo lý của Đạo Phật nhằm
vào một mục đích duy nhất là khuyên răn con người xa lìa các điều ác, thực
hành các việc thiện. Trong kho tàng truyện kể dân gian cổ tích Việt nam ta thấy hầu
như phần lớn nội dung các cốt truyện đều mang tính chất chung ấy. Nội dung chủ
đạo của các cốt truyện chỉ rõ cho con người thấy được quy luật tất yếu trong cuộc
sống “Ở hiền gặp lành” hay “Gieo gió gặp bão”. Hình thức và nội dung cốt truyện
lại vô cùng hấp dẫn, dễ hiểu và phong phú. Do vậy, nó đã được mọi tầng lớp, mọi
lứa tuổi đón nhận một cách dễ dàng. Tính triết lý nhân quả được cụ thể hóa qua
những mẫu truyện như: Tấm Cám, Thạch Sanh Lý Thông, Hét ăn Giun…
Trong truyện Tấm Cám, Tấm là một cô gái hiền lành, thật thà, chất phác và lại
rất xinh đẹp. Cha mất sớm, Tấm phải sống với người dì ghẻ độc ác. Hàng ngày Tấm
phải làm lụng vất vả đầu tắt mặt tối. Đã vậy, Tấm lại còn luôn bị hành hạ đánh đập
bởi những trận đòn roi tàn nhẫn của người dì ghẻ. Ngược lại, Cám là người em
cùng cha khác mẹ, nhưng tánh tình thì xấu xa ích kỷ. Với bản chất ghanh tỵ, Cám
luôn bày mưu tính kế để hãm hại chị mình. Thế rồi cái gì đến cũng sẽ đến “Ở hiền
18
thì gặp lành, gieo gió thì gặp bão”. Số phận của Tấm cuối cùng cũng được đền bù
xứng đáng. Tấm được một vị hoàng tử khôi ngô, tuấn tú chọn làm vợ, sống một
cuộc sống hạnh phúc. Còn nhân vật Cám và người dì ghẻ độc ác phải chịu một kết
cục bi thảm.
Tương tự, truyện “Hét ăn Giun” trong “Truyện Cổ Tích Việt Nam” của Nguyễn
Văn Ngọc cũng thấm nhuần tinh thần triết lý Phật Giáo. Xuất phát từ nội dung của
truyện kể trên, ông bà ta có câu tục ngữ: “Muốn ăn hét phải đào giun” để nói lên cái
định luật oan oan tương báo. Nhưng một khi lấy oán để báo oán thì oán nào được
tiêu trừ. Thật như trong lời kinh pháp cú Đức Phật đã dạy:
“Lấy oán báo oán, oán mãi không thôi,
Lấy ân báo oán, oán liền tiêu diệt”
Hay:“Hận thù diệt hận thù
Đời này không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là định luật ngàn xưa.”
Ngoài ra, để lên quả báo của những kẻ vong ơn bội nghĩa, sống thiếu thủy
chung thì có truyện “Sự Tích Con Muỗi”. Hay để ca ngợi những tấm gương chịu
thương chịu khó, cần mẫn siêng năng trong công việc, lấy sự thông minh cảm hóa
con người thì có truyện: Chú Bé Tí Hon, Cây Tre Trăm Đ ốt, Chàng Sọ Dừa . . .
Điểm qua một số nhân vật chính trong những truyện kể trên, ta nhận ra một
điểm chung trong nội dung của những cốt truyện là người nào làm lành làm thiện,
tức gieo trồng nhân tốt thì sẽ gặp được kết quả tốt lành. Ngược lại, người nào gây
tạo những nhân xấu, trái với luân thường đạo lý của dân tộc thì sẽ gặp phải những
kết cục khổ đau. Nét đặc biệt ở đây là thông qua những tác phẩm văn thơ Hán Nôm,
những mẩu chuyện dân gian cổ tích Việt nam, những câu ca dao tục ngữ phần lớn
nội dung bên trong phản ánh một cách thiết thực về triết lý nhân quả của Đạo Phật.
2. Về nghệ thưật kiến trúc, điêu khắc:
19
Với lịch sử phát triển hơn 2000 năm, Phật giáo từ tôn giáo ngoại lai đã trở thành
tôn giáo tâm linh bản địa. Sau khi con người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo như một
chỗ dựa, một niềm tin về tinh thần thì họ cũng đã trở thành những chủ thể sáng tạo
ra biết bao công trình Phật giáo, mang đậm tính dân tộc và ý nghĩa Phật giáo.
Nói đến Phật giáo Việt Nam không thể không nói đến ngôi chùa làng. Ở thời
nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới đỉnh cao với những công trình mang tính quy
mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó. Như nền chùa Quế Giạm
(Quế Võ- Hà Bắc) trải rộng trên một diện tích với những vết tích còn lại gồm ba cấp
trải rộng trên một diện tích gần 120 mét, rộng 70 mét. Các ngôi tháp đời Lý gồm
nhiều tầng, cao chót vót: Tháp Bảo - thiên cao vài mươi trượng (khoảng trên 60 mét)
gồm 12 tầng, tháp Sùng-thiện-diên- linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng.
Chùa Một Cột là một sách tạo về nghệ thuật, tượng trưng cho một toà sen nở trên
mặt nước. Những kiến trúc đó thường hoà hợp với cảnh trí thiên nhiên xung quanh
tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hoà với ngoại cảnh.
Nghệ thuật kiến trúc của đời Lý lại được đời Trần kế tục truyền thống và phát
triển mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và hiện thực hơn. Tháp Phổ Minh, Bình
Sơn là những công trình kiến trúc có giá trị ở đời Trần.
Sang đời nhà Nguyễn, nghệ thuật kiến trúc có chiều hướng ngày càng sa sút, tuy
nhiên cũng có những sáng tạo nhất định như Văn Miếu (Hà Nội) và một số đình,
chùa ở các làng. Đỉnh cao của kiến trúc nhà Nguyễn là chùa Tây Phương (Hà Tây),
xây dựng thành ba lớp là lối kiến trúc phổ biến của các chùa trong nam.
Đóng góp của Phật giáo còn cả ở các công trình điêu khắc. Nó tạo thành một
khuynh hướng thẩm mỹ độc đáo, tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm như tượng Quan
Âm nghìn mắt nghìn tay, 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà Tây, Bắc
Việt), bộ tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam Đà Nẵng),
bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho), tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà
Tây), tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m bằng đồng là hiện vật Bảo tàng lịch sử thành
phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn có những công trình điêu khắc quy mô và mang tính
20
lịch sử như tượng "Phật Nhập Niết Bàn" dài 49m ở núi Trá Cú, Phan Thiết được
kiến tạo năm 1962, tượng Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11m tại Vũng Tàu,
Khánh Thành ngày 10/3/963 [11].
Ngày nay, những công trình nghệ thuật kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được
trùng tu, sửa sang để làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân
dân trong vùng. Những công trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn là
sáng tạo nghệ thuật dân gian phản ánh đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
2. Về nghệ thuật sân khấu:
Yếu tố tôn giáo hình thành tư tưởng triết lý trong hầu hết các vở diễn phát xuất
từ tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật. Tinh thần Phật giáo là một trong những
nhân tố tiềm ẩn của một dòng ý thức ăn sâu bén rễ cấu tạo nền văn hóa chung gắn bó
các dân tộc trong khu vực.
Trước hết, yếu tố Phật giáo ảnh hưởng qua chất liệu để xây dựng tác phẩm. Rất
nhiều nhân vật trong chèo, tuồng đều xuất phát từ các tích trò của nhà Phật [12]. Với
nghệ thuật sân khấu truyền thống mà điển hình là chèo, tuồng, cải lương, không chỉ
lấy tích nhà Phật để “dịch nên trò”, tư tưởng của nhà Phật còn chi phối toàn bộ các
vở diễn. Cốt truyện, nhân vật hầu hết đều được xử lý bằng tinh thần Phật giáo là “ở
hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Tiêu biểu như các vở "Thích Ca Đắc Đạo", "Quan
Âm Thị Kính", "Quan Âm Diệu Thiện", "Mục Liên Thanh Đề", đặc biệt gần đây
(đầu thập niên 90) có hai vở đáng chú ý là "Thoát Vòng Tục Lụy" và 'Thái Tử A Xà
Thế" của soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành, là hai v ở tuồng chuyên chính đầu
tiên của Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, từ thập niên 60 trở lại đây, trong một số vở cải lương có đề tài Phật
giáo, người xem chưa đồng tình với cách luận giải thiếu nghiêm túc, chính xác bởi
một số tác giả không có điều kiện nghiên cứu giáo lý Phật giáo một cách xuyên suốt,
khiến cho cái nhìn Phật giáo đôi khi tiêu cực. Nhân vật trung tâm thường khi rơi vào
nghịch cảnh, rời bỏ cuộc đời nương vào cửa Phật. Do vậy, tính chất giải thoát vốn
thuộc về cốt tủy của đạo Phật đã ít nhiều bị sai lạc.
21
III. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tín ngưỡng; phong tục, tập quán và lễ hội
của người Việt
1. Về tín ngưỡng:
Đến thế kỷ này, kinh tế xã hội có phần khả quan, con người có thể thỏa mãn hơn
về vật chất so với 20 năm về trước. Thế nhưng, khổ đau của con người, vấn nạn của
xã hội, môi trường ô nhiễm… ngày càng tăng. Ở các quốc gia chậm cũng như đang
phát triển ngày càng có nhiều dịch bệnh, đói nghèo, trẻ em bỏ học. Tiện nghi vật
chất trong sinh hoạt ngày càng nhiều nhưng môi trường bị hủy hoại trầm trọng, làm
cho khí hậu thay đổi, địa cầu nóng lên, thiên tai bất thường, động đất sóng thần
thường xảy ra làm thiệt hại mạng sống và tài sản con người không thể kể xiết... hơn
nữa, một số người vì công việc không thuận lợi hay vì mâu thuẫn gia đình, tuổi trẻ
tình duyên trắc trở, họ bèn nghĩ đến tu viện hay giáo đường là nơi họ có thể tìm
được sự nguôi ngoai tâm hồn. Điều này cũng có thể xem là động cơ khiến con người
bắt đầu tìm đến tín ngưỡng. Giá trị quan Phật giáo cho rằng: Con người muốn thoát
khổ không cần tìm đến bất kỳ đối tượng nào mà chỉ cần biết khống chế hành vi, thái
độ của mình từng giờ từng khắc ngay trong cuộc sống thường nhật, lựa chọn cho
mình phương hướng tốt đẹp, phân biệt thiện ác, chánh tà, chân ngụy mới có thể ly
khổ đắc lạc. Nơi bình yên và an ổn nhất mà con người có thể quay về là “tâm linh”,
chỉ cần con người quay về tâm linh là đến được bến bờ hạnh phúc. “Đến một lúc nào
đó, chúng ta hiểu được sự thật của niềm vui không phải là ở đỉnh vinh quang, hay
ngọn núi ngập hoa vàng mà chính là từng bước chân thảnh thơi và được ngắm hoa
cỏ dại trên đường, chúng ta chợt nhận ra rằng: hạnh phúc không phải ở đâu xa mà
chính là sự mãn nguyện trong từng phút giây hiện tại.” [13].
Vấn đề tâm linh không chỉ có ở các tôn giáo, mà nó biểu hiện trên bất cứ lãnh
vực nào, trong bất cứ con người nào dù họ không theo tôn giáo. Trong cu ộc sống
hàng ngày vẫn thấy rõ ít ai không có một phần tâm linh, một niềm tin thiêng liêng
nào đó. Mặc dù họ không theo tôn giáo nhưng hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 3,
dù chẳng đến được núi Lĩnh đền Hùng nhưng trong lòng mỗi người cũng nhớ đến
22
một ý niệm thiêng liêng về giỗ tổ Hùng Vương. Mặc dù không theo tôn giáo, không
theo Phật nhưng cũng ít ai không một lần đến lễ Thần lễ Phật vào những dịp xuân về.
Vấn đề tâm linh trong Phật giáo ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người. Đức
Phật nêu lên niềm tin vào thuyết vi tạo giả, không có thần linh nào tạo ra muôn vật,
con người ở thuyết vô thường, vạn vật luôn biến đổi. Một tôn giáo có khả năng thích
ứng, cởi mở, không hẹp hòi, không giáo điều cứng nhắc, tôn giáo của trí tuệ và tình
thương, một tôn giáo không biết biên giới. Trong sinh hoạt hằng ngày, tăng sĩ và cư
sĩ Phật giáo phải làm hết sức mình để truyền đạt tới mọi người, mọi gia đình những
giá trị tâm linh và đạo đức của đạo Phật. Hình ảnh ông Bụt, nhà sư, ngôi chùa vô
cùng quen thuộc với người dân Việt Nam, cho nên tiếng nói của Phật giáo rất thân
thiết và gần gũi, dễ thấm vào lòng người.
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Thật đẹp, hình ảnh hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông được giữ gìn
dưới mái chùa. Ở nông thôn, nếp sống và nhịp sống của bà con nông dân từ một thời
rất xa xưa đã quyện chặt với nếp sống của nhà chùa, chùa làng một thời đã đóng vai
trò trung tâm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng làng xã của người Việt và
chúng ta không thể phủ nhận ý kiến trong quyển "văn hóa Việt Nam tổng hợp 1985 -
1995": "Nếu không có những hoạt động Phật giáo lịch đại thì chúng ta sẽ mất đi hơn
nửa số di tích và danh lam thắng cảnh mà hiện nay ta tự hào" [6].
Đối với thanh thiếu niên hiện nay, phần nhiều chưa có tín ngưỡng và chưa cảm
nhận được giá trị tín ngưỡng, thế nhưng vẫn xem Phật, Bồ-tát là những người có thể
bảo vệ cho mình tránh những điều bất như ý. Trong tín ngưỡng dân gian, hình ảnh
Bố-tát được xem là “lạc thiện hảo thí” nghĩa là ban bố niềm vui. Do vậy, thói quen
của người dân khi chuẩn bị làm một việc gì, họ đều thắp hương khấn cầu chư Phật
phù hộ cho họ thuận buồm xuôi gió. Giới kinh doanh lại càng xem việc tín ngưỡng
Phật tổ là điều may mắn đem lại phước lành; những người đi biển cầu Bồ-tát chở
23
che tai qua nạn khỏi; các em học sinh đến kỳ thi cử rủ nhau cùng đến chùa thắp
hương cầu Phật phù hộ… Tất cả hình ảnh ấy đều là hình thức của việc tín ngưỡng.
Ngoài những điều trên, tín ngưỡng Phật giáo còn là động lực khiến con người
thoát ly khổ não, công năng tín ngưỡng Phật giáo tìm đến thú vui tinh thần cho cuộc
sống. Từ trong bản chất của cuộc sống mà nói, con người có thể chấp nhận cái khổ
vật chất nhưng lại không thể chịu đựng cái khổ tinh thần, cái khổ tinh thần dễ dàng
đưa con người vào đường cùng không có lối thoát, thậm chí có thể khiến con người
dễ dàng mất đi sinh mạng khi họ không tìm ra chỗ nương tựa. Giáo lý đạo Phật cung
cấp cho ta cái nhìn trí tuệ qua mọi hình thức trong xã hội. Phật giáo không cố chấp,
bảo thủ cứng nhắc để xa cách quần chúng; cũng không mù quáng bám theo đức tin
lệch lạc của quần chúng để mình tồn tại. Đạo Phật có thể chuyển hóa xã hội, chuyển
hóa tín ngưỡng quần chúng theo một tuệ giác chính đáng. Sự chuyển hóa của đạo
Phật là chuyển hóa tâm hồn con người, chuyển khổ đau thành hạnh phúc, chuyển
phiền não thành an lạc, chuyển hận thù thành tình thương, hóa giải và đưa con người
đến sự cảm thông. Giá trị quan Phật giáo là đưa con người đến con đường tâm linh
tuyệt vời, nơi mảnh đất tâm linh ấy không có bóng dáng của sầu bi, chỉ toàn là cảnh
sắc tươi đẹp và tâm hồn trở nên thanh thản nhẹ nhàng. Tín ngưỡng Phật giáo còn là
dòng nước thanh lương có thể cuốn trôi bao hệ lụy tinh thần giúp con người thanh
thản trong công việc và hoàn thiện mình trong cuộc sống.
2. Về phong tục, tập quán, lễ hội:
Điểm nổi bật của vai trò Phật giáo trong tập tục văn hóa dân gian chính là
khuynh hướng “dân tộc hóa” nghi lễ tập tục Phật giáo. Trong Phật giáo có hàng chục
nghi thức, hội lễ và tập tục có nguồn gốc từ dân gian. Trong tín ngưỡng dân gian
cũng có hàng mấy chục nghi thức, hội lễ, tập tục có nguồn gốc từ Phật giáo.
Những tập tục phổ biến trong đờ i sống hằng ngày của người Việt như là ăn
chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí. Đây là các hoạt động xuất phát từ quan niệm từ
bi của Phật giáo. Đến ngày rằm và mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá,
rùa để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước
24
bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại
những biểu hiện mang tính chất h ình thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi
người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn
nạn, hoàn cảnh sống gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc là lá
lành đùm lá rách. Ngoài ra còn có các tập tục khác như tập tục cúng rằm, mùng một
và lễ chùa; tập tục đốt vàng mã; tập tục xin xăm, bỏi quẻ; tập tục cúng sao hạn…
Cho đến nay, hàng trăm lễ hội ở Việt Nam, mà phần đông là lễ hội Phật giáo
được diễn ra. Lễ hội Phật giáo đã gắn bó, hòa quyện với quần chúng đến độ nó trở
thành lễ hội của dân gian, mang tính đại đồng. Đi h ành hương chiêm bái thánh tích,
tham gia vào các lễ hội đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân Việt.
Mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo, quốc tịch đều
tham gia lễ hội. Ngoài những lễ hội chung như Vu Lan, Khánh Đản, ở các địa
phương còn có những lễ hội đặc thù gắn liền với những danh lam. Miền Na m có lễ
hội Bà Đen (Linh Sơn Tiên Thạch tự), lễ hội chùa Bà núi Sam, miền Trung có lễ hội
chùa Núi (Bình Định), lễ hội Quan Âm (Non Nước), miền Bắc có lễ hội chùa Dâu,
chùa Keo, chùa Hương ...Thông thường, lễ hội gồm hai phần: Phần lễ v à phần hội.
Phần lễ liên quan đến nghi thức cúng tế. Đó là sự tỏ lòng thành kính, tri ân đối với
đấng thiêng liêng Phật Thánh. Phần hội có múa tứ linh , hát chèo hát dân ca... là
những hình thức mang đậm bản sắc văn hóa dân gian sinh động.
Đi hành hương, tham quan l ễ hội cũng là trở về với thiên nhiên và nguồn cội
tâm linh. Chẳng hạn, khách du lịch tham quan lễ hội ch ùa Hương có cảm tưởng như
mình đang đi “phong cảnh Bụt”. Từ bến Đục vào chùa, khách hành hương thỏa lòng
chiêm ngưỡng, liên tưởng đến sơn thủy hữu tình, giang sơn tú lệ gắn liền với những
cái tên dân dã mà người dân mong ước: núi Mâm xôi, Con gà, Thiên trù, Cây
vàng… Bên trong càng thêm hấp dẫn với những ngôi chùa thoát tục, động đá huyền
bí với những hình tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng như Tiên sơn, Hồng sơn [14].
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của
văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
25
KẾT LUẬN
Từ khi du nhập cho đến nay, Phật Giáo Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm, lúc
thịnh lúc suy, do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đây Phật Giáo Việt Nam đã được
thống nhất từ Bắc chí Nam. Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người
Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán,
nếp sống. Tìm hiểu và nghiên cứu về "Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống
văn hóa tinh thần người Việt", chúng ta càng thấy rõ nhận định trên.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận hạn chế lớn nhất của Phật giáo là quan điểm duy
tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng vào quả
báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và một khi tư
duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động. Ngoài ra, chính
tinh thần khai phóng, dung hòa và phương tiện của Phật giáo đã bị một số người lợi
dụng và cố tình hiểu sai lạc đi, biến Phật giáo, chùa chiền thành một nơi xa lánh,
tách biệt với xã hội, cúng kiến mê tín và bị kẻ xấu lợi dụng để xin xăm, bói quẻ, đốt
vàng mã, là những sinh hoạt biến dạng vốn không phải của Đạo Phật. Do đó, việc đi
sâu nghiên cứu, đánh giá về tầm ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa
tinh thần cần dựa trên tinh thần khoa học và khách quan để hạn chế, loại bỏ những
mặt thiếu sót, lạc hậu cũng như duy trì và phát triển những mặt tích cực, hữu ích,
qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ một cách đúng đắn.
Văn hóa là những giá trị còn sót lại sau sự sàng lọc công bằng của thời gian.
Phật giáo vào Việt Nam, nhanh chóng hòa với tâm lý, tư tưởng, văn hóa tinh thần
độc lập, và suốt chiều dài lịch sử đã có những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, và hiện tại vẫn giữ vị trí quan trọng, đặc biệt là đời sống
văn hóa tinh thần nhân dân Việt Nam. Chúng ta tin rằng, Phật giáo sẽ tiếp tục có
những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp bảo tồn, phát huy những giá trị đạo đức,
nhân sinh, xây dựng một xã hội văn minh trong tình nhân ái. “Tất cả vì hạnh phúc
của con người” – Phật giáo và chủ nghĩa Xã hội gặp nhau ở mục đích tối thượng đó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách tham khảo:
1. TS Bùi Văn Mưa, TS Nguyễn Ngọc Thu, Giáo trình đại cương lịch sử Triết
học, Nhà xuất bản Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh.
2. Trần Văn Giáp, Tuệ Sỹ dịch ra Việt ngữ, Phật giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến thế kỷ XIII, Tu thư Viện Đại Học Vạn Hạnh xuất bản Sài Gòn 1967
Thích Mật Thể, Minh Đức, Việt Nam Phật giáo sử lược, Đà Nẵng, 1970.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội,
1994.
Nguyễn Tài Thư, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội,
Hà Nội 1988.
3. Nguyễn Đăng Duy , Văn Hóa Tâm Linh , Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin,
2002.
4. Nguyễn Đăng Duy, Phật Giáo Với Văn Hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Hà
Nội, 1999.
5. Theo Từ Điển văn học tập I, trang 167, NXB KHXH, Hà Nội 1983.
6. Văn hóa Việt Nam tổng hợp... 1989 – 1995, NXB văn hóa văn nghệ Trung
ương, Hà Nội 1989.
Bài báo, bài tham luận, báo cáo:
7. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam, www.vnlink.net
8. Nguyễn Quang Điển, Đạo đức Phật giáo trong hệ thống giá trị văn hóa tinh
thần Việt Nam, www.lieuquanhue.com.vn
9. Đạo Phật Và Sự Sống, www.thuvien-thichnhathanh.org
10. Ảnh hưởng của Phật giáo với con người VN, www.daophatngaynay.com
11. Vấn đề không gian trong điêu khắc Phật giáo qua tác phẩm “Quan âm
nghìn mắt nghìn tay”, www.giacngo.vn
12. Bạch Tuyết, Tinh thần Phật Giáo trong Sân khấu dân tộc Việt Nam và một
số nước Đông Nam Á, www.nsbachtuyet.com
13. Lam Yên, Tín ngưỡng Phật giáo trong tâm lý xã hội, phattuvietnam.net
14. Phong Giao, Giá trị văn hóa của ngôi chùa, www.phapluanonline.com
Các website
www.quangduc.com
www.daitangkinhvietnam.org
www.thuvienhoasen.org
www.phapluanonline.com
www.chuabuuminhgialai.com
www.daophatngaynay.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai1_phamthuhien_d1k19_4786.pdf