Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, chất lượng luôn là vấn đề được đặt ra hàng đầu trong chiến lược phát triển và cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp. Ngày nay, các quốc gia cũng như các doanh nghiệp không thể dựa vào các hàng rào thuế quan và các rào cản kỹ thuật riêng như trước đây để bảo hộ cho nền sản xuất nội địa. Vì vậy, chất lượng chính là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp tồn tại và tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, chất lượng vừa là một đòi hỏi khách quan, là mục tiêu có ý nghĩa chiến lược và cũng là phương tiện căn bản để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội đúng hướng, vững chắc, đạt hiệu quả cao và hội nhập thị trường quốc tế. Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) đồng thời là thành viên của ASEAN và tham gia vào một số hiệp định tự do thương mại (FTA) và các hiệp định, điều ước quốc tế về thương mại khác. Các doanh nghiệp Việt Nam có rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia đến từ những nước phát triển. Nhà nước và các doanh nghiệp đã nhận ra tầm quan trọng của chất lượng và đưa chất lượng vào nội dung quản lý. Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước đã đề ra các chương trình hành động, chiến lược cũng như biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện mục tiêu chất lượng.
Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO, HACCP, GMP, v.v. Nhưng thực tế cho thấy các chứng chỉ và hệ thống quản lý chất lượng này mới chỉ đáp ứng được yêu cầu hiện tại đối với doanh nghiệp bởi HACCP và GMP chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm và y tế, còn đối với ISO nếu trong vài năm tới tất cả các doanh nghiệp cùng ngành đều có chứng chỉ ISO thì rất khó để có thể đánh giá chất lượng giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại nhờ cải tiến liên tục chất lượng, phát huy tính sáng tạo của nhân viên. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhận thức cũng như nguồn kinh phí đầu tư vào vấn đề chất lượng còn rất hạn chế. Một nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam chưa bỏ ra được 0,3% doanh thu trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc chi từ 10 đến 20% và ở Mỹ là 5% doanh thu hàng năm để cải tiến chất lượng và phát triển sản phẩm mới.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1. Lý luận cơ bản về quản lý chất lượng Tổng thể TQM và vai trò của nó đối với doanh nghiệp 8
1.1. Bản chất của Quản lý chất lượng Tổng thể TQM . 8
1.1.1. Khái niệm về chất lượng và quản lý chất lượng. 8
1.1.1.1. Chất lượng. 8
1.1.1.2. Quản lý chất lượng. 9
1.1.2. Các trường phái quản lý chất lượng. 9
1.1.3. Bản chất của TQM . 11
1.1.3.1. Một số định nghĩa về TQM . 11
1.1.3.2. Bản chất của TQM . 12
1.1.3.3. Đặc điểm và nguyên tắc cơ bản của TQM . 12
1.1.4. Nội dung của TQM . 15
1.1.4.1. Nhóm chất lượng (QC – Quality Control) 16
1.1.4.2. 7 công cụ kỹ thuật để kiểm soát và cải tiến chất lượng (7 tools) 17
1.1.4.3. Kaizen (cải tiến chất lượng theo triết lý của người Nhật) 17
1.1.4.4. 5S – Cách giữ gìn nơi làm việc sạch gọn, an toàn. 19
1.1.4.5. Cách giải quyết một vấn đề chất lượng (QC story) 21
1.1.4.6. Tiết giảm chi phí sản xuất và thân thiện với môi trường (PREMA –GHK) 21
1.1.5. Triển khai TQM trong doanh nghiệp. 22
1.1.5.1. Am hiểu và cam kết chất lượng. 22
1.1.5.2.Tổ chức và phân công trách nhiệm 22
1.1.5.3. Đo lường chất lượng. 23
1.1.5.4. Hoạch định chất lượng. 24
1.1.5.5. Thiết kế chất lượng và xây dựng hệ thống chất lượng. 24
1.1.5.6. Theo dõi bằng thống kê và kiểm soát chất lượng. 25
1.1.5.7. Hợp tác nhóm 26
1.1.5.8. Đào tạo và huấn luyện về chất lượng. 26
1.1.5.9. Thực thi TQM . 26
1.1.6. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động ứng dụng TQM vào doanh nghiệp. 27
1.2. Vai trò của TQM đối với doanh nghiệp. 29
1.2.1. Sự cần thiết của việc ứng dụng TQM vào doanh nghiệp. 29
1.2.2. Vai trò của TQM đối với doanh nghiệp. 31
1.1.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TỔNG THỂ (TQM) VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM . 32
2.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT LƯỢNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM . 32
2.1.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 32
2.1.2. Các hệ thống quản lý chất lượng hiện đang áp dụng tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 35
2.1.2.1. Hệ thống ISO 36
2.1.2.2. Hệ thống HACCP, GMP, OHSAS. 36
2.2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG CỤ TQM TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM 36
2.2.1.Tình hình ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM tại Việt Nam 36
2.2.2.Đánh giá hiệu quả ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ 37
2.2.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá. 37
2.2.2.2.Hiệu quả về tài chính. 38
2.2.2.3.Hiệu quả phi tài chính. 40
2.2.2.4.Đánh giá dựa trên kết quả điều tra khảo sát khác. 44
2.2.3.Nguyên nhân và rào cản đối với hoạt động ứng dụng TQM tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ 47
2.2.3.1Hệ thống được chứng nhận. 47
2.2.3.2. Về nhận thức. 47
2.2.3.3. Về tài chính. 49
2.2.3.4. Về tổ chức quản lý. 50
2.2.3.5. Về trình độ công nghệ và kỹ thuật 51
2.2.3.6.Các chính sách hỗ trợ. 52
2.2.3.7.Về công tác thông tin tuyên truyền. 52
CHƯƠNG 3. 53
GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG HIỆU QUẢ CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TỔNG THỂ VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM . 53
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG ỨNG DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TẠI VIỆT NAM 53
3.1.1. Quan điểm ứng dụng các công cụ quản lý chất lượng ở Việt Nam 53
3.1.2. Xu hướng ứng dụng các công cụ quản lý chất lượng tại Việt Nam 55
3.2. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG TQM VÀO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY 56
3.2.1. Những thuận lợi 56
3.2.1.1. Sự quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện của Chính phủ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 56
3.2.1.2. Sự phát triển của khoa học và công nghệ. 58
3.2.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự mở cửa của thị trường. 59
3.2.2. Các khó khăn. 60
Bên cạnh những thuận lợi có được thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại hay lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như công tác quản lý chất lượng. 60
3.2.2.1. Tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. 60
3.2.2.2. Vấn đề quản lý thị trường và nạn hàng lậu, hàng giả, hàng nhái 61
3.3. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG HIỆU QUẢ CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TỔNG THỂ VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM 62
3.3.1. Nhóm các giải pháp vĩ mô. 62
3.3.1.1. Ban hành chính sách chất lượng quốc gia. 62
3.3.1.2. Bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy có liên quan, xây dựng hệ thống đánh giá tiến tới ban hành chứng nhận cho các doanh nghiệp thực hiện TQM 63
3.3.1.3. Tăng cường nhận thức cho các doanh nghiệp và tổ chức về hệ thống TQM 63
3.3.1.4. Các giải pháp về thông tin thị trường. 64
3.3.1.6. Tăng cường vai trò của các hiệp hội, các tổ chức trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ 64
3.3.1.5. Nhóm các giải pháp hỗ trợ khác. 67
3.3.2. Các giải pháp quản lý vi mô nhằm nâng cao khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc ứng dụng hiệu quả hệ thống TQM . 68
3.3.2.1. Xác định chính sách và mục tiêu chất lượng của doanh nghiệp. 68
3.3.2.2. Lựa chọn thời điểm và cách thức áp dụng TQM 69
3.3.2.3. Nâng cao nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về TQM 70
3.3.2.4. Xây dựng và phát huy vai trò của quỹ quản lý chất lượng. 71
3.3.2.5. Thay đổi cách thức tổ chức quản lý. 72
3.3.2.6. Đầu tư cho khoa học và công nghệ. 73
3.3.2.7. Chiến lược đào tạo. 73
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
79 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4106 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thị trường xuất khẩu sang các khu vực đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng cao và nghiêm ngặt như Mỹ, Nhật, Châu Âu.
Việt Nam hiện nay đã chính thức ra khỏi danh sách các nước nghèo nhất thế giới và thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới kể từ sau cải cách năm 1986, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO năm 2007. Tuy nhiên, hiện nay nước ta vẫn phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao lên đến hai con số (năm 2010 mức lạm phát của nước ta là 11,75%) và tăng trưởng GDP thấp hơn dự kiến theo đánh giá trong Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2011. Nền kinh tế Việt Nam vừa trải qua giai đoạn suy thoái do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới thì nay lại đang phải đối mặt với nhiều thách thức và bất ổn như lạm phát, thâm hụt ngân sách, nợ công, v.v. Vì vậy, vấn đề nâng cao năng lực nội tại cho các doanh nghiệp, trong đó chú trọng đến chất lượng, để họ có thể đứng vững trước khủng hoảng và áp lực cạnh tranh khốc liệt là một trong những ưu tiên của Đảng và Nhà nước.
Một ví dụ điển hình cho quan điểm đề cao chất lượng và ứng dụng công cụ quản lý chất lượng của Chính phủ chính là việc khởi xướng phong trào Năng suất – Chất lượng trong Thập niên Chất lượng Việt Nam (lần thứ nhất từ 1996-2005, lần thứ hai 2006-2015) và Giải thưởng chất lượng quốc gia mà tiền thân là Giải thưởng chất lượng Việt Nam. Giải thưởng này ra đời nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp nỗ lực nâng cao chất lượng sản xuất, dịch vụ, áp dụng các công cụ quản lý chất lượng tiên tiến tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và toàn thế giới. Các tiêu chí của giải thưởng này được thiết lập theo mô hình của giải thưởng chất lượng quốc gia của Mỹ - Malcolm Baldridge dựa trên cơ sở của hệ thống quản lý chất lượng tổng thể TQM. Theo Tổng cục đo lường chất lượng, từ năm 1996 đến 2010 đã có 1.303 lượt doanh nghiệp được trao tặng Giải thưởng chất lượng quốc gia. Trong đó, từ năm 2001-2010 đã có 62 doanh nghiệp được Thủ tướng chính phủ tặng bằng khen.
Bên cạnh sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước, Việt Nam cũng nhận được rất nhiều sự trợ giúp của các quốc gia và tổ chức nhằm mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam cải thiện chất lượng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới. Cụ thể, Chính phủ Nhật Bản thông qua Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế Nhật Bản đã triển khai một dự án 5 năm (1995-2000) giúp các nước ASEAN ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM mà họ đã áp dụng rất thành công. Việt Nam đã tham gia vào dự án này và đã phổ biến, đào tạo và hướng dẫn thực hiện TQM cho một số doanh nghiệp nước ta.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp rất nhiều trở ngại và khó khăn trong vấn đề chất lượng, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Một số nước vẫn đặt ra những rào cản về quy chuẩn chất lượng và kỹ thuật nhằm hạn chế lượng hàng hóa nhập khẩu với mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước. Rất nhiều lô hàng của các doanh nghiệp Việt Nam bị trả về do chưa đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật, môi trường, vệ sinh, v.v. Các doanh nghiệp chỉ có thể dễ dàng đáp ứng các yêu cầu này khi họ áp dụng các công cụ quản lý chất lượng tiên tiến và tuân thủ chặt chẽ quy trình sản xuất đề ra.
Như vậy, có thể thấy rằng việc ứng dụng các công cụ quản lý chất lượng vào hoạt động của các doanh nghiệp nhằm cải thiện chất lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Để việc thực hiện các công cụ này có hiệu quả cần có sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước, Chính phủ, của các tổ chức trong và ngoài nước.
3.1.2. Xu hướng ứng dụng các công cụ quản lý chất lượng tại Việt Nam
Trước đây, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng phương pháp quản lý chất lượng theo mô hình KCS. Đây là mô hình mà doanh nghiệp xây dựng một phòng hoặc tổ đội có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu sản phẩm cuối cùng rồi giao cho khách hàng. Cách quản lý chất lượng như vậy bộc lộ rất nhiều hạn chế khi chỉ coi trọng khâu kiểm tra mà coi nhẹ trách nhiệm của những người trực tiếp tham gia sản xuất, không có biện pháp kiểm soát chất lượng trong từng khâu và vì thế rất tốn kém chi phí vì sản phẩm sai hỏng nhiều, năng suất không cao, ý thức công nhân thấp. Trong giai đoạn hiện nay, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp sử dụng phương pháp này, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do quy mô hoạt động nhỏ, không muốn đầu tư chi phí vào hệ thống quản lý chất lượng.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu của khách hàng ngày càng cao, đặc biệt là các đơn hàng của các đối tác nước ngoài, đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt cải tiến phương pháp quản lý chất lượng. Đồng thời các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế được tuyên truyền và áp dụng ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam như ISO 9000, ISO 14000, GMP, HACCP. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng các hệ thống này ngày càng tăng, đặc biệt là hệ thống ISO 9000 do nó giúp các doanh nghiệp dễ dàng quảng bá chất lượng và thương hiệu của công ty thông qua chứng nhận được công nhận rộng rãi. Tuy nhiên, ngày nay với đòi hỏi ngày càng khắt khe của các nước nhập khẩu và các đối tác quốc tế về vấn đề môi trường và trách nhiệm xã hội, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ áp dụng đơn thuần một hệ thống chất lượng như ISO 9000 mà còn phải áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng liên quan đến môi trường như ISO 14000, trách nhiệm xã hội như SA8000 hay đánh giá an toàn và sức khỏe nghề nghiệp OHSAS.
Nhưng cũng như đã nói ở Chương 1, nếu trong giai đoạn sắp tới hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều có chứng nhận ISO thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp lúc đó sẽ được thể hiện qua nội lực của chính doanh nghiệp. Hệ thống TQM kết hợp được rất nhiều yếu tố giúp tăng nội lực của doanh nghiệp thông qua hoạt động cải tiến liên tục và văn hóa doanh nghiệp dựa trên tinh thần nhân văn với sự gắn bó và cam kết của tất cả các thành viên. Vì vậy TQM sẽ là xu hướng quản lý chất lượng mà các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo đuổi và ứng dụng rộng rãi.
Nói tóm lại, trước sức cạnh tranh và đòi hỏi của thị trường, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn đã trở thành một xu hướng nổi bật trong các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy vậy, để tạo lợi thế kinh doanh và thực sự có những bước đột phá, việc áp dụng này cần có những hướng đi mới, giàu sức sáng tạo. Mô hình tích hợp các công cụ quản lý tiên tiến và sự hỗ trợ của công nghệ thông tin sẽ trở thành một trong những hướng đi mới trọng điểm cho sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam.
3.2. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG TQM VÀO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
3.2.1. Những thuận lợi
3.2.1.1. Sự quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện của Chính phủ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sự quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện của Chính phủ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một thuận lợi cơ bản cho các doanh nghiệp này trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ việc khuyến khích thành lập, hỗ trợ các thủ tục pháp lý, các ưu đãi về cơ sở hạ tầng như thuê đất, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ công nghệ, đào tạo và nâng cao trình độ, v.v, Đảng và Nhà nước ta đã góp phần rất lớn trong sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. Có thể thấy số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng nhanh đáng kể từ khoảng 40.898 doanh nghiệp năm 2000 lên đến gần 500.000 năm 2010. Theo Tạp chí tài chính, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đóng góp tới hơn 40% GDP cả nước.
Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng ngày càng được hoàn thiện. Năm 2000, Luật Doanh nghiệp được ban hành. Tiếp theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nhất quán chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, là cơ sở pháp lý và định hướng quan trọng để các bộ, ngành, địa phương xây dựng và triển khai chính sách trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg về kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 2006-2010, xác định rõ vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng các mục tiêu và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhiệm vụ chủ yếu và các nhóm giải pháp, v.v. Hiện nay, Nghị định 90/2001/NĐ-CP đã được thay thế bằng Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ban hành ngày 30/06/2009 nhằm bổ sung và quy định chi tiết, cụ thể hơn các chương trình, chính sách trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Gần đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 5/5/2010 “về các chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” với tám nội dung lớn là trợ giúp tài chính, mặt bằng sản xuất, đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ, xúc tiến mở rộng thị trường, mua sắm, cung ứng dịch vụ công, phát triển nguồn nhân lực, tư vấn thông tin và vườn ươm doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn và liên tiếp bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và suy thoái trên thế giới thì Chính phủ cũng đã kịp thời đề ra rất nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tháng 4/2011, Bộ Tài chính đã thực hiện việc giãn thuế thu nhập cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian 12 tháng. Theo ước tính, có khoảng 200.000 trong tổng số 360.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong đợt giãn thuế này với tổng số tiền dành cho đợt giãn thuế vào khoảng 7.000 tỷ đồng. Hơn thế, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2011, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ tài chính xem xét phương án miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, UBND các tỉnh, các ngành, các cấp cũng có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đang có chính sách hạ lãi suất cho vay tín dụng hay việc thành lập các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp của TP. Hồ Chí Minh như Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ phát triển khoa học công nghệ nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, sự hỗ trợ tích cực và đúng đắn kịp thời của Chính phủ đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có môi trường hoạt động tốt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới có thể phát triển bền vững và có điều kiện tốt để ứng dụng các công cụ quản lý chất lượng như TQM.
3.2.1.2. Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão, khoa học công nghệ đang làm cho cuộc sống con người thay đổi từng ngày từng giờ. Sự đóng góp to lớn của khoa học và công nghệ đã tạo ra năng suất lao động cao hơn, chất lượng hàng hóa tốt hơn, giá thành rẻ hơn, góp phần cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường thế giới. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu nước nào chi cho khoa học – công nghệ khoảng 1-2% GDP thì khoa học – công nghệ của nước đó đóng góp cho nền kinh tế xã hội khoảng 30-40% GDP. Nếu nước nào chi cho khoa học – công nghệ trên 3% GDP thì khoa học công nghệ đóng góp cho nền kinh tế xã hội trên 80% GDP. Khoa học công nghệ không chỉ mang lại tiện ích cho cuộc sống của con người mà còn vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một công nghệ mới có thể làm thay đổi toàn bộ quy trình sản xuất hay một cải tiến nhỏ có thể làm lợi cho công ty rất lớn.
Trong lĩnh vực quản lý chất lượng, khoa học công nghệ đóng vai trò rất lớn. Khoa học công nghệ giúp tạo ra vật liệu mới, công nghệ máy móc dây chuyền sản xuất hiện đại nhằm giúp tiết kiệm nguyên liệu, nguồn năng lượng, rút ngắn thời gian sản xuất, tăng năng suất, chất lượng. Không chỉ có vậy, công nghệ thông tin giúp doanh nghiệp quản lý hệ thống sản xuất tốt hơn, kiểm soát chất lượng dễ dàng hơn, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp nắm bắt thông tin kịp thời về thị trường và phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Chính nhờ có sự phát triển của khoa học và công nghệ mà các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã biết đến các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại đang được các cường quốc về chất lượng sản phẩm dịch vụ ứng dụng. Ngày nay, tương lai và giá trị của một công ty phụ thuộc vào khả năng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới một cách nhanh chóng và kịp thời để có thể bắt nhịp với những nhu cầu luôn thay đổi. Nhưng khi mà các công cụ khoa học đều được các doanh nghiệp ứng dụng triệt để thì sức mạnh cạnh tranh lại chính là sức mạnh tri thức. TQM là một trong những công cụ quản lý chất lượng giúp doanh nghiệp quản lý tri thức hiệu quả nhất nhờ tinh thần nhân văn và phát huy tính sáng tạo của toàn bộ nhân viên. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, TQM sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận và đi vào quản lý tri thức để thành công trong thế kỷ 21.
3.2.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự mở cửa của thị trường
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sau khi nước ta ra nhập WTO. Nhờ có sự mở cửa nền kinh tế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có rất nhiều cơ hội mở rộng thị trường từ đó phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các hoạt động trao đổi, mua bán với các đối tác nước ngoài cũng giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ thu thập và nắm bắt các nhu cầu và xu hướng chất lượng của từng quốc gia, khu vực cũng như học hỏi các kinh nghiệm quản lý chất lượng của các nước trên thế giới. Cũng nhờ có sự mở cửa thị trường và các chính sách ưu đãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài của Chính phủ, các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ. Đây là lĩnh vực tốt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có thể phát triển. Đồng thời, các doanh nghiệp có cơ hội nhận sự chuyển giao, hợp tác với các công ty đối tác về công nghệ và phương pháp quản lý sản xuất. Như vậy, có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế và sự mở cửa của thị trường tạo ra rất nhiều cơ hội cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và kéo theo đó là sự phát triển của hoạt động chất lượng.
3.2.2. Các khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi có được thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại hay lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như công tác quản lý chất lượng.
3.2.2.1. Tình hình kinh tế, xã hội hiện nay
Tình hình thế giới: Có thể nói nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như vấn đề lạm phát, giá cả và sự bất ổn trên thị trường tài chính tiền tệ cũng như các cuộc khủng hoảng nợ đang lan nhanh. Lạm phát đang trở thành mối lo hàng đầu của tất cả các quốc gia do ảnh hưởng từ các chương trình nới lỏng tiền tệ của các Chính phủ và tình hình bất ổn chính trị cũng như thiên tai, thảm họa. Giá các mặt hàng tăng cao, trong đó điển hình là giá vàng và giá dầu. Bên cạnh đó các cuộc khủng hoảng nợ công vẫn tiếp tục lan nhanh, trong đó có cả các nền kinh tế lớn như Mỹ, Italy, khiến các chính phủ phải thực hiện các chính sách thắt lưng buộc bụng. Thị trường tài chính tiền tệ quốc tế vẫn biến động phức tạp điển hình là thị trường chứng khoán có những phiên đồng loạt giảm liên tiếp trên tất cả các thị trường chủ yếu. Bên cạnh những khó khăn về kinh tế, thế giới đang phải trải qua những bất ổn về chính trị tại một số khu vực như Trung Đông, Châu Phi và trong chính nội bộ của các quốc gia hay các thiên tai, thảm họa mà nặng nề nhất là thảm họa động đất, sóng thần tại Nhật Bản xảy ra vào đầu năm 2011 vừa qua. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì những bất ổn của tình hình thế giới cũng đang tác động đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. Về mặt thương mại, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp này sang một số thị trường như Mỹ, Nhật, EU. Đồng thời, các chính sách thắt chặt của Chính phủ để kìm hãm mức độ lạm phát, giá cả và thị trường tiền tệ, ngoại hối, v.v do ảnh hưởng của tình hình thế giới cũng gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tình hình trong nước: Do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới kếp hợp với những bất ổn vĩ mô và những yếu kém trong nội tại nền kinh tế mà nền kinh tế Việt Nam đang gây ra những ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện qua một số điểm chính như: giá cả và lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và đầu tư ảm đạm, thị trường vàng và ngoại hối biến động lớn, lãi suất cho vay cao và thắt chặt tín dụng. Trong những điều kiện đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Lạm phát tăng cao, nguyên vật liệu, vận tải dịch vụ đều tăng nhanh làm chi phí tăng, giá thành tăng, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm, lỗ tăng. Đó đang là thực trạng của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay khiến các doanh nghiệp này tồn tại đã khó chứ chưa nói đến đầu tư ứng dụng TQM.
3.2.2.2. Vấn đề quản lý thị trường và nạn hàng lậu, hàng giả, hàng nhái
Theo báo cáo của Cục Quản lý thị trường, năm 2010 lực lượng quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra 169.152 vụ, xử lý 79.041 vụ với tổng số thu hơn 249 tỷ đồng, trong đó: 13.867 vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu; 10.472 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và an toàn vệ sinh thực phẩm; 11.452 vụ vi phạm trong lĩnh vực giá; 43.250 vụ vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh, v.v. Qua thực tế kiểm tra, các chi cục quản lý thị trường đều cho rằng, tình trạng buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, gian lận thương mại các mặt hàng như thuốc lá, rượu, linh kiện điện tử, thực phẩm, v.v vẫn liên tục gia tăng dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó nóng nhất vẫn là nạn buôn lậu và gian lận thương mại. Các tổ chức, đường dây buôn lậu có quy mô hơn với thủ đoạn thành lập công ty, tổ chức mua gom, viết giấy biên nhận, lập bảng kê hàng hóa và xuất hóa đơn GTGT để hợp thức hóa hàng lậu. Khi bị kiểm tra sẽ xuất trình từ 3-5 bộ hóa đơn GTGT và biên nhận mua gom của cư dân biên giới gây nhiều khó khăn cho việc xác minh của lực lượng chức năng.
Hiện tượng sản xuất hàng giả, hàng nhái đang trở nên ngày càng phổ biến và phức tạp, như hàng Trung Quốc giả nhãn Việt Nam, hàng giả chất lượng sản xuất ở nước ngoài theo hàng lậu trôi nổi vào Việt Nam, v.v. Cục QLTT cho rằng, mặc dù số vụ vi phạm, số tiền thu phạt của QLTT cao hơn so với năm trước nhưng chưa tương xứng với thực tế tình hình buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả và gian lận thương mại trong thời gian qua.
Cũng theo Cục Quản lý thị trường, năm 2011 hoạt động buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả và gian lận thương mại sẽ tiếp tục diễn ra với tính chất phức tạp, tiểm ẩn hình thành các đường dây, tổ chức xuyên quốc gia. Các đối tượng sẽ triệt để lợi dụng những bất cập và kẽ hở trong cơ chế chính sách, đặc biệt là chính sách ưu đãi đối với các khu kinh tế cửa khẩu, cư dân biên giới để buôn lậu, trốn thuế và buôn bán hàng giả, gian lận thương mại, v.v.
Như vậy, có thể thấy tình trạng gian lận thương mại, hàng nhái hàng giả đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp áp dụng các công cụ quản lý chất lượng và có các sản phẩm đạt chất lượng tốt. Các doanh nghiệp sẽ không mặn mà với việc bỏ ra rất nhiều chi phí và công sức để ứng dụng một công cụ quản lý chất lượng, cải tiến sản phẩm khi mà các sản phẩm và công nghệ của họ có thể dễ dàng bị làm nhái, làm giả trên thị trường.
3.2.2.3. Áp lực cạnh tranh và sự phổ biến của các chứng nhận chất lượng có tính chất quốc tế
Trước
3.3. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG HIỆU QUẢ CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TỔNG THỂ VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
3.3.1. Nhóm các giải pháp vĩ mô
3.3.1.1. Ban hành chính sách chất lượng quốc gia
Để tạo ra sức ép buộc tất cả các doanh nghiệp Việt Nam phải phấn đấu cạnh tranh bình đẳng về chất lượng, Nhà nước cần ban hành chính sách, chiến lược và mục tiêu quốc gia về chất lượng. Chính sách chất lượng quốc gia phải đề ra định hướng chiến lược chung cho sự phát triển kinh tế xã hội, cho các ngành chủ chốt, cho những mặt hàng xuất khẩu và tiêu dùng thiết yếu. Đây sẽ là cơ sở để phát triển thành các chiến lược cụ thể cho các ngành và sản phẩm cụ thể, các loại hình doanh nghiệp. Nhìn chung, khi hoạch định chính sách và đề ra chiến lược về chất lượng, các cơ quan quản lý Nhà nước cần có tầm nhìn xa và rộng để có thể nắm bắt được xu hướng phát triển của các hệ thống chất lượng trên thế giới, các phương pháp mới được ứng dụng, đồng thời dự đoán được yêu cầu và mong muốn của người tiêu dùng trong nước và quốc tế về các mặt hàng, các ngành chủ chốt để từ đó có thể đưa ra định hướng và các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp.
3.3.1.2. Bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy có liên quan, xây dựng hệ thống đánh giá tiến tới ban hành chứng nhận cho các doanh nghiệp thực hiện TQM
Nhà nước cần xem xét bổ sung những quy định cho những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ thương mại, hợp tác đầu tư, loại bỏ những yêu cầu và biện pháp không còn thích hợp và bổ sung các quy định về công tác xây dựng, áp dụng và chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn cho các đối tượng có liên quan. Hiện nay, nước ta đã xây dựng được bộ tiêu chuẩn Việt Nam nhằm đưa ra một chuẩn mực chung về vấn đề kiểm định đo lường chất lượng và các quy chuẩn chất lượng cho các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất tại Việt Nam. Ngoài ra, liên quan đến các hệ thống chất lượng quốc tế, hiện nay nước ta đã có các hệ thống đánh giá và các tổ chức chứng nhận cho các doanh nghiệp thực hiện các hệ thống chất lượng như ISO, GMP, HACCP, SA8000. Tuy nhiên, đối với hệ thống TQM, chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền phổ biến và một vài dự án hỗ trợ áp dụng chứ chưa xây dựng được hệ thống đánh giá và chứng nhận cho các doanh nghiệp thực hiện hệ thống này. Mặc dù chỉ là một chứng nhận trong nước và do các cơ quan quản lý Nhà nước cấp chứ không được công nhận rộng rãi trên phạm vi toàn cầu như ISO nhưng nếu được chứng nhận nó sẽ tạo môi trường khuyến khích và động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ triển khai công cụ này.
3.3.1.3. Tăng cường nhận thức cho các doanh nghiệp và tổ chức về hệ thống TQM
Thông qua các phương tiện thông tin để tuyên truyền, quảng bá lợi ích của việc áp dụng hệ thống TQM trong các doanh nghiệp, cho họ nhận thức được rằng việc thực hiện các biện pháp quản lý chất lượng là thiết thực cho sự tồn tại và hưng thịnh của doanh nghiệp, vì vậy phải tổ chức thực hiện nó một cách tích cực vì lợi ích của chính doanh nghiệp, không phải chỉ tiến hành theo hình thức suông, làm theo phong trào mà không mang lại hiệu quả. Đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành các cấp phải có các biện pháp tuyên truyền, phổ biến thường xuyên để hoạt động triển khai ứng dụng TQM thành phong trào rộng lớn trong các doanh nghiệp.
3.3.1.4. Các giải pháp về thông tin thị trường
Là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc chạy đua chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn định hướng và sản xuất và bán được sản phẩm thì phải dựa vào các thông tin về thị trường, nhu cầu tiềm năng, yêu cầu về chất lượng sản phẩm, rào cản kỹ thuật, thương mại, v.v. Có thông tin tốt, kịp thời và chính xác về nhu cầu thị trường, doanh nghiệp mới có cơ hội đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và của người nhập khẩu về hàng hóa, dịch vụ.
Các thông tin thị trường này có thể do doanh nghiệp tự thu thập, tìm hiểu nhưng quan trọng hơn cả là nguồn thông tin mà các bộ, ngành có liên quan đưa ra vì nó có cơ sở chắc chắn, mang tầm chiến lược tổng thể nên sẽ giúp doanh nghiệp có bức tranh tổng quan và có định hướng chính xác cho sản phẩm của mình cũng như điều chỉnh hệ thống chất lượng, quy trình sản xuất hoặc thiết kế để phù hợp với yêu cầu mới của thị trường. Những thông tin này bao gồm thông tin về tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, thể lệ chính sách, các văn bản pháp quy, kỹ thuật, v.v của các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như của Nhà nước Việt Nam về quản lý chất lượng, các tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật, chính sách chất lượng của một số thị trường lớn, thủ tục giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, v.v.
Trong các giải pháp thông tin thị trường, không thể thiếu các thông tin về khoa học công nghệ, các hệ thống hay phương pháp quản lý chất lượng mới, các thành tựu và ứng dụng mới của các nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.3.1.6. Tăng cường vai trò của các hiệp hội, các tổ chức trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Với vai trò là đại diện quyền lợi, hỗ trợ doanh nghiệp hội viên nâng cao năng lực cạnh tranh, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý, quảng bá sản phẩm, v.v các hiệp hội là cầu nối hữu hiệu giữa cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ và Nhà nước trong các vấn đề liên quan đến hoạch định, thực thi chính sách và hỗ trợ các vấn đề pháp lý, cũng như về khoa học công nghệ. Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều các hiệp hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ như Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME), các Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa các tỉnh thành phố, các hiệp hội ngành hàng mà trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia như hiệp hội cao su, chè, cà phê, chế biến thủy sản, v.v. Bên cạnh các hiệp hội còn có rất nhiều các Trung tâm, các câu lạc bộ doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ như Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED), Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và vừa phía Bắc, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phía Nam, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội, Trung tâm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 2, v.v.
Trong thời gian qua, các hiệp hội, các trung tâm đã hỗ trợ hội viên với nhiều hình thức để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Cụ thể, các hiệp hội và trung tâm đã tổ chức nhiều diễn đàn trao đổi chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ hội viên trong việc chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý; đồng thời thành lập các website của hiệp hội nhằm truyền tải thông tin khoa học – kỹ thuật, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, thương hiệu của các hội viên. Các hiệp hội cũng tổ chức các cuộc hội thảo giao lưu với các hiệp hội ngành nghề trong và ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm, kêu gọi các hội viên tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế, tổ chức tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn của ngành và tổ chức các chuyến thăm xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Hiệp hội cũng tổ chức đi thăm hỏi, động viên khảo sát nắm bắt tình hình sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất để tìm hiểu khó khăn, trở ngại của từng doanh nghiệp, từ đó tìm hướng giúp đỡ và kiến nghị lên các cấp lãnh đạo những vấn đề quan trọng.
Trong hoạt động quản lý chất lượng, các hiệp hội và trung tâm đã có rất nhiều cố gắng nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao nhận thức về chất lượng, cải tiến hệ thống quản lý thông qua các hội thảo, khóa học và các hoạt động tư vấn. Cụ thể, các hiệp hội và trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đều có mảng hoạt động chính là tư vấn và đào tạo các phương thức quản lý chất lượng, các hệ thống chất lượng như ISO 9000, ISO 14000, HACCP, GMP, TQM, v.v cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, các hoạt động này cũng chưa mang lại hiệu quả cao do doanh nghiệp phải bỏ chi phí cho các hội thảo, khóa học và nhiều nhất là chi phí cho hoạt động tư vấn. Các nguồn kinh phí hỗ trợ rất ít và hầu như không đáng kể nên nếu có thì cũng chỉ có thể hỗ trợ cho một vài công ty điển hình được chọn thí điểm, vì vậy, khả năng phổ biến một công cụ quản lý chất lượng tiên tiến như TQM đến đông đảo các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất thấp.
Bên cạnh đó, các hiệp hội cũng đang phải đối mặt với một thực trạng là nhiều doanh nghiệp không mặn mà tham gia hiệp hội. Một số hiệp hội và tổ chức chưa chứng tỏ được vai trò của mình trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Theo một đánh giá của Phòng thương mại Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), các hiệp hội cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn, hạn chế như: tài chính, lãnh đạo, xu hướng “nhà nước hóa”, “hưu trí hóa”, hạn chế trong gắn kết với doanh nghiệp hội viên, hạn chế trong sử dụng công nghệ, v.v. Do hầu hết các hiệp hội và các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đều là các cơ quan trực thuộc các bộ ngành, vì vậy, nguồn kinh phí cũng như bộ máy hoạt động đều do cơ quan chủ quản quyết định. Tất cả những khó khăn đó đang hạn chế vai trò và khả năng của các hiệp hội, trung tâm trong vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vì vậy, để có thể phát huy vai trò của các hiệp hội, tổ chức trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng các công cụ quản lý chất lượng đạt hiệu quả cần một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các hiệp hội và trung tâm cần thay đổi cơ cấu hoạt động và cách thức quản lý. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, một hiệp hội doanh nghiệp được đánh giá cao khi các doanh nghiệp hội viên có quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động bầu cử lãnh đạo hội. Bởi các doanh nghiệp đơn thuần tham gia hiệp hội chỉ để nộp lệ phí, góp tiền để nuôi hiệp hội mà không được tham gia vào các vấn đề của hiệp hội. Một hiệp hội được xem là độc lập khi mọi khía cạnh từ bổ nhiệm lãnh đạo, trụ sở, tài chính, hoạt động, v.v đều có sự độc lập và tự chủ với cơ quan nhà nước.
Thứ hai, cần có cơ chế tài chính hợp lý để các hiệp hội và tổ chức có thể duy trì hoạt động và có nguồn kinh phí hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các hiệp hội cũng cần cơ cấu lại hệ thống hội phí để gánh nặng hội phí được phân bổ đều và cân bằng cho các doanh nghiệp khác nhau chứ không chỉ phụ thuộc vào một vài doanh nghiệp hội viên.
Thứ ba, các cơ quan chủ quản, các Bộ ngành cần có sự quan tâm, tạo điều kiện để các hiệp hội, trung tâm có thể tham gia vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ, xây dựng cơ sở pháp lý cho các hiệp hội, trung tâm phát triển.
3.3.1.5. Nhóm các giải pháp hỗ trợ khác
Trước hết, các cơ quan quản lý Nhà nước, các Bộ, ngành liên quan cần tăng cường công tác xúc tiến hỗ trợ doanh nghiệp, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cơ quan quản lý. Nội dung xúc tiến hỗ trợ tập trung vào nâng cao kiến thức và kỹ năng về chất lượng, quản lý chất lượng theo TQM, về các tiêu chuẩn chất lượng với hàng rào kỹ thuật, về tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong thực hiện và các chính sách hỗ trợ thiết thực. Cần tổ chức đánh giá, tổng kết thực tiễn và thông tin, tuyên truyền phổ biến nhân rộng các mô hình điển hình về ứng dụng TQM.
Công tác xúc tiến và hỗ trợ doanh nghiệp rất cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành, sự lãnh đạo, chỉ đạo của UBND các tỉnh và hướng dẫn hỗ trợ của Tổng cục Tiêu chuẩn và đo lường chất lượng. Trong quá trình tổ chức thực hiện, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng hướng dẫn, hỗ trợ giúp cho các địa phương về đào tạo, kiến thức và cách tiến hành kết hợp với sự phối hợp của các sở, ngành chức năng là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện và hỗ trợ các doanh nghiệp được hiệu quả. Các cơ quan quản lý chất lượng, các hiệp hội và trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp phải là người đi đầu trong việc tiếp thu, khởi xướng, thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện thành công TQM. Các hoạt động hỗ trợ như tổ chức hội thảo, tập huấn chuyên đề nhằm phổ biến và trang bị kiến thức về TQM cho doanh nghiệp, xây dựng các mô hình thí điểm là thực tiễn cần thiết để duy trì, mở rộng phong trào, đồng thời phải thường xuyên theo dõi, giám sát hiệu quả hoạt động ứng dụng thực tiễn tại các doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, tránh hiện tượng đánh trống bỏ dùi, làm theo phong trào nhưng không hiệu quả.
Ngoài các biện pháp hỗ trợ trên, thì các giải pháp về tài chính và đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp triển khai áp dụng TQM là hết sức cần thiết. Như đã nói ở phần thực trạng, hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay là thiếu vốn vì vậy cần đặt ra các biện pháp hỗ trợ về tài chính để giúp các doanh nghiệp này có thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và có thể đầu tư cho các hệ thống quản lý chất lượng. Các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức cần khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hệ thống TQM thông qua việc hỗ trợ kinh phí, cho vay với lãi suất thấp, ưu tiên nhập trang thiết bị, công nghệ tiên tiến, v.v. Đề ra các chính sách đầu tư, áp dụng thí điểm sử dụng các nguồn vốn Nhà nước, vay ngân hàng, các nguồn vốn hỗ trợ từ các Chính phủ hoặc tổ chức phi chính phủ, v.v nhằm tập trung đầu tư, nghiên cứu triển khai ứng dụng công nghệ mới, củng cố cơ sở hạ tầng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng lạm phát cao, lãi suất cho vay cao và thắt chặt tín dụng khiến các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, biện pháp trong ngắn hạn và rất cần thực hiện ngay là hạ mức lãi suất và duy trì tính ổn định của nền kinh tế, kìm hãm tốc độ lạm phát cũng như ổn định thị trường ngoại hối để các công ty vừa và nhỏ có điều kiện vay vốn, mua ngoại hối phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ khi doanh nghiệp có thể đứng vững và có nguồn tài chính tốt thì họ mới có thể tập trung cho công tác chất lượng.
3.3.2. Các giải pháp quản lý vi mô nhằm nâng cao khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc ứng dụng hiệu quả hệ thống TQM
3.3.2.1. Xác định chính sách và mục tiêu chất lượng của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp SME do quy mô hoạt động nhỏ, tầm nhìn ngắn hạn nên thường chỉ quan tâm đến hoạt động sản xuất thực tế với các kế hoạch đặt ra về sản lượng và doanh thu mà không chú trọng đến các chính sách và mục tiêu chất lượng. Tuy nhiên trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại lâu dài thì phải xác định được các chính sách và mục tiêu chất lượng cụ thể. Các chính sách và mục tiêu chất lượng cần được xây dựng ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế xã hội và phù hợp với các văn bản pháp quy có liên quan.
Xác định chính sách chất lượng của doanh nghiệp
Chính sách chất lượng là ý đồ và định hướng chung của doanh nghiệp về chất lượng do lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp đề ra. Cần xây dựng chính sách chất lượng sao cho phù hợp với mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp và bao gồm các cam kết đảm bảo thực hiện các yêu cầu đề ra. Chính sách đó phải được mọi người thông hiểu, đồng tình thực hiện.
Xác định mục tiêu chất lượng của doanh nghiệp
Căn cứ vào chính sách chất lượng đã đề ra và mong muốn về chất lượng, mỗi doanh nghiệp đề ra các mục tiêu chất lượng chung cho toàn doanh nghiệp và cụ thể hóa ứng với từng đơn vị trong doanh nghiệp. Mục tiêu chất lượng cần cụ thể, có thể lượng hóa và đánh giá được. Để đạt được các mục tiêu chất lượng, doanh nghiệp phải xác định các trọng tâm cần đầu tư cải tiến, yếu khâu nào phải chú trọng đầu tư cải tiến khâu đó.
Xây dựng kế hoạch chất lượng
Kế hoạch chất lượng không nhất thiết phải lập riêng tách rời với kế hoạch sản xuất nhưng phải thể hiện rõ một số điểm sau: nhận biết được các quy trình của hệ thống quản lý chất lượng, xác định rõ trình tự và tương tác giữa các quá trình, đảm bảo các nguồn lực và cải tiến liên tục. Tuy nhiên, nên có các kế hoạch chất lượng riêng ứng với trường hợp cần tập trung giải quyết như cải tiến, nâng cao một chỉ tiêu đặc trưng hay khắc phục một sai sót nào đó về chất lượng.
3.3.2.2. Lựa chọn thời điểm và cách thức áp dụng TQM
Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, các Tổng công ty nhà nước, các tập đoàn hay các doanh nghiệp FDI có khả năng tài chính mạnh, quy mô lớn, trình độ quản lý và trình độ công nghệ đều ở mức cao hơn, vì vậy họ có khả năng và dễ dàng áp dụng ngay các công cụ quản lý chất lượng, trong đó có TQM. Nhưng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc lựa chọn thời điểm và cách thức áp dụng là vô cùng quan trọng. Các công ty vừa và nhỏ cần trang bị đầy đủ nhận thức và cơ sở vật chất kỹ thuật trước khi áp dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể tránh chạy theo hình thức làm hạn chế khả năng áp dụng và hiệu quả của hệ thống. Đồng thời, các SME cũng phải lựa chọn phương pháp ứng dụng sao cho phù hợp và hiệu quả nhất với đặc điểm và tình hình của doanh nghiệp mình. Đối với các công ty đang áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế khác như ISO 9000, HACCP, GMP, v.v thì có thể lựa chọn các mô hình kết hợp như ISO9000+TQM, ISO9000+TQM+ISO 14000, TQM+GMP, TQM+HACCP, v.v. hoặc có thể lấy một hệ thống làm chính rồi kết hợp với một số yêu cầu của các hệ thống khác. Các công ty cũng không nhất thiết phải ứng dụng ngay tất cả các yêu cầu của hệ thống TQM mà có thể áp dụng từng module của hệ thống sao cho phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. Hiện nay, ở Việt Nam số lượng các doanh nghiệp áp dụng và được chứng nhận hệ thống ISO 9000 đang rất đông đảo và theo các chuyên gia Nhật Bản thì các công ty nên áp dụng các mặt mạnh của cả hai hệ thống quản lý chất lượng là ISO và TQM. Đối với các công ty lớn đã áp dụng TQM thì nên áp dụng và làm sống động các hoạt động bằng hệ thống ISO 9000, còn đối với các công ty nhỏ hơn chưa áp dụng TQM thì nên áp dụng ISO 9000 và sau đó hoàn thiện và làm sống động bằng TQM.
3.3.2.3. Nâng cao nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về TQM
Một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công hệ thống TQM là phải có sự cam kết mạnh mẽ của ban lãnh đạo các doanh nghiệp. Như đã nêu ở Chương 2, nhận thức và trình độ của lãnh đạo các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là hạn chế lớn khiến các doanh nghiệp này khó có thể áp dụng thành công một công cụ quản lý chất lượng tiên tiến như TQM. Vì vậy, các giám đốc, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tự trang bị cho mình các kiến thức và kỹ năng cần thiết về quản lý chất lượng trước khi áp dụng TQM bên cạnh việc tự trang bị cho mình các kiến thức về kinh doanh, kinh tế, nâng cao trình độ và năng lực quản lý. Các giám đốc, chủ doanh nghiệp này cần tham gia đầy đủ vào các lớp tập huấn, các hội thảo về TQM để có thể nắm bắt được bản chất, các yêu cầu và nguyên tắc thực hiện, từ đó phổ biến và tuyên truyền, đào tạo lại cho toàn bộ nhân viên trong công ty. Lãnh đạo doanh nghiệp phải là đầu mối hướng dẫn, đôn đốc và thực hiện kiểm tra giám sát các hoạt động, quy trình quản lý chất lượng của doanh nghiệp mình, đồng thời phải gây dựng được niềm tin và sự gắn bó của các nhân viên trong công tác chất lượng. Cần phải động viên khuyến khích kịp thời các cá nhân, các nhóm chất lượng có các sáng kiến cải tiến hữu ích nhằm phát huy khả năng sáng tạo của toàn thể nhân viên và cổ vũ phong trào cải tiến liên tục.
3.3.2.4. Xây dựng và phát huy vai trò của quỹ quản lý chất lượng
Đối với các doanh nghiệp triển khai ứng dụng các hệ thống quản lý chất lượng thì luôn cần nguồn tài chính thường xuyên để duy trì và cải tiến các hệ thống đó. Các doanh nghiệp lớn dồi dào về nguồn vốn lưu động có thể không cần thiết phải duy trì một quỹ riêng cho hoạt động chất lượng. Nhưng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì việc duy trì một khoản tài chính nhất định trong phạm vi nguồn vốn ít ỏi của doanh nghiệp cho hoạt động chất lượng là một bài toán khó. Vì vậy, để có thể thực hiện thành công và duy trì hiệu quả cũng như cải tiến các hệ thống chất lượng, các doanh nghiệp này cần phải xây dựng một quỹ riêng cho vấn đề quản lý chất lượng. Tùy theo tình hình kinh doanh, hàng năm, doanh nghiệp trích một số % lợi nhuận để đưa vào quỹ để phục vụ cho công tác chất lượng của doanh nghiệp. Việc sử dụng nguồn tiền từ quỹ cũng cần hết sức linh hoạt và minh bạch, rõ ràng tránh hiện tượng lãng phí gây tốn kém cho doanh nghiệp. Nguồn tài chính từ quỹ có thể dùng để chi cho các hoạt động và các vấn đề chất lượng như đầu tư máy móc thiết bị dây chuyền, đầu tư công nghệ mới, chi phí chứng nhận chất lượng, chi phí đào tạo, chi phí kiểm tra, kiểm soát. Đặc biệt đối với hệ thống TQM, quỹ sẽ phát huy vai trò tích cực trong việc hỗ trợ kinh phí cho các nhóm chất lượng với các sáng kiến cải tiến.
Tóm lại, quy mô vốn nhỏ hoặc thiếu vốn luôn luôn là thực trạng điển hình và là khó khăn lớn mà các công ty vừa và nhỏ gặp phải. Tuy nhiên, doanh nghiệp nào biết sử dụng linh hoạt và hợp lý nguồn vốn của mình sẽ có thể tồn tại và phát triển. Việc xây dựng quỹ quản lý chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ duy trì và phát huy công tác chất lượng từ đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
3.3.2.5. Thay đổi cách thức tổ chức quản lý
Đây là vấn đề khá quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay để có thể thực hiện tốt vấn đề quản lý tri thức trong doanh nghiệp mình. Chỉ khi thay đổi cách thức tổ chức quản lý theo hướng hiện đại các công ty mới có thể ứng dụng thành công TQM. Phần lớn các công ty vừa và nhỏ hiện nay vẫn đang duy trì cách thức quản lý trực tiếp. Đối với các công ty siêu nhỏ và nhỏ, giám đốc hoặc chủ doanh nghiệp trực tiếp quản lý toàn bộ vấn đề của công ty còn đối với các công ty quy mô vừa, mặc dù có các quản lý cấp trung là trưởng bộ phận các phòng ban nhưng chưa có sự phân công nhiệm vụ cụ thể và trách nhiệm rõ ràng. Bên cạnh đó, trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay, các nhân viên thụ động thực hiện các công việc hàng ngày do phân công và được giao chỉ tiêu nhiệm vụ hàng năm và hầu như không có sự gắn kết, trao đổi thường xuyên giữa các nhân viên, các bộ phận hay giữa nhân viên với quản lý các phòng ban và giám đốc. Trong khi TQM lại đòi hỏi sự chia sẻ thông tin, tinh thần gắn bó, phát huy tính sáng tạo và đặc biệt là sự phân công công việc, trách nhiệm rõ ràng ở từng cấp quản lý và đến từng nhân viên. Trong TQM, các nhân viên tự giám sát công việc của mình, đề xuất các sáng kiến cải tiến để tăng hiệu quả công việc của bản thân hay của tổ nhóm nơi làm việc.
Vì vậy, để ứng dụng hiệu quả TQM, các công ty vừa và nhỏ cần phải thay đổi cách thức quản lý theo hướng hiện đại. Ban lãnh đạo công ty cần phổ biến các chính sách, chiến lược và mục tiêu chung của công ty cho toàn bộ nhân viên để quản lý các phòng ban và toàn bộ nhân viên hiểu rõ định hướng chung. Ngoài ra, hàng tháng, hàng quý các cấp lãnh đạo cần tổ chức gặp mặt, thảo luận với các phòng ban, các tổ, nhóm chất lượng nhằm nắm bắt tình hình hoạt động và ghi nhận các ý kiến, vướng mắc của nhân viên để cùng đề xuất hướng giải quyết phù hợp. Cần có sự phân công công việc và trách nhiệm rõ ràng giữa các phòng ban, các tổ đội, nhóm chất lượng và đến từng nhân viên, đề ra quy trình làm việc và xử lý vấn đề cũng như giải quyết khiếu nại của khách hàng. Cần phát huy tinh thần tự chịu trách nhiệm của các nhân viên, tinh thần hợp tác nhóm, sự liên kết giữa các bộ phận trong giải quyết vấn đề. Các nỗ lực xây dựng một tổ chức như vậy với tinh thần nhân văn sâu sắc sẽ phát huy mạnh mẽ tri thức của tất cả các thành viên tạo nội lực thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến liên tục. Thay đổi cơ cấu tổ chức và cách thức quản lý theo hướng như vậy, các doanh nghiệp không những có thể ứng dụng hiệu quả TQM mà còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trong dài hạn vì các nguồn tài nguyên có thể cạn, các công nghệ có thể giống nhau nhưng trí tuệ và sức sáng tạo của con người thì không bao giờ cạn.
3.3.2.6. Đầu tư cho khoa học và công nghệ
Như đã đề cập trong Chương 2, trình độ công nghệ lạc hậu và ít đầu tư cho khoa học công nghệ đang là một trong những rào cản khiến các doanh nghiệp khó có thể thực hiện thành công TQM. Vì vậy, để có thể ứng dụng công cụ quản lý chất lượng này thành công, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có chương trình và chiến lược cụ thể đầu tư cho khoa học công nghệ. Về nguồn kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ, các công ty vừa và nhỏ có thể nhận sự hỗ trợ từ các chương trình của Chính phủ, các bộ ban ngành, các quỹ hỗ trợ và các hiệp hội. Ví dụ, gần đây, Bộ Khoa học – Công nghệ và Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã có chương trình phối hợp hoạt động “Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm”. Tuy nhiên, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải chủ động đầu tư cho khoa học công nghệ bằng cách xây dựng Quỹ phát triển Khoa học – công nghệ. Cũng như Quỹ quản lý chất lượng, Quỹ phát triển khoa khọc – công nghệ nhằm mục đích đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp, phát triển công nghệ mới, cũng như đầu tư ứng dụng và chuyển giao các công nghệ tiên tiến của các nước. Hàng năm, doanh nghiệp trích một phần lợi nhuận để duy trì Quỹ này.
3.3.2.7. Chiến lược đào tạo
Xây dựng chương trình và chiến lược đào tạo là yêu cầu cấp thiết cần được các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành trước khi thực hiện hệ thống TQM. Ban lãnh đạo, trưởng bộ phận và toàn bộ nhân viên tham gia vào hệ thống phải được huấn luyện và đào tạo về nội dung cơ bản của TQM, quy trình của hệ thống, các module, các công cụ cải tiến chất lượng, nhóm chất lượng, v.v. Một hạn chế lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động còn thấp. Thực tế cho thấy tại các doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng TQM, việc sử dụng các công cụ thống kê của các nhóm chất lượng còn rất hạn chế và hầu hết mới chỉ dừng lại ở các phiếu kiểm tra. Vì vậy, để ứng dụng thành công TQM, các doanh nghiệp cần tổ chức các khóa đào tạo cho toàn bộ nhân viên tham gia, đặc biệt là về các phương pháp và công cụ cải tiến chất lượng, kỹ thuật thống kê, tinh thần và phương pháp làm việc theo nhóm. Các lãnh đạo phải thực hiện giám sát, kiểm tra hoạt động của họ để đảm bảo chương trình đào tạo có hiệu quả. Đồng thời, hoạt động đào tạo phải được duy trì thường xuyên và có kế hoạch để có thể đáp ứng với những thay đổi của khoa học công nghệ và nhu cầu khách hàng.
Tóm lại, nhu cầu ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang được đặt ra cấp thiết. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng công cụ này trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đa dạng nhưng chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được thực hiện một cách đồng bộ và sâu rộng. Khi đó, TQM sẽ trở thành một công cụ đắc lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cuộc cạnh tranh về giá cả, chất lượng và thương hiệu trên thị trường.
KẾT LUẬN
TQM là một trong những hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhất hiện nay và đang được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Công cụ này đã được phổ biến và chuyển giao kinh nghiệm vào Việt Nam từ những năm 1990 và mang lại hiệu quả lớn cho các doanh nghiệp ứng dụng nó. TQM giúp doanh nghiệp thay đổi toàn bộ hệ thống và văn hóa nhờ những cải tiến nhỏ, tích tiểu thành đại. Tuy nhiên, sau gần 20 năm được biết đến tại Việt Nam, công cụ này vẫn chưa được các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm và triển khai ứng dụng. Mặc dù đã có những chương trình hỗ trợ từ phía Nhà nước trong vấn đề phổ biến nhận thức và hướng dẫn doanh nghiệp ứng dụng công cụ này, song vẫn chưa thực sự hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động và cải tiến chất lượng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước chú trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM và từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của việc ứng dụng công cụ này vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết.
Với đề tài “Ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, luận văn đã giải quyết được các vấn đề cơ bản sau:
Luận văn đã hệ thống hóa được các lý luận cơ bản về quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM cũng như bản chất, nội dung, vai trò và cách thức triển khai hệ thống này trong doanh nghiệp.
Luận văn đã phân tích được thực trạng ứng dụng công cụ TQM vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam và chỉ ra được những hạn chế và nguyên nhân của vấn đề.
Trên cơ sở thực trạng hoạt động triển khai ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, luận văn đã đề xuất được một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm mục đích ứng dụng hiệu quả công cụ này tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó giúp các doanh nghiệp phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời gian tới, khi nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, chúng ta phải dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và các chính sách bảo hộ dành cho các nước đang và kém phát triển hiện vẫn đang được duy trì. Các thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng lớn. Vì thế, các doanh nghiệp này phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh bằng chính nội lực của mình. Ứng dụng hiệu quả công cụ TQM sẽ tạo nội lực phát triển mạnh mẽ cho các công ty chỉ từ những cải tiến nhỏ và tinh thần gắn bó, đoàn kết và sáng tạo của toàn thể nhân viên. Bên cạnh sự tự lực của doanh nghiệp, Nhà nước cũng như các cơ quan Chính phủ, các bộ, ban ngành liên quan, các hiệp hội và tổ chức khác cũng cần tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển bền vững, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các tài liệu, báo cáo liên quan
TS. Nguyễn Kim Định (2008), “Quản trị chất lượng”. NXB
TS. Phan Thăng (2..), “Quản trị chất lượng”. NXB
Báo, báo cáo, tạp chí nước ngoài
Các Thông tư, Nghị định liên quan
Nghị định 56/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/11/2006
Nghị định 28/2005/ NĐ-CP, Nghị định 165/2007NĐ-CP
Thông tư 07/2009/TT-NHNN “Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ” ban hành ngày 17/04/2009
Thông tư 08 Hướng dẫn về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ
Thông tư số 02/2008/TT-NHNN ban hành tháng 4/2008
Website
Báo cáo đánh giá kết quả áp dụng TQM ở các doanh nghiệp áp dụng thí điểm – Trung tâm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 2
Quản trị chất lượng (T.Sỹ Nguyễn Kim Định – NXB Tài chính)
Quản trị chất lượng (T.sỹ Phan Thăng – NXB Thống Kê)
âng-cao-năng-lực-hiệp-hội-doanh-nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV THẠC SỸ- Ứng dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể TQM vào hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam.doc