Chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa hướng mạnh vào xuất khẩu là
một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo đà cho nền kinh tế phát triển
và đuổi kịp thời đại. Việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm mũi nhọn là một bước
đi tiên phong nhằm khai thác triệt để các lợi thế của đất nước, đồng thời tạo lên sự
lớn mạnh hơn nữa của nền kinh tế quốc nội, từng bước đánh dấu tên tuổi với thị
trường thế giới. Có thể thấy, dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam với giá trị kim ngạch xuất khẩu rất lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh
và ổn định. Bên cạnh đó, dệt may còn có lợi thế về lực lượng lao động đông đảo lại
cần cù chịu khó, giá nhân công thấp, ngành có truyền thống lâu đời. Nên với những
tiềm năng sẵn có, nếu biết ứng dụng một cách linh hoạt và hiệu quả các giải pháp
Marketing xuất khẩu, thì chắc chắn ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn
phát triển hơn nữa, chinh phục được nhiều thị trường mới hơn nữa.
103 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3093 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng marketing xuất khẩu trong các doanh nghiệp Việt Nam nhằm mở rộng thị trường và mặt hàng dệt may xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước áp dụng chiến lược giá mạnh mẽ và
thành công nhất, không chỉ đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu mà còn đối với rất
nhiều mặt hàng khác. Bên cạnh đó, sản phẩm dệt may Trung Quốc, xét về độ đa
dạng, tinh tế và phong phú về mẫu mã thì không hề thua kém một thị trường xuất
khẩu dệt may nào. Đây cũng là một lý do khiến cho hàng Trung Quốc được ưa
chuộng trên nhiều quốc gia.
Nhưng để trở thành một cường quốc dệt may, không phải chỉ có giá cả cạnh
tranh, mẫu mã đa dạng, mà còn cần cả sự nỗ lực lớn trong các chiến lược phân phối
cũng như quảng bá sản phẩm. Hàng năm, triển lãm sản phẩm và nguyên phụ liệu
dệt may gia dụng Quốc tế Trung Quốc tại Thâm Quyến được diễn ra, thu hút sự
quan tâm rất lớn của bạn bè quốc tế. Triển lãm sản phẩm và nguyên phụ liệu dệt
may gia dụng quốc tế Trung Quốc tại Thâm Quyến hội tụ rộng rãi tất cả những
nguồn lực mang tính đại diện cho thị trường hàng dệt may gia dụng Trung Quốc;
hoàn thiện khép kín toàn bộ quy trình từ khâu thiết kế sản phẩm, sản xuất, bán
buôn, bán lẻ và tham gia hợp tác tiêu thụ sản phẩm; tập trung thể hiện tình hình khái
quát của thị trường hàng dệt may gia dụng Trung Quốc; cho dù là tìm hiểu nắm bắt
tình hình chung hay là đẩy mạnh hợp tác, các doanh nghiệp tham dự và khách thăm
quan triển lãm sẽ đều được cung cấp những sự chắp nối hết sức phong phú và hiệu
quả cao. Triển lãm cũng đã trở thành điểm chắp nối tốt nhất để các doanh nghiệp
dệt may gia dụng nước ngoài triển khai hoạt động tại Trung Quốc, cung cấp cho các
doanh nghiệp nước ngoài tầm nhìn rộng rãi về thị trường Trung Quốc, nâng cao hơn
nữa hiệu quả khai thác thị trường. Triển lãm sản phẩm và nguyên phụ liệu dệt may
gia dụng quốc tế Thâm Quyến đã trở thành nhịp cầu chắp nối hiệu quả của các
doanh nghiệp dệt may gia dụng Trung Quốc và quốc tế. Đối với thị trường rộng lớn
là Mỹ, cho đến năm nay, "Hội chợ triển lãm thương mại các sản phẩm dệt may thời
trang Trung Quốc" tại New York đã tổ chức thành công 10 lần. Hội chợ lần này do
Hiệp hội công nghiệp dệt may Trung Quốc đứng ra tổ chức, còn có nhiều cơ quan
khác như chi nhánh ngành công nghiệp dệt may Phòng xúc tiến thương mại quốc tế
Trung Quốc, Công ty triển lãm thương mại chuyên nghiệp Mỹ,...cũng phối hợp tổ
74
chức. Hội chợ triển lãm này có thể giúp các doanh nghiệp Trung Quốc trực tiếp thấy
được xu hướng thay đổi của thị trường dệt may thời trang Mỹ, góp phần vào việc
điều chỉnh phương thức và chiến lược thương mại cho các nhà cung ứng Trung
Quốc. Do đó, số lượng doanh nghiệp tham gia hội lần tăng lên nhiều so với năm
ngoái, có khoảng hơn 100 doanh nghiệp.
Trong thế giới kinh doanh, các doanh nghiệp đứng sau thương hiệu cạnh
tranh bằng sức mạnh nội tại của mình. Họ phải củng cố khả năng cạnh tranh với
những cố gắng liên tục nhằm tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu
quả dịch vụ và marketing để duy trì thương hiệu nhằm đạt được mức giá tốt nhất
trên thị trường. Để cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Trung
quốc trong ngành dệt may cần phải tăng cường sức mạnh về quy mô công ty, nguồn
gốc sản phẩm, kỹ thuật marketing và hệ thống phân phối. Khá nhiều doanh nghiệp
Trung Quốc đã đạt được những thành công đáng kể đó, và đưa dệt may Trung Quốc
ngày một phát triển hơn.
3.1.2. Những dự báo về thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may thế giới
3.1.2.1. Dự báo chung về thị trƣờng hàng dệt may thế giới
Ngành dệt may thế giới hiện nay chịu tác động bởi người mua hơn là nhà sản
xuất, và các nhà bán lẻ hàng dệt may lớn ở các nền kinh tế phát triển dẫn đầu về
lượng người mua như Wal-Mart, Sears, JC Penny, Liz Claiborne và Gap... đang
nắm vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Các nhà bán lẻ
này cũng được mô tả như các nhà sản xuất không có nhà máy. Giá trị gia tăng và lợi
nhuận của họ có được từ việc nghiên cứu, phát triển sản phẩm, thiết kế, kinh doanh,
tiếp thị và khả năng phản ứng nhanh chóng theo xu hướng tiêu thụ mới của khách
hàng. Các mạng lưới tìm kiếm nguồn hàng trọn gói đang phát triển mạnh trên toàn
cầu. Các hãng dệt may mang thương hiệu lớn của Mỹ thường chủ yếu tìm nguồn
sản xuất của họ ở Mêhicô và khu vực Caribê, các công ty EU xây dựng mạng lưới
mua hàng ở Bắc Phi và Đông Âu, Nhật Bản và những nền kinh tế công nghiệp mới
của châu Á tập trung vào những khu vực có mức lương thấp hơn tại châu Á. Sự thắt
chặt tín dụng, sự thu hẹp nhu cầu và áp lực cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường đã
75
khiến một loạt lớn các công ty dệt may ở nhiều nước rơi vào phá sản, đóng cửa tạm
thời hay vĩnh viễn hoặc sản xuất kinh doanh cầm chừng. Mức tuyển dụng lao động
trong ngành dệt may toàn cầu do đó cũng đã giảm mạnh.
Câu chuyện suy thoái kinh tế đã khiến người tiêu dùng hàng dệt may ở
nhiều nước chuyển hướng sang tìm kiếm những sản phẩm có giá trị nhưng ở mức
giá cạnh tranh. Các thương hiệu xa xỉ đã phải chịu những tác động mạnh nhất, điển
hình là trường hợp thương hiệu thời trang Christian Lacroix bắt đầu phá sản vào
tháng 5/2009. Cho đến nay, những thương hiệu dệt may có khả năng kết hợp giá trị
với năng lực đáp ứng các xu hướng mới của thị trường và có mức độ tồn kho ít là
những thương hiệu chiến thắng trong khủng hoảng, đó là Uniqlo ở Nhật Bản, Zara
(Inditex), Primark ở châu Âu... Tại Nhật Bản, sự phát triển của chuỗi cửa hàng dệt
may bán lẻ nhanh Fast Retailing là một ví dụ về thành công trong khủng hoảng.
Những cửa hàng trong chuỗi này hiện đang bán các loại quần bò g.u. nhập từ
Campuchia khiến cơ thể thon thả với mức giá 1.300 yên (13,8 USD), chỉ bằng 1/3
mức giá so với ở nơi khác. Tadashi Yanai, chủ của Fast Retailing và là một trong
những người Nhật giầu có nhất, nói rằng: "Khi lương không tăng, đó là lúc người ta
muốn nghiêng sang mua những thứ càng rẻ càng tốt".
Trên thị trường dệt may toàn cầu, Trung Quốc vẫn là lực lượng chính, nhưng
không phải là không có đối thủ cạnh tranh. Việc kết thúc hạn ngạch đối với các mặt
hàng dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc vào các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu
là rất quan trọng, tuy nhiên, mức lương cao hơn của người lao động và đồng nhân
dân tệ tăng giá đã khiến sản phẩm dệt may Trung Quốc không còn sức hấp dẫn về
giá như trước. Nhiều nguồn phân tích thương mại cho rằng xuất khẩu dệt may của
Trung Quốc dự kiến sẽ giảm 15% trong năm nay. Nhiều nước xuất khẩu hàng dệt
may khác có chi phí lao động thấp hơn Trung Quốc như Bangladesh, Sri Lanka và
Việt Nam đã bắt đầu mở rộng thị phần. Bên cạnh đó, nhiều thị trường nhập khẩu
lớn trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản cũng muốn giảm sự phụ thuộc nhập khẩu
hàng dệt may từ Trung Quốc và đã chuyển hướng hợp tác sang các nhà sản xuất
châu Á khác. Phân tích của các chuyên gia cho biết châu Á sẽ trở thành khu vực sản
76
xuất hàng dệt may lớn nhất thế giới, cung cấp khoảng 75-78% nhu cầu hàng dệt
may toàn cầu với tổng giá trị ước tính 700 tỷ USD. Trong đó, Trung Quốc cung cấp
35%, ASEAN 20%, Ấn Độ và các nước Nam Á khoảng 17-20%.
Nguồn sợi và vải lụa giá rẻ từ Trung Quốc tiếp tục có những ảnh hưởng đến
thị trường nội địa của Ấn Độ và Uỷ ban Tơ lụa Trung ương CBS đã tính đến
phương án tiếp tục gia hạn áp dụng thuế chống bán phá giá mặt hàng trên. Để hạn
chế nhập khẩu sợi tơ từ Trung Quốc, các doanh nghiệp thuộc Hội Liên hiệp ngành
dệt Ấn Độ đã đề xuất lên uỷ ban Lụa Trung Ương nhằm tiếp tục áp dụng thuế chống
bán phá giá đối với mặt hàng sợi tơ lụa thêm thời hạn 4 năm kể từ tháng 1/2009. Ấn
Độ đã đẩy mạnh nhập khẩu bông, sau khi Chính phủ đã đưa ra kế hoạch nhằm tăng
nguồn cung bông trong nước. Ấn Độ đã cắt giảm thuế nhập khẩu đối với bông thô
và giảm xuất khẩu nhằm tăng nguồn cung và kiềm chế giá bông trong nước. Xu
hướng hiện nay cho thấy, các nước Nam Á và Đông Nam Á đã nổi lên thành nguồn
cung quan trọng đối với các khách hàng Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU). Nhập
khẩu hàng dệt may của cả EU và Hoa Kỳ từ các nước sản xuất giá rẻ của châu Á
đều tăng trưởng khá mạnh.
3.1.2.2. Dự báo cụ thể về các thị trƣờng của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
Trong hai năm vừa qua, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang hai thị
trường truyền thống Mỹ và EU đạt được mức tăng trưởng thấp thì xuất khẩu mặt
hàng này của nước ta sang các thị trường Đông Bắc lại tăng trưởng rất khả quan.
Nhìn lại diễn biến tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản trong năm 2008 và 2009 cho thấy sự nỗ lực bứt phá mạnh của các doanh
nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Đây có thể coi là tiền đề
để tạo đà cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường này sẽ
có nhiều đột phá những năm tới, trong bối cảnh hàng dệt may của nước ta sang các
thị trường lớn đang gặp khó khăn. Từ năm 2009, hàng dệt may của nước ta sang thị
trường Nhật Bản không phải chịu thuế nhập khẩu, điều này sẽ mang lại nhiều thuận
lợi cho hàng dệt may xuất khẩu của nước ta.
77
Quỹ Tiền tệ thế giới, dự đoán GDP của toàn thế giới trong năm 2010 sẽ tăng
khoảng 2,2%, trong đó Mỹ tăng khoảng 2%. Triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế
sẽ kéo theo sức mua của các thị trường như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản sẽ được cải
thiện. Từ đây, cầu sẽ có cơ hội tăng. Tín hiệu này được thể hiện bằng việc các đơn
hàng trong năm 2010 đổ về nhiều hơn so với cùng kỳ các năm trước. Đây là điều
kiện để cho dệt may Việt Nam có thể nâng đơn giá. Một lợi thế cho hàng dệt may
Việt Nam là từ trước đến nay, giá sản phẩm của Việt Nam chưa cao, nên trong bối
cảnh này nhiều thị trường đều ưu tiên cho hàng từ Việt Nam hơn. Tuy nhiên, vấn đề
mà các doanh nghiệp, lẫn các lãnh đạo hiệp hội dệt may Việt Nam, tổng công ty dệt
may Việt Nam đều lo, là khi các đơn hàng xuất khẩu bắt đầu tăng, thì tình trạng
thiếu hụt lao động càng thể hiện rõ hơn. EU và Mỹ là hai thị trường lớn và quan
trọng của dệt may xuất khẩu Việt Nam, nhưng trải qua những cuộc khủng hoảng
kinh tế lớn, sức mua của hai thị trường này hai năm qua đã giảm xuống. Tuy nhiên
từ đầu năm nay, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế Mỹ, xuất khẩu dệt may vào
Mỹ đang có dấu hiệu nhích dần lên. Ở thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam cũng
có lạc quan như vậy. Có thể thấy người tiêu dùng Mỹ và EU vẫn ưu ái hàng dệt may
Việt Nam. Tuy nhiên, điều quan trọng phải kể đến là sự cố gắng và đồng hành của
các doanh nghiệp dệt may với các nhà nhập khẩu trong việc xác định lại cơ cấu giá
cả hợp lý trên cơ sở vẫn giữ vững chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Ngoài việc đang dần hồi phục đà tăng trưởng ở thị trường chính, hàng dệt
may Việt Nam đã thành công bước đầu trong việc mở rộng thị trường và đạt được
tăng trưởng khá cao ở những thị trường mới như Hàn Quốc, Đài Loan (Trung
Quốc), Singapore, Na Uy...Ví dụ như Ucraina, triển vọng xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam sang Ucraina là khá lớn, bởi thị trường này không đòi hỏi quá khắt
khe về chất lượng sản phẩm và nhu cầu của người tiêu dùng tại thị trường này khá
tương đồng với thị trường như Nga, và các doanh nghiệp cần nắm bắt những cơ hội
để có thể mở rộng chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này. Ngoài ra, thị
trường Canada cũng là một thị trường mở rất màu mỡ cho dệt may Việt Nam. Mặc
dù ngành công nghiệp dệt may Canada cũng rất phát triển với trên 2.000 nhà sản
xuất, đa phần là những công ty lớn và chủ yếu tập trung vào sản xuất quy mô lớn,
78
nhưng gần đây, các nhà sản xuất Canada chuyển hướng đầu tư kinh doanh về khu
vực nông thôn và các khu dân cư nhỏ. Tuy nhiên do phần lớn nguyên vật liệu phục
vụ sản xuất phải nhập khẩu nên chi phí sản xuất rất cao khiến giá thành hàng may
mặc nội địa cao hơn nhiều so với hàng nhập khẩu. Trong các chủng loại hàng may
mặc nhập khẩu thì mảng hàng giá thấp đến trung bình chiếm thị phần đáng kể.
Thêm nữa người tiêu dùng Canada luôn có nhu cầu về hàng may mặc làm từ sợi tự
nhiên, ở mức giá cạnh tranh. Với nhu cầu và thị hiếu này của người tiêu dùng
Canada, đây là thị trường tiềm năng đối với mặt hàng may mặc xuất khẩu Việt
Nam. Theo Thương vụ Việt nam tại Canada, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam thâm nhập thị trường này. Bên cạnh đó, một số thị trường mới mở như
châu Phi mặc dù có nhu cầu lớn nhưng hàng dệt may Việt Nam chưa thâm nhập
được bao nhiêu do rủi ro về thanh khoản, hệ thống thanh toán qua ngân hàng chưa
đủ độ tin cậy, chi phí đi lại tốn kém…
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt. Trước
hết đó sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đến từ các nước sản xuất dệt may lớn trong
khu vực như Trung Quốc, Bangladest, Campuchia và Ấn Độ. Trong đó, có những
nước có nhiều thế mạnh về công nghiệp phụ trợ và chủ động về nguyên liệu như
Trung Quốc và Ấn Độ. Các nước có tiềm năng sản xuất, xuất khẩu với công nghệ
tiên tiến, chủ động được nguyên phụ liệu, có các ngành công nghiệp hỗ trợ phát
triển, được chính phủ quan tâm đầy đủ thì sẽ tận dụng được cơ hội này để phát triển.
Và các thị trường chính của Việt Nam cũng sẽ có nhiều lựa chọn hơn. Điều này
buộc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải có những biện pháp Marketing hiệu
quả nhằm đẩy mạnh hoạt động bán hàng tại các thị trường chủ yếu và tìm kiếm mở
rộng thị trường mới.
3.1.3. Mục tiêu và định hƣớng cho sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam trong thời gian tới
Rất hiếm có người nào có thể nhìn trước được tương lai, đặc biệt là trong
kinh doanh. Thị trường vận động, thích ứng theo cách riêng của nó và những biến
đổi đó không dễ để có thể dự đoán được. Tuy nhiên, trong những trường hợp hiếm
79
hoi đó, chúng ta có cơ hội để nhìn trước được sự thay đổi trong ngành dệt may Việt
Nam, một vận động không quá lớn nhưng thực tế đang diễn ra và mang đến những
sự thay đổi tích cực và đáng kể.
Thứ nhất, kiên trì bám chắc thị trường truyền thống và tích cực tìm kiếm
những thị trường ngách để thực hiện chiến lược “người không ta có”. Cuộc suy
thoái kinh tế phủ bóng đen lên khắp châu lục khiến cho nhiều thị trường chủ chốt
của dệt may Việt Nam bị giảm sút. Tuy nhiên, nói EU không có nghĩa là mọi quốc
gia đều giảm. Trong EU có thị trường vẫn nhập nhiều sản phẩm dệt may Việt Nam.
Trong 10 tháng toàn EU giảm như đã nêu nhưng có những thị trường địa phương
vẫn tăng như Italia tăng 1,17%, Tây Ban Nha tăng 23,5%. Hoặc ngay ở thị trường
Hoa Kỳ giảm chung là như thế nhưng vẫn có những mặt hàng tăng... Vấn đề chính
là nhiều doanh nghiệp bám sát thị trường truyền thống này đã phát hiện và tìm cách
gia tăng thị phần ở từng mặt hàng cụ thể, từng là thị trường cụ thể. Ngoài thị trường
truyền thống, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú tâm tìm những thị
trường ngách để thừa lúc các đối thủ chưa tìm đến thì mình đã có mặt như thị
trường Châu Phi, Trung Phi, Đông Âu...
Thứ hai, gia tăng chủng loại sản phẩm xuất khẩu, ngoài sản phẩm dệt may
còn chú trọng xuất khẩu cả các loại khăn bông, vải, và các nguyên phụ liệu khác.
Các doanh nghiệp đã tìm các thị trường cho không chỉ sản phẩm mà cả nguyên phụ
liệu. Ví dụ Việt Nam đã xuất cả vải, khăn bông, phụ liệu sang các Tiểu vương quốc
Ả Rập, Ai Cập, Nam Phi, sợi sang Thổ Nhĩ Kỳ. Công ty Hanosimex đã xuất khẩu
tới 38% lượng sợi sản xuất được. Năm 2009 Việt Nam xuất sợi tăng 70% so với
năm trước. Phải nói rằng sợi, vải và khăn bông Việt Nam đã đạt chất lượng cao nên
rất được thị trường quốc tế chú ý, nhờ đó lượng xuất khẩu tăng. Trong đó đặc biệt
khăn bông xuất khẩu đòi hỏi kỹ thuật rất cao và khăn bông Việt Nam đã vượt qua
nhiều hàng rào kỹ thuật để vào được các thị trường khó tính. Hiện nay, Việt Nam là
nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu khăn bông vào thị trường Hoa Kỳ, EU,
Nhật Bản. Đây cũng là một thành công của dệt may Việt Nam cần tiếp tục phát huy.
80
Thứ ba, dệt may nước ta cần khai thác tốt hơn nữa cơ hội từ Hiệp định
thương mại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản. Theo đó, từ 1/10/2009, 90%
mặt hàng xuất vào Nhật được hưởng thuế suất bằng 0%. Nhờ vận dụng hợp lý quy
định doanh nghiêp sử dụng nguyên liệu vải từ các nước có hiệp định thương mại
với Nhật được hưởng thuế suất 0% thay vì 5-10% trước đó nên chỉ trong 3 tháng
cuối năm hàng dệt may vào Nhật tăng vọt. Tính ra cả năm hàng dệt may xuất sang
Nhật tăng từ 23-25%. Đây là điều mà ít ngành hàng xuất khẩu Việt Nam khai thác
được. Đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp dệt may có quan hệ làm ăn lâu dài với
doanh nghiệp Nhật đã chớp thời cơ này tăng cường hơn quan hệ bạn hàng và xuất
hàng vào Nhật. Ví dụ Dệt kim Đông Xuân, vốn có quan hệ hợp tác 20 năm qua với
doanh nghiệp Nhật, năm nay đã ký thỏa thuận tiếp tục hợp tác trong 10 năm nữa và
đã xuất sang Nhật lượng hàng tăng gấp 2 lần năm trước.
Thứ tư, dệt may là ngành sớm chuyển hướng tìm về thị trường nội địa và xây
dựng thành một định hướng chiến lược lâu dài.
Thứ năm, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, dệt may Việt Nam chịu
ảnh hưởng trên nhiều phương diện nên trong thời gian tới, đòi hỏi ngành phải sắp
xếp lại lao động, đổi mới quy trình sản xuất theo hướng tinh gọn, hiệu quả, năng
suất lao động
Thứ sáu, ngành dệt may phải chú trọng xây dựng được nhiều thương hiệu
Việt Nam có uy tín trên thị trường quốc tế. Nhiều thương hiệu được thế giới biết
đến như May Việt Tiến, An Phước, Nhà Bè, May 10, Thăng Long, Sài Gòn… Hàng
của Việt Tiến đã xuất sang nhiều quốc gia theo hệ thống đại lý bán hàng rất có uy
tín.
Để có thể đạt được mục tiêu đề ra là 10,3 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu trong
năm nay và giữ vững top 5 nước xuất khẩu dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam
phải tập trung hơn nữa vào việc đổi mới cơ cấu, mẫu mã sản phẩm, phát triển các
sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phối
hợp chặt chẽ với Hiệp hội Dệt may Việt Nam và Bộ Công Thương theo dõi sát diễn
biến, cũng như những yêu cầu và đòi hỏi của các thị trường quốc tế.
81
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP MARKETING NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƢỜNG
VÀ MẶT HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM
TỚI
3.2.1. Giải pháp về nghiên cứu thị trƣờng xuất khẩu
Thực tế thời gian qua, do nhiều lẽ, chúng ta còn thiếu thông tin thị trường để
có thể chớp kịp thời các cơ hội kinh doanh trong từng thời điểm cụ thể. Cần nhấn
mạnh rằng, hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên của hoạt
động kinh doanh nói chung cũng như trong việc xuất khẩu hàng dệt may nói riêng.
Bởi lẽ, mọi quyết định trong kinh doanh, từ việc xuất khẩu những sản phẩm gì, bao
nhiêu đến việc xuất khẩu vào thời điểm nào có lợi nhất...đều phải xuất phát từ nhu
cầu biến động cụ thể của thị trường ở từng thời điểm khác biệt. Các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam cần nắm bắt đầy đủ nhu cầu của thị trường thì mới có thể tăng
tốc xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh có hiệu quả.
Nội dung thông tin: Cần nhiều loại thông tin sâu rộng, trước hết là những
thông tin cơ bản sau:
- Thông tin về nhu cầu và mức nhập khẩu của từng thị trường. Trong xuất khẩu
dệt may, cần nhấn mạnh sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã theo mốt mới nhất
bởi lẽ dệt may là hàng rất nhạy cảm, là hàng mang tính văn hóa, thời trang cao với
nhiều gu, mốt phong phú và đa dạng.
- Thông tin về các quy định pháp lý hay thể chế hải quan của từng thị trường,
trong đó phải nhấn mạnh các quy định buôn bán cụ thể của Hiệp định dệt may ATC
hay Hiệp định đa sợi MFA, các quy định về an toàn và môi trường, các thể chế hải
quan và chính sách buôn bán của nước nhập khẩu.
- Thông tin về hệ thống tiêu thụ của thị trường, gồm các loại kênh phân phối
trực tiếp, gián tiếp, hệ thống các kênh bán buôn và bán lẻ của từng thị trường nhập
khẩu
- Thông tin về đối thủ cạnh tranh để có thể biết rõ mình đang ở đâu trong cuộc
cạnh tranh quốc tế. Cần phải có thông tin đầy đủ về họ trên các khía cạnh cụ thể
82
như kim ngạch và thị phần xuất khẩu, cơ cấu các chủng loại sản phẩm, chất lượng
và giá thành sản phẩm, các chiến lược thị trường, sản phẩm và giá cả của họ trong
cạnh tranh...
Chỉ khi nắm bắt được đầy đủ các thông tin, doanh nghiệp Việt Nam mới có thể thực
hiện thành công chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Tổ chức triển khai nghiên cứu thị trường và thu nhập thông tin cần thiết
Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh cũng như khả năng cụ thể về nhân lực, tài lực và
doanh nghiệp, trước hết là Tổng công ty dệt may có thể kết hợp linh hoạt cả phương
pháp nghiên cứu tại bàn ( Desk Research) và phương pháp điều tra khảo sát thị
trường ( Field Research) để tiến hành nghiên cứu.
- Lập cơ quan đại diện của doanh nghiệp ở thị trường nhập khẩu nước ngoài
Cần xác định rõ hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường là một trong những
nhiệm vụ cơ bản của cơ quan đại diện tại những thị trường nhập khẩu hàng dệt may
Việt Nam chủ yếu.
- Hợp tác chặt chẽ với cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước nhập khẩu trong
việc nghiên cứu và thu thập thông tin cần thiết về thị trường dệt may.
- Thuê chuyên gia tư vấn nước sở tại để thu thập thông tin thị trường, trong đó
ưu tiên sử dụng Việt Kiều có tâm huyết với tổ quốc. Hình thức này có ưu điểm là
chuyên gia tư vấn am hiểu sâu rộng hơn tình hình thực tế nước sở tại, tiếp cận
nhanh va fcos hiệu quả nhiều kênh thông tin mà hai hình thức trên khó thực hiện
được.
3.2.2. Giải pháp về chiến lƣợc sản phẩm xuất khẩu
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, các thị trường xuất khẩu chủ
yếu đều là những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU hay Nhật Bản, ngành dệt
may Việt Nam cần nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm của mình. Các biện pháp
nâng cao sản phẩm bao gồm:
83
Thứ nhất, xác định được các mặt hàng có lợi thế so sánh cao tạo ưu thế xuất
khẩu. Các quyết định về sản phẩm được tung ra thị trường phải nắm chắc được thời
cơ, nắm được lợi thế so sánh khác biệt cũng như tính vượt trội của sản phẩm trên thị
trường thế giới. Điều này tạo nên lợi thế và chỗ đứng cho các doanh nghiệp dệt may
xuất khẩu. Trên thị trường xuất khẩu hàng dệt may, các quyết định về sản phẩm
xuất khẩu rất phức tạp, do nhu cầu và môi trường ở mỗi đoạn thị trường khác nhau.
Hiện nay, dệt may đang là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam nhưng
một đòi hỏi khắt khe là các doanh nghiệp xuất khẩu phải nắm thật tốt nhu cầu biến
động của từng loại thị trường, theo đặc điểm mùa vụ, đặc điểm thời tiết của từng
quốc gia nhập khẩu để đưa ra một chiến lược sản phẩm cho phù hợp.
Thứ hai, mọi sản phẩm dệt may đều phải được sản xuất trên một hệ thống
quản ly, chất lượng đạt được các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000 và
SA 8000. Điều này có nghĩa là từ khâu đầu vào của nguyên liệu đến khâu đầu ra của
sản phẩm đều phải được quản lý và kiểm soát nghiêm ngặt trong một quy trình tiêu
chuẩn quốc tế và thỏa mãn các điều kiện về môi trường, vệ sinh công nghiệp và các
tiêu chuẩn về lao động. Nhất là các doanh nghiệp muốn phát triển tại thị trường Hoa
Kỳ, thì việc tuân thủ theo SA 8000 là điều hết sức quan trọng. Nếu thực hiện tốt SA
8000 sẽ rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may sang Hoa Kỳ vì được luật pháp Hoa Kỳ khuyến khích và phù hợp với quan
niệm, mong muốn của người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Thứ ba, rà soát lại toàn bộ các công nghệ kéo sợi, dệt vải đến công nghệ
may. Trên cơ sở đó, cần chấn chỉnh và nâng cấp những khâu trọng điểm nhất để
khẩn trương nâng cao chất lượng sản phẩm từ tất cả các khâu đó. Cần nhanh chóng
nhập khẩu những công nghệ thiết bị dệt may tiên tiến nhất hiện nay của thế giới
phục vụ tốt cho các công đoạn như: in, nhuộm và hoàn tất sản phẩm. Nên nghiên
cứu nhập khẩu nguồn nguyên liệu vải mộc từ các nước có sẵn như Ấn Độ,
Pakistan...từ đó sản xuất ra những sản phẩm vải cao cấp đáp ứng cho nhu cầu của
ngành may. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa
dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật
84
liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự
thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ,
ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Thứ tư, đầu tư tập trung vào khâu nghiên cứu, cải tiến mẫu mã, thiết kế tạo “
mốt” nhằm đáp ứng nhu cầu thời trang đa dạng của thị trường các nước phát triển.
Để làm được điều đó, trước hết phải thu hút các chuyên gia thời trang giỏi trong
nước với mức lương đủ hấp dẫn. Mặt khác, có thể thuê nhà tạo mẫu nước ngoài để
đáp ứng nhu cầu thời trang quốc tế ở từng thời điểm.
Thứ năm, chấn chỉnh lại và nâng cấp khâu bao bì, đóng gói, nhãn mác. Trước
hết, bao bì của hàng dệt may Việt Nam phải đảm bảo thực thi 7 chức năng trong
kinh doanh quốc tế, đó là:
1) Bảo vệ ( Protection) : phải đảm bảo nghiêm ngặt chất lượng
2) Giới thiệu ( Presentation): phải cung cấp đủ thông tin cần thiết về sản phẩm
3) Khuân vác ( Portability) : phải dễ dàng, tiện lợi
4) Duy trì ( Preservation) : trong quá trình vận chuyển đi xa phải giữ được
nguyên vẹn các giá trị sản phẩm
5) Cân đối ( Proportion) : phải cân đối hợp lý và có tính thiện cảm
6) Thúc đẩy ( Promotion) : phải hấp dẫn, thu hút khách hàng
7) Sẵn sàng ( Preparation) : phải nhanh chóng, đúng thời hạn hợp đồng
Bảy chức năng này là tiêu chuẩn quốc tế cần phải được tuân thủ đầy đủ, đặc biệt là
chức năng (1), (3), (6), (7) đối với tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
hiện nay, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hiệu quả.
Tóm lại, từ kết quả của những năm vừa qua, có thể thấy chúng ta đã quan
tâm nhất định đến chiến lược sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may. Việc quan tâm
đúng mức đến chiến lược tiêu chuẩn hóa sản phẩm tức là nhằm thỏa mãn đến mức
cao nhất nhu cầu của thị trường tiêu dùng quốc tế. Muốn đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu
85
hàng dệt may Việt Nam hơn nữa, chúng ta cần quan tâm cả đến chiến lược thích
ứng hóa sản phẩm nhằm thỏa mãn đến mức cao nhất nhu cầu thị trường xuất khẩu.
Trong công nghệ marketing xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu luôn phải tính đến
thái độ đối với sản phẩm nhập khẩu của người tiêu dùng địa phương và kịp thời đưa
ra các giải pháp cần thiết. Doanh nghiệp xuất khẩu dệt may cần quán triệt sâu sắc
việc coi trọng chiến lược sản phẩm gắn với việc đổi mới sản phẩm, gắn với chiến
lược nhãn hiệu và các chiến lược dịch vụ gắn với sản phẩm. Tuân thủ nghiêm ngặt
yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo
đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật mà bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách
kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì...Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm còn bao
gồm cả chất lượng tiêu chuẩn của bao bì đóng gói, điều kiện môi trường đóng gói
cùng những phụ kiện kèm theo và phương tiện vận tải thích hợp đảm bảo chất
lượng sản phẩm trong mọi điều kiện môi trường.
3.2.3. Giải pháp về chiến lƣợc giá cả xuất khẩu
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường
quốc tế, vấn đề cạnh tranh bằng giá là vấn đề trọng yếu. Bởi lẽ với công nghệ và
trình độ của công nhân hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có thể sản xuất được những
chủng loại sản phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của các
nhà nhập khẩu. Tuy nhiên các nước xuất khẩu khác cũng đáp ứng được những yêu
cầu về chất lượng như vậy, nên vấn đề quyết định cho sự cạnh tranh thắng lợi lại
nằm trong chính sách giá của sản phẩm. Hiện nay, trong điều kiện dệt may Việt
Nam đang giảm ưu thế về giá nhân công, nên các doanh nghiệp cần có các biện
pháp để tăng sức cạnh tranh về giá sản phẩm của mình bằng các biện pháp:
Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, chiến lược giá xuất khẩu
thường hướng vào các mục tiêu như: thâm nhập thị trường (hay đoạn thị trường)
quốc tế, phát triển phần thị trường và doanh số bán nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Hiện
nay công tác xuất khẩu dệt may của Việt Nam thường gặp rất nhiều khó khăn trong
việc định giá xuất khẩu, không nắm bắt được các cơ hội chúng ta sẽ mất lợi nhuận
xuất khẩu. Việc định giá rất quan trọng đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, khi
86
quyết định thâm nhập thị trường hay đoạn thị trường trọng điểm nào đó, doanh
nghiệp cần đưa ra các quyết định về giá ban đầu cho các đối tượng khách hàng khác
nhau, về giá thay đổi hiện tại, giá cả cho từng chủng loại sản phẩm, mức độ và khả
năng kiểm soát giá trên các thị trường xuất khẩu khác nhau.
Thứ hai, cần giảm chi phí nguyên vật liệu mà trước hết giảm yếu tố chi phí
bông và một số hóa chất có thể giảm được. Về nguyên liệu bông, cần đẩy mạnh
nguồn cung cấp trong nước. Theo một số chuyên gia nông nghiệp, điều kiện đất đai
và khí hậu nước ta khá là thuận lợi cho yêu cầu phát triển sinh thái của cây bông để
có thể đạt năng suất và chất lượng không thua kém nhiều nước trên thế giới. Ngành
dệt may cần có chương trình hợp tác với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
theo phương thức cùng có lợi, đảm bảo thỏa đáng cho người nông dân có việc làm
và thu nhập hợp lý. Giải quyết ổn định nguồn cung cấp bông trong nước là một
bước tiến lớn trong quá trình tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm dệt may
xuất khẩu Việt Nam trong những năm tới. Nhanh chóng phát triển mạnh vùng
nguyên liệu trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, nhập khẩu những thiết bị hiện đại phục
vụ cho công nghiệp dệt, nhuộm hoàn tất và sử dụng phụ liệu, nhằm sản xuất ngày
càng nhiều vải nguyên liệu đạt chất lượng tiêu chuẩn phục vụ cho hàng may mặc
xuất khẩu và những sản phẩm dệt đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Giảm thiểu tối đã
lượng nguyên liệu phụ liệu nhập khẩu để giảm giá thành sản phẩm.
Thứ ba, kéo dài thời gian hoàn vốn đầu tư, khấu hao trang thiết bị lên từ 7
đến 10 năm, nhằm giảm giá thành sản phẩm. Tuy nhiên ngay từ bây giờ, cần tính
toán cụ thể phương hướng nội địa hóa từng bước căn cứ vào sự phát triển của ngành
chế tạo trong tiến trình công nghiệp hóa đất nước. Mặt khác, bản thân ngành dệt
may cần tổ chức, sắp xếp lại tối ưu các dây chuyền sản xuất nhằm tăng nhanh hiệu
suất sử dụng máy móc thiết bị đó. Khai thác tối đa năng lực sản xuất của công nghệ,
giảm thiểu lượng hàng phế phẩm và phế liệu, nâng cao năng lực năng suất lao động
của tất cả các bộ phận trong quy trình sản xuất, luôn đưa ra thị trường những sản
phẩm mới với giá cạnh tranh.
87
Thứ tư, cần nhanh chóng thiết lập hoặc thuê các kho ngoại quan tại một số
cảng để luôn đảm bảo thời hạn giao hàng, từng bước tiến tới việc nghiên cứu, dự
báo nhu cầu tiềm năng của khách hàng, xu hướng mẫu mốt để sản xuất trước những
sản phẩm mới hợp thời trang và lưu sẵn tại các kho ngoại quan...để có thể tung sản
phẩm ra thị trường vào thời điểm thích hợp nhất, nhằm đtaj được lợi nhuận cao trên
doanh số bán lớn và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, các doanh nghiệp dệt may cần cố gắng
giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động,
giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở
Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ
giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Triệt để thực
hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như là cơ sở để
tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may Trung
Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được giá cả sản phẩm
có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận.
3.2.4. Giải pháp về chiến lƣợc phân phối xuất khẩu
Kênh marketing phân phối của doanh nghiệp xuất khẩu là một tập cấu trúc
lựa chọn có chủ đích mục tiêu giữa doanh nghiệp xuất khẩu (với tư cách là một
trung gian thương mại hoàn chỉnh) với các nhà sản xuất, các trung gian marketing
phân phối khác với thị trường nhập khẩu. Kênh phân phối của doanh nghiệp xuất
khẩu tạo ra các tác nghiệp vận động hàng hóa từ cơ sở nguồn hàng của doanh
nghiệp đến các đối tác nhập khẩu. Để hoàn thiện kênh phân phối hàng dệt may xuất
khẩu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đưa các chỉ tiêu, tiêu chuẩn quốc tế
xuống tận cơ sở sản xuất phấn đầu người làm ra sản phẩm xuất khẩu phải am hiểu
và tự khẳng định được chất lượng sản phẩm của mình, nâng cao hiệu quả của việc
cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu giữa các doanh nghiệp. Từ việc chuẩn bị nguồn
hàng, doanh nghiệp xuất khẩu quyết định kênh phân phối dựa trên quy trình công
nghệ như sau:
88
Việc hoạch định một kênh hiệu quả bắt đầu bằng sự định rõ cần vươn tới thị
trường trọng điểm nào với một mục tiêu nào đó có lợi thế so sánh cao mang lại hiệu
quả xuất khẩu cho doanh nghiệp.
3.2.5. Giải pháp về chiến lƣợc xúc tiến xuất khẩu
Trên lĩnh vực xuất nhập khẩu của ta hiện nay thông tin cần thiết về các nước
còn rất hạn hẹp. Các doanh nghiệp cần đầu tư mạnh cho khâu truyền thông và xúc
tiến hỗn hợp để nhanh chóng giành quyền chủ động trong tiếp cận và triển khai xuất
khẩu trên thị trường. Các nhà tiếp thị của doanh nghiệp xuất khẩu cần hiểu xúc tiến
hoạt động thương mại là sự phối hợp giữa các chương trình mục tiêu của mô hình
như:
Thứ nhất, Quảng cáo vốn dĩ là công cụ cạnh tranh quan trọng đối với doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong tình hình cụ thể hiện nay, một khi
cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu ngày càng trở nên gay gắt. Vậy trong thời gian
tới, để đẩy mạnh quảng cáo, cần chú trọng trước hết một số vấn đề cụ thể là:
- Cần quán triệt hơn nữa vai trò và tác dụng của quảng cáo để đẩy mạnh xuất
khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này không phải là mới nhưng vẫn cần
phải nhấn mạnh vì trong thực tiễn kinh doanh xuất khẩu những năm qua, nhiều
Nghiên cứu, phân định mục tiêu và
các ràng buộc
Phân tích động thái
hệ kênh tổng thể
Hoạch định, lựa chọn phương án thế
vị chủ yếu
Đánh giá và quyết định
chọn tổ chức kênh
89
doanh nghiêph xuất khẩu dệt may Việt Nam tuy biết rõ quảng cáo là cần thiết
nhưng vẫn chưa đầu tư thích đáng ngân sách cho quảng cáo tại thị trường nước
ngoài.
- Doanh nghiệp Việt Nam, thông qua đại diện của mình hoặc hợp tác với
thương vụ Việt Nam, tiếp cận tích cực hơn với những hàng quảng cáo và báo chí có
uy tín ở thị trường xuất khẩu nước sở tại để đẩy mạnh hoạt động quảng cáo sản
phẩm của mình, tăng thêm hình ảnh và vị thế cho doanh nghiệp trong đời sống hàng
ngày của đông đảo người tiêu dùng. Từ đó, chúng ta mới có thể tận dụng được cơ
hội ở mọi nơi, mọi lúc để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
- Cần kết hợp năng động các phương tiện thông tin đại chúng để đẩy mạnh hoạt
động quảng cáo, từ báo chí, truyền hình, phát thanh đến Internet thông qua việc lập
các trang web.
Thứ hai, chú trọng các hoạt động hội trợ triển lãm thương mại quốc tế nhằm
giới thiệu hình ảnh về dệt may Việt Nam đến người tiêu dùng quốc tế. Chúng ta nên
tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt
Nam theo phương châm “chất lượng, nhãn hiệu, uy tín dịch vụ, trách nhiệm xã hội”
thông qua việc: Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO 14000, SA 8000;
Tham gia các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế; Xác định cấp tiêu chuẩn sản phẩm
trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính. Qua đó, xác định cơ cấu mặt hàng và
định hướng cho các doanh nghiệp.
Đặc điểm nổi bật của hội trợ triển lãm thương mại quốc tế là khách hàng
hiện diện được cụ thể sản phẩm, do đó, doanh nghiệp quy tụ được kịp thời bạn hàng
và có nhiều cơ hội ký kết được hợp đồng tiêu thụ. Chính vì thế, hội trợ triển lãm
thương mại quốc tế ở các nước nhập khẩu trở thành công cụ quan trọng trong chính
sách yểm trợ Marketing của các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu dệt
may nói riêng. Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần mở rộng hơn quan hệ trực
tiếp với tổ chức hội trợ triển lãm ở nước nhập khẩu để đẩy mạnh các hoạt động hội
trợ triển lãm, tìm được nhiều cơ hội cho việc mở rộng xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm
nhanh, nhiều và có hiệu quả. Doanh nghiệp cần nắm vững đặc điểm của từng loại
90
hội chợ, kế hoạch, lịch trình hội chợ, làm tốt bước chuẩn bị sản phẩm tham gia hội
chợ và kế hoạch bán hàng có hiệu quả.
Thứ ba, ngoài quảng cáo và hội chợ, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh kịp thời
các hoạt động yểm trợ xuất khẩu khác như quan hệ công chúng, bán hàng cá nhân,
mở các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, lập các trang web...nhằm đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm trên quy mô rộng. Các doanh nghiệp cần tổ chức tốt các hoạt động thông
tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các
trang website và các bản tin hàng tháng. Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn
hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm
giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để
thâm nhập thị trường.
Thứ tư, cần nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của
Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình hình
thị trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về
ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng
một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ
chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, đề xuất
các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong ngành.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA NGƢỜI VIẾT
3.3.1. Đối với Nhà nƣớc
Thứ nhất, nhà nước cần tập trung thích đáng vào chiến lược công nghệ dệt
may nhằm tạo đà đủ mạnh cho bước “ cất cánh” của ngành công nghiệp xuất khẩu
nhóm hàng mũi nhọn hiện nay của nước nhà. Nếu thiếu đầu tư, đổi mới nhanh
chóng công nghệ, việc đẩy mạnh xuất khẩu và việc nâng cao năng lực cạnh tranh
thật khó đạt được. Có thể nói rằng, chiến lược công nghệ dệt may là bộ phận quan
trọng trong chiến lược công nghệ tổng thể của nước ta như bộ Khoa học – Công
nghệ đã xây dựng. Bởi theo kinh nghiệm thực tế của nhiều nước, ngành công
91
nghiệp dệt may đóng vai trò lớn trong giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, cần từng bước điều chỉnh, chuyển định hướng chiến lược từ phát
triển sản xuất và xuất khẩu hàng hoá theo bề rộng và tốc độ cao hiện nay sang phát
triển theo hướng coi trọng hơn chất lượng và hiệu quả. Định hướng và có chính
sách khuyến khích doanh nghiệp xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị đối với
hàng dệt may làm tiền đề và điều kiện cho việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ ba, cần ưu tiên hợp lý vốn đầu tư cho chiến lược công nghệ của ngành
dệt may. Nội dung ưu tiên hợp lý này cần thể hiện rõ trong thực tế ở hạng mục ưu
tiên cấp vốn, số vốn cấp và thời gian cấp vốn. Như vậy, việc huy động vốn cũng
được tiến hành từ các nguồn vốn như: Nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước,
nguồn vốn FDI, nguồn vốn ODA...
Thứ tư, theo các chuyên gia trong ngành, để giải quyết được tình trạng phải
nhập khẩu nguyên vật liệu, Nhà nước cần chính sách ưu đãi cho những doanh
nghiệp mạnh dạn đầu tư vào các khâu : dệt, nhuộm, hoàn tất. Ngoài ra, cần thay đổi
quan điểm đầu tư : nghĩa là không nhất thiết đầu tư vào ngành nguyên phụ liệu phải
là thiết bị có công suất lớn như hiện nay. Trong khi hầu hết doanh nghiệp kinh
doanh hàng nội địa đều nhỏ, rất cần được cung ứng nguyên phụ liệu nhanh, chất
lượng ổn định với số lượng linh hoạt, cơ động. Đây cũng là xu hướng trong thời
gian tới khi xuất khẩu cũng có xu hướng thực hiện những đơn đặt hàng nhỏ. Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng cho việc phát triển nguồn cung cấp nguyên
liệu trong nước của ngành dệt may, đặc biệt là nguyên liệu bông hiện nay. Để tăng
nhanh tỷ lệ nội địa hóa của hàng dệt may xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính
sách ưu tiên đồng bộ và hợp lý cho nghành trồng bông trong nước như chính sách
đất đai, quy hoạch vùng trồng bông, chính sách đầu tư, chính sách khuyến nông,
chính sách chuyển giao công nghệ cho nông dân.
Thứ năm, Nhà nước cần tăng cường xúc tiến thương mại qua đội ngũ tham
tán thương mại; Hoàn thiện các cơ chế chính sách điều hành và khuyến khích xuất
khẩu, xử lý các tồn đọng trong cơ chế, nhanh chóng kiểm tra và cấp giấy chúng
92
nhận xuất xứ (C/O); Tích cực đàm phán thương mại với các đối tác nhằm tạo hành
lang pháp lý mở hơn cho sản phẩm dệt may đồng thời tìm được các bạn hàng mới
cho sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam; Tranh thủ sự hợp tác, trợ giúp khu vực
và quốc tế về công nghệ, đào tạo tư vấn, xức tiến thương mại...
3.3.2. Giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may
Trước hết, ngành dệt may cần chú trọng hơn nữa trong việc quy hoạch và
phát triển nguồn nhân lực cho tương lai để sớm khắc phục tình trạng vừa thiều về số
lượng lại vừa yếu về chất lượng. Trước hết là cần có quy hoạch tổng thể và phân
loại cụ thể nguồn nhân lực để có kế hoạch đào tạo thích hợp. Chiến lược phát triển
nguồn nhân lực luôn luôn có ý nghĩa quyết định thành công cho mọi chiến lược phát
triển kinh tế nói chung và trong chiến lược phát triển ngành dệt may xuất khẩu nói
riêng.
Thứ hai, hàng dệt may Việt Nam đang phải đối đầu với những nước có khả
năng cạnh tranh cao, có nhiều thuận lợi và kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị
trường về các mặt như: vật tư, thiết bị, quản lý, tài chính, tiếp thị, nghiên cứu và
phát triển. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam tại
thị trường thế giới, cần thiết phải nâng cao hơn nữa vai trò và tăng cường hơn nữa
chức năng của Hiệp hội dệt may Việt Nam trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình
hình thị trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp
về ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây
dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu,
tổ chức các hoạt động thâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài.
Thứ ba, hiệp hội Dệt may có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh
nghiệp nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị thương hiệu, hiệp hội có thể xem
xét ưu tiên phát triển bộ máy tư vấn bên cạnh hoặc bên trong hiệp hội, thiết lập các
cơ sở dữ liệu nghiên cứu thị trường chuyên ngành để cung ứng cho các hội viên,
bao gồm các thông tin về: Quy mô thị trường, cấu trúc thị trường (các phân mảng);
Các chuẩn giá trị tiêu dùng của xã hội qua các giai đoạn phát triển; Sức mua, lối
sống, ý thích và thị hiếu của từng nhóm người tiêu dùng khác nhau; Nhận định của
93
khách hàng về các thương hiệu đang cạnh tranh với nhau qua các lợi ích hay các
cảm nhận có ý nghĩa đối với họ.
Đây là các thông tin cần được thu thập, xử lý và kiểm chứng trong lâu dài,
hết sức tốn kém và nằm ngoài khả năng tự thực hiện của mỗi doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nhưng hết sức có ý nghĩa để giúp các doanh nghiệp hoạch định chiến lược
thương hiệu cũng như đáp ứng cao hơn các nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Trong bối
cảnh thương hiệu Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường thế giới thì việc hợp
tác giữa Nhà nước và các doanh nghiệp nhằm xây dựng một hình ảnh chung cho
hàng hoá xuất khẩu Việt Nam và quảng bá hình ảnh chung đó một cách mạnh mẽ
trên thị trường quốc tế là một cách làm có thể tiết kiệm thời gian, chi phí và đem lại
hiệu quả cao hơn so với việc xây dựng chỗ đứng trên thị trường cho từng thương
hiệu nhỏ lẻ.
Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp
dệt may xuất khẩu bao gồm: phát triển sản phẩm (đầu tư nâng cao chất lương sản
phẩm; nâng cấp đồng bộ máy móc, thiết bị; cải tiến các công đoạn hoàn tất khâu in,
nhuộm; tổ chức dây chuyền sản xuất có hiệu quả; đẩy mạnh nâng cao tay nghề);
Chú trọng khâu nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm mặt hàng, mẫu mã mới. áp dụng
khoa học hiện đại tạo ra các nguyên liệu mới; Tập trung đa dạng hoá nguồn sản
phẩm và chuyên môn hoá các sản phẩm có ưu thế.
Thứ năm, sử dụng và khai thác nguồn vốn tự có hoặc đi vay một cách hiệu
quả.
Thứ sáu, liên kết các doanh nghiệp lại thành chuỗi theo hướng chỉ đạo của
Chính phủ. Nhờ mô hình này, các doanh nghiệp có thể hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng
phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ lợi thế quy mô.
94
KẾT LUẬN
Chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa hướng mạnh vào xuất khẩu là
một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo đà cho nền kinh tế phát triển
và đuổi kịp thời đại. Việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm mũi nhọn là một bước
đi tiên phong nhằm khai thác triệt để các lợi thế của đất nước, đồng thời tạo lên sự
lớn mạnh hơn nữa của nền kinh tế quốc nội, từng bước đánh dấu tên tuổi với thị
trường thế giới. Có thể thấy, dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam với giá trị kim ngạch xuất khẩu rất lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh
và ổn định. Bên cạnh đó, dệt may còn có lợi thế về lực lượng lao động đông đảo lại
cần cù chịu khó, giá nhân công thấp, ngành có truyền thống lâu đời. Nên với những
tiềm năng sẵn có, nếu biết ứng dụng một cách linh hoạt và hiệu quả các giải pháp
Marketing xuất khẩu, thì chắc chắn ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn
phát triển hơn nữa, chinh phục được nhiều thị trường mới hơn nữa.
Trong những năm gần đây, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may liên tục tăng
cao, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn nền kinh tế. Đặc biệt
trong năm 2009, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành ước đạt 9,1 tỷ USD, ngang với
năm 2008, trong đó Vinatex đạt 1,7 tỷ USD, bằng 103% so với năm trước. Trong
điều kiện thị trường dệt may thế giới giảm trung bình 15%, tất cả các nước xuất
khẩu dệt may lớn đều giảm kim ngạch thì việc Việt Nam giữ được như năm 2008 là
một hiện tượng đặc biệt. So với các ngành xuất khẩu khác của Việt Nam thì dệt may
đã trở thành ngành xuất khẩu lớn nhất cả nước, góp phần rất quan trọng vào việc
giảm nhập siêu năm 2009.
Thực tiễn cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam ra thị trường quốc tế đã đạt
được những thành công nhất định. Các chiến lược marketing hỗn hợp cũng đã được
quan tâm và ứng dụng. Tuy nhiên, để đạt được những kết quả xứng tầm với tiềm
năng của ngành, thì bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cần khắc phục một số tồn
tại. Khóa luận tốt nghiệp này với đề tài: “Ứng dụng Marketing xuất khẩu trong các
doanh nghiệp Việt Nam nhằm mở rộng thị trường và mặt hàng dệt may xuất khẩu”
được viết dựa trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động ứng dụng Marketing vào
95
xuất khẩu hàng dệt may, những cơ hội và thách thức trong việc tiếp cận và thâm
nhập thị trường thế giới, xu hướng chuyển dịch của ngành dệt may...hi vọng sẽ đưa
ra một cái nhìn khái quát về hiện trạng ứng dụng Marketing của ngành dệt may xuất
khẩu nước ta, đồng thời giải quyết được phần nào những vướng mắc đang tồn tại
trong việc ứng dụng marketing xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Với đề tài này, người viết thực sự mong muốn đem lại cái nhìn đúng đắn về
khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trong điều kiện hiện nay cũng như
hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian tới.
Người viết xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Trung Vãn đã tận tình
giúp đỡ và hướng dẫn người viết hoàn thành khóa luận. Do thời gian và hiểu biết có
hạn, khóa luận của người viết còn nhiều thiếu sót. Người viết hi vọng nhận được
những đóng góp chân thành và sự thông cảm của các Thầy cô và quý bạn đọc.
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Nguyễn Thanh Bình, “ Thị trường EU: Các quy định pháp lý liên quan đến
chính sách sản phẩm trong Marketing xuất khẩu”, NXB Lao động xã hội, 2005.
2. GS. TS Trần Minh Đạo, PGS.TS Vũ Trí Đãng, “Giáo trình Marketing quốc
tế”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2007.
3. TS. Đỗ Thị Loan, “ Marketing xuất nhập khẩu và việc vận dụng trong kinh
doanh xuất khẩu ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Đại học Ngoại Thương, 2003.
4. Giáo trình Marketing lý thuyết, Trường Đại học Ngoại Thương, 2000.
5. Nguyễn Thị Tú, “Thực trạng sức cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị
trường Hoa Kỳ”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Viện Nghiên cứu kinh tế thế giới, 2008.
6. PGS.TS Nguyễn Trung Vãn, “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt
may xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
Đại học Ngoại Thương, 2003.
7. PGS.TS Nguyễn Trung Vãn ( Chủ biên), TS. Nguyễn Thanh Bình, TS. Phạm
Thu Hương, “Giáo trình Marketing quốc tế” Trường Đại học Ngoại Thương, 2008
8. Báo Công nghiệp Việt Nam, “Để xuất khẩu thành công hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ”, Hiệp hội dệt may Việt Nam, NXB Thống Kê, 2003.
9. Tạp chí Thương Mại số 16, “ Đổi mới quản trị chiến lược Marketing xuất
khẩu – giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp thương
mại Việt Nam”, 2002.
II. Tiếng Anh
10. Charles Croué – “Marketing International”, Edition De Boeck – Enterprise,
Bruxelles, 1994.
97
11. Gerald Albaum – “ International Marketing and Export Management”, Addison
Wesley Publisher Ltd, 1994.
12. Philip Kotler – “Framework for Marketing Management”, Second Edition,
1996.
13. Philipe R. Cateora – “ International Marketing”, International Edition, 1997.
14. V.H. Kirpalani – “ International Marketing”, Prentice Hall, 1993.
15. Micheal R. Czinkota – “ International Marrketing”, Fourth Edition, 2002.
16. Vern Terpstra – “ International Marketing”, University of Michigan, Seventh
Edition, 2003.
17. Warren J. Keegan – “ Multinational Marketing”, International Edition, 1995.
18. Warren J. Keegan – “ Principles of Global Marketing”, International Edition,
1997.
III. Trang Web
19. Trang web Công ty cổ phần may Việt Tiến :
20. Trang web Công ty cổ phần may Đức Giang:
21. Trang web Công ty cổ phần may Thắng Lợi:
22. Trang web hiệp hội marketing Mỹ:
23. Trang web Cục xúc tiến thương mại:
24. Trang web Hải quan Việt Nam:
25. Trang web Hiệp hội sợi Việt Nam:
26. Trang web Hiệp hội dệt may Việt Nam:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5458_3662.pdf