Đề tài Ứng dụng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Từ khi Thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động đến nay đã hơn 7 năm. Nhìn lại so với các nước trong khu vực như: Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông Thị trường chứng khoán Việt Nam có thể là còn rất non trẻ. Kể từ lúc chính thức đi vào họat động đến nay, với nhiệm vụ ban đầu mà Ủy Ban Chứng Khóan Nhà Nước Việt Nam đặt ra là Thị trường chứng khoán cần phải huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn của nền kinh tế đang phát triển, thành tựu mà thị trường chứng khoán Việt Nam đạt được không thể nói là nhiều. Kênh huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư hiện nay chủ yếu vẫn đè nặng lên vai các Ngân Hàng Thương Mại, việc ngân hàng “lấy ngắn nuôi dài” là điều diễn ra thường xuyên. Câu hỏi đặt ra là vì sao Thị Trường Chứng Khoán không thể phát huy được vai trò của nó? Thị trường chứng khóan Việt Nam không thể họat động hiệu quả phát sinh từ nhiều nguyên nhân nhưng tựu chung lại phần lớn là do sản phẩm chứng khoán trên thị trường quá ít, không đa dạng phong phú khiến các nhà đầu tư. Không có nhiều lựa chọn cho danh mục đầu tư của riêng mình, thêm vào đó là tâm lý thận trọng vốn có của người Việt Nam trước một hình thức đầu tư khá mới mẻ trong khi chưa có những công cụ hiệu quả giúp những người tham gia trên thị trường phòng ngừa rủi ro đã khiến cho họ khi tham gia đã dè dặt lại càng dè dặt hơn. Do đó để thị trường chứng khóan Việt Nam thật sự phát huy được vai trò của mình, nhà nước cần có chính sách thay đổi thích hợp, nhất là cần quan tâm đến sự tham gia thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm chúng tôi xin được đưa ra những đề xuất về việc xây dựng Option - một công cụ chứng khóan phái sinh - như là một sản phẩm mới nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư thông qua thị trường, cũng như là một công cụ phòng ngừa rủi ro cho thị trường chứng khoán MỤC LỤC Trang Chương I: NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. .2 1.1.1 Khái niệm về thị trường vốn .2 1.1.2.Vai trò của thị trường chứng khoán .4 1.1.2.1 Công cụ thanh khoản cho thị trường. 4 1.1.2.2 Công cụ đo lường và đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. .4 1.1.2.3 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. 4 1.1.2.4 Chống lạm phát .5 1.1.2.5 Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển. .5 1.1.2.6 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. .5 1.1.3 Các loại chứng khoán lưu thông trên thị trường: 5 1.2.1 Khái niệm về hợp đồng quyền chọn: .5 1.2 HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN: .7 1.2.1 Khái niệm về hợp đồng quyền chọn: .7 1.2.2 Vai trò hợp đồng quyền chọn: .8 1.2.2.1 Quản lý rủi ro giá cả: 8 1.2.2.2 Vai trò định giá quyền chọn .9 1.2.2.3 Góp phần thúc đẩy thị trường tài chính phát triển 9 1.3 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG OPTION. .9 1.4. OPTION VỀ CHỨNG KHOÁN. 10 1.4.1 Khái niệm: .10 1.4.2 Đặc điểm: .10 1.4.2.1Ngày đáo hạn .11 1.4.2.2 Giá thực hiện .11 1.4.2.3 Thuật ngữ .12 1.4.3.Giao dịch option .13 1.4.3.1 Những người tạo thị trường .13 1.4.3.2 Nhà môi giới trên sàn giao dịch. .13 1.4.3.3 Nhân viên lưu trữ lệnh .13 1.4.4 Công ty thanh toán hợp đồng Option (OCC): 14 1.4.5 Thực hiện option 15 Chương II THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1 ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHN VIỆT NAM TỪ KHI ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẾN NAY. 2.1.1 Từ năm 2003 đến nay. .19 2.1.1.1 Về sự quan tâm của nhà nước đối với sự phát triển của TTCK. 20 2.1.1.2 Hoạt động của thị trường diễn ra khá suông sẻ. .26 2.1.1.3 TTCK thực sự chưa kênh huy động vốn. 26 2.2 XÂY DỰNG CÁC CÔNG CỤ CHỨNG KHOÁN PHÁT SINH CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LÀ MỘT VIÊC LÀM RẤT CẦN THIẾT HIỆN NAY 29 2.2.1 Option là một trong những biện pháp giúp tăng khả năng huy động vốn trong và ngoài nước cho Việt Nam thông qua TTCK: .30 2.2.2 Option giúp thu hút các nguồn vốn đến từ bên ngoài nước. 32 2.2.3 Các công cụ chứng khoán phái sinh đặc biệt là Option giúp thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động một cách hiệu quả hơn trong việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. .33 2.3 KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN OPTION CHO THI TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. .33 2.3.1 Hạn chế về kinh nghiệm 34 2.3.2 Tính chủ động chưa cao: .35 2.3.3 Tâm lý thị trường còn e ngại: 35 2.3.4 Hạn chế về pháp lý 36 Chương III TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG OPTION CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2013 3.1 DỰ KIẾN BƯỚC ĐI HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG OPTION CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. .37 3.1.1 Những nguyên tắc, quan điểm trong việ xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam. .37 3.1.2 Dự kiến các bước đi hình thành thị trường Option từ nay đến năm 2013 3.1.2.1 Giai đọan 1: Chuẩn bị các cơ sở khoa học thực tiễn cần thiết để hình thành Option , thời gian dự kiến của giai đọan này là 1 năm từ 2008-2009 39 3.1.2.2 Giai đọan 2: Xây dựng, vận hành thử và hòan thiện thêm các trung tâm giao dịch. Thời gian dự kiến của giai đọan này là 2009-2011 .39 3.1.2.3 Giai đọan 3: Tiếp tục nâng cao và hòan thiện thêm kỹ thuật vận hành cũng như cơ sở pháp lý cho họat động của Option trước khi được đưa ra kinh doanh trên thị trường từ năm 2011-2013 40 3.2 NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CHO VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG OPTION 40 3.3 ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG OPTION CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHÓAN VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2013. .40 3.3.1 Nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khóan Việt Nam. 40 3.3.2 Tạo nhận thức thị trường .40 3.3.2.1 Tạo nhận thức về thị trường chứng khóan .42 3.3.2.2 Tạo nhận thức về sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm phái sinh trên thị trường chứng khoán. 42 3.3.2.3 Đánh thức tâm lý đầu tư của các tầng lớp dân cư 43 3.3.3 Tăng cung - kích cầu trên thị trường chứng khoán. 44 3.3.3.1 Tiếp tục đây mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. .44 3.3.3.2 Khuyến khích phát triển các công ty cổ phần . 44 3.3.3.3 Có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình doanh nghiệp, nhất là tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán .44 3.3.3.4 Mở rộng hoạt động của các quỹ đầu tư trên thị trường tài chính, tăng cường đào tạo nhân lực cho thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường OTC và thị trường Future cho nông sản Việt Nam. .44

pdf50 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2584 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh, nhưng vẫn còn một số chứng khoán có tính thanh khoản tốt, trong đó có cổ phiếu ngân hàng (mặc nhóm cổ phiếu ngân hàng đã mất giá khoảng 40% - 60% so với cuối tháng 2, đầu tháng 3/2007). Do ảnh hưởng của Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN, giá cổ phiếu trên thị trường OTC giảm khá mạnh và giao dịch hết sức trầm lắng. Tính đến thời điểm hiện nay, chỉ thị 03 vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường OTC khiến cho nhà đầu tư bị sức ép phải bán cổ phiếu để trả nợ ngân hàng. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của các đợt IPO lớn (Đạm phú mỹ, Vietcombank, Sabeco) khiến thị trường không thể tiêu thụ hết dẫn đến tâm lý thận trọng của các nhà đấu tư. Trong 6 tháng đầu năm 2007, các nhà đầu tư đểu mong chờ các đợt IPO nên hạn chế lượng tiền tham gia đầu tư. Trong 6 tháng cuối năm, Do sự sôi động của của thị trường bất động sản và thị trường vàng, nhiều nhà đầu tư đã rút bớt lượng vốn chuyển sang thị trường này, dẫn đến nguồn cung tiền một lượng tiền khá lớn của các nhà đầu tư tổ chức đang chờ đợi giá cổ phiếu sẽ tiếp tục giảm để mua vào cũng như chờ đợi các đợt IPOs lớn. 2.1.1.1 Về sự quan tâm của nhà nước đối với sự phát triển của TTCK. 24 Không ai có thể phủ nhận rằng thị trường chứng khoán có vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp cổ phần đang hình thành, phát triển ngày một nhiều hơn, xu thế của các doanh nghiệp Nhà nước là cổ phần hoá. Công ty cổ phần và cổ phần hoá sẽ giúp cho các doanh nghiệp có khả năng huy động vốn một cách thuận lợi, có động lực tốt hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thị trường chứng khoán của chúng ta mất đi hoặc không phát huy được chức năng quan trọng của nó đối với nền kinh tế. Gần đây có nhiều ý kiến cho rằng Nhà Nước đang ưu tiên việc chống lạm phát lên hàng đầu còn việc phát triển thị trường chứng khoán đang là thứ yếu. Nhà nước ưu tiên chống lạm phát lên hàng đầu vì lợi ích của hơn 80 triệu dân còn thị trường chứng khoán niêm yết mới chỉ có hơn 300.000 tài khoản giao dịch chưa đáng để Nhà nước coi trọng. Tuy nhiên nghĩ kĩ lại rằng thì suy nghĩ như vậy là còn quá phiên diện, tại sao chúng ta không nghĩ rằng cần phải coi trọng cả 2, tại sao không vừa phải ngăn chặn lạm phát vừa phải giữ gìn, bảo vệ, phát triển thị trường chứng khoán. Một điều có thể thấy là trong thời gian qua Nhà nước đang ưu tiên các biện pháp nhằm ngăn chặn lạm phát hơn là các biện pháp giữ gìn thị trường chứng khoán. Nhà nước đã lựa chọn biện pháp thắt chặt tiền tệ để hạn chế lạm phát tuy nhiên có thể thấy các biện pháp đó chưa mang lại nhiều hiệu quả trong công tác chống lạm phát, tỉ lệ lạm phát vẫn còn cao và chưa có nhiều dấu hiệu được ngăn chặn. Lạm phát chưa được ngăn chặn nhưng tác hại của các biện pháp chống lạm phát thì đang dần biểu hiện. Có thể ví như con bệnh được uống thuốc nhưng chưa mang lại hiệu quả chữa bệnh mà những liều thuốc đó đang làm cho con bệnh thêm mệt mỏi vì những tác dụng phụ của thuốc, giống như việc chúng ta uống quá nhiều thuốc Tây Y trong thời gian dài vậy. Tác hại thứ nhất dễ nhận thấy của các biện pháp chống lạm phát đó là làm cho thị trường chứng khoán thêm lạnh và tác hại dễ 25 thấy thứ 2 đó là việc huy động vốn của các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn vì thị trường chứng khoán khủng hoảng, tiền tệ bị thắt chặt nhằm chống lạm phát, việc kinh doanh lúc nào cũng cần vốn vậy mà nhiều doanh nghiệp của chúng ta đang trở nên khó xoay sở trong tình trạng hiện nay. Vậy tình trạng khó khăn đó của doanh nghiệp liệu có tốt cho nền kinh tế của chúng ta hay không. Nói về vấn đề 80 triệu dân hay 300.000 tài khoản, điều này lẽ ra không cần phải cân nhắc vì nếu chỉ chú ý tới 80 triệu dân không thôi mà bỏ rơi 300.000 tài khoản có nghĩa chúng ta bỏ rơi thị trường chứng khoán và như vậy có nghĩa là làm cho nền kinh tế đi vào trì trệ vậy thì có đáp ứng được yêu cầu 80 triệu dân. Chúng ta không nên tách biệt các thành phần trong nền kinh tế ra để rồi chọn người này, bỏ rơi người kia hay là thế nào đó. Điều mà Nhà nước và người dân cần chú ý tới là phải làm sao để phát triển nền kinh tế, tạo cuộc sống ấm no cho tất cả mọi người dân. Vì vậy Nhà Nước cần có những chính sách tổng thể và nhìn về lâu dài chứ không nên chỉ đưa ra những chính sách, biện pháp ngắn hạn, chụp giật, thiên lệch.Những chính sách đưa ra phải nhằm tới mục tiêu cao nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. Vậy tại sao chúng ta không cố gắng để vừa ngăn chặn lạm phát vừa bảo vệ, phát triển thị trường chứng khoán phát triển ổn định, chính khi thị trường chứng khoán ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng nguồn cung hàng hoá và từ đó có thể ngăn chặn lạm phát. Nếu một nền kinh tế mà hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh thuận lợi, ổn định thì có phải suy nghĩ quá nhiều về lạm phát nữa không. Thị trường chứng khoán sơ cấp thực hiện việc huy động vốn cho doanh nghiệp còn thị trường chứng khoán thứ cấp là nơi các chứng khoán được giao dịch nhằm tạo điều kiện cho dòng vốn trong nhân dân đưa vào thị trường thuận lợi hơn. Nếu thị trường chứng khoán thứ cấp bị què quặt, ốm yếu thì chức năng huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán sẽ khó mà thực hiện được từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm chậm đi 26 sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy để ổn định và phát triển nền kinh tế thì Nhà nước phải hết sức tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển, sự phát triển ở đây không nên hiểu nhầm là nâng chỉ số thị trường tăng cao mà nó bao gồm nhiều yếu tố khác nữa. Sự phát triển của thị trường phải được đánh giá trên nhiều phương diện như: Cơ chế giao dịch thuận lợi, khoa học, tiên tiến, hiện đại không kém tầm quốc tế, thu hút được sự quan tâm đông đảo của quần chúng nhân dân, thu hút được nhiều người dân có vốn tham gia đầu tư vào thị trường, tính thanh khoản của thị trường phải cao, việc mua – bán được tiến hành dễ dàng từ đó thuận lợi cho nhà đầu tư thực hiện các chiến lược đầu tư của mình vào thị trường, cơ chế thông tin thực sự minh bạch, khách quan, chính sách quản lý của Nhà Nước phải thực sự khách quan, công bằng, hoạt động giám sát thị trường phải thực sự có hiệu quả và được đề cao để tạo ra một thị trường lành mạnh, không tiêu cực, thị trường phải có sự phân hoá, chọn lọc giữa những doanh nghiệp kinh doanh tốt và không tốt thể hiện đúng trong giá cổ phiếu chứ không đánh đồng hoặc phản ánh quá sai lệch trong giá cổ phiếu trước tình hình kinh doanh của doanh nghiệp từ đó mới có thể giúp đồng vốn đi vào thị trường biết chọn lọc và phát huy tác dụng đối với những doanh nghiệp kinh doanh tốt, vốn hoá thị trường chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế…và có như vậy thì chỉ số thị trường mới tăng trưởng và phát triển ổn định và thực sự trở thành “Phong vũ biểu” của nền kinh tế. Một điều có thể khẳng định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất kém phát triển. Vốn hoá thị trường chưa cao, điều này do nguyên nhân khách quan là thị trường còn mới hình thành, cùng với thời gian thì vốn hoá thị trường sẽ tăng cao dần vào chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Sự kém phát triển của thị trường còn thể hiện trong sự yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý của các cơ quan Nhà Nước, một phần có thể đổ lỗi cho thị trường còn non trẻ, nhân lực có trình độ còn thiếu…Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng các cơ quan Nhà Nước còn chưa thực sự nhìn nhận hết tầm quan trọng của thị trường chứng khoán từ đó chưa thực sự đầu tư, nghiên cứu phát triển thị trường. Một sự yếu kém nữa mà có 27 lẽ nhà đầu tư ai cũng nhận thấy đó là các cơ chế hoạt động, cơ chế giao dịch của thị trường. Thị trường chứng khoán là thị trường tài chính cao cấp, nó đã hình thành và phát triển có lịch sử hàng trăm năm. Các nền kinh tế, các chuyên gia tài chính trên thế giới đã có rất nhiều thời gian để nghiên cứu, phát triển nó vì vậy thị trường chứng khoán đã thực sự phát triển thịnh vượng trên hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta thị trường hình thành chưa lâu, tuy nhiên không phải vì vậy mà chúng ta cho phép nó yếu kém, lỏng lẻo trong hoạt động, không nên quá đổ lỗi cho những yếu kém hiện nay là do thị trường còn non trẻ. Điều cần phải bàn tới chính là các hoạt động của Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền. Nhà nước đã chưa nắm hết tầm quan trọng của thị trường chứng khoán. Tại sao một thị trường có giá trị đến hàng chục tỉ USD mà Nhà nước lại không thể đầu tư vài trăm triệu USD cho hệ thống giao dịch thật sự hiện đại không kém tầm thế giới để cho đến nay đã hình thành được hơn 7 năm mà tình trạng nhập lệnh vẫn nhập nhằng, thiếu minh bạch, nghẽn lệnh…Một thị trường có tầm quan trọng đối với nền kinh tế như vậy tại sao Nhà Nước không đầu tư vào nhân lực, dành nhiều nhân lực, dành thời gian, kinh phí cho hoạt động nghiên cứu phát triển thị trường. Các chính sách của Nhà Nước đều tính toán rất chậm chạp, khi đưa vào thực thi cũng chậm chạp không kém đến cả Luật chứng khoán, một văn bản pháp lý vô cùng cần thiết cho hoạt động của thị trường mà cũng phải đến năm 2007 mới có hiệu lực. Các công cụ cần thiết trên thị trường giúp thị trường phát triển ổn định lẽ ra phải được tính toán và cố gắng đưa vào càng sớm càng tốt thì lại có lộ trình dài lê thê chẳng hạn như nghiệp vụ bán khống, tại sao các cơ quan chức năng không tính toán để đưa vào thị trường sớm hơn. Trong khi chính sách cần đưa ra muộn hơn để ưu tiên nhà đầu tư, kích thích thị trường phát triển như việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh chứng khoán thì lại bị đưa ra quá sớm, không thích hợp về thời điểm. Thị trường chứng khoán quan trọng như vậy tại sao các quy định xử phạt vi 28 phạm không đủ mạnh chẳng làm ai sợ,công tác kiểm tra giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường cũng quá thiếu và yếu để chính những điều đó làm thị trường phát triển thiếu lành mạnh, vậy Nhà Nước đang ưu tiên điều gì trong công tác của mình mà không thực sự chú tâm tới thị trường chứng khoán. Suốt giai đoạn từ khi hình thành cho đến đầu 2006 khi thị trường còn trầm lắng, có thể thấy sự chậm chạp trong các biện pháp, chính sách xây dựng,phát triển thị trường. Cho đến giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh và đến thời điểm hiện nay thì vẫn chưa thấy các cơ quan Nhà nước có những hoạt động mạnh mẽ, nhanh chóng để xây dựng thị trường. Giai đoạn thị trường tăng trưởng nóng thì các cơ quan chức năng lại quá chú tâm vào việc tăng nguồn cung vào thị trường, đưa ra hàng loạt tiến trình IPO, cổ phần hoá trong khi lại thiếu sự quan tâm đến hoạt động xây dựng cơ sở vật chất hiện đại cho hoạt động giao dịch, thiếu quan tâm xây dựng hệ thống thông tin minh bạch, đầy đủ cho thị trường,cho mở rộng thêm nhiều công ty chứng khoán rồi gần như thả nổi hoạt động của họ trong khi họ là một bộ phận vô cùng quan trọng cho sự phát triển của thị trường. Nhà nước đã quá chú ý đến việc tăng vốn hoá thị trường mà chưa tính đến công tác xây dựng thị trường để đáp ứng điều đó để rồi giờ đây đành phải gác lại nhiều tiến trình IPO. Thiết nghĩ rằng giờ đây thì kiềm chế lạm phát là công việc rất quan trọng vì tác hại của lạm phát đến nền kinh tế là rất lớn, nhưng không phải vì vậy mà bỏ rơi thị trường chứng khoán. Mong rằng Nhà nước cần coi trọng cả 2, vừa phải kiềm chế lạm phát nhưng cũng phải tăng cường mạnh mẽ hơn nữa việc bảo vệ, xây dựng, phát triển thị trường. Thị trường chứng khoán đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế vì thế mong rằng Nhà nước sẽ có chính sách đầu tư thích đáng cho sự phát triển của nó, nếu Nhà nước có thể đầu tư 1 tỷ USD cho dự án nào đó thì thiết nghĩ dự án đó là xây dựng một thị trường chứng khoán tiên tiến, hiện đại không kém thị trường chứng khoán ở nhiều nước trên thế giới. Điều đó sẽ làm 29 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một kênh huy động vốn ổn định, thuận tiện cho nền kinh tế giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển tốt. 2.1.1.2 Hoạt động của thị trường diễn ra khá suông sẻ. Đó là một thời đã qua của TTCK diễn ra khá suông sẻ nhưng trong bối cảnh như hiện nay thì đó là một điều hoàn toàn trái ngược. Nhà đầu tư bỏ sàn, thị trường chao đảo với VN-INDEX gần 1200 xuống dưới 400 như hiện nay. 2.1.1.3 TTCK thực sự chưa kênh huy động vốn. TTCK đã mất hai năm để tăng từ 500 điểm lên hơn 1.000 nhưng chỉ mất có một năm để quay về mốc 500 điểm. Sự biến đổi quá nhanh chóng đã khiến cho cả những nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn những nhà quản lý trở tay không kịp. +Kết quả huy động èo uột Theo thông tin từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), từ đầu năm đến nay, Ủy ban chỉ cấp phép phát hành thêm cổ phiếu huy động vốn cho 28 công ty và một ngân hàng với giá trị hơn 3.000 tỉ đồng theo mệnh giá. Trong đó, 8 công ty đã xin hoãn phát hành sau khi được cấp phép. Bức tranh vào quí 4-2007 lại hoàn toàn đối lập khi UBCKNN cấp phép cho tổng cộng 73 công ty và ngân hàng phát hành thêm tổng cộng 1,36 tỉ cổ phần với tổng giá trị là 13.600 tỉ đồng theo mệnh giá. Điều đáng nói là trong quí 1 năm nay, các công ty chỉ thu được 73,5 tỉ đồng từ việc phát hành 5,8 triệu cổ phần cho cổ đông hiện hữu, đấu giá được 1,68 triệu cổ phần thu về 79 tỉ đồng, và 2,47 triệu cổ phần được bán trong các đợt IPO thu về 78,5 tỉ đồng. Như vậy, tổng lượng vốn huy động được từ TTCK trong quí 1 chỉ đạt 231 tỉ đồng, bằng khoảng 7,7% so với số lượng đăng ký (tính theo mệnh giá). Sự ảm đạm của TTCK từ đầu năm đến nay đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn huy động vốn qua kênh này. Ngay cả những công ty có tên tuổi cũng không tránh khỏi thất bại khi huy động vốn qua TTCK. Sabeco và Habeco là hai ví dụ rõ ràng nhất. Tổng công ty 30 Bia, Rượu, Nước giải khát Hà Nội (Habeco) chỉ bán được 4,38 trệu cổ phần trong số 34,77 triệu cổ phần đưa ra đấu giá trong đợt bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) cuối tháng 3. Trước đó, Tổng công ty Bia, Rượu, Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) cũng thất bại trong đợt IPO khi chỉ bán được 60% lượng cổ phần chào bán. Nhiều chuyên gia trong ngành nói sự thất bại của hai đợt IPO mà trước đó rất được mong đợi là do định giá khởi điểm quá cao, tuy nhiên yếu tố tâm lý thị trường cũng là một nguyên nhân mà ít ai phủ nhận. Không chỉ tránh phát hành thêm cổ phiếu, các doanh nghiệp cũng ngại niêm yết trên sàn. Một cán bộ của Sở giao dịch chứng khoán TPHCM cho biết từ đầu năm đến nay đã cấp phép niêm yết cho khoảng mười công ty nhưng công ty nào cũng chần chừ chưa muốn lên sàn để tránh bị như Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh, chưa có phiên nào tăng điểm từ sau khi niêm yết tại sàn TPHCM vào cuối tháng 4. Tuy nhiên, dù không muốn thì ba tháng sau khi được cấp phép, các công ty trên đều buộc phải niêm yết. Không chỉ các doanh nghiệp tránh huy động vốn qua TTCK mà ngay cả những đơn vị có trách nhiệm cũng khuyến khích các doanh nghiệp hạn chế hoạt động này. UBCKNN vào đầu tháng 1 đã ra một văn bản kêu gọi các doanh nghiệp có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu huy động vốn nên cân nhắc lại cho phù hợp với tình hình thị trường và sẽ tạo điều kiện cho những công ty đã được cấp phép hoãn việc phát hành. Và không biết do ủy ban muốn hạn chế tối đa nguồn cung cho thị trường hay các doanh nghiệp thực sự không dám huy động vốn qua TTCK mà trong suốt hai tháng qua, không có một giấy phép phát hành cổ phiếu nào được cấp. +Đòi hỏi phải linh hoạt Công ty cổ phần Pan Pacific vừa tuyên bố hủy bỏ việc phát hành thêm 7,2 triệu cổ phiếu để huy động vốn do giá của công ty rớt quá mạnh. Ông Nguyễn Văn Khải, Tổng giám đốc công ty, cho biết Pan Pacific đang phải cân đối lại nguồn 31 vốn, dừng thực hiện các dự án còn nằm trong kế hoạch cần vốn lớn và chỉ ưu tiên cho những dự án đã triển khai đến giai đoạn cuối. Pan Pacific không phải là trường hợp cá biệt. Hàng loạt các công ty đang bế tắc trong việc tìm nguồn vốn để phát triển các dự án của mình. Công ty Đầu tư và Thương mại thủy sản (Incomfish) trong đại hội cổ đông gần đây đã thông báo dừng đợt phát hành 24 triệu cổ phiếu và sẽ ủy quyền cho hội đồng quản trị lựa chọn các tổ chức tín dụng để tìm nguồn vốn vay cho các dự án của mình. Bên cạnh đó, Incomfish sẽ tạm dừng các dự án đã được thông qua tại đại hội bất thường vào tháng 8-2007 bao gồm hai nhà máy chế biến cá đông lạnh tại TPHCM và tỉnh Phú Yên và các dự án bất động sản tại TPHCM. Tổng giám đốc một công ty chứng khoán tại TPHCM cho biết nhiều công ty đang lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn trong giai đoạn hiện nay khi không thể vay vốn của ngân hàng và cũng không thể huy động vốn qua TTCK. Đối với những công ty bất động sản, phương thức đang được áp dụng hiện nay là các công ty trong và ngoài nước liên doanh, liên kết với nhau để góp vốn thực hiện các dự án. Còn đối với các công ty thuộc những ngành chuyên biệt, vị tổng giám đốc này chỉ lắc đầu. Ông cho biết không ủng hộ việc hạn chế nguồn cung cho thị trường hiện nay của UBCKNN bởi vì có nhiều công ty làm ăn thực sự có hiệu quả và đang rất cần vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty ông hiện đang tư vấn cho một công ty phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với giá bằng mệnh giá và cổ đông nước ngoài để huy động vốn cho xây thêm nhà máy. Hồ sơ đã nộp lên ủy ban 5 tháng vẫn chưa thấy hồi âm mà theo quy định, phải có câu trả lời trong 30 ngày sau khi nhận hồ sơ. “Ủy ban Chứng khoán nên có câu trả lời rõ ràng có ngừng hẳn việc cấp phép phát hành hay không để công ty chứng khoán dễ hơn trong việc tư vấn cho khách hàng”, vị giám đốc nói. Đã qua rồi thời TTCK là kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp, giờ đây là cảnh sàn chứng khoán vắng tanh, nhà đầu tư giao dịch nhỏ giọt 32 và giá cổ phiếu đổ dốc mỗi ngày. Giải pháp duy nhất cho các doanh nghiệp hiện nay có lẽ là thắt lưng buộc bụng chờ đến ngày chứng khoán hồi phục. 2.2 XÂY DỰNG CÁC CÔNG CỤ CHỨNG KHOÁN PHÁT SINH CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LÀ MỘT VIÊC LÀM RẤT CẦN THIẾT HIỆN NAY. 2.2.1 Option là một trong những biện pháp giúp tăng khả năng huy động vốn trong và ngoài nước cho Việt Nam thông qua TTCK: Có thể ví công cụ option như là một tấm đệm hiệu quả cho một kế hoạch đầu tư. Vậy vì sao mà nó được ví như vậy? Thực tế, đã có nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ trong thời gian qua, điển hình là các nhà đầu tư cá nhân nhỏ ít vốn, phải cầm cố tài sản, phải đi vay và thiếu kinh nghiệm cũng như kiến thức đầu tư. Biểu đồ giao dịch trên thị trường cho thấy, khi giá cổ phiếu ở đỉnh cao nhất, là lúc có nhiều người mua vào nhất. Khi thị trường đi xuống mạnh, họ đứng trước nguy cơ thua lỗ lớn, và phải bán tháo hàng loạt. Thị trường lại càng xuống dốc hơn nữa. Câu hỏi đặt ra là liệu có biện pháp nào để phòng ngừa rủi ro hay bảo vệ lợi nhuận cho các nhà đầu tư? Chứng khoán phái sinh là một giải pháp khá hữu hiệu được sử dụng từ lâu tại các thị trường chứng khoán phát triển. Trên thế giới hiện nay, việc sử dụng công cụ phái sinh đã trở nên rất phổ biến nhằm đa dạng hóa đầu tư, phòng ngừa rủi ro và tạo lợi nhuận. Chứng khoán phái sinh (Hợp đồng phái sinh) là những công cụ được phát hành dựa trên cơ sở các chứng khoán gốc và giá trị của nó phụ thuộc vào sự biến động giá của các chứng khoán gốc. Có bốn dạng phổ biến của chứng khoán phái sinh: Hợp đồng kỳ hạn (Forward), Hợp đồng quyền chọn (Options), Hợp đồng tương lai (Futures), Hợp đồng hoán đổi (Swaps). 33 ***Tổng giá trị của công cụ phái sinh được sử dụng trên thị trường OTC của thế giới Đơn vị: tỷ Đôla Mỹ Công cụ Tháng 6/2005 Tháng 12/2005 Tháng 6/2006 Tháng 12/2006 Tháng 6/2007 Kỳ hạn và hoán đổi 88 112 147 166 240 Quyền chọn 284 470 523 686 876 Một trong những công cụ phái sinh được nhiều nhà đầu tư chứng khoán trên thế giới quan tâm là quyền chọn (options), do đặc tính khá linh hoạt của công cụ này. Nhà đầu tư có quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền mà mình đã mua hoặc bán. Quyền chọn là một công cụ bảo hiểm về giá khá hiệu quả trước sự biến động mạnh của thị trường. Thị trường chứng khoán vốn chẳng bao giờ dễ dự đoán, điều đó càng đúng với một thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ và chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn như hiện nay. Gần đây, người ta nói nhiều về niềm tin của các nhà đầu tư với TTCK Việt Nam, nhưng tạo niềm tin không phải là đảm bảo cho Index luôn luôn đi lên (bất khả thi), mà thiết nghĩ cần tạo ra cho các nhà đầu tư những công cụ tài chính cần thiết để bảo hiểm, để đa dạng hóa cách thức đầu tư, giảm rủi ro, và mở ra các cơ hội mới tìm kiếm lợi nhuận cho chính họ. Và sử dụng option thì nhà đầu tư sẽ an tâm hơn khi ra một quyết định đầu tư vào các thị trường mà nhà đầu tư cảm thấy thích hợp và thực sự là thị trường vừa qua đã chứng minh được điều đó. 2.2.2 Option giúp thu hút các nguồn vốn đến từ bên ngoài nước. Một điều không thể phủ nhận là Việt Nam đang trong quá trình tiến tới hội nhập với nền kinh tế thế giới một cách tòan diện và sâu sắc trên các lĩnh vực: thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Trong quá trình hội nhập, Việt 34 Nam sẽ chắc chắn sẽ thu được những lợi ích kinh tế to lớn đồng thời cũng sẽ đối mặt với không ít khó khăn và thử thách. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc mở rộng cửa hơn nữa với thế giới ở tất cả các lĩnh vực nhất là trong lĩnh vực kinh tế và để gia nhập WTO thực sự đem lại lợi ích. Việt Nam cần xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật, khung pháp lý chặt chẽ nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư lành mạnh, cạnh tranh công bằng trong tất cả mọi ngành, mọi lĩnh vực. Riêng về lĩnh vực tài chính, khi gia nhập WTO, chúng ta phải gánh chịu sự cạnh tranh từ các tổ chức nước ngòai nhất là các tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính hiện đại. Bên cạnh vịệc mở cửa phát triển thị trường tài chính, Việt Nam cần phải xem xét tìm ra cho mình một cơ cấu tài chính hợp lý. Một cơ cấu tài chính hợp lý sẽ huy động các nguồn lực tài chính cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế và phân bổ chúng tới những khu vực sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính này. Hơn thế nữa cơ cấu tài chính cũng có ảnh hưởng đáng kể tới sự ổn định kinh tế thông qua việc tạo ra các khoản nợ, tới việc thực hiện các mục tiêu xã hội thông qua quá trình hình thành và phân phối thu nhập. Việt Nam đang tiến tới quá trình hội nhập với nền kinh thế giới như đã nói ở trên sẽ không tranh thủ được tối đa những lợi ích của việc hội nhập nếu không thể thu hút được tối đa và sử dụng hiệu quả nguồn vốn bên ngòai và công cụ tốt nhất để có thể huy động được những nguồn vốn khổng lồ ấy không khác gì hơn là thị trường chứng khóan. Để có thể thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khóan, ngòai những chính sách thóang và sạch, Việt Nam cần phải quan tâm đến sản phẩm trên thị trường. Nếu chỉ có một số chứng khóan đang có hiện nay trên thị trường, việc thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài là một điều khó khăn đã từ lâu, các thị trường chứng khóan mang tầm vóc quốc tế trên thế giới đã cho ra rất nhiều sản phẩm phái sinh bên cạnh các sản phẩm chính thống của thị trường chứng khóan như các hợp đồng Option, Future, Forward, Swap…các công cụ này không chỉ làm phong phú thêm, đa dạng hóa thêm sản phẩm trên thị trường mà chúng còn là những công cụ 35 rất hữu ích cho các nhà đầu tư trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá cả của chứng khoán, tỷ giá trên các thị trường tiền tệ cũng như chứng khóan. Đối với Việt Nam, Option đã được Chính phủ cho phép thực hiện tại một số ngân hàng như: Eximbank.Citibank từ năm 2003 và hiện nay đã có 6 ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này trong khi chưa hề có thị trường hối đoái chính thức nào. Lợi ích từ việc thực hiện Option tiền tệ đã cho thấy phần nào những lợi ích của các công cụ phái sinh ở nước ta. Vật tại sao chúng ta không xây dựng một Option chứng khóan cho thị trường chứng khóan Việt Nam trong khi đã có sẵn một thị trường chứng khóan hoạt động tương đối ổn định để thu hút các nguồn vốn đến từ bên ngoài? 2.2.3 Các công cụ chứng khoán phái sinh đặc biệt là Option giúp thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động một cách hiệu quả hơn trong việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài việc phát triển các công cụ chứng khoán phái sinh để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước ra, việc hình thành option cho thị trường chứng khóan Việt Nam một phần nào đó trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, giúp thị trường chứng khóan họat động một cách thật hơn, mang tính thị trường hơn. Có thể nhận thấy trong các thành phân kinh tế, các hình thức doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, tuy chiếm số lượng không nhiều nhưng công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp họat động hiệu quả và có nhiều ưu điểm phù hợp với giai đọan phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay nhất. Với ưu thế vốn được huy động từ các tầng lớp dân cư dưới hình thức cổ phần. Công ty cổ phần có đủ khả năng trang bị cho mình những dây chuyền sản xuất hiện đại và tiên tiến, áp dụng những công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần giúp nó hoạt động hiệu quả hơn so với một số mô hình doanh nghiệp khác. Hiện nay, nhu cầu huy động vốn từ bên ngoài của các công ty là rất lớn, để có thể thực hiện điều này, không có loại hình nào hợp hơn là công ty cổ phần. Do đó, việc chuyển đổi loại hình doanh 36 nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần là một xu hướng, bước đi đang được khuyến khích hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, kể từ khi nước ta bắt đầu hình thành tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cho đến nay số lượng doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa vẫn còn rất ít, tiến trình cổ phần hóa cũng diễn ra chậm. Việc cổ phần hóa diễn ra chậm phát sinh từ nhiều nguyên nhân, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò không kém phần quan trọng. Để có thể đây nhanh được tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp cả về số lượng lẫn chất lượng, thị trường chứng khóan Việt Nam cần phát huy tối đa vai trò định giá của mình. 2.3 KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN OPTION CHO THI TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. Đối với những nước có một thị trường cổ phiếu tích cực, thì việc mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài là một bước đi quyết đoán đồng nghĩa với việc chấp nhận các rủi ro gia tăng. Để có thể hạn chế bới những rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài lẫn trong nước khi tham gia vào thị trường tài chính vốn rất dễ đổ vỡ này, xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là một giải pháp. Tuy nhiên, đối với Việt Nam hiện nay, quá trình xây dựng các công cụ phái sinh sẽ gặp không ít thách thức lớn phải kể đến trong số đó là : 2.3.1 Hạn chế về kinh nghiệm : Việt Nam chỉ mới bước vào vào nền kinh tế thị trường được hơn 15 năm, do vậy kiến thức và kinh nghiệm của chúng ta về thị thị trường vốn còn rất ít. Việc giáo dục chuyên môn cũng như phổ cập những nhận thức chung trong các tầng lớp dân cư là một điều hết sức cần thiết, tạo tiền đề căn bản cho việc tạo lập và phát triển một thị trường sản phẩm tài chính cao cấp. Thực tế cho thấy nhận thức của công chúng về đầu tư thị trường chứng khoán còn rất hạn chế. Đối tượng có chút ít kiến thức về chứng khoán, thị trường chứng khoán chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp, các đơn vị. Tuy nhiên họ cũng chưa thấy hết được lợi ích khi tham gia thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán vẫn còn là một thuật ngữ hết sức mới mẻ đối với 37 đa số người dân Việt Nam. Công chúng đầu tư chưa quen, thậm chí còn không quan tâm đến thị trường. Họ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tâm lý, hành động theo đám đông chứ không dựa trên những cân nhắc, phân tích chủ quan. Thị trường chứng khóan thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp như công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư. Hiện nay cũng có nhiều nhưng xét trên bình diện chung vẫn rất ít. Các định chế tài chính khác thì đặt vấn đề an tòan vốn là trên hết nên phần lớn chỉ tham gia vào đấu thầu trái phiếu chính phủ trên thị trường sơ cấp. Chính sự thiếu hiểu biết của đại bộ phận nhà sản xuất, xuất nhập khẩu và thậm chí của các nhà làm luật về lợi ích của thị trường chứng khóan cũng như các công cụ phái sinh của thị trường này là một trở ngại trong việc phát triển thị trường hợp đồng quyền chọn ở nước ta . 2.3.2 Tính chủ động chưa cao: Hệ thống doanh nghiệp nhà nước còn mang nặng tư tưởng của cơ chế kế họach hóa tập trung còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi, không muốn huy động vốn thông qua thị trường chứng khóan với nhiều lý do như: năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chính sách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Quy mô nhỏ, vốn ít là đặc trưng của các doanh nghiệp tư nhân. Tiềm lực tài chính nhỏ nên năng lực cạnh tranh quốc tế thấp đó cũng là một trong số những nguyên nhân vô cùng quan trọng làm ảnh hưởng đến chất lượng chứng khoán niêm yết trên thị trường, những số liệu khả quan năm 2007 cho thấy 20% doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi thực sự, 40% không hiệu quả, bấp bênh và 40% còn lại thuộc diện thua lỗ triền miên ..Một thực tế có thể nhận thấy khá rõ ở các doanh nghiệp Việt Nam là khi thua lỗ thường đổ lỗi do thị trường biến động theo hướng không thuận lợi trong khi không tạo dựng cho mình những biện pháp phòng vệ riêng. Chính vì sự thiếu chủ động khi đối phó với các biến động thị trường của các doanh nghiệp như thế sẽ tạo ra không ít khó khăn khi đưa Option vào thị trường chứng khoán. 38 2.3.3 Tâm lý thị trường còn e ngại: Chính sự hạn chế về kinh nghiệm (và cả sự thiếu hiểu biết trên cũng làm phát sinh sự e ngại về việc các tổ chức đầu cơ quốc tế có thể lũng Đoạn thị trường, chẳng hạn bằng cách tạo cơn sốt ảo về giá để kiếm lời. Tâm lý chung của người Việt Nam hiện nay chưa quen với thuật ngữ đầu cơ (speculation), thậm chí còn nhiều nhầm lẫn, đánh đồng đầu cơ và tiêu cực, trong khi việc phát triển thị trường Option đòi hỏi phải có sự tham gia đông đảo của các nhà đầu cơ. Xét một cách thực chất, họat động đầu cơ đóng vai trò như chất bôi trơn cần thiết của hoạt động thị trường Option. Chính các nhà đầu cơ là những người chấp nhận rủi ro để kiếm lợi nhuận, góp phần quan trọng làm tăng tính thanh khỏan của thị trường và làm cho việc tham gia thị trường dễ dàng hơn, thu hút thêm nhiều người tham gia. Mặc dù vậy, trên thực tế có rất cơ sở cho sự e ngại này nếu xây dựng được một cơ chế hợp lý để vận hành và phát triển thị trường. Thực tiễn kinh nghiệm thế giới ngày nay đã minh chúng rằng khi thị trường phát triển đến một độ nhất định, sự lũng đoạn thị trường hiếm khi xảy ra và nếu có thì đa số các trường hợp sẽ được kết thúc bằng sự thất bại của những tổ chức lũng đoạn thị trường. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu thực nghiệm chứng minh rằng biến động giá cả trên thị trường giao ngay thường giảm đi cùng với sự ra đời của thị trường các công cụ phái sinh. Biến động giá cả thị trường tạo điều kiện hoạt động đầu cơ phát triển chứ không phải ngược lại. 2.3.4 Hạn chế về pháp lý: Sự hạn chế về kinh nghiệm, tính chủ động chưa cao, tâm lý e ngại dẫn đến chưa có một cơ chế pháp lý nào bào đảm sự ra đời và hoạt động lành mạnh của thị trường công cụ phái sinh. Cũng chưa có quy định pháp lý nào cho phép các nhà sản xuất, các công ty xuất nhập khẩu được tham gia vào các giao dịch quản lý rủi ro trên thị trường quốc tế. Thực tế Việt Nam cho thấy, việc xây dựng một môi trường pháp lý đồng bộ và lành mạnh vẫn luôn là một vấn đề bức xúc không chỉ đối với hoạt động này mà còn đối với hầu hết các hoạt động kinh tế khác. 39 Sự phức tạp trong khâu tổ chức: rõ ràng Option là một sản phẩm tài chính cao cấp nên việc xây dựng và phát triển thị trường giao dịch các sản phẩm tài chính này là hòan toàn không phải là điều đơn giản, nhất là đối với một thị trường chứng khóan có quy mô còn nhỏ bé và chưa mang tính chuyên nghiệp cao như thị trường chứng khóan Việt Nam hiện nay. Kết Luận Trong giai đọan công nghiệp hóa hiện nay, cơ cấu tài chính cần chuyển dịch theo hướng dựa vào thị trường. Đối với một nền kinh tế thị trường chưa thật sự phát triển như ở Việt Nam hiện nay, để có thể huy động đủ các nguùon lực tài chính cần thiết và phân bổ chúng cho những đơn vị có hiệu suất sử dụng cao nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng đề ra trong khi khả năng quản ly thuế còn thấp, không thể không phát triển mạnh khu vực tài chính bao gồm các tổ chức tài chính, thị trường chứng khoán, các tổ chức đàu tư nước ngoài. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán phụ thuộc không chỉ từ sự quan tâm của nhà nước mà còn từ sự nhiệt tình tham gia của những người dân về số lượng và chất lượng của các sản phẩm trên thị trường chứng khoán nhằm kéo họ về với thị trường là một việc làm rất cần thiết. Một trong những sản phẩm thị trường chứng khoán Việt Nam nên hình thành và phát triển chính đầu tiên trong quá trình đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường là Option chứng khóan với những ưu điểm nổi trội của nó so với các sản phẩm phái sinh khác . 40 Chương III: TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG OPTION CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2013 Trong đề tài này, nhóm chúng tôi xin được đề xuất việc xây dựng và đưa option chứng khoán thực hiện từ nay đến năm 2013 xuất phát từ những điều kiện khách quan cũng như chủ quan như sau:  Thứ nhất, từ nhu cầu huy động vốn trên thực tế ;  Thứ hai, đến năm 2013, về cơ bản thị trường OTC đã được hình thành và phát triển;  Thứ ba, thị trường Future cho hàng nông sản Việt Nam hiện nay cũng đang được chính phủ quan tâm và đang trong bước đầu được nghiên cứu xây dựng đưa vào họat động trong thực tế. 3.1 DỰ KIẾN BƯỚC ĐI HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG OPTION CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. 3.1.1 Những nguyên tắc, quan điểm trong việ xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Lộ trình tự do hóa các dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề rất rộng lớn và phức tạp bao gồm mọi lĩnh vực. Trong quá trình đi vào xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam thì hơn bao giờ hết việc chuẩn bị sẳn sàng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo việc xây dựng và phát triển một nền tài chính hiệu quả và an tòan. Trên quan điểm an toàn là trên hết, khi đi vào xây dựng nghiệp vụ Option thì chúng ta phải xét đến tính cơ động của vốn trong dịch vụ tài chính tác động đến an ninh tài chính của quốc gia. Xây dựng Option trên quan điểm ưu tiên bảo vệ người đầu tư và khách hàng: kinh nghiệm từ các nước đang phát triển cho thấy trong quá trình tự do hóa tài chính, khi các sản phẩm tài chính trong nước chưa được đa dạng và phổ biến thì vấn đề phổ cập những kiến thức cơ bản đến với người dân nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trở thành một vấn đề rất quan trọng và bức thiết. Option vốn 41 là một sản phẩm tài chính cao cấp do đó nhà nước cần giúp các nhà đầu tư cũng như những người sử dụng Option trang bị cho mình một kiến thức cơ bản để nhận thức được đầy đủ những rủi ro sẽ gặp phải khi sử dụng lọai sản phẩm này. Để có thể làm được những công việc này đòi hỏi Chính phủ phải có những quy định thống nhất phù hợp với thông lệ quốc tế trong các vấn đề như lừa dối quyền tự do cá nhân và tính minh bạch thông tin. Xây dựng Option đòi hỏi phải ổn định chính sách tiền tệ. Một chính sách tiền tệ không nhất quán bên cạnh những bất cập về chính sách tài khóa có thể châm ngòi cho một cuộc lạm phát. Trong điều kiện của các nước có nền kinh tế đang phát triển việc điều hành chính sách tỷ giá chưa được linh họat sẽ gây nên những tiền hàng cung cấp tín dụng bừa bãi chủ yếu là cho các ngành kinh doanh bất động sản với lãi suất thấp. Điều này làm cho giá bất động sản tăng cao, kéo theo giá tiêu dùng của tòan bộ nền kinh tế tăng lên. Khi nên kinh tế bong bóng đổ vỡ thì hoạt động ngân hàng là nơi đầu tiên gánh chịu nhiều thiệt hại nhất bởi lẽ hệ thống ngân hàng sẽ gánh chịu nhiều các khỏan nợ xấu. Trong tình huống này này có khả năng dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống ngân hàng và trong cả nền kinh tế - một vòng tiền tệ lẫn quẫn - chính sách tiền tệ lỏng lẽo, lạm phát, khủng hỏang trong hệ thống ngân hàng luôn luôn tồn tại mà khó tìm ra được lối thoát. Muốn xây dựng một chính sách tiền tệ ổn định Chính phủ phải đảm bảo các điều kiện tiên quyết sau: +Phải đưa các yếu tố thị trường để điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Thay thế những kiểm soát tiền tệ trực tiếp sang gián tiếp như các nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hoán đổi ngoại tệ. +Lãi suất phải được tự do hóa từng bước theo một trình tự thận trọng. Đầu tiên là quy tắc lãi suất thực dương, sau đó là tự do hóa lãi suất tiền gửi, lãi suất theo nguyên tắc thỏa thuận. Lộ trình tự do hóa lãi suất phảo đồng hành với trình tự điều hành chính sách tỷ giá một cách linh họat hơn nữa . 3.1.2 Dự kiến các bước đi hình thành thị trường Option từ nay đến năm 2013 42 Quá trình xây dựng Option có thể chia làm ba giai đọan : 3.1.2.1 Giai đọan 1: Chuẩn bị các cơ sở khoa học thực tiễn cần thiết để hình thành Option , thời gian dự kiến của giai đọan này là 1 năm từ 2008-2009 Như đã nói ở trên, Option là một loại sản phẩm tài chính rất phức tạp. Vì vậy, trước khi đưa Option ra thị trường chứng khoán, UBCKNN cũng như các ban ngành liên quan cần phải chuẩn bị một cơ sở pháp lý khá chặt chẽ và hợp lý để có thể kiểm sóat được tình hình đưa Option ra thị trường .Để có thể xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ và hợp lý, Chính phủ và nhà nước cần tham khảo và nghiên cứu các chính sách trong từng giai đoạn thích hợp của các nước có bối cảnh kinh tế cũng như chính trị tương tự như Việt Nam để có thể rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm cũng như từ đó đề ra những chính sách mang tính thực tiễn và thống nhất, không cần phải sửa đổi nhiều lần khi được thực thi. 3.1.2.2 Giai đọan 2: Xây dựng, vận hành thử và hòan thiện thêm các trung tâm giao dịch. Thời gian dự kiến của giai đọan này là 2009-2011 Trong giai đọan này, Nhà nước và Chính phủ cần thực hiện những công tác cần thiết nhất để phổ cập những kiến thức cơ bản về các nghiệp vụ kinh doanh Option đến mọi tầng lớp nhân dân. Việc phổ cập kiến thức cần tiến hành một các có kế hoạch và theo một trình tự hợp lý. Đối tượng đầu tiên nhà nước cần quan tâm đến là các nhà đầu tư hiện đang tham gia trên thị trường chứng khoán, các công ty chứng khoán, những nhà môi giới chứng khoán và những thành viên, nhân viên khác trong bộ máy quản lý nhà nước có liên quan đến thị trường chứng khoán .Việc xây dựng, vận hành thử và hòan thiện các trung tâm giao dịch mới là một trong những biện pháp cần thiết để có thể đưa Option nói riêng và các giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán nói chung được gần gũi hơn với công chúng. Trọng tâm của giai đoạn này là cần cố gắng bằng mọi cách đưa Option cũng như các sản phẩm khác trên thị trường chứng khoán đến với khách hàng, do đó cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ, giao dịch thử cũng như 43 tổ chức các cuộc thi chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp đến các nhà đầu tư không chuyên và quan trọng nhất là tầng lớp sinh viên. 3.1.2.3 Giai đọan 3: Tiếp tục nâng cao và hòan thiện thêm kỹ thuật vận hành cũng như cơ sở pháp lý cho họat động của Option trước khi được đưa ra kinh doanh trên thị trường từ năm 2011-2013 Trong giai đọan này, Chính phủ và Nhà nước cần tích cực quan tâm đến việc sữa đổi, bổ sung các cơ sở pháp lý, luật thuế, điều kiện tham gia kinh doanh, mua bán Option trên thị trường cũng như các thủ tục hành chính về quản lý ….Sự điều chỉnh bổ sung này cần được tạo ra từ những kinh nghiệm trong quá trình vận hành thực tế của giai đoạn hai. Chỉ những luật được xây dựng dựa trên thực tế phát sinh mới có thể cho được một hiệu quả tốt khi được đưa ra thực thi trên thị trường. 3.2 NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CHO VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG OPTION. Để có thể xây dựng và phát triển thị trường Option, cần có những yêu cầu cơ bản sau: Đảm bảo tính cạnh tranh cao trên thị trường. Phát triển khả năng chuẩn hóa mặt hàng cơ sở. Tính thanh khảon của thị trường. Để có thể đáp ứng được những yêu cầu cơ bản trên, Việt Nam cần thiết phải lập cho mình một kế họach hành động cụ thể với những bước đi thận trọng và cẩn thận. Dưới đây chúng tôi xin được đề xuất một số công tác thị trường chứng khoán Việt Nam nhất phải làm để có thể phát huy được vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc huy động và phân phối các nguồn lực tài chính. 3.3 ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG OPTION CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHÓAN VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2013. 3.3.1 Nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khóan Việt Nam. Một trong những động thái cần làm trước mắt là Việt Nam phải đưa thị trường chứng khoán trở thành một thị trường mang tính cạnh tranh cao và công bằng, việc làm này cũng là nhằm đáp ứng được yêu cầu cơ bản đâu tiên ở trên. Để 44 có thể thực hiện được yêu cầu này cần thiết phải đưa thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào xu thế hội nhập. Ngày nay, các thị trường tài chính trên thế giới đã và đang nhanh chóng hội nhập thành một thị trường toàn cầu duy nhất. Dù đang ở vạch xuất phát nào, di chuyển theo những tốc độ ra sao thì tất cả đều bị lôi cuốn vào tiến trình hội nhập tài chính. Thị trường chứng khoán - một bộ phận của thị trường tài chính cũng không nằm ngòai xu thế này. Được xem là một cấu trúc hạ tầng của nền kinh tế thị trường, đồng thời là một ngành kinh tế, bản thân thị trường chứng khoán là một sản phẩm du nhập. Đây là một chuyên ngành có thực tế đúc kết từ hàng trăm năm, được vận hành theo quy chuẩn cao. Nó hiện thân đồng thời với sự xuất hiện của loại hình công ty cổ phần (công ty cổ phần đại chúng). Mục tiêu, đối tượng phục vụ nơi đâu cũng giống nhau dù ở Mỹ hay Trung Quốc. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc xxây dựng thị trường các công cụ phái sinh trong đó có Option là việc hết sức cần thiết. Tuy nhiên với quy mô thị trường còn nhỏ bé như hiện nay, để xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam thì việc làm cấp bách đầu tiên là phải nâng cao tính cạnh tranh của thị trường, tăng cung kích cầu cho thị trường, làm cho thị trường sôi động thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước từng bước đưa thị trường chứng khoán hòa mình vào dòng chảy của thị trường tài chính trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung được coi là giải pháp tối ưu nhất. Chúng ta cần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vào quỹ đạo của hội nhập với những sự chuẩn bị sau:  Các tổ chức phát hành phải tự chuẩn bị chu đáo và tích cực các điều kiện để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh thông qua các chiến lược đổi mới công nghệ, chiến lược đầu tư và tổ chức quản lý để khi mở cửa thị trường vốn, mục tiêu huy động vốn cho phát triển các daonh nghiệp phải được ưu tiên nhất. Rút bài học kinh nghiệm của khủng khoảng kinh tế năm 1997, chúng ta cần tránh để không bị rơi vào khủng hoảng nợ, khuyến khích các doanh nghiệp thu hút vốn dài hạn ở thị trường tài 45 chính quốc tế hơn là thu hút vốn nước ngòai ngắn hạn từ thị trường trong nước. Khuyến khích người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, nhưng phải là hàng chất lượng cao. Muốn như vậy các định chế tài chính phải được củng cố vững mạnh và có công nghệ hiện đại đủ sức cạnh tranh với các dịch vụ tài chính và các định chế tài chính nước ngoài ở Việt Nam.  Nhà nước một mặt hỗ trợ thị trường chứng khoán trong nước, như khuyến khích vay dài hạn trong nước, hạn chế vay nước ngoài, mặt khác thông qua thông qua ngân hàng nhà nước kiểm soát luồng vốn vào ra cũng như giám sát chặt chẽ ngăn chặn từ xa việc đầu cơ quốc tế.  Thi hành chính sách tỷ giá và đồng tiền chuyển đổi thận trọng vừa đủ mức kinh họat cho thị trường chứng khoán Vệt Nam phát triển và đảm bảo được sự ổn định và kiểm soát được lưu lượng vốn trong và ngoài nước.  Phối hợp họat động với các chương trình giám sát nhằm củng cố và tăng cường thị trường vốn .  Cải thiện cơ cấu quản lý, tính minh bạch và công khai thông tin tài chính của các công ty thành viên.  Thiết lập cơ chế niêm yết chế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thị trường vốn ASIAN.  Tạo thuận lợi cho tiến trình chu chuyển vốn qua đầu tư biên giới.  Thúc đẩy chứng khoán hóa, thiết lập mạng lưới cộng tác viên và hợp tác giữa các trung tâm nghiên cứu đào tạo với các thành viên ASIAN.  Chuẩn bị khuôn khổ cho việc phát triển thị trường trái phiếu ASIAN. 3.3.2 Tạo nhận thức thị trường Vấn đề tạo nhận thức về thị trường ở đây được đề cập trên hai khía cạnh: tạo nhận thức về thị trường chứng khoán và tạo nhận thức về sản phẩm phái sinh trên thị trường chứng khoán. 3.3.2.1 Tạo nhận thức về thị trường chứng khóan 46 Như đã nói ở trên, một trong những khó khăn trước mắt của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là vấn đề về sự hiểu biết của đa số tầng lớp dân cư về thị trường chứng khoán. Một thị trường chứng khoán sẽ không thể phát triển được nếu như có quá ít người quan tâm và tham gia vào thị trường. Có thể nói nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thờ ơ của người dân đối vói thị trường chứng khoán Việt Nam chủ yếu bắt đầu từ một số lý do sau:  Thứ nhất, người dân không tin tưởng vào việc đầu tư trên thị trường chứng khoán. Sư không tin tưởng bắt đầu từ tâm lý thận trọng vốn có của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó thì mức độ hiểu biết về các công cụ dịch vụ tài chính hiện đại của người dân Việt Nam cũng là một nguyên nhân khiến người dân không tin vào thị trường. Nếu nhìn lại quá khứ ta có thể dễ dàng nhận thấy hình thức cất trữ tiền bạc mà người dân Việt Nam hay sử dụng phổ biến nhất vẫn là vàng và đôla. Việc đem gửi tiền ngân hàng chỉ thật sự phổ biến khoảng hơn 10 năm gần đây, còn đối với thị trường bảo hiểm thì chỉ cần 5 năm gần đây mới tạo được sự tin tưởng của người dân.  Thứ hai, tỷ suât sinh lợi trên thị trường chứng khoán Việt Nam gần đây chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể nói tâm lý thận trọng là tâm lý vốn có cúa người Việt Nam, tuy nhiên trong thực tế vẫn rất nhiều nhà đầu tư thích tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh đầy rủi ro nhưng đem lại lợi nhuận cao. Những người này không chọn các hình thức đầu tư an toàn, họ sẵn sàng gia nhập một thị trường đầy biến động để thi thố tài năng của mình. Do đó để thu hút được thu hút được những nhà đầu tư này cần tạo ra một thị trường các sản phẩm phái sinh. 3.3.2.2 Tạo nhận thức về sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm phái sinh trên thị trường chứng khoán. Thị trường tài chính ở đây chính là thị trường giao dịch các công cụ tài chính phái sinh, là những sản phẩm tài chính hiện đại hình thành và giao dịch dựa 47 trên nền tảng giao dịch các tài chính cơ sở như hàng hóa, ngoại tệ, chứng khoán, và các chỉ số chứng khoán. Vì các công cụ tài chính phái sinh là các sản phẩm giao dịch trên thị trường giống như các sản phẩm khác, muốn tung ra thị trường phải tạo được nhận thức của người tiêu dùng về loại sản phẩm đó. 3.3.2.3 Đánh thức tâm lý đầu tư của các tầng lớp dân cư Hầu như tâm lý của người Việt Nam đều sợ rủi ro, do đó nếu tạo được thị trường phái sinh thì sẽ tạo cho họ một công cụ để phòng ngừa rủi ro từ đó phát triển thị trường. 3.3.3 Tăng cung - kích cầu trên thị trường chứng khoán. 3.3.3.1 Tiếp tục đây mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Việc đẩy mạnh một cách có chất lượng các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa sẽ thúc đẩy hơn nữa sự tham gia của các nhà đầu tư, khi đó nguồn cung của thị trường sẽ dồi dào tạo ra sự lựa chọn đa dạng cho nhà đầu tư. 3.3.3.2 Khuyến khích phát triển các công ty cổ phần Giải pháp này tạo điều kiện cung cứng hàng hóa cho thị trường chứng khoán và số lượng hàng hóa này sẽ được phân bổ rộng rãi cho các tầng lớp dân cư, giúp thị trường giao dịch thường xuyên và sôi động hơn. 3.3.3.3 Có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình doanh nghiệp, nhất là tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc đưa càng nhiều doanh nghiệp lên niêm yết một mặt vừa tăng cung cho thị trường vừa đảm bảo cho thị trường phái sinh phát triển . 3.3.3.4 Mở rộng hoạt động của các quỹ đầu tư trên thị trường tài chính, tăng cường đào tạo nhân lực cho thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường OTC và thị trường Future cho nông sản Việt Nam. Các giải pháp này phải tiến hành đồng bộ và nhất quán với nhau. Vì phạm vi nghiên cứu đề tài có hạn nên nhóm chúng tôi không đi sâu vào phân tích từng 48 giải pháp. Đây là những giải pháp cơ bản và cần thiết để phát triển thị trường Option. Kết Luận Với các biện pháp được kiến nghị chúng ta hoàn toàn tin rằng nghiệp vụ Option có thể sớm thực hiện ở thị trường chứng khoán Việt Nam. Cái lợi của thị trường các công cụ phái sinh trong đó có Option là điều mà ai cũng thấy được nhưng làm sao để đưa vào vận hành ở thị trường chứng khoán Việt Nam thì thiết nghĩ cần có sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành, các nhà đầu tư. Đặc biệt cần phải coi trọng yếu tố con người trong vận hành thị trường tài chính vì con người là yếu tố quan trọng nhất làm nên thành công. 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán”, PGS.TS BÙI THỊ KIÊM YẾN.(năm 2007) 2. “Giáo trình thị trường chứng khoán”, PGS.TS BÙI KIÊM YẾN(năm 2007) 3. “The Stock Option Nightmare”, Thomas G.Donlan-Barron”s(2/2004) 4. “Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, PGS.TS Trần Ngọc Thơ, NXB THỐNG KÊ năm 2007 5.Và các trang web: www.vietstock.com.vn www.phantichcophieu.vn www.wikipedia.com www.optionmarket.com www.investopedia.com www.fed.org/onlinemag/july03/comentary www.ssc.gov.vn 50

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfỨng dụng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan