Luận văn dài 61 trang
CHƯƠNG 1: Những vấn đề chung về công đoàn và cơ sở pháp lý về vai
trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . 4
1. Những vấn đề chung về công đoàn . 4
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của tổ chức công đoàn 4
1.2. Hệ thống tổ chức công đoàn Việt Nam 8
1.3. Tính chất, vị trí, vai trò của công đoàn . 11
1.4. Chức năng, nhiệm vụ, phân loại thẩm quyền công đoàn 13
2. Cơ sở pháp lý về vai trò của công đoàn . 18
2.1. Sự cần thiết thành lập công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh . 18
2.2. Cơ sở pháp lý về vai trò công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh . 21
CHƯƠNG 2: Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: thực
tiễn và hướng hoàn thiện 26
1. Thực tiễn hoạt động của công đoàn cơ sở trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh . 26
2. Nhận xét về thực trạng hoạt động của công đoàn cơ sở - một số giải
pháp nhằm phát huy vai trò công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh . 48
2.1. Nhận xét về thực trạng hoạt động của công đoàn cơ sở 48
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò công đoàn cơ sở trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . 50
* KẾT LUẬN . 55
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7223 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phụ nữ nói riêng và người lao động trong doanh nghiệp
nói chung: như công ty Sam Yang (Củ Chi), văn phòng đại diện công ty AGFA
(thành phố Hồ Chí Minh)
(25)
. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn áp dụng nhiều hình
thức kỷ luật không được quy định trong luật lao động như: bắt phơi nắng, quỳ gối,
chạy trong sân...
Sa thải người lao động là hình thức kỷ luật lao động cao nhất và chỉ sa thải họ
khi họ vi phạm: có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh
hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh
nghiệp, vi phạm kỷ luật trong thời gian chưa xoá kỷ luật; tự ý bỏ việc mà chưa có
lý do chính đáng...
Nhưng trên thực tế, công nhân thường bị sa thải tuỳ tiện và trái với quy định
của pháp luật. Công ty Tân Nguyên Phát (khu công nghiệp Vĩnh Lộc) sa thải 3
công nhân vì họ kiến nghị công ty thực hiện các quy định của pháp luật lao động
(26)
. Công ty Maxrop (khu chế xuất Linh Trung) sa thải người phiên dịch của công
ty với lý do không hoàn thành nhiệm vụ, nhưng thực chất là do nhân viên này góp
ý với con ông chủ khi thấy anh ta có những thái độ, lời nói xúc phạm nhân phẩm
công nhân nữ
(27)
.
Như vậy, tình hình vi phạm luật lao động, luật công đoàn, đối xử thô bạo, xúc
phạm nhân phẩm công nhân lao động, cắt hợp đồng, sa thải công nhân nhất là cán
bộ công đoàn vẫn diễn ra nhưng chưa có một cơ chế bảo vệ họ, nên nhiều người
(23)
Báo Người lao động ngày 18-10-2001
(24)
Trích lời phát biểu của ông Đặng Ngọc Tùng - Uỷ viên đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam (đăng trên báo Lao động điện tử)
(25)
Báo cáo tình hình thi hành Bộ luật lao động (1995-1996) của Sở Lao động - Thương binh xã hội, Sở tư
pháp và Liên đoàn lao động TP.HCM
(26)
Tạp chí Lao động và Xã hội tháng 2-2000
(27)
Trích bài viết của Đặng Ngọc đăng trên báo Lao động điện tử
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
41
tuy có tâm huyết nhiệt tình cũng không muốn làm cán bộ công đoàn. Đội ngũ cán
bộ công đoàn mà trước hết là Ban chấp hành, Chủ tịch công đoàn cơ sở chưa được
đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác công đoàn nên chất lượng hoạt động
công đoàn cơ sở còn yếu.
Từ những thực trạng trên, để giúp công đoàn thực hiện tốt vai trò bảo vệ
người lao động, đồng thời tạo niềm tin cho người lao động cần có sự hỗ trợ, giúp
đỡ của công đoàn cấp trên, cơ quan công an địa phương nhằm can thiệp kịp thời
việc sa thải các cán bộ công đoàn cơ sở trái luật, xử lý các trường hợp vi phạm đến
danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ của người lao động khi áp dụng các hình thức xử lý
kỷ luật lao động.
* Vai trò của công đoàn trong vấn đề bảo đảm an toàn lao động - vệ sinh
lao động và bảo hiểm xã hội:
Bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh lao động luôn luôn là một nội dung rất
quan trọng của pháp luật lao động, là một biện pháp chủ yếu về cải thiện điều kiện
lao động. Với nhận thức con người là vốn quý nhất, Đảng và Nhà nước ta càng đề
cao yêu cầu đảm bảo an toàn lao động, bảo vệ sức khoẻ của người lao động, gắn
liền với sản xuất theo phương châm "an toàn để sản xuất, sản xuất phải an toàn".
Công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động mang tính quần chúng rộng rãi,
do vậy chúng là một nội dung quan trọng thuộc chức năng bảo vệ quyền và lợi ích
người lao động của tổ chức công đoàn.
Trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình, công đoàn kiểm tra việc
chấp hành pháp luật về bảo hộ lao động. Khi phát hiện nơi làm việc có dấu hiệu
nguy hiểm đến tính mạng người lao động, công đoàn có quyền yêu cầu người có
trách nhiệm thực hiện nay các biện pháp bảo đảm an toàn lao động (khoản 3 Điều
6 Luật công đoàn). Khoản 2 Điều 4 Nghị định 302/HĐBT ngày 19-8-1992 nêu rõ:
"công đoàn cơ sở cử đại diện tham gia điều tra tai nạn lao động và có quyền yêu
cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc toà án xử lý người chịu trách nhiệm
xảy ra tai nạn lao động".
Hiện nay, người sử dụng lao động và người lao động đã từng bước nâng cao
nhận thức trách nhiệm của mình trong đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động, nhưng
trên thực tế, tai nạn lao động xảy ra đáng lo ngại, tai nạn lao động chết người có xu
hướng gia tăng. Một số cơ sở cố tình vi phạm các quy định của pháp luật về bảo hộ
lao động, công nhân làm việc trong điều kiện mất an toàn dẫn đến tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp. Mặt khác, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng,
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
42
nồng độ các chất độc hại, các yếu tố nguy hiểm rất cao vượt quá giới hạn cho phép
nhiều lần mà chưa được cơ quan Nhà nước giải quyết. Công đoàn cơ sở tại các
doanh nghiệp này bất lực trước thực trạng trên. Trong năm 2000, cả nước xảy ra
3.405 vụ tai nạn lao động làm 403 người chết và 1.020 người bị thương nặng, tăng
17% so 1999, thiệt hại 16,2 tỷ đồng. Số liệu này vẫn còn xa với thực tế bởi vì
nhiều vụ tai nạn lao động chết người vẫn không được khai báo(28)
. Đến năm 2001,
dù có những nỗ lực to lớn của các ngành, các cấp chính quyền, của tổ chức công
đoàn và của người sử dụng lao động, sự tham gia đông đảo của quần chúng lao
động nhưng thực trạng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp vẫn hết sức bức xúc:
trong năm 2001 đã xảy ra 3.580 vụ tai nạn lao động làm 3.727 người trở thành nạn
nhân, trong đó có 341 vụ tai nạn lao động chết người làm 385 người thiệt mạng.
Năm 2002, đã có nhiều vụ tai nạn lao động rất đau lòng: Vụ sập công trình ngày 8-
7-2002 tại công ty Cheng Shin làm chết 2 người và 6 người khác bị thương(29)
, vụ
cháy hầm lò khai thác tư nhân tại khu vực mỏ than Bố Hạ (Bắc Giang) 27-2-2002
làm 3 người chết, 3 người bị thương; vụ sập nổ giàn khung nhà máy kho ở công
trường xây dựng nhà máy sản xuất bia và nước giải khát Bến Thành (Bình Dương)
làm 2 công nhân chết, 10 công nhân khác bị thương rất nặng. Qua khảo sát 18.000
công nhân lao động ở 60 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có gần
50% công nhân sức khoẻ dưới trung bình, 70% công nhân mắc các chứng bệnh
nghề nghiệp. Có đến 98% doanh nghiệp ngoài quốc doanh, liên doanh không tuân
thủ đầy đủ những chuẩn vệ sinh cho phép, 95,8% dây chuyền công nghệ không
hoàn chỉnh; 40% doanh nghiệp vượt tiêu chuẩn cho phép về tiếng ồn và có độc hại.
Ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hầu hết người lao động không được khám
sức khoẻ định kỳ và không được hưởng chế độ độc hại theo quy định của Bộ luật
lao động(30)
.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc chậm cải thiện điều kiện
lao động ở khu vực ngoài quốc doanh là do nguồn kinh phí hạn hẹp, sản xuất
không ổn định nên chưa mạnh dạn đầu tư các dây chuyền sản xuất mới. Mặt khác,
nhận thức của người sử dụng lao động phần nào chưa thấu đáu, chưa nắm bắt kịp
thời các quy định của Nhà nước trong công tác an toàn và vệ sinh lao động. Ngoài
ra còn do sự thiếu hiểu biết, chủ quan của người lao động như trường hợp 1 công
nhân ở công ty Hoàn Vũ (Quảng Ngãi) khi một con ốc rơi vào khu vực nguy hiểm,
công nhân này đã dùng tay cắp con ốc ấy ra khi không cắt cầu dao nên bị điện giật
(28)
Tạp chí Lao động và công đoàn tháng 4 -2001
(29)
Báo Lao động số 326 ngày 5-12-2002
(30)
Tạp chí Lao động và công đoàn tháng 3-2002
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
43
chết
(31)
. Ngoài ra do nhu cầu tìm kiếm việc làm nên nhiều người dù biết đó là môi
trường độc hại nguy hiểm nhưng họ vẫn làm để rồi nhận lấy "cái chết từ từ" đến
với mình. Một nguyên nhân khác là việc xử lý không nghiêm các vụ tai nạn và
việc quản lý Nhà nước về an toàn lao động và vệ sinh lao động còn một số tồn tại
cũng góp phần làm tăng các vụ tai nạn lao động. Được biết, Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam đã phối hợp cùng Bộ Lao động - Thương binh xã hội thống kê và
đề nghị đưa ra truy tố 86 vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng từ 1992-2001.
Tuy vậy, cho đến nay chỉ có 39 vụ được xử lý, số còn lại đang chờ điều tra hoặc
đang nằm trên bàn của các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh. Việc các vụ tai nạn lao
động không được xét xử nghiêm minh và kịp thời đã làm cho không ít người sử
dụng lao động coi thường pháp luật và tai nạn lao động vẫn cứ xảy ra
(32)
Để bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và sức khoẻ của người lao
động, các cấp công đoàn cơ sở cần phối hợp với các cấp chính quyền, với người sử
dụng lao động tuyên truyền, phổ biến và vận động người lao động thực hiện các
quy định của pháp luật về bảo hộ lao động một cách tích cực và có hiệu quả, coi
công tác phòng ngừa tai nạn là mục tiêu phấn đấu hàng đầu. Kiên quyết đấu tranh
với những chủ doanh nghiệp vi phạm những quy định về an toàn lao động và vệ
sinh lao động, thực hiện quyền đại diện tập thể lao động kịp thời bảo vệ người lao
động trước nguy cơ xảy ra tai nạn lao động. Có như vậy, công đoàn cơ sở mới góp
phần tích cực vào việc cải thiện, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi người lao động, góp phần ổn định và phát triển sản
xuất.
Khi có tai nạn lao động xảy ra, đối với người lao động thì bảo hiểm xã hội sẽ
góp phần chia sẻ với họ những khó khăn bởi vì mục đích của bảo hiểm xã hội là
nhằm mở rộng khả năng khống chế và khắc phục hậu quả đối với các rủi ro, giúp
người lao động giữ thăng bằng phần thu nhập bị giảm hay bị mất do gặp khó khăn
hay rủi ro, đảm bảo cho sự phát triển bình thường và ổn định của sản xuất xã hội,
nó ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các bên tham gia lao động, góp phần thực
hiện các chính sách kinh tế, xã hội của đất nước. Bảo hiểm xã hội luôn phát huy
tác dụng trong những lúc người lao động gặp khó khăn, nguy hiểm do ốm đau, tai
nạn lao động do bệnh nghề nghiệp, tuổi già, thai sản...
Trong đời sống của người lao động, các chế độ bảo hiểm xã hội có ý nghĩa
rất quan trọng. Trước hết, mục tiêu của bảo hiểm xã hội là thực hiện một phần
(31)
Báo Lao động số 236 ngày 6-9-2000
(32)
Tạp chí Lao động và công đoàn tháng 4-2001
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
44
nguyên tắc đoàn kết sâu rộng của những người tham gia, thể hiện tinh thần tương
thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong những trường hợp tạm thời hay vĩnh viễn
mất sức lao động. Về mặt kinh tế, bảo hiểm xã hội được coi là quá trình tổ chức và
sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng
lao động và người lao động theo quy định của pháp luật. Hai mặt đó của bảo hiểm
xã hội luôn gắn chặt với nhau nhằm hỗ trợ việc giải quyết nhu cầu sinh sống thiết
yếu của người lao động và gia đình họ trong trường hợp luật định.
Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động,
sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được
sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật
hoặc khi chết.
Bảo hiểm xã hội có ý nghĩa rất lớn trong đời sống của người lao động. Chính
vì vậy, tổ chức công đoàn cơ sở với tư cách là đại diện cho người lao động cũng
được pháp luật trao quyền: "trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn kiểm
tra việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động, tuyển dụng lao động, cho thôi
việc, tiền lương, tiền thưởng, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các chính sách
khác liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động" (Điều 8 Luật
công đoàn).
Tuy nhiên, hiện nay trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tình trạng
không đóng bảo hiểm hoặc chiếm dụng tiền bảo hiểm của người lao động rất phổ
biến. Các doanh nghiệp xem việc không đóng bảo hiểm cho người lao động như là
một cách để "tăng thu" cho doanh nghiệp của họ.
Theo tin từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ngày 12-3-2003 dẫn một điều tra mới
nhất cho thấy, hiện nay chỉ có 10% doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo
hiểm xã hội cho công nhân. Tuy nhiên, cũng chỉ có 50% công nhân trong số 10
doanh nghiệp đó được hưởng bảo hiểm xã hội do các doanh nghiệp cố tình trốn nợ
bảo hiểm xã hội.
Công ty Ladies Born (Đồng Nai) chiếm giữ tiền bảo hiểm xã hội của người
lao động. Báo cáo của cơ quan bảo hiểm xã hội Đồng Nai cho biết, đến nay công
ty còn nợ số tiền chưa đóng bảo hiểm xã hội là 1,4 tỷ đồng. Việc không đóng bảo
hiểm xã hội của công ty Ladies Born đã gây thiệt hại cho người lao động. Có nhiều
người bị đuổi việc, nhiều lao động bị ốm đau, tai nạn lao động, thai sản không
được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Nghiêm trọng hơn là hàng tháng công ty vẫn
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
45
giữ lại 5% tiền đóng bảo hiểm xã hội trích từ lương công nhân nhưng công ty
không nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Công đoàn trong công ty này gần như bị
tê liệt bởi vì số lao động nằm trong Ban chấp hành công đoàn lần lượt bị cho nghỉ
việc
(33)
. Công ty may Hàn Việt (thành phố Hồ Chí Minh) hàng tháng vẫn thu 6%
lương công nhân về khoản bảo hiểm xã hội (5%) và bảo hiểm y tế (1%) nhưng
công nhân không thấy sổ bảo hiểm xã hội, đồng thời thẻ bảo hiểm y tế cũng không
có
(34)
.
Theo quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội thì những cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên bắt buộc phải tham gia bảo hiểm xã hội,
nhưng nhiều chủ doanh nghiệp né tránh việc nộp bảo hiểm xã hội bằng việc khai
thấp số lao động dưới 10 người, hoặc một kiểu lách luật khác là các doanh nghiệp
khai giảm quỹ lương để trốn một phần nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội hoặc chỉ có
một bộ phận công nhân cố định là có hợp đồng lao động, số còn lại mặc dù làm
việc lâu dài nhưng không được ký hợp đồng lao động hoặc được xem là đang thử
việc.
Việc các doanh nghiệp cố tình không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao
động và nợ bảo hiểm xã hội là một thực trạng đã kéo dài nhiều năm chưa được giải
quyết thoả đáng. Công đoàn cơ sở trong trường hợp này cần phải phối hợp với cơ
quan bảo hiểm xã hội tích cực hơn trong hoạt động của mình, tăng cường bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Công đoàn cơ sở cần giải thích cho người sử dụng lao động (chủ doanh
nghiệp) cũng như người lao động hiểu rằng việc nộp bảo hiểm xã hội tốt không chỉ
là thể hiện ý thức chấp hành pháp luật mà đó còn là quyền lợi hợp pháp của chính
họ.
* Vai trò công đoàn trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao động
và đình công:
Tranh chấp lao động và đình công là phản ứng cao nhất của người lao động
đối với người sử dụng lao động khi những quyền và lợi ích chính đáng của họ bị
xâm phạm. Điều 157 Bộ luật lao động định nghĩa: "Tranh chấp lao động là những
tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các
điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập
thể và trong quá trình học nghề".
(33)
Báo Lao động số 129 ngày 22-5-2002
(34)
Báo Lao động số 165 ngày 14-6-2003
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
46
Theo khoản 4 Điều 158 Bộ luật lao động thì cần phải "có sự tham gia của đại
diện công đoàn và của đại diện người sử dụng lao động trong quá trình tranh
chấp". Đây là một quyền mang tính nguyên tắc, là yếu tố bắt buộc thể hiện vai trò
của công đoàn trong việc giải quyết bất kỳ một vụ tranh chấp nào. Như vậy, công
đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp là đại diện duy nhất cho người lao động để bảo vệ
họ trong tranh chấp với người sử dụng lao động.
Đình công là đấu tranh có tổ chức của tập thể lao động trong doanh nghiệp
hay một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp bằng cách cùng nhau nghỉ việc nhằm
yêu cầu người sử dụng lao động đáp ứng những quyền và lợi ích hợp pháp phát
sinh trong quan hệ lao động.
(35)
Có thể nói đình công là biện pháp trực tiếp, mạnh mẽ nhất của người lao
động để đòi thực hiện đúng các nghĩa vụ của người sử dụng lao động theo pháp
luật, nhất là đòi thoả mãn nhưng yêu sách của người lao động về tiền lương, điều
kiện làm việc và nhưng đảm bảo xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Tập thể người lao động chỉ được tiến hành đình công khi tranh chấp lao
động giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động đã được giải quyết theo
trình tự giải quyết tranh chấp lao động mà họ vẫn không thoả mãn. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam thì chỉ chấp nhận công đoàn là tổ chức duy nhất có quyền
khởi xướng và lãnh đạo cuộc đình công hợp pháp "việc đình công do Ban chấp
hành công đoàn cơ sở quyết định sau khi được quá nửa tập thể lao động tán thành
bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký" (khoản 2 Điều 173 Bộ luật lao động).
Như vậy, pháp luật lao động Việt Nam đã thừa nhận quyền đình công của người
lao động thông qua sự tổ chức của công đoàn cơ sở. Có thể nói tổ chức đình công
là một quyền đặc biệt của công đoàn cơ sở. Đây là vai trò to lớn của công đoàn bởi
vì công đoàn phải làm sao đảm bảo cho tập thể lao động thực hiện được quyền
đình công hợp pháp đồng thời hạn chế những cuộc đình công bất hợp pháp, tránh
gây mất ổn định trong quan hệ lao động và trật tự an toàn xã hội.
Người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường cố
tình tránh né thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của pháp luật lao
động, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đối xử thô
bạo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao động, lối quản lý cửa quyền,
hách dịch đã gây nên căm phẫn trong tập thể người lao động và tất yếu sẽ phát sinh
tranh chấp lao động. Về phía người lao động, những yêu cầu do họ đưa ra trong
các cuộc tranh chấp hầu hết là chính đáng. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh còn
(35)
Tập bài giảng Luật Tố tụng lao động Việt Nam - Thạc sỹ Diệp Thành Nguyên - Khoa Luật Đại học Cần
Thơ
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
47
thiếu tính tổ chức và mang tính tự phát, trình độ của người lao động còn thấp lại
không am hiểu pháp luật nên họ còn lúng túng trong việc thương thảo với người sử
dụng lao động để tìm ra phương hướng giải quyết hợp lý khi có tranh chấp xảy ra
dẫn đến các cuộc đình công không cần thiết. Cũng có trường hợp do không hiểu
biết về pháp luật lao động nên có những đòi hỏi không chính đáng, vượt quá các
quy định của pháp luật và cũng là một trong số những nguyên nhân gây ra tranh
chấp lao động.
Đối với tổ chức công đoàn, dù được pháp luật trao quyền đặc biệt trong việc
kiểm tra, giám sát tranh chấp lao động và tổ chức đình công nhưng do hoạt động
của công đoàn cơ sở chưa hiệu quả, thậm chí có một số cán bộ công đoàn vì lợi ích
cá nhân không những không bảo vệ được người lao động mà còn đứng hẳn về phía
người sử dụng lao động chống lại quyền lợi tập thể người lao động. Mặt khác, do
nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở làm chỗ dựa, là
người hướng dẫn cho công nhân lao động và liên kết với liên đoàn cấp trên.
Từ những nguyên nhân trên, chúng ta không có gì ngạc nhiên khi các cuộc
đình công ngày càng gia tăng: theo số liệu thống kê của Tổng liên đoàn lao động
tính từ tháng 1-1995 (thời điểm Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành) đến 31-3-
2002, cả nước xảy ra 495 vụ đình công, trong đó có 67 vụ xảy ra tại doanh nghiệp
Nhà nước (chiếm 14,6%), 253 vụ tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(55,1%) và 139 vụ tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tính từ thời điểm 1997
đến nay, số vụ đình công có xu hướng ngày càng gia tăng: 48 vụ (1997), 62 vụ
(1998), 71 vụ (2000), 85 vụ (2001) và riêng quý I-2002 đã có tới 18 vụ đình công
xảy ra. Đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn chiếm tỷ
lệ cao nhất, trong đó các doanh nghiệp có vốn Đài Loan là 105/253 vụ (41,5%),
Hàn Quốc là 81/253 vụ (32%). Địa phương để xảy ra đình công nhiều nhất là
thành phố Hồ Chí Minh (251 vụ), Bình Dương (98 vụ), Đồng Nai (49 vụ), Hải
Phòng (33 vụ), Hà Nội (21 vụ)
(36)
.
Cũng chính từ những nguyên nhân trên, chúng ta cần phải thừa nhận dù đình
công là vũ khí cuối cùng của người lao động để bảo vệ lợi ích của mình và cũng là
quyền hành động của tập thể lao động trong quan hệ lao động. Thế nhưng, tất cả
các cuộc đình công ở Việt Nam xảy ra trong thời gian qua đều không đúng với
trình tự pháp luật, các cuộc đình công thường mang tính tự phát không có sự tham
gia hướng dẫn của công đoàn cơ sở, nhiều vụ tranh chấp dẫn đến đình công đều
không thông qua thương lượng và hoà giải. Có hiện tượng này là do công nhân lao
(36)
Báo Lao động số 115 ngày 8-5-2002
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
48
động chưa hiểu biết những quy định của luật lao động về đình công, tại doanh
nghiệp xảy ra đình công chưa có tổ chức công đoàn hoặc có công đoàn nhưng cán
bộ không đủ năng lực, trình độ pháp lý giải quyết các vụ tranh chấp lao động. Mặt
khác quy định của luật pháp hiện hành về trình tự, thủ tục đình công chưa xác hợp
với thực tế. Từ thực tế này, công đoàn cơ sở cần phải tăng cường hơn nữa công tác
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động, luật công đoàn tới người lao
động và người sử dụng lao động. Có cơ chế gặp gỡ thường xuyên giữa đại diện
công đoàn với người sử dụng lao động để trao đổi thông tin về mối quan hệ lao
động và nhằm giải toả những bất đồng ngay từ khi mới nảy sinh, giải quyết kịp
thời những khiếu nại, thắc mắc nhỏ của người lao động để tránh dồn nén thành vụ
việc lớn. Hình thành mối quan hệ phối hợp giữa công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý
Nhà nước về lao động (Phòng lao động huyện, thị xã) và người sử dụng lao động;
thường xuyên trao đổi với nhau những diễn biến trong mối quan hệ lao động và
tìm kiếm những tiếng nói chung nhằm giải quyết tranh chấp lao động và đình
công. Đại diện công đoàn được biết và tham gia ý kiến trước khi kỷ luật người lao
động.
Sử dụng tốt các biện pháp tự hoà giải, đối thoại tập thể công khai giữa người
sử dụng lao động với tập thể lao động và công đoàn khi có tranh chấp. Xây dựng
quy chế về mối quan hệ công tác giữa Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người sử
dụng lao động. Xây dựng và thực hiện các quy chế nội bộ, thực hiện quyền tham
gia quản lý doanh nghiệp của công đoàn và người lao động theo luật định. Tham
gia hoặc cung cấp những thông tin cần thiết cho đoàn kiểm tra, thanh tra lao động.
Thường xuyên báo cáo lên công đoàn cấp trên, thi hành pháp luật lao động và công
đoàn tại doanh nghiệp để tranh thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời. Làm tốt công
tác trên, công đoàn cơ sở không chỉ hạn chế được tranh chấp lao động và đình
công mà còn đảm bảo vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của
người lao động trên mọi phương diện. Bởi vì khi nào quyền lợi và lợi ích của
người lao động được đảm bảo thì chắc chắn rằng các cuộc tranh chấp lao động và
đình công sẽ giảm đi đáng kể.
Điểm qua những thực trạng vừa nêu, chúng ta có thể nhận thấy rằng thực
tiễn hoạt động của công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn
quá nhiều hạn chế do nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Những gì công đoàn
đã làm được còn quá ít so với những gì chưa làm được. Quyền năng của công
đoàn được pháp luật quy định là rất lớn, nhưng công đoàn trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa thể hiện đúng vai trò của mình. Công đoàn chưa thực sự
góp phần quyết định vào các công việc ở doanh nghiệp cũng như chưa trở thành
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
49
chỗ dựa vững chắc cho người lao động. Muốn thực hiện tốt vai trò của mình,
ngoài sự cố gắng của công đoàn cơ sở cần có sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm
quyền cũng như từ phía người sử dụng lao động và người lao động. Sự liên kết này
sẽ tạo thành sức mạnh để công đoàn hoàn thành và xứng đáng với sứ mệnh to lớn
của mình.
2. NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG ĐOÀN CƠ
SỞ - MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CÔNG ĐOÀN CƠ
SỞ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH:
2.1. Nhận xét về thực trạng hoạt động của công đoàn cơ sở:
Từ khi chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng đi vào cuộc
sống, đặc biệt khi Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài ra đời và có hiệu
lực, nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thành lập và đi vào hoạt động.
Trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, số công đoàn cơ sở đạt tỷ
lệ trên 50%, khu vực ngoài quốc doanh khác đạt tỷ lệ 30%
(37)
. Tại doanh nghiệp,
công đoàn cơ sở có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ người lao động ký hợp đồng
lao động, đại diện thương lượng và ký thoả ước lao động tập thể, tham gia hội
đồng hoà giải cơ sở; phối hợp với người sử dụng lao động đảm bảo việc làm, cải
thiện điều kiện làm việc; nâng cao thu nhập và phúc lợi xã hội cho người lao động.
Nhìn chung, tại các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, mối quan hệ giữa người
sử dụng lao động và công đoàn được thiết lập trên cơ sở bình đẳng và có sự phối
hợp cộng tác. Nhiều nơi, người sử dụng lao động coi việc thành lập và hoạt động
của tổ chức công đoàn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình quản lý và tổ
chức sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động ở không ít công đoàn cơ
sở trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thấp, lúng túng trước sự thay đổi
của cơ chế quản lý, sự phát triển của khoa học và công nghệ. Ở một số doanh
nghiệp, công đoàn cơ sở chưa có những hoạt động thiết thực tham gia vào quá
trình quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh; việc thực hiện chức năng đại diện, bảo
vệ lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật cũng còn những hạn chế;
chưa thực hiện tốt vai trò kiểm tra giám sát và góp phần ngăn chặn các hiện tượng
vi phạm pháp luật lao động; tranh chấp lao động và đình công ở nhiều doanh
nghiệp vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của công đoàn cơ sở. Qua thực trạng hoạt
động của các công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chúng ta
nhận thấy rằng công đoàn cơ sở không thực hiện tốt vai trò của mình là do:
(37)
Trích phát biểu của đồng chí Nguyễn Hoà Bình - Uỷ viên Đoàn Chủ tịch - Trưởng ban pháp luật Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam (đăng trên báo Lao động điện tử)
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
50
- Mặc dù công đoàn được pháp luật trao quyền rất rộng, lĩnh vực nào liên
quan đến quyền và lợi ích của người lao động đều có sự tham gia của công đoàn.
Pháp luật quy định cho công đoàn quyền được thương lượng, quyền được thảo
luận, quyền được tham khảo ý kiến, quyền được trao đổi nhất trí nhưng chưa có
những quy định để đảm bảo cho công đoàn có quyền quyết định cụ thể. Trong khi
đó, quyền quyết định lại nằm trong tay người sử dụng lao động (chủ doanh
nghiệp). Vì vậy, trên thực tế, người sử dụng lao động khi quyết định một vấn đề
nào đó trong doanh nghiệp tuy có trao đổi, thương lượng, thảo luận, tham khảo ý
kiến của công đoàn nhưng đó chỉ là hình thức chiếu lệ cho đúng với quy định của
pháp luật. Công đoàn cơ sở dù không đồng ý với quyết định của người sử dụng lao
động thì người lao động vẫn có quyền ra quyết định cuối cùng.
- Các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tâm lý cho rằng công đoàn là
một tổ chức luôn luôn đứng về phía công nhân để đấu tranh với giới chủ đòi hỏi
quyền lợi, mang lại thiệt thòi, bất lợi cho họ. Hơn nữa họ phải trả lương cho Ban
chấp hành công đoàn cơ sở mà phải đón nhận sự bất lợi cho họ, từ đó các chủ
doanh nghiệp ít ai thiết tha có công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp. Nếu vì bắt buộc
theo luật, họ chỉ tổ chức cho có sau đó tìm mọi cách vô hiệu hoá hoạt động công
đoàn, tìm mọi cách cản trở hoạt động của công đoàn, không tạo điều kiện cho công
đoàn hoạt động như: điều kiện về thời gian, kinh phí hoạt động, trang bị phương
tiện, cơ sở vật chất cần thiết, không tạo điều kiện cho công đoàn tiếp xúc với người
lao động.
- Đối với người lao động, do những hạn chế về năng lực và trình độ hiểu biết
pháp luật nên đa số công nhân lao động không nắm được những quyền lợi mà Nhà
nước đã quy định, không biết được trách nhiệm và nghĩa vụ mà mình phải thực
hiện, lại bị áp lực về việc làm, lợi ích kinh tế bị phụ thuộc hoàn toàn vào người sử
dụng lao động nên họ không dám đấu tranh, không tự bảo vệ được mình. Mặt
khác, một số người lao động có tâm lý tiêu cực khi cho rằng tham gia công đoàn
thì phải đóng lệ phí công đoàn, họ không nhận thức được vai trò quan trọng của
công đoàn, từ đó không hăng hái tham gia. Đặc biệt hơn nữa có người lao động
còn không biết tổ chức công đoàn là của ai, vào công đoàn để làm gì.
- Công đoàn chưa thể hiện được năng lực làm chủ của mình để đáp ứng vai
trò là người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Đó là năng
lực hiểu biết đường lối chính sách, hiểu biết pháp luật, năng luật vận động thuyết
phục người lao động làm tốt công việc do chủ doanh nghiệp đề ra, giáo dục tinh
thần kỷ luật (chấp hành nội quy), thái độ công tác, ý thức tập thể đoàn kết, tương
trợ để tạo uy tín của công đoàn với doanh nghiệp. Đồng thời, bám sát đời sống của
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
51
người lao động trên mọi phương diện để tìm hiểu, chia sẻ những khó khăn vướng
mắc của người lao động, từ đó tạo được lòng tin của người lao động đối với công
đoàn.
- Ý thức làm chủ của công đoàn cũng chưa thể hiện được rõ, thật mạnh trong
nhận thức và hành động. Công đoàn cơ sở chưa mạnh dạn đòi hỏi và trình bày với
người sử dụng lao động và công đoàn cấp trên những vấn đề còn tồn tại. Mặt khác,
cán bộ công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là người làm công
- cuộc sống gắn liền với chủ - vừa là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp chính đáng của người lao động nên họ chưa dám mạnh dạn đấu tranh vì
quyền lợi trực tiếp của họ.
- Công đoàn các cấp kể cả Tổng liên đoàn cũng chưa phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành luật pháp và các chính sách cho người lao động trong khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh, kịp thời uốn nắn xử lý các vi phạm pháp luật và vi phạm lợi ích người
lao động. Một số nơi chủ doanh nghiệp đã chấm dứt hợp đồng lao động trái luật
đối với cán bộ công đoàn hoặc người lao động vẫn chưa được xử lý nghiêm minh,
tác dụng của các cuộc thanh tra, kiểm tra chưa cao, các kiến nghị, đề nghị của công
nhân lao động chưa được kịp thời nghiên cứu giải quyết hoặc bị buông trôi làm
cho việc thực hiện pháp luật lao động không nghiêm túc, ảnh hưởng đến lòng tin
của công nhân lao động đối với tổ chức công đoàn.
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò công đoàn cơ sở trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh:
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhưng cơ hội và thách thức mới.
Nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực đang tác động trực tiếp, gián tiếp đến tổ chức và
hoạt động của các cấp công đoàn. Trong những năm tới, lực lượng lao động ở khu
vực ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ tăng nhanh. Đây sẽ là cơ hội tốt để
công đoàn phát triển lớn mạnh ngang tầm những nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy, hoạt động công đoàn cũng gặp
nhiều khó khăn trở ngại vì mối quan hệ lao động sẽ có những diễn biến phức tạp
hơn. Tình hình này đã và đang đặt ra cho tổ chức công đoàn những yêu cầu đổi
mới mạnh mẽ cả về tổ chức cũng như nội dung hoạt động. Muốn thực hiện tốt điều
này, ngoài việc tự vận động của công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, cần phải
có sự hỗ trợ, sự đồng tình từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, công đoàn cấp
trên, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và nhất là sự hỗ trợ của hệ thống pháp
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
52
luật. Qua tham khảo tài liệu và sự tìm hiểu trên thực tế, người viết xin đề xuất một
số giải pháp để công đoàn cơ sở phát huy cao nhất vai trò của mình trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh:
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần tiếp tục tổng kết làm rõ mô hình tổ
chức, nội dung, phương pháp hoạt động của công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh;
thành lập nhóm chuyên gia có trình độ cao về luật pháp, kinh tế, để tư vấn cho
đoàn Chủ tịch những chủ trương công tác thuộc lĩnh vực quan hệ lao động; có giải
pháp về tổ chức để triển khai bố trí cán bộ chuyên trách ở những đơn vị đông công
nhân lao động và có quan hệ lao động phức tạp.
- Công đoàn cấp trên, công đoàn cơ sở cần phải xác định nhiệm vụ của cấp
mình; công đoàn cấp trên phải biết rõ số lượng doanh nghiệp mới thành lập để chỉ
định Ban chấp hành công đoàn lâm thời kịp lúc, xây dựng kế hoạch tuyên truyền
công nhân lao động vào tổ chức công đoàn; xây dựng tốt mối quan hệ với cơ quan
chức năng để phối hợp thực hiện. Cần có cán bộ theo dõi chuyên trách công tác
công đoàn ngoài quốc doanh, định kỳ sơ, tổng kết rút kinh nghiệm.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, cần có bước điều tra, khảo sát, phân loại
các doanh nghiệp, công nhân lao động để xây dựng kế hoạch. Cần thành lập Ban
chỉ đạo công tác phát triển công đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở ngoài quốc
doanh. Công đoàn các cấp trên cơ sở tập trung nghiên cứu hướng dẫn công đoàn
cơ sở biết cách hành động và thường xuyên đổi mới công tác chỉ đạo điều hành
cũng như cải tiến nội dung và phương thức tuyên truyền vận động công nhân lao
động vào tổ chức bảo vệ quyền lợi của họ.
- Nhà nước cũng cần chỉ đạo các cơ quan chức năng nâng cao hiệu quả thanh
tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động, kiên quyết xử lý vi phạm, ban
hành những chế định phạt thật nặng nhằm ngăn chặn các vi phạm xảy ra. Đặc biệt
tăng cường kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt đối với vấn đề an toàn lao động và vệ
sinh lao động trong các doanh nghiệp, công tác kiểm tra phải diễn ra thường xuyên
và có hiệu quả không nên theo phong trào, hình thức. Có biện pháp xử lý kịp thời
đối với những nguy cơ không an toàn xảy ra cho người lao động.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động cần phải cải tiến và nâng cao
chất lượng công tác đăng ký thoả ước lao động tập thể cho các doanh nghiệp để
đáp ứng được nhu cầu cơ sở, tăng cường biện pháp điều tra giải quyết tốt nội quy
lao động tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
53
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động và Liên đoàn lao động các cấp
thường xuyên tổ chức học tập, kiểm tra và chứng nhận trình độ hiểu biết về pháp
luật lao động đối với chủ doanh nghiệp, Giám đốc doanh nghiệp, Chủ tịch công
đoàn cơ sở, người phụ trách tổ chức của doanh nghiệp, đồng thời yêu cầu các chủ
doanh nghiệp cam kết tạo điều kiện cho người lao động được học tập luật lao
động. Từ đó, cơ quan thanh tra Nhà nước về lao động cần phải tiến hành kiểm tra,
rà soát những doanh nghiệp chưa tổ chức cho người lao động học tập bộ luật lao
động.
- Trong chương trình đào tạo lại đội ngũ công chức Nhà nước ở trong và
ngoài nước, Chính phủ cần giành tỷ lệ thích đáng cho cán bộ công đoàn để đảm
bảo cho cán bộ công đoàn có đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu trong nền kinh
tế thị trường. Việc xây dựng và tuyển chọn cán bộ công đoàn phải căn cứ vào
những tiêu chuẩn cơ bản: có bản lĩnh chính trị, nhiệt tình công tác, có kiến thức về
khoa học, xã hội, luật pháp, hiểu biết về chuyên môn ngành nghề, nắm vững kỹ
thuật, kỹ năng nhiệm vụ công tác công đoàn, có năng lực hoạt động thực tiễn,
trung thực, được người lao động và người sử dụng lao động tín nhiệm.
- Cần xây dựng quan hệ hợp tác giữa công đoàn và người sử dụng lao động.
Công đoàn cơ sở bằng những hoạt động thiết thực của mình khuyến khích công
nhân làm việc có năng suất cao, có ý thức bảo vệ, giữ gìn tại sản của doanh nghiệp,
ý thức tiết kiệm vật tư, nguyên liệu, thực sự chú trọng công tác giáo dục trong tập
thể công nhân để đạt hiệu quả sản xuất. Trong quan hệ với ban Giám đốc, Ban
chấp hành công đoàn cơ sở phải làm sao cho chủ doanh nghiệp nể trọng. Muốn
được điều đó, Ban chấp hành công đoàn cần phải tạo được:
+ Tôn trọng chủ doanh nghiệp qua hình thức, ngôn ngữ (đối với các chủ
doanh nghiệp là người nước ngoài).
+ Lịch sự qua phong thái tiếp xúc.
+ Tế nhị khi bàn bạc, minh chứng rõ ràng.
+ Khi đã phê bình phải đưa ra phương hướng xây dựng, củng cố.
+ Khách quan trong xử lý, giải quyết.
+ Cứng rắn khi quyết định.
+ Khi đề xuất, yêu cầu quyền lợi cho công đoàn và người lao động phải
suy nghĩ chín chắn, chọn thời cơ phù hợp để trình bày.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
54
+ Công đoàn cơ sở còn tham gia góp ý kiến giúp chủ doanh nghiệp phát
triển kinh doanh làm cho chủ doanh nghiệp thấy rõ cần thiết phải có tổ chức công
đoàn để giúp ích cho mình, làm cho người sử dụng lao động hiểu rõ thực chất hoạt
động của công đoàn là nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cả hai bên chủ doanh
nghiệp và người lao động, là chiếc cầu nối giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động.
- Chính phủ cần sớm có các văn bản pháp lý quy định biện pháp xử phạt một
cách hữu hiệu, đảm bảo tính nghiêm khắc, đủ khả năng trừng phạt các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hành vi vi phạm
quyền công đoàn của người lao động như trì hoãn, cản trở thành lập công đoàn gây
khó khăn cho hoạt động công đoàn.
- Một vấn đề nan giải cho các công đoàn ngoài quốc doanh là kinh phí hoạt
động. Những quy định về trích nộp kinh phí cho công đoàn cơ sở ngoài quốc
doanh khó thực hiện. Cần có một văn bản mang tính pháp huy hướng dẫn chi tiết
về việc trích nộp kinh phí hoạt động cho công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp ngoài
quốc doanh với mức thu cụ thể, cách thức thu, nguồn thu... Đồng thời quy định
thêm các biện pháp chế tài đối với các trường hợp trốn tránh không nộp hoặc nộp
kinh phí công đoàn không đủ, không đúng hạn.
Ngoài ra, công đoàn cơ sở cần phải kết hợp với doanh nghiệp tổ chức thêm
nhiều hoạt động kinh doanh để tận dụng những ưu thế sẵn có của doanh nghiệp,
mở rộng thị trường tiêu thụ những sản phẩm do doanh nghiệp làm ra để góp phần
giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời tăng thêm nguồn thu cho quỹ
công đoàn. Nguồn quỹ này sẽ giúp công đoàn hoạt động và khi cần thiết sẽ hỗ trợ
cho người lao động về vật chất khi họ gặp khó khăn.
- Cần có chính sách đảm bảo lợi ích kinh tế để cán bộ công đoàn cơ sở tích
cực hoạt động. Quy định cụ thể mức lương, phụ cấp cũng như các chế độ bồi
dưỡng khác cho cán bộ công đoàn cơ sở theo hướng gắn quyền lợi với trách
nhiệm. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở
trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Cần nghiên
cứu cho cán bộ công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hưởng
một nguồn lương độc lập với doanh nghiệp để họ có thể mạnh dạn trong hoạt
động, tự chủ trong giải quyết các vấn đề về bảo vệ lợi ích cho người lao động.
Cán bộ công đoàn cơ sở cũng cần phải tự mình phấn đấu học tập, trao dồi,
nắm vững ngoại ngữ, nắm vững luật pháp và nghiệp vụ hoạt động công đoàn trong
quá trình dẫn giải, thuyết phục người nước ngoài. Tiếng nói của chúng ta sẽ có
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
55
trọng lượng hơn, có sức thuyết phục hơn nếu cán bộ công đoàn nói được tiếng nói
của họ, không bị sai lệch nội dung qua hàng rào phiên dịch.
- Cần đưa thêm phần chế tài cụ thể vào Luật công đoàn, phải có những chế tài
cụ thể cho từng loại vi phạm. Điều 18 Luật công đoàn chỉ quy định chung chung
"người vi phạm các quy định của luật này tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà xử lý
kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự". Điều nay dẫn
đến nhiều bất cập khi giải quyết vi phạm vì mức độ nặng hoặc nhẹ rất khó xác
định, gây thiếu thống nhất trong việc áp dụng hình phạt.
- Quá trình để tổ chức đình công phải qua quá nhiều công đoạn như lấy ý
kiến, phải được quá nửa tập thể tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký,
trao bảng yêu cầu cho người sử dụng lao động, gửi bảng thông báo cho cơ quan lao
động cấp tỉnh, và liên đoàn lao động tỉnh... Như vậy, thủ tục đình công phải qua
nhiều khâu, nhiều bước rườm rà làm cho người lao động thiếu tin tưởng vào kết
quả của cuộc đình công đúng luật trong khi quyền lợi của họ đang bị vi phạm. Vì
vậy, cần xem xét và sửa đổi các quy định của Bộ luật lao động về đình công theo
hướng đơn giản và khả thi hơn cho phù hợp với thực tiễn
- Thành lập các câu lạc bộ Chủ tịch công đoàn hoặc Hiệp hội công đoàn trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các cán bộ công đoàn cơ sở có việc trao
đổi, học tập kinh nghiệm của nhau nhằm đưa hoạt động công đoàn đạt hiệu quả
cao hơn. Hằng năm, tổ chức các cuộc gặp gỡ định kỳ giữa Thủ tướng Chính phủ,
Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam với các cán bộ làm công tác công
đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các cán bộ công đoàn có điều
kiện trình bày những vướng mắc, những khó khăn trong thực tiễn công tác công
đoàn.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
56
KẾT LUẬN
Đảng và Nhà nước ta ta đã xác định công đoàn là tổ chức quần chúng rộng
lớn nhất của giai cấp công nhân, là nơi vận động tổ chức, giáo dục, rèn luyện
người lao động về mọi mặt. Công đoàn cơ sở làm chỗ dựa vững chắc cho chính
quyền, công đoàn là tổ chức bảo vệ lợi ích và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
của người lao động; là sợi dây kết nối giữa Đảng với quần chúng công nhân lao
động; là người vận động, tổ chức công nhân lao động sản xuất tham gia quản lý
Nhà nước, là người cộng tác đắc lực với chính quyền trong việc xây dựng, thực
hiện, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước ta.
Tổ chức công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ý thức được rằng có
tổ chức công đoàn là nhằm thúc đẩy sản xuất, giúp cho doanh nghiệp tồn tại và
phát triển đúng hướng, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, giúp người lao động có việc làm và có thu nhập, đồng thời góp
phần ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của người sử dụng
lao động, và lợi ích của người lao động.
Nội dung hoạt động của công đoàn thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
cũng được quy định rất rõ: tổ chức công đoàn nhằm đoàn kết người lao động, giúp
đỡ nhau trong nghề nghiệp và đời sống, tuyên truyền, giáo dục để người lao động
hiểu biết hơn về pháp luật, hướng dẫn họ thực hiện các chế độ chính sách Nhà
nước và được hưởng những quyền lợi hợp pháp được Nhà nước quy định. Công
đoàn còn là chiếc cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động, giúp
người sử dụng lao động trong sản xuất kinh doanh trong các sinh hoạt của doanh
nghiệp, hỗ trợ, góp ý bàn bạc để giải quyết các tình huống giúp cho người lao động
có được những chế độ quyền lợi hợp pháp trong doanh nghiệp.
Qua thực tiễn hoạt động, tổ chức công đoàn đã dần hoàn thiện và trở thành tổ
chức chính trị xã hội giữ vai trò to lớn trong việc đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động. Với vai trò quan trọng đó, việc xây
dựng và phát triển công đoàn cơ sở vững mạnh được coi là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Trước sự phát triển ngày
càng đa dạng của loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, tổ chức công đoàn phải
luôn làm tốt công tác xây dựng và phát triển tổ chức, nghiên cứu áp dụng nhiều
biện pháp hoạt động có hiệu quả để kịp thời thích nghi với tình hình mới đảm bảo
thực hiện tốt vai trò của công đoàn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm nghiên
cứu các vấn đề về cơ chế, chính sách cũng như các điều kiện cần thiết về kinh tế,
pháp luật đảm bảo cho công đoàn cơ sở phát triển và hoạt động tốt, khắc phục
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
57
những tồn tại và thiếu sót mà trong hoạt động công đoàn cơ sở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh gặp phải nhằm góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật về công đoàn nói riêng. Qua đó tạo điều kiện thực hiện
tốt các phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của công
đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong hiện tại cũng như trong
tương lai để công đoàn thực sự là chỗ dựa vững chắc của người lao động, đảm bảo
cho các quy định của Luật lao động, Luật công đoàn được thực thi.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Văn bản pháp luật:
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992).
2. Bộ luật lao động Việt Nam 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002).
3. Luật công đoàn Việt Nam (năm 1990).
4. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (năm 1996).
5. Nghị định số 133/HĐBT ngày 20-4-1991 của Hội đồng Bộ trưởng hướng
dẫn thi hành Luật công đoàn
6. Nghị định 302/HĐBT ngày 19-8-1992 về quyền và trách nhiệm của công
đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, cơ quan.
7. Nghị định 198/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao
động.
8. Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 9-5-2003 của Chính phủ quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao
động.
9. Nghị định 196/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về thoả ước lao động
tập thể.
10. Nghị định 93/2002/NĐ-CP ngày 11-11-2002 sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 196/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về thoả ước lao động
tập thể.
11. Nghị định 195/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi.
12. Nghị định 109/2002/NĐ-CP ngày 27-12-2002 sửa đổi bổ sung một số
điềuu của Nghị định 195/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
13. Nghị định 12/CP ngày 26-1-1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
59
14. Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 9-1-2003 của Chính phủ về việc sửa đổi
bổ sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26-1-1995 của Chính phủ.
15. Chỉ thị số 60/CT ngày 24-2-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về thi
hành Nghị định 133/HĐBT hướng dẫn thi hành Luật Lao động.
* Văn kiện điều lệ:
16. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam
17. Điều lệ công đoàn Việt Nam (1998).
18. Thông tri 50/TTr-TLĐ ngày 1-4-1995 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam về việc xây dựng công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững mạnh.
19. Thông tri số 68/TTr-TLĐ ngày 27-5-1999 của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam hướng dẫn thi hành Điều lệ công đoàn Việt Nam.
20. Công văn số 674/TLĐ ngày 9-6-1997 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam hướng dẫn các cấp công đoàn tham gia giải quyết tranh chấp lao
động.
21. Công văn số 105/TLĐ ngày 25/1/2000 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam hướng dẫn về tổ chức, thành lập, nhiệm vụ và nội dung hoạt động
của công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp cổ phần.
* Sách, tạp chí, các nguồn tài liệu khác:
22. Giáo trình Luật Lao động Việt Nam - Đại học Luật Hà Nội - NXB Công
an Nhân Dân - 1999.
23. Giáo trình Luật Lao động Việt Nam - Dương Kim Thế Nguyên - Khoa
Luật Đại học Cần Thơ - 2001.
24. Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động công đoàn khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh - NXB Lao Động - 1997.
25. Những bài giáo dục chính trị cơ bản trong công nhân lao động - NXB Lao
Động - 1998, 2000.
26. Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp lao
động và hạn chế đình công chưa đúng luật - NXB Lao động - Xã hội -
2000.
27. Một số điều cần biết về công đoàn Việt Nam - Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam - 2000.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứuLuaän vaên toát nghieäp Cöû nhaân Luaät
Cao Thò Toá Oanh
60
28. Giáo sư Văn Tạo - Một số vấn đề về vai cấp công nhân và công đoàn Việt
Nam - NXB Chính trị quốc gia - 1997.
29. Phùng Quốc Việt - Vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động làm công ăn lương trong các doanh
nghiệp tại TP.HCM - Đại học Luật TP.HCM.
30. Báo Lao động và báo Lao động điện tử (www.laodong.com.vn) các số ra
năm 2001, 2002, 2003.
31. Tạp chí Lao động và công đoàn các số ra năm 1996, 1998, 2000, 2001,
2002, 2003.
32. Báo Người Lao động các số ra năm 1999, 2000, 2001, 2002.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63625 kilobooks.com.doc
- 63625 kilobooks.com.pdf