KHẨU GẠO MIỀN NAM.
I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
II. TỔNG QUAN VÊ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
III. NHỮNG NÉTCHÍNH VỀ CÔNG TY
IV. TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA CÔNG TY KHI CHUYỂN SANG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
V. TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÔNG TY.
VI. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÔNG TY.
VII. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU TỚI NỀN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC.
1. Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ Công nghiệp hoá,Hiện đại hoá đất nước.
2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
3. Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống
nhân dân.
4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại của
nước ta.
PHẦN II: Cơ sở của hoạt động kinh doanh quốc tế.
vừa qua.[/I]
I. CỞ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ.
a) Mở rộng phạm vi thị trường kinh doanh.
II. NẾU LÀ NHÀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM TRONG 5 NĂM TỚI THÌ EM SẼ QUAN TÂM TỚI NHỮNG MẶT HÀNG
LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM MÀ ĐẶC BIỆT LÀ XUẤT KHẨU GẠO.
1. Thực trạng về nhu cầu lương thực của thế giới hiện nay:
2. Hiện trạng sản xuất lương thực, thực phẩm ở Việt Nam.
a) Sản xuất lương thực.
b) Việc phát triển chăn nuôi.
c) Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
3. Thành tích đạt được trong xuất khẩu lương thực, thực phẩm của Việt Nam thời
gian gần đây.
4. Định hướng nghiên cứu phát triển cây lương thực.
5. Bên cạnh đó Việt Nam còn có nhiều chính sách cho phát triển ngành lương thực
thực phẩm.
c) Các ưu tiên và chiến lược nghiên cứu cây lương thực
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3403 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với công ty xuất khẩu gạo Miền Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI.
Câu 1: Trình bày vai trò của hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua những ví dụ thực tế đối với các chủ thể của Việt Nam.
Câu 2: Trình bày cơ sở của hoạt động kinh doanh quốc tế. Nếu là nhà hoạch định chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 5 năm tới thì bạn sẽ quan tâm tới những lĩnh vực hay mặt hàng gì? Hãy giải thích thông qua những ví dụ thực tế trong các năm vừa qua.
BÀI LÀM.
Câu 1: Trình bày vai trò của hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua những ví dụ thực tế đối với các chủ thể của Việt Nam.
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUÁT KHẨU ĐỐI VỚI CÔNG TY XUẤT KHẨU GẠO MIỀN NAM.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Việc chuyển sang cơ chế thị trường, thương mại quốc tế cùng với việc tham gia sâu rộng vào sự phân công lao động quốc tế, Việt Nam đang từng bước hòa nhập, thay đổi và đi đúng quỹ đạo của sự phát triển quốc tế. Để nền kinh tế ngày càng phát triển đuổi kịp các nước trong khu vực cũng như trên thế giới thì kinh doanh quốc tế được xem là một trong những ngành kinh tế chiến lược. Đồng thời kinh doanh quốc tế là một bộ phận quan trọng tạo động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước, góp phần làm phát triển kinh tế đất nước, thu về lượng ngoại tệ nhằm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động đưa đất nước ngày một giàu mạnh.
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính, học tập kinh nghiệm quản lý, công nghệ, tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng, tăng mức thu nhập của nhân dân và phát huy nội lực là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.
Chính vì lý do đó em xin phân tích vai trò của kinh doanh quốc tê mà cụ thể là tác động của hoạt động xuất khẩu đối với công ty XUẤT KHẨU GẠO MIỀN NAM để thấy rõ vai trò của hoạt động kinh doanh quốc tế đối với các chủ thể nói riêng và nền kinh tế VN nói chung.
II. TỔNG QUAN VÊ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động mua bán không chỉ diễn ra trong phạm vi nội địa mà mở rộng ra toàn thế giới. Việc mua bán này có thể đem lại hiệu quả rất cao hoặc hiệu quả kinh tế xấu vì đây là việc mua bán giữa nước này với nước khác, không dễ dàng khống chế các chủ thể nước ngoài trong hoạt động mua bán ngoại thương.
Doanh nghiệp xuất khẩu có lời từ các hoạt động mua bán xuất khẩu thì không chỉ có doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả mà đứng trên góc độ nền kinh tế, nền kinh tế thu được một lượng ngoại tệ từ hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy doanh nghiệp xuất khẩu phải tuân theo sự quản lý của nhà nước, nghĩa là nhà nước quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu ở tầm vĩ mô bằng các công cụ riêng như tỉ giá hối đoái, thuế quan, những hạn mức đối với những mặt hàng được coi là chủ lực của nước ta và những mặt hàng định hướng cho nền kinh tế để hạn chế bớt những rủi ro, thiệt hại cho doanh nghiệp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung.
Do vậy có thể nói hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường rất đặc biệt.
NHỮNG NÉTCHÍNH VỀ CÔNG TY
Tên công ty: CÔNG TY XUẤT KHẨU GẠO MIỀN NAM.
Trụ sở chính: 34 – 36 Hai Bà Trưng, TP Long Xuyên, Tỉnh An Giang.
Điện thoại: 076.841021 – 841590
Fax : 076.843199
Email : xnknstpagg@hcm.vnn.vn.
Chi nhánh đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh:
+Địa chỉ : 32/3 Nguyễn Huy Lượng, Quận Bình Thạnh, TP HCM.
+Điện thoại : 08.8431472 – 08.8431473.
+Fax : 08.8412639.
+Email : afiex@fmail.vnn.vn
Đặc điểm hoạt động của Công ty:
Là một công ty của Nhà Nước, tổ chức kinh doanh theo hệ thống hạch toán kinh tế độc lập, tham gia vào kinh tế thị trường tạo ra lợi nhuận, bảo toàn được đồng vốn, góp phần ổn định tình hình lưu thông hàng hóa trên thị trường cả trong và ngoài nước, đảm bảo việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty.
Thông qua xuất nhập khẩu, công ty góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển, thu về ngoại tệ đóng góp cho ngân sách Nhà Nước.
TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA CÔNG TY KHI CHUYỂN SANG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
Bảng 1: Cơ cấu doanh thu xuất khẩu của công ty từ 2007-2009
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Doanh thu (triệu đồng)
Tỷ trọng %
Doanh thu (triệu đồng)
Tỷ trọng %
Doanh thu (triệu đồng)
Tỷ trọng %
Tiêu thụ nội địa
196.097
43,7
241.218
42,2
270.019
34,9
Xuất khẩu
252.701
56,3
330.565
57,8
504.333
65,1
Tổng
448.798
100,0
571.783
100,0
774.352
100,0
Qua bảng số liệu cho thấy doanh thu xuất khẩu tăng dần qua các năm. Từ 252.701 triệu đồng năm 2007 chiếm 56,3% tỷ trọng tăng lên 330.565 triệu đồng năm 2008 chiếm 57,8% và năm 2009 tiếp tục tăng lên 504.333 triệu đồng chiếm 65,1%.
Năm 2009 tăng so với năm 2008 là 173768 triệu đồng, so với năm 2007 là 251632 triệu đồng trong khi năm 2008 tăng so với năm 2007 là 77864 triệu đồng. Điều này cho thấy doanh thu xuất khẩu ngày một tăng cao.
Từ đó cho thấy tốc độ tăng doanh thu của xuất khẩu rất cao. Tốc độ tăng doanh thu của năm 2008 so với năm 2007 là 30% và tốc độ tăng doanh thu năm 2009 so với năm 2008 là 52,57%.
Trong khi đó tiêu thụ nội địa của công ty trong những năm qua đang có chiều hướng giảm đi và không còn là thị trường chính của công ty.
Qua bảng kết quả kinh doanh cho thấy doanh thu năm 2007 là 448.798 triệu đồng; năm 2008 là 571.783 triệu đồng, tăng so với năm 2007 là 122.985 triệu đồng; đến năm 2009 doanh thu của công ty đạt 774.352 triệu đồng, tăng so với năm 2008 là 202.569 triệu đồng và tăng so với năm 2007 là 324.554 triệu đồng. Doanh thu của công ty tăng qua các năm, đặc biệt là năm 2009 tăng gấp 1,3 lần so với năm 2008 và gấp 1,7 lần so với năm 2007, điều này chứng tỏ công ty hoạt động ngày càng phát triển, doanh thu ngày càng cao.
Tuy nhiên để đánh giá tình hình hoạt động của công ty một cách chính xác và khách quan hơn thì sử dụng các tỷ số tài chính.
Bảng 2: Các tỷ số tài chính.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2007
2008
2009
Tỷ số về khả năng thanh toán
Hệ số thanh toán ngắn hạn
Lần
0,91
1,09
1,00
Hệ số thanh toán nhanh
Lần
0,48
0,55
0,54
Tỷ số về cơ cấu taì chính
Tỷ số đảm bảo nợ dài hạn
Lần
2,20
2,47
2,57
Tỷ số nợ
Lần
0,79
0,74
0,75
3.Tỷ số hoạt động
Kỳ thu tiền bình quân.
Ngày
61
57
40
4.Tỷ số doanh lợi
Tỷ lệ lãi gộp
%
8,37
12,10
6,94
Doanh lợi tiêu thụ
%
4,36
4,48
4,36
ROA
%
0,80
0,80
0,90
-Về khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty : năm 2007 là 0,91; năm 2008 tăng lên là 1,09; đến năm 2009 hệ số thanh toán ngắn hạn là 1. Mức độ thay đổi về khả năng thanh toán ngắn hạn qua các năm là không lớn, điều này cho thấy mức độ trang trải của tài sản lưu động đối với nợ ngắn hạn mà không cần tới một khoản vay mượn thêm của công ty là rất tốt, khả năng trả nợ khi đến hạn là rất cao.
-Về khả năng thanh toán nhanh của công ty : năm 2007 là 0,48; năm 2008 tăng lên 0,55; đến năm 2009 hệ số thanh toán nhanh là 0,54. Từ những số liệu này cho thấy công ty có khả năng đáp ứng nhanh các khoản nợ ngắn hạn, khả năng chi trả là rất tốt, không gây ra tình trạng mất cân đối của vốn lưu động.
-Về tỷ số đảm bảo nợ dài hạn nhìn chung là tăng dần qua các năm, cụ thể là từ 2,2 năm 2007 tăng lên 2,47 năm 2008; đến năm 2009 tiếp tục tăng lên là 2,57, điều này cho thấy khả năng đảm bảo nợ dài hạn của công ty là rất tốt, tỷ số là rất cao và mỗi năm đều tăng, tạo niềm tin cho các chủ nợ, thuận lợi cho việc vay vốn dài hạn để phát triển hoạt động kinh doanh của công ty.
-Về tỷ số nợ : năm 2007 là 0,79; năm 2008 là 0,74; năm 2009 là 0,75. Những số liệu này chênh lệch không cao, mức độ thay đổi qua các năm là không lớn, chứng tỏ tỷ lệ của vốn vay trong tổng số vốn của công ty là tương đối cao. Tuy nhiên, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và tỷ số đảm bảo nợ dài hạn của công ty là rất tốt, điều này làm cho các chủ nợ an tâm, tin tưởng vào công ty.
-Về kỳ thu tiền bình quân : năm 2007 là 61 ngày, năm 2008 giảm xuống còn 57 ngày, năm 2009 tiếp tục giảm thấp còn 40 ngày. Từ những số liệu này cho thấy khả năng thu hồi vốn trong thanh toán tiền hàng của công ty là nhanh và giảm dần qua các năm, điều này là rất tốt, chứng tỏ vốn của công ty ít bị đọng trong khâu thanh toán.
-Về tỷ lệ lãi gộp : năm 2007 là 8,37%; năm 2008 tăng lên là 12,1%; đến năm 2009 giảm xuống còn 6,94%. Điều này cho thấy khả năng trang trải chi phí đặc biệt là chi phí bất biến để đạt lợi nhuận là vừa phải.
-Năm 2008 tăng 3,73% nguyên nhân là do doanh thu thuần tăng so với năm 2007 là 27%, lợi tức gộp cũng tăng so với năm 2007 là 84%, tốc độ tăng lãi gộp cao hơn tốc độ tăng doanh thu làm cho tỷ lệ lãi gộp tăng so với năm 2007.
Năm 2009 giảm so với năm 2008 là 5,16% nguyên nhân là do doanh thu thuần năm 2009 tăng so với năm 2008 là 34%, trong khi đó lợi tức gộp lại giảm so với năm 2008 là 23% làm cho tỷ lệ lãi gộp giảm. Nguyên nhân làm cho lãi gộp năm 2009 giảm là do giá vốn tăng cao 42% trong khi đó doanh thu thuần chỉ tăng 34%, tốc độ tăng của doanh thu thấp hơn tốc độ tăng của giá vốn làm cho lãi gộp giảm thấp. Do đó công ty cần phải đề ra nhiều biện pháp để làm giảm chi phí, tăng doanh thu để lợi nhuận ngày càng tăng.
-Về doanh lợi tiêu thụ tăng dần qua các năm, cụ thể là từ 4,36% năm 2007 tăng lên 4,48% năm 2008, đến năm 2009 ở mức 4,36%. Điều này cho thấy mức sinh lời trên doanh thu của công ty tăng dần qua các năm.
-Về tỷ lệ lãi trên tổng tài sản (ROA) : năm 2007 là 0,8%; năm 2008 vẫn là 0,8%; đến năm 2009 có tăng so với hai năm trước là 0,9%. Điều này cho thấy sự sắp xếp, phân bổ và quản lý tài sản của công ty là hợp lý và hiệu quả. Chỉ tiêu này tương đối ổn định, chứng tỏ tình hình tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phương thức hành động của công ty là tương đối tốt.
* Tóm lại : tình hình hoạt động của công ty là tốt, ngày càng phát triển, có nhiều triển vọng trong tương lai.
TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÔNG TY.
-Tác động từ XK tới thị trường tiêu thụ SP của công ty :
Bảng 3: sản lượng tiêu thụ sp (ĐV:SP)
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Xuất khẩu
199.981
369.355
488.340
Nội địa
151.379
125.706
143.278
Tổng
351.360
495.061
631.618
Qua bảng phân tích cho thấy thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty tăng mạnh qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn hơn thị trường tiêu thụ nội địa.
-Tác động từ XK tới doanh thu và lợi nhuận của công ty:
Doanh thu của công ty đã tăng nhanh từng năm. Năm 2007 là 448.798 triêu đồng, năm 2008 là 571783 triệu đồng, năm 2009 là 774.352 triệu đồng.
Doanh lợi tiêu thụ của công ty năm 2007 là 19.567,6 triêu đồng. Năm 2008 đạt 25.615,9 triệu đồng. Năm 2009 là 33.761,7 triệu đồng.
-Tác động tới trình độ kỹ thuật của công nhân viên:
Để đáp ứng được với yêu cầu kỹ thuật cao của trang thiết bị hiện đại công ty cũng đã có những chương trình đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân. Số lượng công nhân có trình độ là kỹ sư đại học tăng cao và đạt 127 người năm 2009.
-Tác động tới công nghệ và trang thiết bị của công ty:
Công ty đã đáp ứng được đòi hỏi về qui trình sản xuất và hoàn thiện theo công nghệ mới của các đối tác nước ngoài.
-Tác động tới thu nhập của công nhân viên.
Thu nhập bình quân của công nhân tăng lên qua các năm: năm 2007 thu nhập bình quân là 3,6 triệu đồng. năm 2008 là 3,8 triệu đồng và năm 2009 là 3,9 triệu đồng.
-Tác động từ chênh lệch từ tỷ giá ngoại tệ:
Công ty thường xuyên bị tác động mạnh từ sự chênh lệch vè tỷ giá của đồng VND so với các đồng tiền khác từ các bạn hàng là nước ngoài, điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới kế hoạch kinh doanh của công ty.
VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÔNG TY.
Hoạt động xuất khẩu với các công ty có vai trò rất quan trọng. Thực chất nó là hoạt động bán hàng của các Công ty xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận từ hoạt động này góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty. Lợi nhuận là nguồn bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh, các quỹ của Công ty. Lợi nhuận cao cho phép Công ty đẩy mạnh tái đầu tư vào tài sản cố định, tăng nguồn vốn lưu động để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, giúp Công ty ngày càng mở rộng và phát triển.
Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị trường quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp.
Xuất khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị trường của mình.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh nghiệp không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước ngoài. Để có được điều này Công ty, ngược lại phải đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng hàng hoá, phương thức giao dịch, thanh toán,...
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK cũng như các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong khả năng xuất khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm.
Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị tham gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá thành của sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết kiệm các nguồn lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm lợi nhuận.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU TỚI NỀN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hoá trong quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng.
Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Để tiến hành Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá thì cần phải có đủ 4 nhân tố nhân lực, tài nguyên, nguồn vốn và kỹ thuật. Nhưng hiện nay, không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các yếu tố đó đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Để Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật,công nghệ tiến tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Từ tích luỹ trong nền kinh tế quốc dân
- Đầu tư nước ngoài.
- Vay nợ, viện trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịchvụ thu ngoại tệ.
- Xuất khẩu hàng hoá.
2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với Việt Nam.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là: xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng và nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé, không có cơ sở tồn tại và phát triển.
Hai là: trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước mình, coi thị trường là điểm xuất phát và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, chỉ sản xuất cái gì thị trường cần. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới kết hợp với tiềm năng, thực lực của đất nước để tổ chức sản xuất, hình thành các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó phải có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để hàng hoá khi tham gia thị trường thế giới có đủ sức cạnh tranh và mạng lại lợi ích cho quốc gia. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đó là:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường .
Như vậy, theo cách hiểu này, xuất khẩu được coi là giải pháp làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.
3. Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống của người dân bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập khá. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu người dân.
4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về thương mại, kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia khác. Các hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế là xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, đầu tư quốc tế, du lịch dịch vụ, xuất khẩu lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác sản xuất, hợp tác tài chính.
Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu (tất nhiên không coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong nước), khuyến khích tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng hu ngoại tệ cho đất nước.
Câu 2: Trình bày cơ sở của hoạt động kinh doanh quốc tế. Nếu là nhà hoạch định chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 5 năm tới thì bạn sẽ quan tâm tới những lĩnh vực hay mặt hàng gì? Hãy giải thích thông qua những ví dụ thực tế trong các năm vừa qua.
CỞ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ.
Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy các doanh nghiẹp tham gia mạnh mẽ vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Trong đó có 3 hoạt động chính là mở rộng cung ướng, tiêu thụ hàng hóa, tìm kiếm các nguồn lực ở nước ngoài, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh.
Mở rộng phạm vi thị trường kinh doanh.
Số lượng hàng hóa và trị giá hàng hóa(doanh số) được cung ứng, tiêu thụ tùy thuộc vào số người quan tâm đến snr phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Thị trường nội địa luôn bị giới hạn về sức mua, về nhu cầu. Nếu doanh nghiệp tham gia vào thị trường nước ngoài sẽ khắc phục được sự chật hẹp của thị trường nội địa do số lượng khách hàng, sức mua và khả năng cung ứng của khách hàng trên thị trường thế giới luôn lớn hơn thị trường quốc gia. Nếu doanh nghiệp luôn mở rộng hoạt động kinh doanh ra nhiều khu vực thị trường khác nhau sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao doanh số kinh doanh của mình.
b) Lợi thế so sánh khi sản xuất sản phẩm của các nước tham gia.
Lợi thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phítương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế.
VD: Bảng 1: Chi phí về lao động sản xuất
Sản phẩm
Anh (giờ công)
Bồ Đào Nha(Giờ Công)
1 đơn vị lúa mỳ
15
10
1đơn vị rượu vang
30
15
Trong ví dụ này Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối so với Anh trong sản xuất cả lúa mỳ lẫn rượu vang: năng suất lao động của Bồ Đào Nha gấp hai lần Anh trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy nghĩ thông thường, trong trường hợp này Bồ Đào Nha sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ Anh cả. Thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận hoàn toàn khác:
1 đơn vị rượu vang tại Anh sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mỳ (hay nói một cách khác, chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 2 đơn vị lúa mỳ); trong khi đó, tại Bồ Đào Nha, để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mỳ (hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 1,5 đơn vị lúa mỳ). Vì thế ở Bồ Đào Nha sản suất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Anh.
Tương tự như vậy, ở Anh, sản xuất lúa mỳ rẻ hơn tương đối so với Bồ Đào Nha (vì chi phí cơ hội chỉ có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Bồ Đào Nha phải mất 2/3 đơn vị rượu vang). Hay nói một cách khác, Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang còn Anh có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mỳ. Để thấy được cả hai nước sẽ cùng có lợi nếu chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh: Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mỳ rồi trao đổi thương mại với nhau, Ricardo đã làm như sau:
Ông giả định nguồn lực lao động của Anh là 270 giờ công lao động, còn của Bồ Đào Nha là 180 giờ công lao động.
Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá và theo chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra như sau:
Bảng 2- trước khi có thương mại.
Quốc gia
Số đơn vị lúa mỳ
Số đơn vị rượu vang
Anh
8
5
Bồ Đào Nha
9
6
Tổng
17
11
Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mỳ rồi trao đổi thương mại với nhau thì số lượng sản phẩm được sản xuất ra sẽ là:
Quốc gia
Số đơn vị lúa mỳ
Số đơn vị rượu vang
Anh
18
0
Bồ Đào Nha
0
12
Tổng
18
12
Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mỳ và rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại (là lúc hai nước cùng phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai loại sản phẩm).
c) Tìm kiếm các nguồn lực nước ngoài.
Đối với mỗi quốc gia các nguồn tiềm năng sẵn có không phải là vô hạn có giới hạn, vì vậy các doanh nghiệp cần tìm kiếm các nguồn lực từ nước ngoài như:nhân công dồi dào và giá rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn, đa dạng…
Không những thế các doanh nghiệp còn muốn có cơ hội đầu tư mới và có sự đầu tư của các nước nhà đầu tư nước ngoài.
II. NẾU LÀ NHÀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG 5 NĂM TỚI THÌ EM SẼ QUAN TÂM TỚI NHỮNG MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM MÀ ĐẶC BIỆT LÀ XUẤT KHẨU GẠO.
Thực trạng về nhu cầu lương thực của thế giới hiện nay:
Hiện nay trên thế giới có khoảng 842 triệu người không đủ ăn mỗi ngày. Trong hoàn cảnh đó, ta làm sao có thể đáp ứng được nhu cầu thực phẩm của số dân sẽ tăng lên thêm 3 tỷ từ đây cho đến năm 2050? Thật khó mà trả lời cho câu hỏi này nhất là khi việc gia tăng sản xuất nông nghiệp được đòi hỏi là không ảnh hưởng đến môi trường, đến chất lượng vệ sinh và chất lượng dinh dưỡng của thực phẩm. Sau khi giới thiệu toàn cảnh về tình hình thực phẩm thế giới, quyển sách này vạch ra nhiều đường khác nhau giúp ta có thể chấp nhận thách thức lớn lao này.
Theo tính toán của Liên hợp quốc, Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới, hiện nay giá lương thực đã đạt mức kỷ lục và có thể sẽ còn tăng cao hơn nữa.
Bước sang năm 2011, chỉ số giá lương thực trên thế giới đã tăng 28,3% so với giữa năm 2010, trong đó giá ngũ cốc tăng tới 44,1% đang làm dấy lên lo ngại về một cuộc khủng hoảng lương thực có thể đang đến gần.
Một loạt những diễn biến bất thường của khí hậu đã gây sức ép lên giá thực phẩm như hạn hán nghiêm trọng tại Nga, bão lụt tại úc, mùa đông lạnh giá tại Mỹ và lụt lội nhấn chìm những cánh đồng cọ tại Malaysia. Sự tăng giá nông sản lần này diễn ra cách chỉ ba năm sau lần khủng hoảng gần nhất vào năm 2008.
Tại Hội thảo “Tác động của việc tăng giá lương thực đến nền kinh tế và đời sống nông dân Việt Nam”, vừa diễn ra do Viện Chính sách và Chiến lược nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tổ chức, các chuyên gia đã nhận định: Tình hình giá lương thực tăng hiện nay không giống sự tăng giá của cuộc khủng hoảng lương thực năm 2007-2008.
Tăng giá lương thực năm 2008 là do sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, hiện tượng đầu cơ vào sản phẩm nông nghiệp của các nhà tài chính, thêm vào đó là tác động về mặt chính trị, sự thắt chặt chính sách xuất khẩu, hạn hán, mất mùa tại một số nước... Còn tại thời điểm hiện nay, giá lương thực tăng không phải là dấu hiệu bất thường, nguồn cung vẫn đảm bảo tốt, không có dấu hiệu đầu cơ, hay hạn chế xuất nhập khẩu. Sẽ không có khủng hoảng lương thực.
Thế giới đang cạn dần lương thực giá rẻ, nhưng vẫn rất dồi dào tiềm năng cung ứng lương thực, chỉ có điều những tiềm năng này chưa được khai thác. Hiện tượng thiếu hụt nguồn cung lương thực cục bộ hiện nay, bắt nguồn từ sai lầm của một số Chính phủ, các tổ chức phát triển và nhà tài trợ trong gần 3 thập kỷ qua trong việc giảm đầu tư nguồn lực vào nông nghiệp.
Không chỉ lương thực, mà giá cà phê, ca cao, thủy sản, cao su và nhiều hàng nông sản khác đều có giá cao. Xuất khẩu nông sản sẽ đem về một nguồn tiền lớn hơn rất nhiều cho các nước xuất khẩu, đây là cơ hội tốt để tăng thu nhập cho nông dân và tái phân phối phúc lợi xã hội.
Hiện giá xuất khẩu gạo Việt Nam 5% tấm đã đạt 520 USD/tấn, cao hơn cùng thời điểm năm trước 80 USD. Theo dự báo, xuất khẩu gạo thế giới năm nay sẽ tăng hơn 15% so với năm trước và Việt Nam được dự báo sẽ chỉ xếp sau ấn Độ với mức tăng gần 38% so với năm 2010.
Tuy nhiên, ở Việt Nam không phải ai cũng có gạo để bán mà rất nhiều người phải mua gạo. Cho nên phải làm sao vừa hưởng được lợi từ giá đang tăng cho người sản xuất kinh doanh lúa, đặc biệt là nông dân vừa kiềm chế mức tăng giá cả thị trường trong nước. Vấn đề lâu dài là Việt Nam phải có chiến lược nông nghiệp mới để giúp nông dân vượt qua khó khăn và có điều kiện để tăng xuất khẩu gạo.
Theo Trung tâm tư vấn chính sách nông nghiệp, con đường bền vững để thoát khỏi đói nghèo ở cả khu vực thành thị và nông thôn là dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế được dẫn dắt bởi năng xuất sản lượng nông nghiệp cao hơn, tiến trình di chuyển lao động chậm rãi từ trang trại sang nhà máy, và tăng trưởng của khu vực dịch vụ dựa trên tri thức và kỹ năng.
Còn theo các chuyên gia, hiện đang thực sự là thời điểm ổn định và thuận lợi cho những nhà làm chính sách hướng tới mục tiêu xa hơn, có cái nhìn dài hạn hơn. Việt Nam cần tập trung vào xây dựng nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển máy móc công nghệ phục vụ nông nghiệp, phải hướng đến một chiến lược nông nghiệp có chất lượng nhất.
Đây là hướng đi hiệu quả, bới đầu tư cho nông nghiệp không quá đắt đỏ, bình quân cứ đầu tư 120 triệu USD từ nay đến năm 2020, sẽ giúp tăng năng suất và sản lượng lúa gạo thêm 8,5%...
Vấn đề lương thực, thực phẩm là một trong những mối quan tâm lớn, thường xuyên của Nhà nước và nhân dân ta.
Nước ta có dân số đông. Việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm sẽ đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện cơ cấu bữa ăn cho nhân dân; mặt khác tạo điều kiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, thúc đẩy công nghiệp hoá và tạo nguồn hàng xuất khẩu quan trọng.
2. Hiện trạng sản xuất lương thực, thực phẩm ở Việt Nam.
a) Sản xuất lương thực.
Từ sau ngày đất nước thống nhất đến nay, sản xuất lương thực đã đạt được những thành tựu khá vững chắc. Diện tích gieo trồng lúa cả năm không ngừng được mở rộng, từ 5,6 triệu ha (năm 1980), đến nay là hơn 7,6 triệu ha. Nhờ phát triển thuỷ lợi và đưa vào các giống mới phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau, nên cơ cấu mùa vụ đã thay đổi nhiều. Diện tích lúa đông xuân được mở rộng, tới hơn 2,8 triệu ha. Lúa hè thu được đưa vào trồng đại trà. Hàng trăm nghìn ha lúa mùa được chuyển sang làm vụ hè thu, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nhờ đẩy mạnh việc thâm canh, các cánh đồng cho năng suất 7 tấn, 10 tấn (trên đất hai vụ lúa) đã trở nên phổ biến. Năng suất lúa cả năm liên tục tăng, từ 20 tạ/ha (năm 1980) lên hơn 40 tạ/ha (năm 1999), đặc biệt là nhờ năng suất cao và ổn định của lúa đông xuân và lúa hè thu. Việc sản xuất các cây màu lương thực cũng có những tiến bộ, trong đó diện tích và năng suất ngô tăng lên nhiều.
Sản lượng lương thực quy ra thóc đã ở mức 34 triệu tấn (năm 1999), trong đó riêng thóc là 31 triệu tấn. Bình quân lương thực trên đầu người vào khoảng 440 kg/năm, trong đó riêng thóc là 400 kg. Trước kia thường xuyên phải nhập khẩu lương thực, nhưng từ năm 1989 trở lại đây, Việt Nam đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (cùng với Hoa Kì và Thái Lan).
Nước ta còn có nhiều khả năng tăng sản lượng lương thực nhờ tăng vụ và tăng năng suất cây trồng. Tuy nhiên, những khó khăn cần phải giải quyết là tình trạng thiếu vốn, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu trong nước chưa đáp ứng nhu cầu, công nghiệp sau thu hoạch còn nhiều hạn chế. Mặt khác, thiên tai, sâu bệnh làm thiệt hại mùa màng ở nhiều vùng, làm cho sản lượng lương thực chưa ổn định vững chắc.
b) Việc phát triển chăn nuôi.
Ngành chăn nuôi phát triển dựa trên cơ sở thức ăn tự nhiên (đồng cỏ), sản phẩm của ngành trồng trọt, phụ phẩm của ngành thuỷ sản và thức ăn chế biến công nghiệp. Nhờ đảm bảo được cơ sở lương thực cho người, nên nguồn thức ăn cho chăn nuôi đã được giải quyết tốt hơn. Ngành chăn nuôi đang phát triển ngày càng đa dạng hơn, tăng tỉ trọng của những sản phẩm không qua giết mổ như trứng, sữa.
Từ năm 1980 đến năm 1999, đàn lợn đã tăng từ 10 triệu con lên 19 triệu con, cung cấp tớ ¾ sản lượng thịt các loại. Đáng chú ý là đàn bò tăng nhanh, từ 1,7 triệu con lên tới 4 triệu con, còn đàn trâu tăng chậm do sức kéo trong nông nghiệp đã được cơ giới hoá nhiều hơn. Chăn nuôi gia cầm tăng rất mạnh trong những năm gần đây, từ 197 triệu con năm 1999 lên 254 triệu con năm 2009
Tuy nhiên, hiện nay ngành chăn nuôi của ta còn phát triển chủ yếu theo lối quảng canh. Giống gia súc, gia cầm nói chung năng suất còn thấp, chất lượng chưa cao (nhất là cho yêu cầu xuất khẩu). Cơ sở thức ăn cho chăn nuôi chưa được đảm bảo, công nghiệp chế biến thức ăn cho gia súc và công tác dịch vụ thú y vẫn còn hạn chế. Hiệu quả kinh tế của chăn nuôi nói chung vẫn còn thấp.
c) Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
Nước ta có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2. Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú, cho phép khai thác hàng năm 1,2 – 1,4 triệu tấn. Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng điểm là : ngư trường Minh Hải – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa - quần đảo Trường Sa.
Ven bờ biển có nhiều bãi triều, vũng, vịnh, đầm phá có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, nước mặn. Diện tích mặt nước có khả năng nuôi thuỷ sản nước ngọt rất lớn.
Năm 2008 khai thác được khoảng 1200 nghìn tấn cá biển, 50 – 60 nghìn tấn tôm, mực. Chương trình đánh bắt xa bờ đang được triển khai. Nuôi trồng thuỷ sản đang được phát triển mạnh. Sản lượng cá nuôi hơn 300 nghìn tấn, tôm nuôi hơn 55 nghìn tấn.
Ngành thuỷ sản đang được đẩy mạnh phát triển theo hướng hiện đại hoá cả ở khâu đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu.
Sản phẩm của ngành không chỉ cung cấp nguồn đạm động vật quý giá, mà còn tạo ra các nguồn xuất khẩu có giá trị lớn.
d) Việc sản xuất các loại thực phẩm khác đang được khuyến khích.
Các mô hình kinh tế vườn (mô hình VAC, RVAC, “vườn rừng”, “vườn đồi”…) đa dạng, phù hợp với các vùng sinh thái, đã cung cấp phần chủ yếu các loại rau quả và một phần đáng kể thịt, cá, trứng, sữa cho nhu cầu hàng ngày của nhân dân ta.
3. Thành tích đạt được trong xuất khẩu lương thực, thực phẩm của Việt Nam thời gian gần đây.
Nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 22,1% GDP năm 2008, gần 30% giá trị xuất khẩu và trên 60% lực lượng lao động Nông nghiệp nước ta đã tăng trưởng cao và ổn định trong suốt thời gian dài, đạt được những thành tựu to lớn, mặc dù thường gặp những tổn thất nặng nề do thiên tai:.Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực duy nhất trong nền kinh tế liên tục xuất siêu, năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong những giai đoạn kinh tế gặp khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt khoảng 16 tỷ USD gấp 3,8 lần năm 2000, trong đó tăng trưởng trung bình của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giai đoạn 2000 - 2008 là: gạo 13,6%, cà phê 19,4%; cao su 32,5%; điều 27,8%; hải sản 19,1%. (MARD 2009). Định hướng thị trường trong sản xuất nông nghiệp ngày một rõ nét Hộ nông dân đã trở thành đơn vị tự chủ kinh tế. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được tổ chức lại có hiệu quả sản xuất cao hơn. Thu nhập của hộ nông dân và hệ thống hạ tầng nông thôn có được cải thiện. Việc phục hồi rừng, nguồn nước và đa dạng sinh học cũng đã có những kết qủa. Tuy vậy, nông nghiệp vẫn còn nhiều trở ngại và thách thức: Bình quân thu nhập nông dân còn rất thấp. Sự khác biệt lớn giữa các vùng, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng ngày càng tăng. Nhiều vấn đề bức thiết trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn đang tạo áp lực cho tăng trưởng kinh tế và sự ổn định kinh tế xã hội. Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa, ở một nước đông dân, bình quân diện tích đất trên đầu người thấp, tỷ trọng đóng góp GDP, giá trị xuất khẩu và lực lượng lao động cao. Nông nghiệp tiếp tục giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Sau 25 năm đổi mới (1986-2010), Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong nông nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất lương thực. Sản lượng lương thực Việt Nam không những đủ cho nhu cầu trong nước mà còn có khối lượng lớn cho xuất khẩu. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 445 kg năm 2000 lên 501 kg năm 2008. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo và các sản phẩm sắn (tinh bột sắn và sắn lát) đứng thứ hai trên thế giới sau một thời gian dài thiếu lương thực.
Việt Nam hiện đã đạt được an ninh lương thực trên phạm vi quốc gia . Tuy nhiên để đảm bảo được an ninh lương thực ở cấp hộ gia đình trên phạm vi cả nước vẫn đang còn là một vấn đề lớn, đặc biệt ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.
4. Định hướng nghiên cứu phát triển cây lương thực.
Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam 2011-2020 (MARD QĐ số 3310/BNN-KH ngày 12/10/2009) đối với ngành sản xuất lương thưc là “Phát triển sản xuất lúa gạo Việt Nam trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn có hiệu quả và đảm bảo an ninh lương thực.” Trên cơ sở tính toán cân đối giữa nhu cầu tương lai của đất nước và dự báo nhu cầu chung của thế giới nhằm đảm bảo tuyệt đối an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, đảm bảo quyền lợi hợp lý của người sản xuất và kinh doanh lúa gạo và xuất khẩu có lợi nhuận cao, đảm bảo sản lượng lúa đến năm 2020 đạt hơn 41 triệu tấn lúa trên diện tích canh tác 3,7 triệu ha. “Phát triển hợp lý các loại cây trồng có lợi thế cạnh tranh trung bình hoặc thấp, thay thế nhập khẩu” Trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế hợp lý, xác định địa bàn và quy mô sản xuất tối ưu cho những mặt hàng này. duy trì sản lượng tối đa hơn 6,5 triệu tấn ngô hạt năm 2015 và 7,2 triệu tấn năm 2020. Đối với cây trồng áp dụng công nghệ biến đổi gen, tiến hành thử nghiệm và chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở những nơi thích hợp, trước hết áp dụng với cây trồng không trực tiếp sử dụng làm thực phẩm cho người như cây có sợi, cây lấy dầu công nghiệp, cây trồng làm nguyên liệu thức ăn gia súc mà thế giới đã áp dụng rộng rãi. Đối với những cây trồng mới trong tương lai mà thị trường có nhu cầu như cây trồng làm nguyên liệu sản xuất nhiên liệu sinh học (chú trọng diesel sinh học), cây trồng làm vật liệu xây dựng, làm giấy, gỗ và lâm sản, cây dược liệu... cần tiến hành trồng khảo nghiệm và sản xuất thử. Nếu có triển vọng thì mở rộng sản xuất hướng vào những vùng kém thích nghi với các cây trồng cổ truyền hiện nay (các vùng đất trống đồi núi trọc, vùng ven biển, vùng khô hạn,…). Trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế hợp lý, quy hoạch diện tích đất thích hợp ở một số vùng chuyên canh địa phương để tổ chức sản xuất một số loại cây thay thế nhập khẩu như ngô, đỗ tương, bông, thuốc lá, dầu ăn,...
5. Bên cạnh đó Việt Nam còn có nhiều chính sách cho phát triển ngành lương thực thực phẩm.
a) Ưu tiên về cây lương thực theo vùng là:
- Vùng núi và trung du Bắc Bộ: lúa, ngô và sắn
- Đồng bằng sông Hồng: lúa, ngô
- Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ: lúa, ngô
- Đồng bằng sông Cửu Long: lúa
- Đông Nam Bộ: lúa, ngô, sắn
b) Chính sách cho nghiên cứu cây lương thực.
Để vượt qua những khó khăn và thách thức này và đạt được các chỉ tiêu phát triển , cần phải ban hành các chính sách phù hợp cùng với những đầu tư
Hổ trợ mạnh mẽ cho nghiên cứu các cây lương thực chính (nhất là lúa và ngô) để tạo ra các giống năng suất cao, chất lượng tốt và công nghệ sản xuất tiên tiến phù hợp, đặc biệt cho Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long nhằm bảo đảm an ninh lương thực và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
c) Các ưu tiên và chiến lược nghiên cứu cây lương thực
Nghiên cứu sẽ tập trung vào ba cây chính lúa, ngô và sắn. Các ưu tiên và chiến lược cụ thể như sau:
Lúa: • Cải tiến giống: 1) Phát triển giống có chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thị trường trong nước và thế giới, phù hợp với các điều kiện sinh thái nông nghiệp Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. 2) Phát triển các giống lúa năng suất cao cho các vùng sản xuất thâm canh (lúa lai và siêu lúa); 3) Phát triển các giống lúa thích hợp với các điều kiện bất lợi như hạn hán, ngập úng, chua phèn và mặn.
• Nghiên cứu, đề xuất và chuyển giao kỹ thuật canh tác lúa thích hợp cho các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau nhằm đạt được năng suất tiềm năng.
• Nghiên cứu chế tạo thiết bị và công nghệ cho thu họach, xử lý sau thu họach, bảo quản và chế biến gạo, giảm tổn thất, nâng cao chất lượng sản phẩm và giá trị thị trường, kể cả giá trị gia tăng thông qua đa dạng hóa các sản phẩm từ gạo.
• Tiến hành nghiên cứu thị trường và tiếp thị đối với gạo, nhất là thị trường xuất khẩu, bao gồm các yếu tố về cung và cầu, giá cả và biến động giá cả ở tất cả các khâu của sản xuất.
• Tiến hành nghiên cứu hiệu qủa trồng lúa và các yếu tố ảnh hưởng. Ngô:
• Cải tiến giống: phát triển giống ngô (nhất là ngô lai) có năng suất và chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất lợi, phù hợp với yêu cầu của sản xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng và công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi ở các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau của cả nước (đặc biệt ở miền Bắc và Đông Nam Bộ)
• Nghiên cứu đề xuất và chuyển giao kỹ thuật tổng hợp thâm canh ngô
• Nghiên cứu và phát triển thiết bị và công nghệ sau thu hoạch, kéo dài thời gian bảo quản và chế biến ngô, kể cả đa dạng hóa các sản phẩm từ ngô.
• Nghiên cứu thị trường ngô, nhu cầu về ngô cho công nghiệp sản xuất thức ăn gia súc.
•Nghiên cứu hiệu qủa trồng ngô và các yếu tố ảnh hưởng.
Sắn:
• Xây dựng kế hoạch và quy hoạch để xác định vùng trồng sắn thích hợp
• Phát triển giống: phát triển các giống có năng suất và hàm lượng tinh bột cao, tỷ lệ chất khô cao làm nguyên liệu cho công nghiệp ; phát triển các giống thích hợp với vùng đồi núi để đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ.
• Đề xuất và chuyển giao kỹ thuật canh tác tổng hợp cho trồng sắn thâm canh.
• Nghiên cứu, khảo nghiệm và đề xuất thiết bị và công nghệ chế biến sắn thành các sản phẩm lương thực khác nhau, nguyên liệức ăn chăn nuôi và tinh bột.
• Nghiên cứu thị trường sắn cho công nghiệp để phát triển sắn trên quy mô thích hợp.
• Nghiên cứu hiệu qủa kinh tế và tác động của trồng sắn đến môi trường.
CHÍNH VÌ NHỮNG THUẬN LỢI ĐÓ CỦA NGÀNH LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM NÊN TRONG THỜI GIAN TỚI VIÊC XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÀY HỨA HẸN SẼ ĐEM LẠI NHIỀU BƯỚC TIẾN KHẢ QUAN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với công ty xuất khẩu gạo miền nam.docx