MỞ ĐẦUĐối với lĩnh vực kinh tế, dựa vào cách thức giải quyết các vấn đề cơ bản của kinh tế học, các quốc gia trên thế giới đang áp dụng ba mô hình kinh tế chủ yếu, đó là mô hình kinh tế thị trường tự do, mô hình kinh tế mệnh lệnh (hay kế hoạch hóa tập trung) và mô hình kinh tế hỗn hợp.
· Kinh tế thị trường (market economy) là nền kinh tế mà trong đó các quyết định của các cá nhân về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm cho ai đều được thực hiện dưới sự tác động của giá cả thị trường. Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do hoàn toàn.
· Kinh tế kế hoạch hóa tập trung (command economy hay centrally-planned economy) là nền kinh tế mà trong đó chính phủ đưa ra mọi quyết định về sản xuất và phân phối. Cơ quan kế hoạch của chính phủ quyết định sẽ sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào, và phân phối cho ai. Sau đó, các hướng dẫn cụ thể sẽ được phổ biến tới các hộ gia đình và các doanh nghiệp.
· Kinh tế hỗn hợp (mixed economy) là nền kinh tế mà trong đó chính phủ vận hành nền kinh tế theo tín hiệu thị trường. Trong nền kinh tế hỗn hợp, chính phủ có thể hạn chế được những khiếm khuyết cũng như phát huy những ưu điểm của nền kinh tế kế họach hóa tập trung và nền kinh tế thị trường. Do những tính ưu việt đó mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp. Tùy theo mức độ chính phủ can thiệp vào nền kinh tế mà một nền kinh tế có thể lệch về hướng thị trường hay kế hoạch tập trung.
Theo đó Cuba, Trung Quốc và Hungary dẫn đầu về nền Kinh tế kế hoạch hóa tập trung; đứng giữa là Thuỵ Điển; Anh, Mỹ và Hồng Kông là các nước dẫn đầu về nền KTTT hoàn toàn tự do
Vào thế kỷ XX,các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đã tranh luận khá nhiều về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế .Một thực tế đã chứng minh rằng sự thất bại của nền kinh tế tập trung với sự chỉ huy của nhà nước sự thất bại này không chỉ dừng lại ở tốc đột tăng trưởng kinh tế chậm mà còn thể hiện ở cả vấn đề cải thiện đời sống nhân dân.Trong khi đó kinh tế thị trường ở châu Âu,cả châu Á và đặc biệt là ở Mỹ tỏ ra khá thành công.Lúc này những người theo trường phái thị trường tự do đã lớn tiếng trong việc chỉ trích vai trò của nhà nước trong việc điều tiết,can thiệp vào thị trường là đã bóp méo thị trường và làm mất đi tính hiệu quả của nó.
Gần đây,cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra mà ngòi nổ đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào cuối năm 2007.Sự khủng hoảng của nền kinh tế lớn nhất thế giới này có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân lớn nhất bắt nguồn từ hệ thống tài chính lỏng lẻo.Cùng với các công cụ tài chính truyền thống,các nhà tài chính đã sinh ra các công cụ tài chính mới gọi là công cụ tài chính phái sinh.Một cách khách quan các công cụ này tạo ra tính năng động cho thị trường, giúp cho nguồn tài chính được luân chuyển một cách hiệu quả, vừa mang lại lợi ích cho người tiết kiệm, vừa mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Nhưng việc sử dụng các công cụ tài chính này một cách thái quá đặc biệt là việc lơ là công tác giám sát hoạt động này đã tích lũy những rủi ro cho hệ thống tài chính.
Như vậy,một câu hỏi lớn đặt ra cho kinh tế học hiện đại là “Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính là gì?"
PHỤ LỤC
A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 3
I. Hệ thống tài chính. 3
II. Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính. 3
1.Vai trò của Nhà nước đối với thị trường tài chính. 3
a. Khái niệm và bản chất của thị trường tài chính. 3
b. Phân loại thị trường tài chính: 5
c. Vai trò của nhà nước trên thị trường tài chính. 6
2. Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. 13
a, Khái niệm trung gian tài chính. 13
b, Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. 13
3. C ơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật 18
4. Vai trò của các tổ chức có nhiệm vụ giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam: 24
a, Vai trò của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam. 24
b, Những thách thức, khó khăn, bất cập đối với việc giám sát tài chính quốc gia của Việt Nam hiện nay. 26
c, Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại 29
d, Một số giải pháp cơ bản: 31
34 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3008 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính là gì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a hoạt động trên thị trường . thông qua môi trường pháp lý ổn định, Nhà nước quản lý, điều chỉnh, thúc đẩy và làm lành mạnh hoạt động của TTTC , từ đó củng cố lòng tin vào thị trường. những điều này thể hiện trên các mặt:
Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động trên TTTC như: luật công ty, luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán, luạt tín thác, luật lưu ký…( VD: công báo/số 55+56/24-01-2007/VBQPPL/NĐ-CP/128. Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng Khoán : Quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết chứng khoán tại sở giao dịch chứng khoán trung tâm giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ…)
NN ban hành các văn bản dưới luật quy định chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động động của các tổ chức tài chính( ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm…).( VD: Nghi định của chính phủ số 96/2008/NĐ-CP ngày 26 tháng 08 năm 2008 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước việt nam: ND của nghị định như sau
Điều 1. Vị trí và chức năng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ; dự thảo nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Ngân hàng Nhà nước đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ………….
Quy định mô hình tổ chức và quy chế hoạt động của từng loại TTTC
Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế cho sự hình thành và phát triển TTTC
TTTC chỉ ra đời và phát triển trong điều kiện môi trường kinh tế ổn định và phát triển ở một mức độ nhất định. NN tạo ra môi trường kinh tế cho sự hình thành và phát triển của TTTC thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
NN sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô( chính sách tiền tệ, chính sách thuế, chính sách tỷ giá, chính sách thu nhập…) nhằm ổn định môi trường kinh tế, ổn định giá trị của đồng tiền, khuyến khích tích lũy và đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường hình thành và phát triển.
VD:Nền kinh tế Việt Nam
Năm 2008 nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng tác độngcủa khủng hoảng tài chính thế giới. Lạm phát và lãi suất tăng cao đã làm cho khả năng thanh khoản của thị trường giảm sút, từ đó đã ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, trước tình hình đó, nhà nước đã dùng các chính sách tiền tệ của mình để quy định lãi suất cơ bản đối với đồng nội tệ tại các ngân hàng là 12%/năm (tháng 5/2008) và 14%/năm(tháng 6/2008), và lãi suất đối với đồng ngoại tệ là 3%/năm, với chính sách vĩ mô hiệu quả, nền kinh tế đã trở nên ổn định hơn vào cuối năm và lạm phát dừng lại con số có thể kiểm soát, hoạt động của các ngân hàng đi vào ổn định, diều đáng mừng là trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 thì hầu hết các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng và bị suy thoái nhưng Việt Nam là quốc gia duy nhất trong số các nền kinh tế đang nổi lên ở khu vực Đông nam Á không rơi vào tình trạng suy thoái năm 2008 dưới tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Dẫu vậy, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cũng đã cho thấy rằng cuộc khủng hoảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. Tốc độ tăng GDP của cả năm đã giảm chậm lại từ 8,5% năm 2007 xuống còn 6,3% năm 2008 và tiếp đó là 5,3% năm 2009 trước khi hồi phục trở lại mức 6,5% năm 2010. …..
VD: nền kinh tế Mỹ
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy. FED còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm 2008, FED tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo chương trình này. FED còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.
Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007.
NN ban hành chính sách khuyến khích phát hành các công cụ cho TTTC , đồng thời bản thân NN cũng tham gia vào phát hành trái phiếu chính phủ,, tín phiếu kho bạc, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệpNN, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và tài chính đối ngoại
NN giám sát các hoạt động của TTTC
Việc giám sát của nhà nước đối với TTTC là cần thiết để đảm bảo cho chúng hoạt động và phát triển ổn định, lành mạnh. Thông qua việc giám sát hoạt động của thị trường, NN có các biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đảm bảo trật tự trên TTTC, từ đó bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia các hoạt động trên TTTC. Mặt khác, thông qua giám sát NN có các biện pháp điều chỉnh hoạt động của TTTC đảm bảo sự lành mạnh và ổn định của thị trường.
Việc kiểm tra giám sát của nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan chức năng ngân hàng nhà nước, bộ tài chính, UB chứng khoán quốc gia
Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam hiện nay về thực chất được tổ chức theo mô hình phân tán chuyên ngành, tức là mỗi bộ phận của thị trường tài chính được giám sát bởi một cơ quan giám sát chuyên ngành như: Thị trường ngân hàng được giám sát bởi cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); thị trường chứng khoán được giám sát bởi Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) ; thị trường bảo hiểm được giám sát bởi Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (trực thuộc Bộ Tài chính). Với mô hình như vậy tất yếu sẽ có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm: Bảo đảm giám sát được các định chế trung gian tài chính một cách chặt chẽ, thường xuyên.
Nhược điểm: Với mô hình như trên sẽ tất yếu dẫn đến những khoảng trống trong hoạt động giám sát như giám sát chéo hoạt động trong các tập đoàn tài chính kinh doanh đa ngành và giám sát rủi ro đan xen giữa các bộ phận của thị trường khó thực hiện, giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính bị xem nhẹ, đồng thời việc điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành không thực hiện được.
Để khắc phục những nhược điểm trên, tháng 03 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia. Uỷ ban này có chức năng giám sát chung thị trường tài chính và tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính.
Như vậy, TTTC là một trong những phần quan trọnghệ thống tài chính. Sự tạo lập và phát triển TTTC đóng một vai trò không thể thay thế trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Một thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả sẽ tận dụng được ở mức cao nhất mọi nguồn vốn tiềm tang trong nước và từ nước ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân. Vai trò của nhà nước đối với TTTC vô cùng quan trọng, nhưng không thể ép buộc hoàn toàn nền kinh tế dưới sự chỉ huy của Nhà nước mà vẫn phải để cho thị trường tự điều tiết, để thị trường tài chính phát triển một cách hoàn thiện nhất trong xu hướng của nền kinh tế thị trường hiện nay.
2. Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính.
a, Khái niệm trung gian tài chính
Trung gian tài chính là các tổ chức tài chính chuyên nghiệp cung ứng các dịch vụ tài chính bằng cách huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi dưới nhiều hình thức khác nhau rồi dùng các nguồn vốn này để đầu tư (chủ yếu là cho vay) nhằm mang lại lợi ích cho các bên giao dịch.
Các trung gian tài chính gồm các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ hưu trí, các quỹ đầu tư…Mỗi loại hình trung gian tài chính đều có phân khúc thị trường riêng. Các ngân hàng thương mại huy động vốn thông qua việc huy động tiền gửi mà chủ yếu là tiền tiết kiệm để cho vay. Công ty tài chính huy động vốn chủ yếu qua hình thức phát hành trái phiếu để cho vay dưới hình thức thuê mua, cho vay tiêu dùng. Các công ty bảo hiểm huy động vốn chủ yếu qua việc thu bảo hiểm phí từ bán các sản phẩm bảo hiểm và chịu trách nhiêm khi có rủi ro xảy ra theo hợp đồng bảo hiểm. Quỹ hưu trí huy động vốn từ việc đóng góp một phần thu nhập hàng tháng của người lao động để chi trả khi người lao động mất hoặc hết khả năng lao động. Nguồn tài chính nhàn rỗi của quỹ này cũng sử dụng để đầu tư nhưng chỉ trong những lĩnh vực đầu tư an toàn.
b, Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính.
Can thiệp vào các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng để kiểm soát rủi ro qua các quy định giới hạn lĩnh vực công việc.
Với xu thế phát triển cao của thị trường, ranh giới giữa các trung gian tài chính và các thị trường ngày càng mờ nhạt. Chẳng hạn, các công ty bảo hiểm cũng có thể cho vay, các quỹ đầu tư cũng cũng có thể tài trợ vốn cho dự án, các công ty bảo hiểm cũng có thể bán các sản phẩm hưu trí tự nguyện. Điều tai hại ở chỗ trung gian tài chính lao vào cuộc đầu tư tài chính với vai trò là một nhà đầu tư để kiếm lợi nhuận từ sự chênh lệch. Luồng vốn không được đổ vào kinh doanh mà vào việc mua bán trên thị trường vốn.
Để thực hiện chức năng can thiệp vào các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng để kiểm soát rủi ro qua các quy định giới hạn lĩnh vực công việc, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những quyết định đối với hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Ví dụ: Theo Luật tổ chức tín dụng năm 2010, các hoạt động huy động vốn của các tổ chức phi ngân hàng trong lĩnh vực chứng khoán, dịch vụ đầu tư tài chính sẽ phải chấm dứt từ đầu năm 2011.
Năm 2011 Ngân hàng Nhà nước vừa đưa ra dự thảo lần thứ 2 của thông tư hướng dẫn điều kiện, hồ sơ, trình tự và thủ tục góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng. Dự thảo lần này quy định kỹ lưỡng và có phần chặt chẽ hơn về điều kiện để các Ngân hàng góp vốn mua cổ phần dưới dạng công ty liên doanh, liên kết hoặc dưới dạng doanh mục đầu tư.
Việc kiểm soát và hạn chế các ngân hàng thương mại thành lập công ty con, công ty liên kết là cần thiết để tránh tình trạng thông qua các công ty liên kết lách luật cho vay nội bộ lẫn nhau. Điều này cũng giúp cho hệ thống ngân hàng tránh được tình trạng rủi ro khi đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác.
Kiểm soát chặt chẽ tỷ lệ lãi suất
Nhìn vào nền kinh tế Việt Nam năm 2008, lãi suất cơ bản được tăng lên 12%/năm (tháng 5/2008) và 14%/năm(tháng 6/2008) lúc này các nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam thực sự cảm thấy sức nóng từ các cỗ máy kinh doanh đang cạn kiệt dầu bôi trơn tín dụng. Các trung gian tài chính nhảy vào cuộc với vai trò của nhà đầu tư, trong khi các tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các ngành nghề tài chính đều thua lỗ trong khi phần thuchủ yếu từ đầu tư tài chính. Trong khi đó, các Tổng công ty tập đoàn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các dự án thì vẫn thành lập ra hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài chính.
Trung gian tài chính ở nước ta phát triển quá nóng về số lượng ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán. Sự phát triển quá nhanh của các công ty chứng khoán trong một thời gian ngắn khiến cho khối này đang bộc lộ nhiều bất cập. Một số công ty chứng khoán không đảm bảo hiệu quả hoạt động, gây rủi ro tiềm ẩn. Năng lực về nghiệp vụ, nhân sự và tài chính của các công ty chứng khoán còn hạn chế, đặc biệt là năng lực về tài chính. Trong 10 năm qua, hệ thống ngân hàng đang bộc lộ một số khó khăn, thách thức như, chất lượng tài sản suy giảm; rủi ro thanh khoản gia tăng; năng lực vốn tự có còn thấp; khả năng quản trị rủi ro và quản trị doanh nghiệp chưa đáp ứng thông lệ quốc tế và tương xứng với tốc độ phát triển về quy mô....Nhận thấy những bất cập từ sự phát triển quá nóng này, bộ tài chính đã phải có những biện pháp để điều tiết lại thị trường.
Ngày 17/03/2008, Bộ Tài chính ban hành một nghị quyết mà theo đó các Ngân hàng thương mại buộc phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Chính điều này đã một lúc “ép” các ngân hàng thiếu vốn khả dụng, buộc họ phải tìm mọi cách thu hút lượng tiền gửi từ dân cư.
Hành động của Bộ Tài chính có tác dụng thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Việc ban hành quyết định phát hành tín phiếu đã hút khỏi thị trường một lượng vốn khồng lồ. Hành động này Nhà nước kỳ vọng sẽ kiểm soát được tình trạng phát triển quá nóng của thị trường tài chính.
Song kịch bản thị trường đã có nhiều điểm thăng trầm! Do hành động quá mạnh tay, nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn vốn khả dụng nghiêm trọng. Và khi đó diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường vốn giữa các Ngân hàng. Các Ngân hàng liên tục hút người gửi tiền bằng hình thức chạy đua lãi suất huy động. Có nhiều ngân hàng thương mại thậm chí đã đẩy mức lãi suất huy động lên tới hơn 20%/năm.
Điều này ngay lập tức tác động lớn đến tâm lý của công chúng đầu tư. Một lượng vốn lớn bị rút khỏi thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán bị down liên tục, phá vỡ tất cả các ngưỡng hỗ trợ mặc cho Bộ Tài chính liên tục có những sự động viên. Các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư rơi vào tình trạng heo hắt khi mà giao dịch cực thấp, lượng nhà đầu tư đóng băng tài khoản rất lớn.
Sự ngừng hoạt động (giải thể) hoặc rút bớt nghiệp vụ của các công ty chứng khoán là một tất yếu được dự báo trước. Một hệ quả tất yếu nữa là các doanh nghiệp càng ngày càng gặp khó khăn qua các phương án tăng vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu. Mà việc tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng thì rất khó khăn bởi lãi suất giải ngân rất lớn. Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã bị mất những đơn hàng quan trọng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị đình đốn.
Vào thời điểm gần nửa cuối năm 2008, thị trường tài chính Việt Nam gặp khủng hoảng. Các doanh nghiệp Việt Nam bị co cụm thu hẹp sản xuất. Nhiều doanh nghiệp ngành may mặc, chế biến sa thải công nhân ồ ạt. Lượng người bị mất việc ở các khu công nghiệp cộng thêm số lao động bị mất việc ở nước ngoài trở về nước đã trở thành “gánh nặng” lớn đối với nền kinh tế đất nước.
Bước sang năm 2009, nền kinh tế thế giới chính thức rơi vào khủng hoảng với sự bắt đầu ở Mỹ khi thị trường nhà đất Mỹ bị đóng băng và sự phá sản của hàng loạt Ngân hàng lớn. Cơn bão khủng hoảng lập tức lan nhanh ra khắp thế giới.
Ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng này kéo theo suy thoái kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế cả năm khó có khả năng hoàn thành, vì thế Chính phủ đã chấp nhận mức điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hạ xuống dưới 6% so với mục tiêu tăng trưởng được đặt ra đầu năm là 8.5%. Tất cả Chính phủ các quốc gia đều rất nỗ lực trong công cuộc cứu vãn, đối phó với cơn bão khủng hoảng.
Chính sách được hầu hết các quốc gia đưa ra mà đi dầu là Mỹ và EU là các gói hố trợ kinh tế khổng lồ. Ở các nước này, chính phủ chủ trương bơm thêm tiền vào thị trường tài chính thông qua hệ thống Ngân hàng: Cho các doanh nghiệp vay ưu đãi sản xuất, hỗ trợ cho vay xuất nhập khẩu, cho vay tiêu dùng.
Ở Việt Nam, chính phủ công bố gói hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là hơn 1 tỷ USD được giải ngân thông qua hệ thống Ngân hàng. Mức hố trợ lên tới 4%/ năm Sự can thiệp của chính phủ phần nào có tác dụng tốt tới thị trường tài chính. Các ngân hàng bớt sự khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Các doanh nghiệp vui mừng sẽ được tiếp cận được luồng vốn rẻ.
Tuy nhiên, thực tế diễn ra không phải lúc nào cũng như mong đợi của Chính phủ. Các doanh nghiệp vốn vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ này bởi những điều kiện chặt chẽ do Ngân hàng đề ra. Còn các doanh nghiệp tập đoàn lớn thì nhu cầu về vốn không quá bức thiết. Việc nguồn vốn hỗ trợ chưa thực sự đến “tận tay” những đối tượng cần vốn phần nhiều đã giảm tác dụng của gói kích cầu do chính phủ đề ra.
Tháng 6 năm 2009, Việt Nam tuyên bố thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng nhiều chuyên gia còn khá thận trọng khi đề cập đến vấn đề này. Việc giải ngân vốn rất dễ gây ra hiện tượng lạm phát cho Việt Nam trong tương lai gần. Sự kiềm chế lạm phát của chính phủ trong những tháng vừa qua sẽ là vô nghĩa nếu như để hiện tượng lạm phát quay trở lại.
Trong các buổi hội thảo, tọa đàm, Chính phủ luôn đề cao vai trò của các trung gian tài chính, trong đó chủ chốt là ngành Ngân hàng trong việc điều tiết lượng cung cầu vốn trên thị trường. Vai trò của các trung gian tài chính rất to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó đảm bảo được sự thanh khoản trong nền kinh tế cũng như có tác động tốt tới việc cung ứng vốn, điều tiết vốn. Tin rằng trong thời gian tới, thị trường tài chính sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển đi lên của nền kinh tế.
Từ các việc phân tích các ví dụ trên ta có thể thấy được tác động của Chính Phủ vào hệ thống tài chính nói chung và trung gian tài chính nói riêng là không thể thiếu được. Những chính sách sẽ làm giảm bớt sự phát triển quá nóng của thị trường, và sẽ giúp cho nền kinh tế thoát khỏi những khó khăn, vượt qua khủng hoảng và định hướng phát triển cho nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế thì những chính sách này vẫn tồn tại một số bất cập do sự nhúng tay quá sâu của Nhà nước vào nền kinh tế. Sự điều chỉnh là cần thiết nhưng hãy tôn trọng vai trò tự điều chỉnh của kinh tế thị trường.
3. C ơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật
Là khuôn khổ các luật lệ và hệ thống các thông tin làm nền tảng để các bên (người có vốn, người cần vốn) lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính.
Cơ sở hạ tầng cung cấp các chuẩn mực kế toán, một hệ thống pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng và bảo về quyền sở hữu tài sản, các quy định về phá sản, các quy định về giao dịch… cơ sở hạ tầng vững chắc mới giúp cho hệ thống tài chính phát triển mạnh và bền vững.
Cơ sở hạ tầng tài chính bao gồm: Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước; Nguồn lực và cơ chế giám sát, thực thi; Cung cấp thông tin; Hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch chứng khoán.
Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng pháp lý kỹ thuật
Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước: Hệ thống pháp luật là công cụ có từ sớm nhất và chung nhất để quản lý nhà nước ở mọi quốc gia. Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống pháp luật được đánh giá là tương đối đầy đủ để HTTC hoạt động. Ở Việt Nam, các luật để giúp nhà nước quản lý hệ thống tài chính gồm: Luật Ngân sách Nhà nước; Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm, Luật chứng khoán.
Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH 11, ngày 16/12/2002 được ban hành nhằm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cổ kỹ thuật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tài sản nhà nước. Ngân sách nhà nước Việt Nam với các công cụ thuế và chi tiêu có thể điều tiết sự phát triển của hệ thống tài chính trong những trường hợp cụ thể nhất định. Chẳng hạn, để đối phó với tình trạng giảm phát và suy giảm kinh tế, ngày 16/01/09 thường trực chính phủ đã thông qua phương án sử dụng kích cầu từ 17000 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ lãi suất cho vay là 14% ( thời hạn tối đa là 12 tháng) đối với 1 số đối tượng thông qua các Ngân hàng thương mại. Với động thái này, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt được khó khăn, tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng với chi phí hợp lý, tạo động lực cho hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động huy động vốn và cung ứng vốn cho kinh tế.
Luật Ngân hàng nhà nước số 06/1997/QHX ngày 12/12/1997; Luật sửa đổi bổ sung số 10/2003/QH11 ngày 17/06/03. Luật này được ban hành nhằm xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước và hoạt động ngân hàng; góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Ở Việt Nam, sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008-2009), tăng trưởng GDP của Việt Nam đã được đẩy nhanh trong năm 2010 (6,8%) nhờ sự hồi phục của xuất khẩu và những điều tiết phù hợp về chính sách. Tuy nhiên, lạm phát năm 2010 của Việt Nam cũng đã tăng cao lên mức hai con số (11,8%) vào cuối năm 2010 và tiền đồng Việt Nam (VND) bị trượt giá. Những tháng đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam cũng đã tăng khá cao đe dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm dưới mức hai con số.
Chỉ số tiêu dùng CPI trong hai năm 2010 & 2011.
Diễn biến nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của người dân, thị trường và các nhà đầu tư. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém về kinh tế vĩ mô, tháng 2/2011 Chính phủ Việt Nam đã có Nghị quyết 11 tập trung “ưu tiêm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội” với 6 gói các biện pháp chính sách, bao gồm: “Thắt chặt chính sách tiền tệ; thắt chặt chính sách tài chính; kìm hãm thâm hụt thương mại; tăng giá điện đồng thời với việc hỗ trợ người nghèo và sử dụng một cơ chế mang tính thị trường hơn đối với việc định giá xăng dầu; tăng cường an sinh xã hội; nâng cao hiệu quả việc phổ biến thông tin chính sách”. Việc thực hiện Nghị quyết 11 sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2011 (dự kiến xuống ở mức 6,1%). Tuy nhiên, triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong trung hạn vẫn rất tốt nếu điều kiện kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Việt Nam vẫn sẽ là một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung số 20/2004/QH11 ngày 15/06/04 có hiệu lực từ ngày 01/10/04. Luật này quy định: Thống nhất quản lý mọi hoạt động của Ngân hàng, xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại, đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; đầu tư vốn và các nguồn lực khác để phát triển các tổ chức tín dụng nhà nước, tạo điều kiện cho các tổ chức này giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trên thị trường tiền tệ; Nhà nước thành lập các ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác; phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính phủ quy định chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay vốn.
Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000. Luật này ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, các nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm; góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/06. Luật này quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Luật chứng khoán xác định rõ 5 nguyên tắc hoạc động chứng khoán và thị trường chứng khoán đó là: Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhân; công bằng, công khai, minh bạch; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tự chịu trách nhiệm về rủi ro; tuân thủ quy định của pháp luật.
Tuy nhiên vấn đề quản lý chưa thực sự đồng bộ và đồng nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của luật các tổ chức tín dụng và chịu dự giám sát của Ngân hàng Nhà nước như Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của Ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước và phát triển nông thôn.
Nguồn lực và hệ thống giám sát: Nguồn lực và cơ chế giám sát thực thi có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật dù có đầy đủ và hoàn thiện nhưng hiểu không đúng, thực hiện không tốt, giám sát không hiệu quả sẽ làm hệ thống tài chính phát triển không bền vững. Nguồn lực và hệ thống giám sát chưa đáp ứng nhu cầu cho Hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Nguồn nhân lực cho hệ thống tài chính ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã được chú trọng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao. Hệ thống pháp luật đôi khi chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường cũng như còn có sự chồng chéo nhất định đã gây khó khăn cho vấn đề giám sát, kiểm tra. Chẳng hạn, Kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay: Với nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 và Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 105 đã tạo cơ sở pháp lý căn bản cho hoạt động kiểm toán độc lập ở nước ta. Tuy nhiên, kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ có tính pháp lý cao, góp phần quan trọng làm lành mạnh hóa môi trường đầu tư ở Việt Nam và công khai, minh bạch nền tài chính quốc gia, với tốc độ phát triển cao và trong xu thế hội nhập, Nghị định của Chính phủ về kiểm toán độc lập đã bộc lộ các hạn chế hoặc còn thiếu so với thông lệ quốc tế và đòi hỏi của thị trường Việt Nam nên cần sửa đổi, bổ sung và nâng lên thành luật cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian tới.
Cung cấp thông tin: Hiện nay các Ngân hàng nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tin cậy.
Hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch chứng khoán: Là một nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt do các ngân hàng trung gian cung cấp để phục vụ cho các dịch vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Hệ thống này thường do một ngân hàng đứng ra đảm nhận (ở Việt Nam là Ngân hàng Đầu tư và phát triển) với mục tiêu tạo ra thuận lợi trong việc đối chiếu, kiểm soát khi thanh toán và giảm thời gian thanh toán cho các giao dịch. Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ chức tài chính, nhất là các Ngân hàng thương mại đã sử dụng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam.
4. Vai trò của các tổ chức có nhiệm vụ giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam:
a, Vai trò của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam.
Sơ đồ: Mô hình giám sát tài chính hiện nay của Việt Nam
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia: Đây là cơ quan quan trọng nhất của việc giám sát hệ thống tài chính. Ủy ban giám sát sẽ làm theo chế độ thủ tướng, chịu sự chỉ đạo của nhà nước, nhà nước có vai trò đẩy mạnh chức năng giám sát, tăng quyền hạn cho ủy ban giám sát trong quá trình xây dựng chính sách cũng như chiến lược phát triển, tăng vai trò của nhiệm vụ ủy ban. Vai trò tác động của nhà nước sẽ giúp ủy ban phân tích dự báo, cảnh báo mức độ thong tin thị trường, định hướng phát triển rõ ràng hơn, chính xác hơn.
Ngân hàng trung ương( Ngân hàng nhà nước): là cơ quan trực thuộc chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ ngân hàng và quản lý ngân hàng. Mọi hoạt động của ngân hàng như lãi suất, biến động tỷ giá phải được cho phép của thủ tướng. Ngày nay nhà nước tác động mạnh đến chức năng của ngân hàng trung ương đó là trao them quyền và tăng tính chủ động cho ngân hàng trung ương nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Bộ tài chính: là cơ quan của chính phủ, thực hiện chức năng về tài chính của chính phủ bao gồm: Ngân sách nhà nước, thuế, phí , đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, hải quan, kế toán…thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước theo quy định của pháp luật. Vừa qua chính phủ đã có những quy định như giao quyền tự chủ về tài chính và sử dụng các công cụ quản lý nhà nước, qua kiểm toán, qua công cụ thuế…nhưng luôn luôn phải gắn với tăng cường cơ chế tự chủ, cơ chế giám sát. Nhà nước cũng có những chính sách thuế phù hợp để bình ổn giá, sử dụng nguồn dự trữ tài chính để ổn định kinh tế, hạn chế suy giảm kinh tế trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Ủy ban chứng khoán nhà nước: là tổ chức thuộc bộ nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay trước sự biến động của khủng hoảng kinh tế toàn cẩu nhà nước đã tăng cường đẩy mạnh công tác quản lý, giám sát với tổ chức trung gian của ủy ban chứng khoán nhà nước nhằm góp phần giữ vững, ổn định thị trường chứng khoán, tăng cường hợp tác quốc tế chứng khoán và thị trường chứng khoán, tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho ủy ban chứng khoán, đẩy mạnh hoạt động thống kê dự báo về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Trung gian tài chính đặc biệt: bao gồm ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển. Nhà nước ta đã nâng cao vai trò và chức năng của hai hệ thống ngân hàng trên. Nhà nước giúp quá trình huy động vốn của ngân hàng, tăng cường các biện pháp, các công cụ cho vay vốn với các đối tượng làm trung gian tài chính đặc biệt được phát huy. Trước đây ngân hàng chính sách xã hội huy động vốn khó, và phải được sự dồng ý của bộ tài chính. Nhưng hiên nay bộ kế hoạch và đầu tư thong báo đã giao toàn bộ kế hoạch cho ngân hàng chính sách xã hội, năm 2006 vốn của ngân hàng chính sách xã hội là 5 nghìn tỷ, nhà nước tạo điều kiện cho ngân hàng chính sách xã hội có thể đi vay vốn nước ngoài hoặc nguồn vốn ODA với lãi suất ưu đãi để hoạt động của ngân hàng được dễ dàng. Với ngân hàng phát triển thủ tướng đã ban hành quy chế quản lý tài chính đối với ngân hàng phát triển Việt Nam, theo đó hoạt động của ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0, không tham gia bảo hiểm tiền gửi, ngân sách nhà nước cấp bù chênh lẹch lãi suất và chi phí quản lý đối với hoạt động tín dụng, đầu tư phát triển và tín dụng phát triển của nhà nước. Việc huy động vốn theo điều số 43 nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 với lãi suất thị trường chỉ cho vay theo nguyên tắc chỉ huy động khi đã sử dụng tối đa nguồn vốn không lãi suất hoặc lãi suất rất thấp, được chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển xuất khẩu.
Các tổ chức tài chính quốc tế: như quỹ tiền tệ IMF, ngân hàng thế giới WB, ngân hàng phát triển châu á ADB, nhà nước tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ tài chính do các tổ chức tài chính cung cấp, tìm mọi khả năng để đạt được yêu cầu theo nguyên tắc quy định để nhận được sự ưu đãi trong các dịch vụ tài chính.
Về mặt số lượng và các hình thức có thể thấy rằng các tổ chức giám sát và điều hành có mặt tại khắp các ngõ ngách trong tổng thể nền kinh tế Việt Nam.
b, Những thách thức, khó khăn, bất cập đối với việc giám sát tài chính quốc gia của Việt Nam hiện nay.
Đối với Việt Nam, mặc dù cũng có thể coi là đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng với những diễn biến gần đây của hệ thống tài chính, bao gồm hệ thống tài chính công và thị trường tài chính, cho thấy nền kinh tế nước ta còn đang đối mặt với nhiều thách thức. Xét về tổng thể, hệ thống giám sát tài chính bao gồm: Giám sát sự an toàn tài chính công và giám sát sự vận hành thị trường tài chính. Đối với Việt Nam, vấn đề này còn khá mới mẻ. Trong khi đó, sự vận hành của cả hai hệ thống này đang cho thấy có những dấu hiệu không thuận lợi cho sự tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế nói chung. Cụ thể là:
Khu vực ngân hàng đang hoạt động theo hướng tích hợp nhiều rủi ro. Đây là hệ thống tổ chức tài chính cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định quản lý, song trong thời gian qua, một số ngân hàng đã không tuân thủ đúng mức quy định của Chính phủ về quản lý ngoại hối cũng như trần lãi suất. Chẳng hạn, trong thời điểm 2009, xuất hiện sự biến động của tỷ giá ngoại tệ trên thị trường, các ngân hàng thương mại đã phản ứng với quy định về quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước bằng cách sử dụng biện pháp "ngoại tệ thứ ba" và "phí thu mua ngoại tệ". Do Ngân hàng nhà nước chỉ quy định biên độ dao động của tỷ giá VNĐ với USD mà không quy định biên độ dao động giữa các ngoại tệ với nhau, thành thử các ngân hàng thương mại đã ép các doanh nghiệp có nhu cầu vay ngoại tệ bằng loại tiền thứ ba không phải là USD để từ đó tăng tỷ giá và vì vậy, đẩy tỷ giá diễn biến ngoài vòng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Một số ngân hàng thương mại không sử dụng cách "ngoại tệ thứ ba" thì lại áp dụng biện pháp "phí mua bán ngoại tệ", có thời điểm lên tới 8% - 10% số giá trị ngoại tệ cần thanh toán. Điều này gây khó khăn cho thị trường ngoại hối và tạo ra sự căng thẳng ngoại tệ vào cuối năm 2009 như đã thấy. Cả hai cách thức trên đều là các biện pháp vô hiệu hoá quy định về tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Đối với quy định trần lãi suất, do quy định của Ngân hàng Nhà nước không sát, chỉ quy định mức tỷ lệ lãi suất trần mà không thể quy định được cách thức giải ngân của các khoản vay của ngân hàng cho khách hàng, nên thực tế là các ngân hàng thương mại đã vô hiệu hoá quy định trần lãi suất bằng cách biến tướng trong cơ cấu khoản vay. Các doanh nghiệp chỉ nhận được 70%-75% giá trị khoản vay, số còn lại 25%-30% ngân hàng buộc doanh nghiệp phải ký quỹ vay vốn. Số tiền mà doanh nghiệp phải ký quỹ trên đây bị các ngân hàng chiếm dụng để cho khách hàng khác vay. Kết quả là, mặc dù về mặt danh nghĩa, ngân hàng thương mại vẫn đảm bảo thực hiện trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, song trên thực tế, doanh nghiệp phải trả lãi suất cao hơn so với quy định vì chỉ được vay một số tiền ít hơn giá trị khoản vay trên sổ sách. Có nghĩa là ngân hàng thương mại đã được lợi hai lần trên một khoản vay(2).
Thị trường chứng khoán ẩn chứa bất ổn. Trong thực tế hai năm trở lại đây, hoạt động của thị trường này ở Việt Nam cũng cho thấy những dấu hiệu chưa lành mạnh. Tâm lý mua bán chứng khoán theo kiểu đám đông vẫn là phổ biến, dẫn đến khả năng rất khó kiểm soát và lên xuống thất thường.
Xét về cơ cấu nhà đầu tư, tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp chỉ chiếm 20% thị phần(3). Hoạt động của thị trường tự do có quy mô gấp hai lần thị trường có tổ chức, thiếu tính minh bạch, thiếu sự quản lý giám sát và khả năng xảy ra rủi ro cao dưới các hình thức như mất khả năng thanh toán, lừa đảo. Hệ thống chính sách điều hành và quản lý giám sát sự vận hành của thị trường chứng khoán không khớp với chính sách tiền tệ, thiếu chuẩn mực công bố thông tin theo thông lệ quốc tế và quản trị doanh nghiệp. Trong khi đó, hệ thống các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đang có xu hướng gia tăng mạnh. Khi những chuẩn mực giám sát hoạt động của các công ty này chưa rõ ràng thì sự gia tăng số lượng các công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ chưa hẳn đã là tín hiệu đáng phấn khởi.
Thâm hụt ngân sách đang diễn biến xấu hơn, đáng chú ý là sự gia tăng thâm hụt ngân sách và tăng nợ của Chính phủ. Nhìn chung những năm gần đây, mức thâm hụt ngân sách ở nước ta có chiều hướng tăng dần đều. Tính đến hết năm 2009, nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức 39% GDP, dự báo năm 2010 số dư nợ nước ngoài (chưa kể nợ của doanh nghiệp nhà nước) ở mức hơn 44% GDP(4), mặc dù cơ cấu nợ đang được xem là nằm trong ngưỡng an toàn.
Tuy nhiên, việc phòng ngừa nguy cơ gánh nặng nợ vượt quá ngưỡng an toàn là trách nhiệm của việc giám sát tài chính quốc gia. Trong khi đó, hiệu lực hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam, đặc biệt là hiệu lực phát hiện và xử lý rủi ro tài chính còn hạn chế. Trong lĩnh vực ngân hàng, công tác phát hiện cảnh báo các hoạt động vi phạm pháp luật của Việt Nam như: rửa tiền, lừa đảo. chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Hiện tượng lạm dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ, làm trái quy định của pháp luật trong chi ngân sách cho đầu tư có những biểu hiện nghiêm trọng, điển hình như việc gây thất thoát lớn trong việc sử dụng nguồn vốn nhà nước của Tập đoàn Vinashin vừa qua cho thấy hệ thống giám sát thị trường tài chính cũng như giám sát nguồn vốn ngân sách còn nhiều yếu kém. Để khắc phục những rủi ro nêu trên, hệ thống giám sát tài chính Việt Nam trong thời gian tới cần được kiện toàn theo hướng nâng cao hiệu lực của hoạt động giám sát.
Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây tại các thị trường phát triển và các giai đoạn khó khăn của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy những yếu kém trong hệ thống hiện hành.
+ Điểm yếu thứ nhất là sự thiếu phối hợp điều tiết giữa các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính. Điểm yếu thứ hai là sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát, bao gồm tính thiếu minh bạch và chất lượng các báo cáo. Sự phát triển, đổi mới của hệ thống tài chính tạo ra những sản phẩm lai ghép, do đó, công tác giám sát cũng gặp khó khăn hơn.
+ Điểm yếu thứ hai là sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết và giám sát. Ngoài ra, cơ chế cảnh báo và giám sát hệ thống sớm cũng là một điểm yếu của hệ thống điều tiết hiện nay.
+ Điểm yếu thứ ba là yếu kém trong việc quản lý các công ty tài chính có vốn nước ngoài. Thứ tư là yếu kém trong việc giám sát dòng vốn đầu tư trực tiếp. Ngoài ra, việc giám sát cơ sở hạ tầng và đội ngũ nhân viên cũng chưa được hiệu quả.
c, Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại
Thứ nhất, chưa có những quy định rõ ràng về quyền hạn và chức năng xử lý của từng bộ phận
Mục tiêu của hệ thống thanh tra giám sát là nhằm đảm bảo cho sự duy trì ổn định, phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền. Để đạt được các mục tiêu này, các cơ quan thanh tra, giám sát thường sử dụng các công cụ như: Công cụ quản lý, công cụ giám sát, công cụ “kỷ luật thị trường”, …Các công cụ, chức năng và phạm vi hoạt động của từng cơ quan giám sát phải được quy định rõ trong luật, tạo tiền đề cho hoạt động giám sát có hiệu quả, không chồng chéo.
Thực tế hiện nay, khung pháp lý cho hoạt động thanh tra giám sát chủ yếu dựa trên các luật sau:
· Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD
· Luật thanh tra
· Luật chứng khoán
· Luật kinh doanh bảo hiểm
· Hệ thống văn bản dưới luật, quy định cụ thể các hoạt động giám sát cho từng lĩnh vực: ngân hàng, chứng khoán, Bảo hiểm
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khu vực tài chính ngân hàng, những nguồn luật trên thể hiện những bất cập, cần phải được bổ sung, làm mới nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát. Cụ thể là:
Chưa có một luật thanh tra giám sát chuyên ngành quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cách thức hoạt động các các cơ quan giám sát. Và đặc biệt để làm rõ cơ chế phối hợp hoạt động và trao đổi thông tin giữa các cơ quan chủ chốt: NHNN, Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG).
Các cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra truyền thống bỏ sót nhiều lĩnh vực hoạt động, dịch vụ, sản phẩm mới của các tổ chức tài chính, đặc biệt là những sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự kết hợp giữa các lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Kiểm soát rủi ro các tập đoàn tài chính, cho đến thời điểm này, chưa có một quyết định rõ ràng cho phép một cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh tra các tập đoàn tài chính trên cơ sở hợp nhất. Thực tế, nhiệm vụ kiểm soát rủi ro chung này, tạm thời được coi là thuộc chức năng của UBGSTCQG. Tuy nhiên cơ quan này lại không có chức năng giám sát từng định chế tài chính mà chỉ là tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong giám sát tổng thể thị trường tài chính.
Thứ hai, hiệu quả giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát còn thấp
Ngoài những bất cập về cơ sở pháp lý cho hệ thống thanh tra giám sát, hoạt động thanh tra, cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, có hiệu quả rất thấp bởi nhiều nguyên nhân:
Một là, công nghệ thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa rất lạc hậu. Trong khi, hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc rất nhiều về khả năng thu thập thông tin. Để hoạt động giám sát có hiệu quả hơn, ít nhất phải có một hệ thống thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách nhanh chóng và chính xác.
Hai là, chưa có một quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ thống tài chính. Hiện nay, Cơ quan thanh tra giám sát đã áp dụng chỉ tiêu CAMELS trong hoạt động giám sát từ xa. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chỉ mang tính định lượng chỉ áp dụng cho khu vực ngân hàng.
Ba là, chưa thiết lập các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô (cho cả hệ thống) và giám sát an toàn vi mô (cho từng định chế tài chính) một cách có hiệu quả, nhất là trong điều kiện chuyển sang thanh tra giám sát dựa trên rủi ro trong thời gian tới. Các mô hình phân tích, dự báo, kiểm định “độ căng” (stress test) của cả hệ thống và cho từng định chế tài chính chưa được phát triển.
Bốn là, năng lực cán bộ của hệ thống thanh tra còn yếu so với yêu cầu đảm bảo an toàn an toàn cho hoạt động khu vực tài chính. Về cơ bản, cán bộ thanh tra chưa có khả năng sử dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các tổ chức tài chính. Ngoài ra, theo như nhận định của một số chuyên gia trong ngành tài chính ngân hàng, văn hóa giám sát cũng như động lực thanh tra tại chỗ của cán bộ thanh tra còn yếu.
Thứ ba, sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của Việt Nam với tiêu chuẩn của quốc tế
Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn về hoạt động an toàn tài chính riêng phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị của mỗi nước. Không có một khuôn mẫu chuẩn nào cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hệ thống kế toán Việt Nam và hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế làm việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính theo Basel không mang lại kết quả như ý muốn. Ví dụ như chỉ số về nợ xấu của hệ thông ngân hàng sẽ thay đổi đáng kể khi chúng ta áp dụng hệ thống kế toán quốc tế (IFRS).
Ngoài ra, sự khác biệt này cũng gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam. Như trường hợp của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài mới được cấp phép, hiện nay các hoạt động về an toàn tài chính của họ thực chất là tuân theo các quy định của ngân hàng mẹ, có sự khác biệt với quy định an toàn của Việt Nam.
d, Một số giải pháp cơ bản:
Thứ nhất, thiết lập đồng bộ hệ thống thể chế tạo môi trường cho hoạt động thực hiện giám sát tài chính, đặc biệt chú ý đến những quy đinh về hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
Về nguyên tắc, việc giám sát hoạt động tín dụng không phải là nhằm bóp nghẹt hoạt động của các ngân hàng mà là hướng vào phòng ngừa rủi ro cho toàn bộ hệ thống. Theo đó, các giao dịch ngầm, các hoạt động né luật, lách luật cần được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Những giao dịch tín dụng theo kiểu "tay trong" cần được xử lý nghiêm khắc và triệt để. Mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và tư nhân trong các ngân hàng cổ phần hoá phải được giám sát đặc biệt nhằm tránh hiện tượng xung đột lợi ích giữa các bộ phận đó. Thể chế phòng ngừa các hoạt động rửa tiền và lừa đảo cần phải được chú ý hoàn thiện. Hiện nay, điều chỉnh hoạt động phòng chống rửa tiền thuộc phạm vi của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định đâu là những giao dịch đáng ngờ, xét trong điều kiện hiện nay là không còn phù hợp. Trên thực tế hoạt động giám sát theo cơ chế này vừa qua mới chỉ phát hiện được khoảng 20 giao dịch đáng ngờ như vậy(5). Do đó, trong thời gian tới cần phải sửa đổi hoàn thiện những thể chế này nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu lực cho hệ thống giám sát tài chính. Bên cạnh đó, các thể chế giám sát hoạt động của các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm (bao gồm các tổ chức bảo hiểm nội địa và tổ chức nước ngoài) cần được thiết lập nhằm ngăn chặn những hoạt động lừa đảo xâm nhập theo hệ thống từ bên ngoài vào, cũng như hoạt động tại thị trường Việt Nam; Chú trọng kiểm soát các sản phẩm tài chính phát sinh phi truyền thống như bảo hiểm nhân thọ của các công ty tài chính; kiểm soát các hoạt động tái đầu tư từ nguồn vốn huy động trong dân cư về lĩnh vực bảo hiểm; Đặc biệt phải kiểm soát chặt hệ thống hoạt động cho vay dưới chuẩn nhằm đề phòng những rối loạn trên lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm. Đối với thị trường chứng khoán, cần bổ sung những quy định về minh bạch hoạt động giao dịch nhằm tạo sự lành mạnh trên thị trường; Giám sát hệ thống các hoạt động giao dịch thông qua các quỹ đầu tư thuộc chủ sở hữu nước ngoài để có thể phát hiện những hoạt động làm giá hoặc lũng đoạn thị trường, gây khó khăn cho công tác quản lý an toàn vận hành thị trường từ phía cơ quan chức năng.
Thứ hai, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm hướng đến giám sát từ xa rủi ro, phòng ngừa khủng hoảng.
Nhìn chung, hoạt động thị trường tài chính vốn vận hành hết sức tinh vi và phức tạp do dòng lưu chuyển giá trị vốn chịu tác động của rất nhiều quy luật khác nhau và khó kiểm soát, do đó luôn chứa đựng yếu tố bất ổn và tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng. Chính vì vậy, nâng cao năng lực phòng ngừa khủng hoảng thông qua hiệu lực giám sát tài chính là lĩnh vực đặc biệt phải chú ý trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam đang hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới như hiện nay. Đặc biệt, khó kiểm soát hơn khi từ năm 2012, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam sẽ phải được mở hoàn toàn theo cam kết với WTO, khi đó hoạt động và quy mô vận hành hệ thống thị trường tài chính tại Việt Nam không chỉ bó hẹp vào một số ít chủ thể như hiện nay. Bởi vậy, nếu không kiểm soát tốt, nguy cơ đổ vỡ, khủng hoảng cục bộ cũng như khủng hoảng hệ thống là rất dễ xảy ra. Vì thế, việc nâng cao năng lực hệ thống giám sát theo kinh nghiệm tăng cường siết chặt sự vận hành của hệ thống tài chính như xu hướng chung của thế giới là cần thiết. Điều cần đặc biệt lưu ý là thay vì giám sát theo tiêu chuẩn thì trong thời gian tới cần hướng tới hệ thống giám sát rủi ro và phòng ngừa rủi ro. Mô hình này đòi hỏi sự phức tạp và trình độ giám sát cao hơn nhiều so với việc giám sát theo mô hình cổ điển là giám sát theo quy định như trước đây. Giám sát tài chính theo phương hướng phòng ngừa rủi ro đòi hỏi phải cảnh báo và phát hiện từ xa những yếu tố gây rủi ro và phân loại được rủi ro để có giải pháp tình huống cũng như giải pháp lâu dài, căn bản để phòng ngừa khủng hoảng. Để đạt được trình độ như vậy chắc chắn không thể chỉ trong một thời gian ngắn. Vì thế, ngay từ bây giờ, sự chuyển đổi mô hình giám sát tài chính là cần thiết.
Thứ ba, minh bạch hoá mô hình kiểm soát nợ quốc gia và hoàn thiện cơ chế tài chính trong sử dụng ngân sách nhà nước.
Đối với việc kiểm soát nợ quốc gia, trước hết là nợ chính phủ phải được giám sát đặc biệt chặt chẽ. Cần xuất phát tìm chính "sức khoẻ" và khả năng chịu đựng của nền kinh tế Việt Nam để tính toán quy mô và ngưỡng an toàn của vay nợ chứ không thể chỉ dựa vào các khuyến nghị của chuyên gia nước ngoài. Việc cân đối nợ mới và trả nợ cũ phải được thực hiện trên cơ sở mức tăng trưởng của nền kinh tế. Đặc biệt phải có cơ chế kiểm soát trách nhiệm của những người thực hiện chỉ đạo và tổ chức các khoản vay nhằm tránh những gánh nặng nợ cho thế hệ sau. Việc sử dụng nguồn tài chính vay được cần được thực hiện bởi một hệ thống phân loại mục tiêu và giám sát chi tiêu đặc biệt nghiêm ngặt, nhằm tránh việc đầu tư dàn trải vào những hạng mục không sinh lời, hoặc thất thoát lớn dẫn đến không tạo được nguồn bù đắp cho việc trả nợ giai đoạn sau. Cần có thể chế kiểm soát nghiêm ngặt các chủ thể sử dụng nguồn tài chính vay nợ để tránh xảy ra tư lợi và tham nhũng. Việc phân bổ ngân sách cần loại trừ cơ chế xin cho vẫn rất phổ biến hiện nay, thể chế về phân bổ ngán sách cho đầu tư cần trên cơ sở cân đối nguồn thu gắn với yêu cầu trả nợ của Chính phủ và kiểm soát nợ trong ngưỡng an toàn. Phải căn cứ vào đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế của vùng để thực hiện đầu tư và phân bổ ngân sách. Quy trình giám sát đặc biệt việc sử dụng ngân sách phân bổ cần được cải tiến để tránh việc lạm dụng mục tiêu ưu tiên để làm thất thoát và tham nhũng. Có thể tiến tới thành lập ủy ban phân loại đầu tư trực thuộc Quốc hội để giám sát chặt chẽ các công trình trọng điểm và cơ chế phân bổ, kỹ thuật phân bổ vốn cho các công trình trọng điểm nhằm hạn chế đầu tư dàn trải, gây lãng phí ngân sách nhà nước và gây rủi ro, mất cân đối, thậm chí vỡ nợ quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính là gì.doc